|
22 tháng 10, 2009 |
1 2
(tiếp theo)
V. Yếu Tố Vô Ảnh Nhưng Khả Nghi.
Sau đây chúng ta hãy đi một chút vào những hoạt động
tôn giáo và một số những lời giảng dạy của Làng Mai để cho vấn đề được rõ
ràng.
Lá thư Làng Mai viết:
Xem các thầy và sư cô Làng Mai như những nhà truyền
giáo ngoại quốc, đó là chuyện không ai có thể hiểu nổi. Họ chỉ là những đứa
con của đất nước luôn luôn mang trong lòng niềm thao thức về đóng góp cho
đất nước mà thôi. Những gì họ muốn đóng góp không phải là văn hóa và kỹ
thuật đem từ bên ngoài vào, trái lại chỉ là những gì rất thuần túy văn hóa
dân tộc.
Mặt khác, Thiền sư Nhất Hạnh cũng giảng:
Chúng ta biết rằng giáo lý của đạo Bụt mà muốn cho
đích thực là giáo lý của đạo Bụt, thì giáo lý đó phải có hai tính cách. Tính
cách đầu là Khế lý, tính cách thứ hai là Khế cơ…. Khế lý nghĩa là nó đích
thực phải là Phật pháp, Phật pháp chính tông, không phải là thứ Phật pháp
biến hình.
Nhưng:
Chúng ta biết rằng, hàng năm ở Làng Mai cũng như ở Tu
Viện Lộc Uyển đều tổ chức ăn mừng Lễ Giáng Sinh, hát Thánh Ca v..v… Từ bao
giờ truyền thống Phật Giáo có nghi thức này? Mang những nét văn hóa này
nhập cảng vào Việt Nam thì có phải là khế cơ không? Về phương diện xã giao
thì nhân dịp Lễ Giáng Sinh một chức sắc Phật Giáo, nếu được mời, có thể đến
dự lễ do nhà thờ tổ chức và chúc mừng tôn giáo bạn. Nhưng chuyện nhà Chùa
tổ chức lễ Giáng Sinh và hát Thánh ca là chuyện chưa từng thấy ở Việt Nam.
Rất có thể khi “ Làng Mai ” phát triển ở Việt Nam thì các Chùa cũng phải
theo tập tục này. Lẽ dĩ nhiên Làng Mai có quyền tổ chức bất cứ lễ lạc nào
mà mình muốn ở ngoại quốc, dù những lễ lạc đó không nằm trong truyền thống
Phật Giáo Việt Nam. Khoan kể là ngày nay, thế giới Tây phương, ít ra là
trong giới hiểu biết và trí thức ở trong cũng như ở ngoài Ki Tô Giáo đã nhìn
vai trò của Chúa Giê-su như thế nào.
Lá thư Làng Mai là để truyền bá những giáo lý của Tăng
thân Làng Mai và tất nhiên để cho mọi người thuộc Giáo hội Làng Mai đọc, suy
gẫm và thực hành. Trong Lá Thư Làng Mai số 32 tôi đọc được bài “Tin
Mừng” của Chân Pháp Đệ, một cựu Linh mục nay theo Làng Mai. Trong bài
này, có đoạn Chân Pháp Đệ viết:
"Nghe hồi chuông cầu kinh Đức Bà cũng giống như
tiếng gọi của Đức Ki Tô, gọi tôi quay về với chân tâm và mời tôi làm như Mẹ
Mary: mang năng lượng Chúa Thánh Thần, sản sinh ra Đức Ki Tô trong cuộc đời
mình, trong thân và tâm mình. Hồi chuông cầu kinh Đức Bà làm tôi thức
tỉnh, nhận ra rằng cũng như Mary, các anh chị em tôi đều mang "tâm thức của
Đức Ki Tô" ngay bây giờ và ở đây. Chất Thánh Nữ của Mary có mặt rất
rõ trong tôi, nơi Thiền viện Phật Giáo này (Người Phật tử nhận diện
Mẹ Mary như Đức QuánThế Âm (Avalokita)).
Nhiều người trong chúng ta có thể tiếp xúc với DNA
tinh thần [sic] của Mẹ Mary qua thực tập Thiền lạy, khi chúng ta áp
người sát đất và quán tưởng về năng lượng trị liệu của Đất Mẹ trong
mỗi chúng ta và trong Tăng thân"
Ngoài ra Chân Pháp Đệ còn viết về những điều như "Tội tổ tông", Đức
Mẹ "thụ thai vô nhiễm" v..v..., những tín điều mà Tây phương đã không còn
tin nữa.
Tôi tự hỏi, không biết từ bao giờ mà người Phật tử và
là người Phật tử nào đã “nhận diện Mẹ Mary như Đức Quán Thế Âm
(Avalokita)”. Những niềm tin của thời Trung Cổ trên tất nhiên là những
ý kiến cá nhân của Chân Pháp Đệ, nhưng lấy ý kiến của mình áp đặt lên “Người
Phật tử” là điều khó có thể chấp nhận, mà nó lại nằm trong Lá Thư Làng Mai,
điều khó hiểu nếu không nằm trong sự truyền bá văn hóa Ki-tô của Làng Mai.
Nhưng không phải chỉ có Chân Pháp Đệ mới viết lên được những câu như trên,
nếu chúng ta đã đọc những cuốn như “Living Buddha, Living Christ”, và
"Going Home: Jesus and Buddha as Brothers" của Thiền sư Nhất Hạnh.
Rất có thể đối với một thiền sư như Thích Nhất Hạnh,
hoặc với mục đích giới thiệu Phật Giáo cho người Tây phương, và Thiền sư đã
thành công, đại thành công, cho nên Thiền sư đã viết lên những cuốn sách như
vậy. Nhưng trong lãnh vực học thuật (scholarship) và về phương diện nghiên
cứu trí thức thì những cuốn sách đó không nói lên được điều gì ngoài chuyện
làm vui lòng các tín đồ Ki Tô Giáo nhưng lại làm hoang mang các tín đồ Phật
Giáo không thuộc hệ Làng Mai. Đây là điều tôi cho là nguy hiểm đối với giới
Phật tử vì thường không phải ai cũng có trình độ nghiên cứu vấn đề một cách
kỹ lưỡng, và những gì viết ra bởi một Thiền Sư nổi tiếng như Thiền sư Nhất
Hạnh bao giờ cũng có giá trị và được đánh giá cao. Nhưng vấn đề chính ở đây
là, tôi có cảm tưởng là TS Nhất Hạnh không nghiên cứu kỹ về Ki Tô GiáoTôi
sẽ trình bày vấn đề này với một số chi tiết.
¨ Hai khuôn mặt trái ngược
Điều đầu tiên chúng ta cần nhận thức là, nếu nghiên
cứu kỹ thì khuôn mặt của Đức Phật trong Kinh điển Phật Giáo và khuôn mặt của
Jesus trong Tân ước hoàn toàn đối ngược nhau, từ đời sống cho đến những lời
nói. Chúng ta sẽ thấy Đức Phật khiêm nhường bao nhiêu thì cũng thấy Jesus
tự cao tự đại tự tôn bấy nhiêu. Chúng ta sẽ thấy ngôn ngữ của Đức Phật êm
ái bao nhiêu thì cũng thấy ngôn ngữ của Jesus khó nghe bấy nhiêu. Đây là
những sự thực không ai có thể chối cãi nếu đã đọc kinh điển Phật Giáo và Tân
Ước và tôi sẽ chứng minh ngay sau đây.
Có thể nói, tôi là người nghiên cứu khá kỹ về cuốn
Thánh Kinh cũng như về Ki Tô Giáo, cho nên tôi thấy khựng lại khi đọc một số
tư tưởng ngoài Phật Giáo của một Thiền Sư Phật Giáo. Tôi không biết
Thầy hiểu thế nào về những quan niệm về Thượng đế, Thánh Linh, Thiên đường,
Nước Chúa v..v.. trong Ki-tô Giáo, nhưng đối với tôi, tất cả những gì Thiền
sư Nhất Hạnh viết về Thượng đế, Thánh Linh, Thiên đường, Nước Chúa v..v..
trong Ki-tô Giáo đều không phù hợp với những điều mà tôi đã đọc trong hàng
trăm tác phẩm nghiên cứu về Ki Tô Giáo của các học giả Tây phương, ở trong
cũng như ở ngoài Ki Tô Giáo, và đặc biệt của một số lãnh đạo cao cấp trong
Ki Tô Giáo.. Đây là tôi nói về lãnh vực học thuật chứ không dám bàn đến
lãnh vực tâm linh mà ai cũng có thể hiểu và tin theo cách riêng của mình.
Thật vậy, chúng ta hãy đọc một số ý tưởng của Thiền sư Nhất Hạnh trong
Chương 4 của cuốn “Living Buddha, Living Christ” qua bản dịch của
Chân Văn trên báo Người Việt trước đây:
Trong phạm vi bài viết này, tôi không thể đưa ra
những nhận xét về những ý tưởng của Thiền sư Nhất Hạnh trong Chương này mà
chỉ có thể điểm qua vài ý tưởng điển hình của Thiền sư. Thiền sư viết:
- Đức Ki Tô Hằng Sống là Con của Thượng Đế,
đã phục sinh, và nay vẫn còn tiếp tục sống.
- Tôi thấy chúng ta phải quán chiếu mọi
hành động và mọi lời dạy của Chúa Giêsu trong cuộc đời Ngài, như một mẫu mực
để chúng ta tu tập. Giêsu sống đúng như lời dạy của Ngài, cho nên suy gẫm
cuộc đời Chúa Giêsu là điều tối cần thiết để hiểu giáo lý của Ngài.
- Trong nhãn quan Phật Giáo, ai không phải
là con của Thượng đế?
- Tội tổ tông cũng có thể được chuyển hóa
khi một người tiếp xúc với Thánh Linh. Giêsu là con của Thượng Đế và con của
Người. Chúng ta cũng là con của Thượng Đế và của song thân chúng ta.
- Nơi duy nhất chúng ta có thể tiếp xúc với
Giêsu và Nước Chúa là ở trong nội tâm mình.
- Khi chúng ta theo dõi và tiếp xúc một
cách sâu sắc với cuộc đời và giáo lý của Chúa Giêsu,
- chúng ta có thể thâm nhập vào sự thật của
Thượng Đế. Tình yêu, sự hiểu biết, lòng can đảm, sự bao dung, là những biểu
hiện của cuộc đời Chúa Giêsu. Thượng Đế xuất hiện với chúng ta qua Giêsu Ki
Tô. Với Thánh Linh và Nước Chúa ở trong Ngài.
Thật quả tôi hết sức ngỡ ngàng khi đọc những đoạn
trên. Nếu những đoạn trên mà viết bởi một người Ki-tô Giáo ít hiểu biết thì
không nói làm gì [trong thời đại ngày nay, không một nhà thần học Ki-tô Giáo
nào có hiểu biết về Kinh Thánh và về Chúa Giê-su của họ dám viết như trên],
nhưng nếu nhân danh Phật Giáo mà viết như vậy thì thật là ngoài sức tưởng
tượng của tôi. Hiển nhiên là người viết những câu trên đã không biết đến
những nghiên cứu về Ki-tô Giáo và về chính nhân vật Giê-su trong 200 năm nay
của hàng trăm học giả, chuyên gia về Ki-tô Giáo, ở trong cũng như ngoài các
giáo hội Ki-tô, kể cả một số nhà thần học, linh mục, mục sư v..v... Sau đây
chúng ta sẽ đi vào những điểm trên với những tài liệu trong lãnh vực học
thuật.
¨ Về Chúa Giê-su
Học giả Ki-tô Russell Shorto đã viết trong cuốn
“Sự Thật Trong Phúc Âm” (Gospel Truth) như sau:
“Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm
khoa học ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo
hội Ca-Tô bảo thủ cho phép nghiên cứu, cũng phải đồng ý là phần lớn những
điều chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoại... Các học giả đã biết
rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một
người thường sống với một ảo tưởng – họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ
các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con
chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do
đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường.”
(Most important, the impact of the scientific
perspective is having now that even scholars working under a conservative
Catholic imprimatur agree that much of what we know of Jesus is myth...
Scholars have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with
a vision – for decades; they have taught it to generations of priests and
ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear a
backlash of anger. So the only ones left in the dark are ordinary
Christians.)
Cho nên, những câu như “Chúa Ki-tô là Đức
Hằng Sống, là Con Một của Thượng đế, đã Phục Sinh v..v..”thì
không còn mấy ý nghĩa đối với những người ở ngoài đức tin Ki-tô Giáo cũng
như đối với giới hiểu biết trong Ki-tô Giáo. Lẽ dĩ nhiên, ai cũng có quyền
nhận xét về Giê-su theo ý mình, nhưng theo tôi, những lời thuyết giảng trên,
nếu nhân danh Phật Giáo, thì thật là nguy hại và thiếu tinh thần trách
nhiệm. Thiếu tinh thần trách nhiệm và nguy hại vì các tín đồ Ki-tô giáo
có thể hài lòng trước những lời trên, và kết quả là vẫn tiếp tục sống trong
trong bóng tối của sách lược che dấu sự thực của các giáo hội Ki-tô. Còn
đối với đa số Phật tử trong mọi giới, thì những lời giảng trên sẽ gây hoang
mang nếu không muốn nói là gây nguy hại cho Phật Giáo. Tại sao?
Vì Phật Giáo trên thế giới đang phải đối phó với sách
lược xâm lăng văn hóa và tôn giáo của Ki-tô Giáo, một sách lược mà Tiến Sĩ
C. de S. Wijesundera ở Tích Lan lên án là “tấn công Phật Giáo một cách ti
tiện, xảo trá, và đại quy mô.” (They [the Christians] were engaged, Dr.
C. de S. Wijesundera said, in a "despicable, treacherous, indecent and
massive assault on Buddhism".) Nhiều tài liệu đã in thành sách và ở trên
Internet đã chứng tỏ là sách lược này đang được tích cực thi hành ở Ấn Độ,
Thái Lan, Tích Lan, Việt Nam v..v.. Đáng lẽ Phật Giáo phải dấn thân tìm
cách đối phó với sách lược ti tiện, xảo trá và đại quy mô tấn công Phật Giáo
để cải đạo người Phật tử, thì chúng ta lại được dạy phải quán chiếu để mà tu
tập theo Giê-su. Vấn đề ở đây không phải là chúng ta không nên theo những
cái hay của các vĩ nhân trên thế giới, nhưng về phương diện tu tập trong
Phật Giáo, Cuộc đời Đức Phật, Giáo pháp của Đức Phật không đủ hay sao,
gương tu hành của các Tổ, các Cao Tăng trong Phật Giáo không đủ hay sao, mà
chúng ta còn phải tu tập theo Giê-su, những tư tưởng và hành động của Giê-su
mà thực sự chúng ta không biết rõ nếu chưa nghiên cứu kỹ Kinh Thánh và cuộc
đời của Chúa Giê-su trong đó.Thử hỏi, có cái gì của Giê-su,
từ giáo lý, nếu có, đến phương pháp tu tập, nếu có, mà không có trong các
tôn giáo khác, trong dân gian, ngoại trừ điều Giê-su dạy phải tin vào Cha
của ông ta và phải tin vào chính ông ta nếu không thì sẽ bị đày hỏa ngục
vĩnh viễn? Đối với những người có đôi chút hiểu biết về Phật Giáo cũng
như Ki-tô Giáo thì không ai có thể chấp nhận, nghe theo những lời khuyên
như trên. Trái lại họ còn cảm thấy lo lắng vì Phật Giáo đang bị phá ngầm
bởi một quan niệm đối thoại sai lầm.
¨ Thượng đế là gì?
Trước hết, theo nhãn quan Phật Giáo nào mà quan niệm
rằng: “ai không phải là con của Thượng Đế?” khi không hề định nghĩa
Thượng đế là cái gì? Phật Giáo có chấp nhận một Thượng đế sáng tạo ra vũ
trụ muôn loài hay không? Phật Giáo có chấp nhận là một Thượng đế nào đó đã
sáng tạo ra loài người hay không? Mấy chục năm nay, tôi đã đọc không ít
sách, báo, Kinh điển Phật Giáo, nhưng tôi không thấy ở đâu viết rằng Phật
Giáo tin là có một Thượng đế, nhất lại là Thượng đế của Ki-tô Giáo, theo
quan niệm của Ki-tô Giáo.
Một khuôn mặt Phật Giáo có uy tín nhất trong thế giới
ngày nay là Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài đã khẳng định lập trường của Phật
Giáo đối với quan niệm Thượng đế của Ki-tô Giáo: “Phật Giáo đã luôn luôn
tự kiềm chế trong việc khẳng định sự hiện hữu và thuộc tính toàn năng của
một Thượng đế sáng tạo” [The Spirit of Peace: Teaching on Love,
Compassion and Everyday Life, by His Holiness the Dalai Lama,, p.71:
Buddhism has always refrain from asserting the existence and the omnipotence
of a creator god]. Điều này có nghĩa là Phật Giáo chưa bao giờ và sẽ không
bao giờ chấp nhận sự hiện hữu và toàn năng của một Thượng đế sáng tạo ra
muôn loài. Vậy nhãn quan Phật Giáo nào, dựa vào kinh điển Phật Giáo nào,
mà cho rằng: “ai không phải là con của Thượng Đế?” Nếu
chúng ta quan niệm Thượng đế như là một sinh thể ban khai, hay là cát bụi
trên những ngôi sao [theo Giáo sư Trịnh Xuân Thuận], thì theo tinh thần
thuyết Tiến Hóa ngày nay, câu trên có thể đúng. Nhưng hiển nhiên đó không
phải là Thượng đế của Ki-tô Giáo.
Chúng ta cần phải nhớ rằng, danh từ Thượng đế là
danh từ người Ki-tô Giáo Việt Nam gọi Thần Ki-tô [Christian God] của họ,
Thần Jehovah của Do Thái, và đó chính là Thượng đế trong Kinh Thánh của
Ki-tô Giáo, là Cha của Giê-su, chứ không phải là Thượng đế theo cái hiểu
khác của bất cứ ai. Thí dụ, Einstein cho rằng Thượng đế là những định luật
thiên nhiên trong vũ trụ, trái hẳn với quan niệm về Thượng đế của Ki-tô
Giáo, một ông thần ngồi trên trời định đoạt số phận của con người, để quyết
định xem ai là người được thưởng cho lên thiên đường, ai là người bị phạt,
phải đầy đọa xuống hỏa ngục để cho ngọn lửa vĩnh hằng thiêu đốt. Nhưng
Einstein chỉ dùng danh từ Thượng đế (God) để nói một cách diễu cợt, vì
Einstein không tin có một Thượng đế thưởng phạt như vậy. Tại sao ta phải
gán ghép danh từ Thượng đế vào những định luật thiên nhiên mà không gọi
chúng đơn giản chỉ là những định luật thiên nhiên? Vả lại, chẳng có ai đi
cầu nguyện hay thờ phụng hay yêu hết lòng hết sức những định luật thiên
nhiên, thí dụ như định luật vạn vật hấp dẫn.
Nhưng thật ra Thượng đế là gì? Theo sách của
Công Giáo [National Catholic Almanac, 1968, trang 360] thì Thượng đế của họ
có 23 thuộc tính trong đó có những thuộc tính đặc biệt như “không ai biết
được” (unknown), “không ai thấy được” (invisible), “không ai hiểu được”
(incomprehensible), “không thể mô tả được” (ineffable). Cho nên bất cứ con
người nói gì về Thượng đế chỉ là đoán mò. Hơn nữa, đọc về Thượng đế trong
Cựu Ước, không phải là không có cơ sở khi các học giả trong Ki Tô Giáo đã
đưa ra những nhận định như sau:
1) Tổng Thống Thomas Jefferson của Mỹ, sau khi
đọc cuốn “Thánh Kinh”, đã nhận định về Thượng đế của Ki Tô Giáo là “một
nhân vật có tính tình khủng khiếp – độc ác, ưa trả thù, đồng bóng, và bất
công” [Thomas Jefferson describes The God of Moses as “a being of
terrific character – cruel, vindictive, capricious and unjust].
2) James A. Haught: Qua luận lý, chúng
ta có thể thấy quan niệm của giáo hội về một Thượng đế ở trên
trời với lòng “quá thương yêu thế gian” không đứng vững. Nếu có một đấng
thần linh sáng tạo ra mọi thứ hiện hữu thì ông ta đã làm ra ung thư vú cho
phái nữ, bệnh hoại huyết cho trẻ con, bệnh cùi, bệnh AIDS, bệnh mất trí nhớ
(Alzheimer), và hội chứng Down (khuyết tật tinh thần). Ông ta ra lệnh cho
những con cáo cắn xé nát những con thỏ ra từng mảnh, những con báo giết
những hươu nai. Không có một con người nào độc ác đến độ hoạch định những
sự khủng khiếp như vậy. Nếu một đấng siêu nhiên làm như vậy, ông ta là một
con quỷ, không phải là một người cha nhất mực nhân từ.
[Haught, James A., 2000 Years of Disbelief: Famous People with the
Courage to Doubt, p. 324: Through logic, you can see that the church
concept of an all-loving heavenly creator doesn't hold water. If a divine
Maker fashioned everything that exists, he designed breast cancer for women,
childhood leukemia, leprosy, AIDs, Alzheimer's disease, and Down's
syndrome. He madated foxes to rip rabbits apart and cheetahs to slaughter
fawns. No human would be cruel enough to plan such horrors. If a
supernatural being did so, he's a monster, not an all-merciful father.]
3) Giám mục John Shelby Spong: Cuốn Thánh
Kinh đã làm cho tôi đối diện với quá nhiều vấn đề hơn là giá trị. Nó đưa
đến cho tôi một Thượng đế mà tôi không thể kính trọng, đừng nói đến
thờ phụng. [ John Shelby Spong, Rescuing The Bible From
Fundamentalism, pp. 24: A literal Bible presents me with far more
problems than assets. It offers me a God I cannot respect, much less
worship.]
4) Linh mục Công giáo James Kavanaugh viết về “Huyền Thoại Cứu
Rỗi” trong cuốn Sự Sinh Ra Của Thiên Chúa (The Birth of God),
xin đọc:
http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN36.php:
Nhưng đối với con người hiện đại. chuyện hi sinh của Giê-su
chẳng có ý nghĩa gì mấy, trừ khi hắn đã bị reo rắc sự sợ hãi và bị tẩy não
từ khi mới sinh ra đời (But to modern man, it makes far less
sense unless he has been suitably frightened and brainwashed from birth).
Đối với tôi (Linh mục James Kavanaugh), đó là một huyền thoại “cứu
rỗi” của thời bán khai, miêu tả một người cha giận dữ [Thượng đế ],
chỉ nguôi được cơn giận bằng cái chết đầy máu me của chính con mình. Đó
là một chuyện độc ác không thể tưởng tượng được của thời bán khai
(It is a primitive tale of unbelievable cruelty).
5) Nhưng đặc biệt hơn cả là khi đọc Richard Dawkins
trong cuốn “The God Delusion”, ấn bản 2008, tôi thấy tác giả đưa ra
tới 16 nhận định về Thiên Chúa của Ki Tô Giáo rất đáng để chúng ta nghiên
cứu để tìm hiểu sự thật. Mở đầu Chương 2, trang 51, về “Giả Thuyết Về
Thượng đế ” [The God Hypothesis], tác giả Richard Dawkins viết:
Không cần phải bàn cãi gì nữa, Thượng đế
trong Cựu Ước là nhân vật xấu xa đáng ghét nhất trong mọi chuyện giả tưởng:
ghen tuông đố kỵ và hãnh diện vì thế; một kẻ nhỏ nhen lặt vặt, bất công, có
tính đồng bóng tự cho là có quyền năng và bất khoan dung; một kẻ hay trả
thù; một kẻ khát máu diệt dân tộc khác; một kẻ ghét phái nữ, sợ đồng giống
luyến ái, kỳ thị chủng tộc, giết hại trẻ con, chủ trương diệt chủng, dạy cha
mẹ giết con cái, độc hại như bệnh dịch, có bệnh tâm thần hoang tưởng về
quyền lực, của cải, và toàn năng [megalomaniacal], thích thú trong sự
đau đớn và những trò tàn ác, bạo dâm [sadomasochistic], là kẻ hiếp
đáp ác ôn thất thường.
[The God of the Old Testament is
arguably the most unpleasant character in all fiction: jealous and proud of
it; a petty, unjust, unforgiving control-freak; a vindictive, bloodthirsty
ethnic cleanser; a misogynistic, homophobic, racist, infanticidal,
genocidal, filicidal, pestilential, megalomaniacal, sadomasochistic,
capriciously malevolent bully.]
Chẳng có lẽ những người như trên [trừ Richard
Dawkins là người vô thần] lại không hiểu rõ về Thượng đế của họ hay sao?
Mặt khác, tất cả những tính nết của Thiên Chúa hay Thượng đế mà Richard
Dawkins đưa lên như trên đã được Steve Wells chứng minh, viện dẫn những câu
trong chính cuốn Cựu Ước. Vậy sự thật của Thượng đế và của con ông ta,
Giêsu, là cái gì? Tôi không nắm được ý của Thiền sư Nhất Hạnh.
¨ Không nên nhìn tôn giáo khác qua lăng kính tôn
giáo mình
Trong cuộc đối thoại tôn giáo, một trong những sai lầm
trầm trọng và nguy hiểm nhất là chúng ta nhìn tôn giáo khác qua lăng kính
của tôn giáo chúng ta, hoặc đưa ra những nhận định về một tôn giáo khác mà
chưa nghiên cứu, chưa tìm hiểu kỹ càng về tôn giáo đó. Thí dụ, chúng ta là
Phật tử, khi bàn về Thượng đế của Ki tô giáo mà lại bàn theo quan niệm của
chúng ta về Thượng đế như là Phật tánh hay gì gì đi nữa trong Phật Giáo thì
thật sự chúng ta chưa hiểu thế nào là Thượng đế của Ki tô giáo, chưa hiểu
người Ki-tô giáo và nền thần học Ki-tô Giáo quan niệm thế nào về Thượng đế
của họ để tạo thành nền tảng tín ngưỡng của Ki-tô giáo. Kiểu luận bàn này
thực chất không khác gì người Ki Tô Giáo quan niệm Đức Phật chỉ là một ngôn
sứ của Thượng đế của họ, và nền thần học Ki tô mới sáng chế ra gần đây với
tên “Thần Học Ki-tô Giáo Theo Cung Cách Á Châu” đã diễn giải Đức Phật
chỉ là người mở đường cho nhân loại dẫn đến sự “cứu rỗi” của Đức Giê-su
Ki-tô (Jesus Christ) mà thực chất sự “cứu rỗi” chỉ là một huyền thoại cần
phải dẹp bỏ [Xin đọc bài Huyền Thoại Cứu Rỗi của Linh mục James
Kavanaugh và Giê-su Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ
của Giám mục Tin Lành John Shelby Spong trên trang nhà Giao Điểm và Sách
Hiếm], và Giê-su chỉ là một nhân vật đầy tính thế tục đã được nền thần học
Ki-tô Giáo dựng lên làm Chúa Cứu Thế cho cả nhân loại..
Thứ đến, trước những tác phẩm nghiên cứu về chính nhân
vật Giê-su của một số học giả, chuyên gia về Ki-tô Giáo, trong đó có cả
những nhà thần học Ki-tô Giáo mà uy tín chuyên ngành khó có ai có thể phủ
nhận, và nếu chúng ta chịu khó đọc kỹ Tân Ước về tất cả những lời nói và
hành động của Giê-su như được mô tả rõ trong Tân Ước, thì nếu chúng
ta phải quán chiếu mọi hành động và mọi lời dạy của Giê-su để mà theo đó mà
tu tập thì không hiểu chúng ta phải tu tập theo hành động nào và lời dạy
nào. Trong cuốn Hãy Cứu Thánh Kinh Khỏi Phái Bảo Thủ (Rescuing the
Bible From Fundamentalism), Giám mục Tin Lành John Shelby Spong viết:
- Có những đoạn trong bốn Phúc Âm mô tả Giê-su ở
Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức
giả. (There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth
as narrow-minded, vindictive, and even hypocritical). Và,
Đây là những lời phê phán của một Giám Mục Tin Lành,
chứ không phải của người ngoại đạo. Có thể nào một Giám mục thờ Chúa lại có
thể phê phán Chúa của mình như vậy, nếu không phải là sự thực bất khả phủ
bác mà nhiều học giả nghiên cứu Kinh Thánh đã đồng thuận. Nếu chúng ta đã
đọc kỹ Tân Ước thì lời phê phán của Giám mục Spong ở trên quả thật không
sai. Vậy chúng ta có nên tu tập theo những “đức tính” như thiển cận, đầy hận
thù, và đạo đức giả của Giê-su hay không?
Thiền sư Nhất Hạnh dạy chúng ta phải quán chiếu
mọi hành động và mọi lời dạy của Chúa Giêsu trong cuộc đời Ngài, như một mẫu
mực để chúng ta tu tập nhưng không cho chúng ta biết những hành động và
lời dạy nào của Chúa Giê-su mà chúng ta cần phải quán chiếu như là những mẫu
mực để chúng ta tu tập ngoài những mấu mực tu tập trong Phật Giáo. Nếu
Thiền sư Nhất Hạnh không nói thì tôi đành phải nói vậy, vì tôi đã đọc kỹ Tân
Ước. Tôi chỉ nêu những hành động và lời dạy của Chúa Giê-su trong Tân Ước
và sẽ không phê bình, xin để cho đọc giả tùy nghi “quán chiếu”.
¨ Hành động của Chúa Giê-su:
1. Matthew 15: 21-28:
“Thế rồi Giê-Su đi tới vùng Tyre và Sidon. Và có một người đàn bà
người Canaan đến từ vùng đó và kêu với Giê-Su “Hãy thương tôi, Chúa ơi, Con
của David. Con gái tôi đang bị quỷ ám nặng.” Nhưng
Người không thèm trả lời bà ta một tiếng. Và các đệ tử của Giê-Su tới và
yêu cầu Giê-Su: “Hãy đưổi bà ta đi, vì bà ta cứ kêu cứu cùng chúng ta.”
Nhưng Giê-Su trả lời: “Ta được phái xuống đây chỉ để cứu dân Do Thái mà
thôi.” Rồi người đàn bà kia tới và thờ phượng Giê-Su và nói: “Chúa ơi,
hãy giúp tôi.” Nhưng Người trả lời: “Lấy bánh của con dân Do Thái mà
ném cho mấy con chó nhỏ [nghĩa là những người phi- Do Thái] ăn
thì thật là chẳng tốt tí nào.”
2. Matthiew 21, 18-21:
Sáng sớm, khi trở vào thành, Ngài cảm thấy đói. Trông thấy cây
vả bên đường. Người lại gần nhưng không tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi.
Nên Người nói: “Từ nay, không bao giờ mày ra trái nữa!” Cây vả chết
khô ngay lập tức. Thấy vậy, các môn đệ ngạc nhiên nói: “Sao cây vả lại chết
ngay lập tức như thế?” Đức Giêsu trả lời: “Thầy bảo thật anh em. nếu anh em
tin và không chút nghi nan, thì chẳng những anh em làm được điều thầy làm
cho cây vả, mà hơn nữa, anh em có thể bảo núi này: Dời chỗ đi, nhào xuống
biển! thì sự việc sẽ xảy ra như thế.”
3. Matthew 8: 28 – 34:
Có hai người bị quỷ ám gặp Chúa Giê-su và quỷ trong hai người đó
van nài Chúa Giê-su đuổi chúng ra và cho nhập vào một bày heo. Chúa phán
“đi ra”, chúng liền nhập vào bầy heo và cả bầy heo (độ 2000
con, theo Mark 5: 13) rông tuốt xuống biển chết chìm hết. Trẻ
con chăn heo chạy về làng kể chuyện lại cho dân làng nghe, cả làng kéo ra
khỏi làng gặp Chúa Giê-su và… xin Ngài (có nghĩa là đuổi) hãy đi ra
khỏi vùng đất của họ.
¨ Vài Lời Dạy Của Chúa Giê-su:
Matthew 12:30: Kẻ nào không theo ta, ở với ta, là chống đối
ta., và coi những người không tin và tuân phục Giê-su là kẻ thù và dạy
môn đồ:
Luke 19:27 : Hãy mang những kẻ thù của Ta ra đây,
những người không muốn Ta ngự trị trên họ, và giết chúng ngay trước mặt
Ta.
Matthew 5: 22: Chúa Giê-su dạy: "Người nào nguyền rủa anh em sẽ bị
xuống hỏa ngục" nhưng chính Giê- su lại đi nguyền rủa những
người không chịu theo Giê-su:
Luke 8: 24: Nếu ngươi không tin ta là con Thượng Đế, ngươi
sẽ chết trong tội lỗi của ngươi.
Matthew 12: 34: Ôi thế hệ của những loài rắn độc, ác
như các ngươi làm sao có thể nói những lời tốt lành?
Matthew 23: 33: Ngươi là loài rắn, ngươi là thế hệ của những
rắn độc, làm sao các ngươi thoát khỏi hỏa ngục?
Matthew 25: 41: “Rồi ta sẽ nói với những
kẻ ở phía bên tay trái: “Hãy cút đi cho khuất mắt ta, hỡi những kẻ bị nguyền
rủa, để đi vào ngọn lửa vĩnh hằng nhúm sẵn cho quỷ và những thiên thần của
nó” [Tiếng Anh nguyên văn là, “Depart from me, you cursed, into the
everlasting fire prepared for the devil and his angels” nhưng Kinh Thánh
Tin Lành tiếng Việt đã dịch “devil and his angels” là “ma quỉ và những quỉ
sứ (của) nó. TCN]
Matthew 23: 11-12: Các con càng khiêm tốn phục vụ người thì
càng được tôn trọng... Ai tự đề cao sẽ bị hạ thấp, ai khiêm tốn hạ mình sẽ
được nâng cao. NHƯNG…:
John 6:35: Ta là thức ăn của đời sống. (I
am the bread of life)
John 8:12, 9:5: Ta là ánh sáng của thế gian
(I am the light of the world)
John 10: 11, 14: Ta là người chăn chiên chí
thiện (I am the good shepherd)
John 11:25: Ta là Sự Sống Lại và là Sự Sống
(I am the resurrection and the life)
John 14:6: Ta là Con Đường, là Sự Thật và là
Sự Sống (I am the way, the truth, and the life)
John 10:36: Ta là Con Thiên Chúa (I am the
Son of God).
Tôi không phê bình những hành động và lời dạy trên của Giê-su, nhưng
từ những hành động và lời dạy của Chúa Giê-su trong Tân Ước như trên, và
không phải chỉ có vậy, các học giả đã nhận xét về tư cách con người của
Giê-su như thế nào?
Trước hết, có lẽ chúng ta cần phải trích dẫn nhận
định về Giê-su của Bertrand Russell, một thiên tài toán học và triết lý, đã
được giải thưởng Nobel năm 1950:
“Xét về trí tuệ hay đức hạnh tôi không thể nào
cho rằng Đức Ki-Tô cũng cao cả như vài người khác được biết trong lịch sử.
Tôi nghĩ rằng, về trí tuệ hay đức hạnh, tôi phải đặt Đức Phật và Socrates
lên trên Đức KiTô.”
[I cannot myself feel that either in the
matter of wisdom or in the matter of virtue Christ stands as high as some
other people known to history – I think I should put Buddha and Socrates
above him in those respects.]
Ngoài ra, như trên đã ghi, Giám mục John Shelby Spong, sau khi nghiên
cứu Tân Uớc, đã đưa ra thêm một nhận định khác về Giê-su như sau:
Có những đoạn trong bốn Phúc Âm mô tả Giê-su ở Nazareth như là một
con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả.
(There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as
narrow-minded, vindictive, and even hypocritical).
Và Jim Walker cũng viết trên Internet trong bài Chúng Ta Có Nên
Kính Ngưỡng Giê-su Không? (Should We Admire Jesus?):
Giê-su trong Thánh Kinh có xứng đáng với vinh dự mà người ta đã
ban cho ông ta hay không? Bất hạnh thay, những người giảng đạo, mục sư, và
giáo sĩ [và nay có cả Thiền sư] đã giảng cho chúng ta những câu
chuyện với thành kiến một phía, nhấn mạnh và thổi phồng những điều mà họ
thấy là tích cực và dẹp bỏ hoặc bỏ qua những điều tiêu cực. Nền học
thuật về Thánh Kinh trong trăm năm nay không được những người thường biết
đến. Trong khi đó thì, chúng ta thấy những mục sư và nhà truyền đạo trên TV
chính trị đã khẳng định những điều vô nghĩa trong Thánh Kinh mà không bị ai
đặt vấn đề trách nhiệm của họ. Tuy trên 90% gia đình ở Mỹ có một cuốn Thánh
Kinh, thường là không đọc đến, hoặc nhiều nhất là làm nhẹ bớt hoặc lược
bỏ khi muốn nói về Thánh Kinh. Nhiều tín đồ Ki-Tô-giáo không hề biết
đến là nhiều đoạn trong các Phúc Âm trong Tân Ước, Giê-su được mô tả như là
một con người đầy hận thù, xấu xa, bất khoan dung, và đạo đức giả.
[Does the Biblical Jesus merit the honor bestowed upon him?
Unfortunately, preachers, ministers, and clergymen have given us biased,
one-sided stories, emphasizing and inflating what they see as positive while
subverting or ignoring the negative. Biblical scholarship of the last
hundred years has not reached the common man. Instead, we see political
ministers and televangelists making absurd biblical claims without anyone
calling them accountable. Although over 90 percent of households in America
own a Bible, it usually goes unread, or at best sanitized or bowdlerized to
what people want it to say. Unbeknownst to many Christians, many times the
Gospels of the New Testament portray Jesus as vengeful, demeaning,
intolerant, and hypocritical.]
¨ Chúa Giê-su có một giáo lý đặc thù nào
Một điểm khác là Chúa Giê-su có một giáo lý đặc thù nào không? Nhận
định sau đây của Joseph L. Daleiden, một học giả Công giáo, trong cuốn
The Final Superstition, trg. 174, về cái gọi là giáo pháp của Giê-su có
thể giúp chúng ta nhìn rõ vấn đề một cách tổng quát:
Có rất ít, nếu có, điều sáng tác độc đáo trong giáo pháp mà người
ta cho là của Giêsu. Giống như chính huyền thoại về Giêsu, những quan điểm
mà Giêsu diễn đạt chỉ là một mớ hổ lốn những ngụ ngôn và luân lý mà chúng ta
có thể thấy trong những đạo cổ xưa của Ai Cập, Babylon, Ba Tư, Hi Lạp, Phật,
Khổng, Ấn Độ… Một điều rõ ràng: Ki Tô Giáo, một tôn giáo sinh sau đẻ muộn
trong lịch sử các tôn giáo, chỉ cóp nhặt (đạo văn) những quan điểm, ý kiến
của Do Thái Giáo và các tôn giáo gọi là dân gian. Trong cuốn “Nguồn Gốc
Luân Lý Trong các Phúc Âm”, Joseph McCabe (Một Linh Mục Công giáo.
TCN) đã trích dẫn những quan điểm luân lý trong Phúc Âm mà người ta cho
là của Giêsu song song với những quan điểm luân lý tương đương và y hệt của
các tác giả Do Thái và dân gian.
[Daleiden, Joseph L., The Final Superstition, p. 174: There is
very little, if anything, that is original in the teaching attributed to
Jesus. Like the myth of Jesus itself, the sentiments he expresses are a
hodgepodge of aphorisms and moral convictions that can be found in the
ancient Egyptian, Babylonian, Persian, Greek, Buddhist, Confucian, and Hindu
religions… But one thing is certain: Christianity, a late-comer in the
history of religion, merely plagiarized sentiments from Judaism and the so
called pagan religions. In his book Sources of Morality in the Gospels,
Joseph McCabe quoted the moral views attributed to Jesus in the gospels and
in parallel columns gave exact moral equivalents from Jewish and pagan
writers.]
Theo Thiền sư Nhất Hạnh thì giáo lý Phật Giáo chưa
đủ, chúng ta cần phải suy gẫm để hiểu giáo lý của Chúa Giê-su. Hiểu để làm
gì không thấy Ngài nói.
¨ Quan niệm Thiên Đường
Sau cùng, một sai lầm nghiêm trọng khác mà người ngoại
đạo cũng như đa số tín đồ Ki tô Giáo thường vấp phải là quan niệm về một
Nước Trời hay Nước Chúa (Kingdom of God) hay Nước Thiên Đường
(Kingdom of Heaven) của Ki Tô Giáo. Ngày nay, quan niệm Thiên Đường
là một nơi chốn trên các tầng trời, nơi Giê-su ngự và và các tín đồ Ki Tô hi
vọng được hưởng nhan thánh Chúa sau khi chết, đã dứt khoát bị bác bỏ, không
những bởi giới trí thức và khoa học mà còn bởi chính Giáo Hoàng John Paul II
của Công giáo. Để hiểu rõ về quan niệm Nước Thiên Đàng hay Nước Chúa chúng
ta cần trở lại lịch sử của người Do Thái.
Vào thời điểm Giê-su sinh ra đời thì Do Thái đang
sống dưới ách thống trị khắc nghiệt của La Mã. Do đó, dân Do Thái, cũng như
trong những thời kỳ bị chinh phục và bắt làm nô lệ trước, mong chờ và tin
rằng Thần Gia-vê sẽ đoái thương đến họ, và một đấng cứu tinh thuộc dòng dõi
vua David sẽ xuất hiện để giải phóng dân tộc họ. Và quan niệm Nước
Trời hay nước Chúa (Kingdom of God) nguyên thủy của người Do Thái rất
đơn giản, đó chỉ là sự biến đổi thế giới thường thành một thế giới mà Thiên
Chúa của họ sẽ trực tiếp cai quản công việc thế gian và do đó, khôi phục
những phúc lợi của dân Do Thái, dân đã được Thiên Chúa chọn lựa (Joel
Carmichael, The Birth of Christianity, Dorset Press, New York, 1989,
p. 1: The Kingdom of God meant the transformation by God of the natural
world into one in which God's will would conduct human affairs directly and
hence restore the fortunes of the Jews, the Chosen People).
Douglas Lockhart cũng viết như sau về sự rao giảng của
Thánh Paul trong cuốn The Dark Side of God, trang 182:
“Giê-su vẫn còn sống và sẵn sàng xuất hiện lúc mà Thượng đế làm phép lạ để
khai mạc Nước Chúa ở trên trái đất. Đó là cái mà người Do Thái chờ đợi. Họ
không chờ đợi Giê-su trở lại từ trên trời; họ chờ đợi Thượng đế hành động –
chỉ khi đó Giê-su mới xuất hiện. Và Giê-su sẽ xuất hiện như là một con
người bằng xương bằng thịt. Vì Nước Chúa là một nước vật chất, một vương
quốc trên trái đất...” (Jesus was alive and ready to appear the moment
God began to work the miracle of inaugurating the Kingdom of God on Earth.
This is what they were waiting for. They were not waitin for Jesus to
arrive back from heaven; they were waiting for God to make his move – only
then would Jesus appear. And he would appear in the flesh. For the Kingdom
of God was a physical kingdom, a kingdom on Earth..).
Người Do Thái tin tưởng rằng nơi Nước Trời hay Nước
Thiên đàng (Kingdom of Heaven), hay Nước của Chúa (Kingdom of God) này, dân
Do Thái sẽ sống sung sướng với sữa và mật tràn đầy, dưới sự quản trị và ân
sủng trực tiếp của Thần Gia-vê., thần của dân tộc họ. “Nhưng Nước của
Chúa này không xuất hiện, vẫn lại là người La Mã cai trị.. Sự mơ ước của
người Do Thái về một Nước vật chất của Chúa trên trái đất đã không xảy ra,
và vì vậy Giê-su, đấng cứu thế, đã phải cuốn gói lên trời để cho Thượng đế
không bị mất mặt.”(Lockhart, Ibid., p. 158: The Kingdom of God
did not appear, it was just the Romans as usual...The sectarian dream of a
physical Kingdom of God on Earth did not materialize, and so Jesus the
Messiah had to be packed off to heaven so that God would not lose face.)
Đó là tại sao Nước của Chúa ở dưới đất được mang lên
Trời. Các tín đồ Công giáo Việt Nam, từ trên xuống dưới, không biết về lịch
sử Do Thái, không đủ khả năng tự mình đọc và hiểu lấy Kinh Thánh, không hiểu
ý nghĩa của nước Trời hay nước Chúa (Kingdom of God) trong Kinh Thánh, nghe
lời giảng hoang đường huyễn hoặc của giới giáo sĩ, nên coi đó là một nước
thiên đường ở trên những tầng trời mà không hiểu rằng nước này chỉ là một
nước mà Chúa Cha trị vì, cai quản các việc thế gian của dân Do Thái như một
ông vua trên trần thế, theo niềm tin của người Do Thái thời bấy giờ, chứ
chẳng dính dáng gì tới bất cứ dân tộc nào khác trên thế giới. Thật
vậy, trong cuốn A Time For Christian Candor, Giám Mục James A. Pike
của giáo xứ California viết như sau, trang 109:
Quan niệm về thế giới của Giê-su là quan niệm trong
thời đại của ông ta. Quan niệm về một Nước Chúa mà ông ta nhấn mạnh là quan
niệm đã được đưa vào Do Thái giáo từ thế kỷ 5 trước thời đại thông thường
này, dưới ảnh hưởng của Zoroaster (Một nhà tiên tri
Ba-Tư trong thế kỷ 6 trước Tây Lịch. TCN). Ông ta (Giê-su) chịu ảnh
hưởng giáo lý của dân Essenes, như là chúng ta càng ngày càng thấy đó là
điểu hiển nhiên qua những bản dịch của những Cuộn Kinh Trong Biển Chết. Ông ta có một đầu óc giới hạn - điều này đúng đối với mọi người. Thí dụ,
giống như các ông thầy tu Do Thái (Rabbis) cùng thời, ông ta cho rằng chính
David viết tất cả những bài Thánh Vịnh cho nên ông ta đã chưng dẫn David như
là tác giả bài Thánh Vịnh số 110
(thực ra là một bài đã được viết sau
thời David) trong một cuộc tranh cãi với dân Pharisees. Và ông ta nghĩ,
phù hợp với tâm cảnh về một ngày tận thế trong thời của ông ta, rằng ngày
tận thế đã gần kề.
(Jesus' world-view was that of his time. The
concept of the Kingdom of God which he stressed was that introduced into
Judaism in the fifth century B.C., under Zoroastrian influence. He was
influenced by the teaching of the Essenes, as is growing more and more
evident with the availability of translations of the Dead Sea Scrolls. He
had a limited mind - as is true of every man. For example, like his fellow
rabbis he thought that David wrote all the Psalms and hence he quotes as of
Davidic authorship Psalm 110 (which in fact is of later date) in an argument
with the Pharisees. And he thought, in accord with the apocalyptic temper
of his day, that the end of the world is near.)
Như Kinh Thánh viết rõ, Giê-su, chịu ảnh hưởng
của Cựu Ước, tin những lời giải thích của những bậc thông thái tiên tri Do
Thái, rằng dân Do Thái tội lỗi nên bị Thiên Chúa của họ phạt, nên khuyên
mọi người hãy thống hối, đúng như nhận định của giáo sư đại học Hermann
Samuel Reimarus: "Tất cả những điều giảng đạo của Dê-su nằm trong hai câu
có ý nghĩa y hệt nhau: “Hãy thống hối, và tin vào Kinh Thánh”
hoặc, ở một nơi khác “Hãy thống hối, vì Nước Thiên Đàng sắp tới".
Nhưng quan niệm về nước Chúa hay nước thiên đàng của Giê-su lại không phù
hợp với quan niệm của người dân Do Thái, không đáp ứng được sự khao khát của
dân Do Thái là được giải phóng khỏi ách nô lệ của La Mã, cho nên dân Do Thái
mới không tin Giê-su là cứu tinh của dân tộc họ, khoan nói đến tin Giê-su là
đấng cứu thế.
۞
Tôi nghĩ rằng tôi đã viết quá nhiều xa chủ đề Tu
Viện Bát Nhã, nhưng lại không thể không viết vì tôi nghĩ rằng không ít thì
nhiều, một số những ý tưởng trong những lời giảng dạy giáo lý của Làng Mai
cũng ảnh hưởng đến những quan niệm của đại khối Phật Giáo ở Việt Nam đối với
Thiền sư Nhất Hạnh và Làng Mai. Chắc sẽ có người cho rằng tôi chống Thiền
sư Nhất Hạnh và Làng Mai, và vì tôi là một “Phật tử cực đoan” nên đã phê
bình tác phẩm của một Thiền sư đã nổi tiếng khắp thế giới. Không phải vậy.
Thật ra thì tôi chẳng lấy gì làm vui khi viết lên những lời phê bình trên.
Nhưng trong thời đại ngày nay, quốc gia đang tiến triển về mọi mặt, chúng ta
không có quyền giam giữ người dân trong những điều sai lầm mê hoặc đã không
còn giá trị. Để độc giả có thể thấy rõ vấn đề hơn, và để thấy rằng tôi
không có nhắm vào cá nhân Thầy Nhất Hạnh, tôi xin giới thiệu bài phê bình
của một người Mỹ một phần Chương 4 trong cuốn “Living Buddha, Living
Christ” của Thiền sư Nhất Hạnh. Tôi xin để bài này trong phần Phụ Lục.py
Phụ Lục:
CHAPTER FOUR: LIVING BUDDHA, LIVING CHRIST
A. His life is His Teaching
TNH: There is a science called Buddhology, the study of the life
of the Buddha. As a historical person, the Buddha was born in Kapilavastu,
near the border between India and Nepal, got married, had on child, left
home, practiced many kinds of meditation, became enlightened, and shared the
teaching until he died at the age of eighty. But there is also the Buddha
within ourselves who transcends space and time. This is the living Buddha,
the Buddha of the ultimate reality, the one who transcends all ideas and
notions and is available to us at any time. The living Buddha was not born
at Kapilavastu, nor did he pass away at Kushinagar.
Christology is the study of the life of Christ. When speaking about
Christ, we also have to know whether we mean the historical Jesus or the
living Jesus. The historical Jesus was born in Bethlehem, the son of a
carpenter, traveled far form his homeland, became a teacher, and was
crucified at the age of thirty-three. The living Jesus is the Son of God
who was resurrected and who continues to live. In Christianity, you
have to believe in the resurrection or you are not considered a Christian.
I am afraid this criterion may discourage some people from looking into the
life of Jesus. This is a pity, because we can appreciate Jesus Christ as
both a historical door and an ultimate door.
John: The fact that Christians believe that Jesus was the only
son of God, and was in fact God as part of the Trinity of Father, Son and
Holy Spirit is what makes Christianity exclusive to all the other religions
and prevents any acknowledgment that the other major religions of the world
have any validity.
Christians only comprise one sixth of the world population and yet
they believe that they have the only path to salvation. Christians on
every level listen to what others have to say about their religion but never
really listen because they believe they have the only true son of God.
This elitist viewpoint has been the cause of Christian genocide
throughout the world. When Christianity came into contact with the
indigenous people of America they had no reservations about destroying their
civilizations and their religions because all religions other than
Christianity were pagan. In fact, Christians believed it was their God
given mandate to convert or kill off all other religious ideas on the
planet.
For the Christian bureaucracy to acknowledge the validity of any other
religion would have the effect of destroying Christianity. Without the
literal Son of God, Christianity is just another religion among many.
TNH: When we look into and touch deeply the life and teaching of
Jesus, we can penetrate the reality of God. Love, understanding, courage
and acceptance are expressions of the life of Jesus.
John: Well this is what is talked about in Christianity but
Love means love other Christians, understanding means understanding God
through Christianity, and acceptance, true acceptance means the acceptance
of other Christians.
Jesus was somewhat of an elitist himself because he uttered such words
as "Do not give dogs what is holy', and "Do not cast your pearls before
swine." These are not loving, understanding or accepting statements.
They are statements that reflect an elitist attitude such that if you
are not with us, you are against us. And it is my belief that these
statements have been carried forward in the Christian doctrine and dogma
which is not only not understanding, but unsympathetic and outwardly
combative toward non-Christians.
It has always been interesting to me that one of the great Christian
hymns is "Onward Christian Soldiers, marching as to war." And so it has
been. Christianity marching on other cultures and religions as if going
to war.
And this attitude has not changed even today as evidenced by the
Pope of the Catholic Church's comments a few years ago that disparaged the
Buddhist religion. Christians talk about love, understanding,
forgiveness and acceptance but if you look carefully you will find that
these terms are really restricted to other Christians and not to all the
world.
TNH: God made himself known to us through Jesus Christ.
John: As he also made himself known through the Buddha,
Mohammed, Baha'U'llah, Bodhidarma, Krishna, Joseph Smith and Moses. And in
truth, as he makes himself known through every man woman and child.
TNH: With the Holy Spirit and the Kingdom of God within him, Jesus
touched the people of his time. He talked with prostitutes and tax
collectors, and had the courage to do whatever was needed to heal his
society.
John: Today Christians talk to sinners in order to bring them
to Jesus. Christians believe that all human beings need to be saved and
only by embracing Jesus as the literal Son of God and the savior of the
world can one go to heaven after death. Christians are not accepting of
sinners. They see them as people to be saved. And when it is determined
that a person cannot be saved then the Christians move on to the next
potential convert.
Jesus was not really trying to heal Jewish society but was trying to
attack the Jewish religious bureaucracy for its hypocrisy. And this is what
got him killed. The Buddha did the same thing as he rejected the Hindu
bureaucracy and its hypocrisy. It was not a matter of healing society but
was a matter of awakening people to their own inner spirituality which was
being manipulated by the religious bureaucracy.
TNH: As the child of Mary and Joseph, Jesus is the Son of Woman
and Man.
John: With all due respect, Brother Hanh, Joseph was Jesus's
father in name only. One of the foundations of Christianity is that Jesus
was the literal Son of God and the virgin Mary. Mary was a virgin when she
became pregnant with Jesus. This is again why Christians give only polite
lip service to other religions. Christians belief that Jesus is the only
literal Son of God. No other religion can make that claim and so all
other religions are inferior to Christianity; so believe Christians.
TNH: As someone animated by the energy of the Holy Spirit, he is
the Son of God.
John: No, Brother Hanh, Christians will tell you that he
was the literal Son of God. We are all animated by the Holy Spirit if you
believe that we are all children of God. But according to Christians there
has only been one literal Son of God and that was Jesus.
TNH: The fact that Jesus is both the Son of Man and the Son of God
is not difficult for Buddhist to accept.
John: Brother Hanh, I submit that it is impossible for any
Buddhist to accept that Jesus was the literal Son of God. If a Buddhist
were to accept this, that Buddhist would surely renounce Buddhism and
embrace Christianity.
TNH: We can see the nature of nonduality in God the Son and God
the Father, because without God the Father within him, the Son could never
be.
John: Brother Hanh, my truth is that we are all sons and
daughters of God as was Jesus. But from a scientific biological perspective
in this earthly reality, Christians belief that the biological father of
Jesus was the literal anthropomorphic one God himself. Son of God is not a
metaphor for Christians but a literal fact.
TNH: But in Christianity, Jesus is usually seen as the only Son of
God.
John: Jesus is not usually seen as the only Son of God but
always seen as the literal Son of God and if you do not believe this, then
you cannot be a Christian.
I notice Brother Hanh that you skip over this very controversial
issue. You skip over the one obstacle that forever prevents any true
common ground of understanding between Christians and Buddhists or any other
religion. Brother Hanh, your refuse to openly state that Buddhist
would never embrace Jesus as the literal biological Son of God.
TNH: I think it is important to look deeply into every act and
every teaching of Jesus during his lifetime, and to use this as a model for
our own practice.
John: Well again Brother Hanh, I do not think you want to
make this kind of statement. You see Jesus when he came to the Temple
in Jerusalem became highly upset at the commerce going on within the Temple.
He became so upset that the made a whip and began to turn over tables and
whip the vendors. I do not think that you advocate such extreme behavior.
Further you can see here the precedent that Jesus set for later
Christians to deal accordingly with non-Christians and their pagan
religions.
And you can also see why the Jewish bureaucracy was instrumental in
having Jesus crucified. Jesus was bad for business and if left unchecked
would have overturned the entire Jewish religious establishment. The way
of this world is the way of materialism and money. And when spiritual
philosophy interferes with making money then it is the spiritually that must
be subordinated. This is the reality that you sir do not understand
in your position as a monk.
I truly respect you Brother Hanh, but you are attempting to write
about Christianity which you do not fully understand and you do not bring to
your discussion a personal knowledge of how the vast majority of human
beings make a living in the world.
This is why I feel that I must continue to practice law. If I can
maintain my spirituality while working in the most combative profession on
the planet, then I can be an example to others. They cannot discount what I
have to say because I do live in the real world, in their world.
TNH: Jesus lived exactly as he taught, so studying the life of
Jesus is crucial to understanding his teaching.
John: No Brother Hanh, Jesus did not live exactly as he
taught. His admonition to turn the other cheek did not apply to his
actions in the Temple. There are many such examples in the gospels of
the New Testament in the Christian Bible.
For more examples go to
The Saying of Jesus
TNH: For me, the life of Jesus is His most important teaching,
more important that even faith in the resurrection or faith in eternity.
John: Well now Brother Hanh, I see how you diplomatically
get around the issues of Jesus as the literal Son of God, born of the virgin
Mary and dying for the sins of man, and rising from the dead; in essence the
guts of Christianity.
You sir, avoid this subject and look at Jesus outside this role of the
true Son of God. You avoid saying that you do not believe in Jesus as the
savior of the world. And I expect that you will now in the rest of your
book compare Jesus to Buddha without referring to the guts of the Christian
doctrine and dogma. I commend you the effort.
But in the end, when your book is finished, the question will still
be asked by your Christian audience, "Do you believe in Jesus as the literal
Son of God who died for your sins?" If you answer yes, then you are a
Christian and must remove your Buddhist robes. If you answer no, you will
be thanked for your interesting lecture.py
Những bài liên quan về vụ Bát Nhã có đăng trong sachhiem.net:
- Những bạo hành ở Tu viện Bát Nhã - xin giải thích giùm tôi (Nguyễn Đắc Xuân)
- Liêm Sĩ và Dũng Khí (Minh Mẫn)
- Vài Ý Kiến Xung Quanh Vụ Tu Viện Bát Nhã -1 (Trần Chung Ngọc)
- Sinh Hoạt Tâm Linh Tại Tu Viện Lộc Uyển (Đất Lành)
- Ai là người phải xin lỗi trong sự kiện Bát Nhã? (Chung Anh)
- Về vụ lộn xộn ở Bát Nhã (CPT)
- Thử tìm câu trả lời và giải pháp cho Làng Mai-Bát Nhã (Lý Kiến Trúc)
Phản ứng của một số người đối với vụ bạo hành ở Bát Nhã:
Thư Thỉnh Nguyện kính gửi nhà nước CHXHCN Việt Nam
Các bài thời sự cùng tác giả:
30 tháng 4: Nhìn Lại Cuộc Chiến Việt Nam (Trần Chung Ngọc)
Bang Giao "Bắc Kinh-Vatican" (?) Một Kinh Nghiệm Quý Giá Cho Việt Nam (Trần Chung Ngọc)
Chống Cộng Theo Gương David (Trần Chung Ngọc)
Chủ Nghĩa Khủng Bố và Diệt Chủng (Trần Chung Ngọc)
Cuốn Triumph Forsaken của Mark Moyar
Dư Luận Quần Chúng
Linh tinh Thời sự, Viết mà chơi
Ma Quân Quấy Nhiễu Sư Tăng - Nhưng Thất Bại (Trần Chung Ngọc)
MỘT CHUYẾN VỀ VIỆT NAM - 2
MỘT CHUYẾN VỀ VIỆT NAM - 3
MỘT CHUYẾN VỀ VIỆT NAM -1
Một trong ba thứ (Trần Chung Ngọc)
NED và Lê Quốc Quân
Nguyễn Cao Kỳ và Việt Weekly
NGÀY 30/4/1975 (Trần Chung Ngọc)
Ngáp Lớn Trong Tòa Mỹ Bị Tù - Còn Nguyễn Văn Lý ? (Trần Chung Ngọc)
Nhân chuyện ông Triết đi Mỹ
Nhân Quyền của Mỹ & Dự Luật H.R. 3096 (Trần Chung Ngọc)
Những Người Máy Chống Cộng (Trần Chung Ngọc)
Noam Chomsky & Robert McNamara (Trần Chung Ngọc)
Phiếm Luận Về "Cộng Sản" Hải Ngoại (Trần Chung Ngọc)
Phải Chăng Chiếc Khăn Quàng Là Giải Pháp Cho Tòa Khâm Sứ? (Trần Chung Ngọc)
Thắc Mắc Cần Được Giải Đáp: 3. Về Chiến Tranh Việt Nam (Trần Chung Ngọc)
Thắc Mắc Cần Được Giải Đáp: 3. Về Lá Cờ Vàng (Trần Chung Ngọc)
Thử Phân Tích Vài Đoạn Trong Bài Diễn Văn Nhậm Chức (Trần Chung Ngọc)
Tâm Thư Gửi Những Ai Quan Tâm (Trần Chung Ngọc)
Tại Sao Lại Việt Nam ? (Trần Chung Ngọc)
Tản Mạn về Chống Cộng (Trần Chung Ngọc)
Tản Mạn Xung Quanh Cuộc Chiến Ở Việt Nam (Trần Chung Ngọc)
VAALA - Nghệ Thuật Lên Tiếng [Nhưng Bị Bóp Nghẹt] (Trần Chung Ngọc)
Viết Mà Chơi - Ai Chống Cộng Và Ai Không Chống ? (Trần Chung Ngọc)
Vài Nhận Định Khi Đọc Lời Phát Biểu Của Ông Ngô Quang Kiệt (Trần Chung Ngọc)
Vài Ý Kiến Về Vấn Đề Bang Giao Với Vatican (Trần Chung Ngọc)
Vấn Đề Nhân Quyền Trước Luật Pháp Quốc Gia (Phúc Lâm sưu tầm)
ĐÒI ĐẤT ! ĐẤT NÀO ? ĐẤT CỦA AI ? (Trần Chung Ngọc)
Đôi Hàng Về Chuyện Cờ Vàng Cờ Đỏ (Trần Chung Ngọc)
Đôi Điều Chung Quanh Cuốn Le Livre Noir (Trần Chung Ngọc)
ĐĐ Thích Nhật Từ và Xóm Đạo (Trần Chung Ngọc)
“Religulous” Điểm Phim Cuối Tuần (Trần Chung Ngọc)
“Sư Chính Trị” của MARK MOYAR