 |
22 tháng 10, 2009 |
LTS: Thời gian những ngày cuối tháng 9 đến nay, tin tức về những
chuyện đau lòng xảy ra ở Tu viện Bát Nhã và những ý kiến, những xúc cảm
về một vài khía cạnh của vấn đề đã được các báo đài loan tải khắp nơi.
Có nhiều câu hỏi đã được đặt ra hơn là câu trả lời. Dường như
tất cả các bài viết hoặc là tường thuật lại những việc bất bình, những
chuyện thiếu văn hóa, thiếu nhân tâm, xảy ra ở một nơi lẽ ra tiêu biểu
cho nhân từ, đạo đức, hoặc là đặt những câu hỏi (ngầm tự trả lời) đều chỉ nhắm vào
phía chính quyền và mong có một giải đáp thỏa đáng.
Quan sát các phản ứng của dư luận, có thể nói rằng kẻ đắc thắng
trong việc này là bên phía “chống cộng cho Chúa”. Đó là cơ hội tốt để có
cơ hội “liên tôn”, và "đoàn kết" mạnh hơn (để làm gì thì ai cũng đoán
biết), và CG "bất chiến tự nhiên thành," ít nhất là về mặt tâm lý.
Tuy rằng sự việc chưa đến nỗi xảy ra án mạng, nhưng những hình ảnh tồi tệ xảy
ra ở một nơi mà lẽ ra "hiền như Bụt" đã làm cho ai cũng nghĩ rằng sự can
thiệp của chính quyền cần phải xảy ra ngay lập tức . Ở những nước tuyệt đối tôn trọng tự do tôn giáo như ở Mỹ, có lúc chính quyền cũng phải dùng đến xe tăng để can thiệp khi có việc liên hệ đến án mạng tập thể, như việc chính quyền Mỹ đã dùng đến xe tăng dẹp tan giáo phái của David Koresh ở
Waco, Texas.
Có hai nơi mà người ta trông đợi một phản ứng đối với vấn đề ở Bát Nhã từ một năm qua là Thiền Sư Nhất Hạnh, và chính quyền.
Thiền sư thì ngồi yên như núi, khá lâu. Chính quyền đổ cho là nội bộ của Phật giáo, nghe cũng không xuôi lắm. Tuy nhiên, việc chính quyền không can thiệp đã làm cho người ta nghi ngờ hoặc quả quyết một cách bất lợi. Tất cả
những ý nghĩ này lập lại dư thừa vì có quá nhiều người đã nói bằng nhiều cách rồi.
Nhưng chẳng lẽ cứ tiếp tục đào bới
vào chỗ “không lối thoát” đó mãi thì làm sao tìm được quang lộ. Ông bà ta thường nói “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”, người
đạo Chúa cũng nói “lỗi tại tôi” (nhưng có thực hành hay không là chuyện khác.) Vả chăng, đi tìm những điều bí ẩn đằng sau
những việc khó hiểu là một công việc rất cần thiết.
Đó là lý do Giáo sư Trần
Chung Ngọc ra sức thu thập dữ kiện trong thời gian qua để nghiên cứu tìm
hiểu vấn đề. Chẳng những ông đọc hết các tin tức liên quan hoặc ảnh
hưởng xa gần đến sự việc, mà lại còn tham khảo cả những “phần mềm” vô
ảnh vô tướng nào đã làm cho vấn đề trở nên tắc nghẽn như thế.
Trên đời này, cái khó là tự
nhận lỗi mình. Bài nghiên cứu thẳng thắn sau đây của Giáo sư Trần Chung
Ngọc chắc chắn sẽ làm một số không ít người không vui. Nhưng thiết nghĩ,
đức Phật là gương mẫu cho sự khiêm nhường, thì những người tự nhận là
môn đệ của Ngài, là trưởng tử Như Lai,... chẳng lẽ không thể khiêm
nhường một chút để phân giải thiệt hơn, và nhận chân khuyết điểm hay
sao? Trong việc đi tìm nguyên nhân của bi kịch Bát Nhã, Giáo sư Trần
Chung Ngọc đã thấy được một số điều thú vị. Sachhiem.net cảm thấy rất
cần thiết để tường trình cùng bạn đọc những khám phá này. (SH)
1 2
Vài Lời Nói Đầu:
Vụ Tu Viện Bát Nhã xảy ra không chỉ mới đây mà đã
âm ỉ từ hơn một năm nay, lên tới cao điểm vào ngày 27 tháng 9 năm 2009, ngày
các Tăng Ni tu “Pháp môn Làng Mai” ở Tu Viện bị cưỡng bách rời khỏi tu
viện. Vì ở Mỹ, không biết rõ nội vụ, tôi không có cách nào khác là tìm hiểu
vụ việc qua những thông tin trên Internet. Lẽ dĩ nhiên, những thông tin
trên Internet không đầy đủ vì có những uẩn khúc trong nội vụ bất thành văn.
Sau khi thu thập khá nhiều thông tin, khoảng trên 100 trang giấy khổ 8.5” x
11”, và sau khi tổng hợp, phân tích những thông tin, tôi thấy vụ Tu Viện Bát
Nhã là một biến cố không đơn giản như chúng ta tưởng. Đúng như phóng viên
của hãng truyền thông Reuters ở Việt Nam, John Ruwitch, đã viết ngày 5 tháng
10, 2009, trong bài:
Vietnam’s not-so-simple eviction of Buddhist monks and nuns (https://blogs.reuters.com/faithworld/2009/10/05/vietnams-not-so-simple-eviction-of-buddhist-monks-and-nuns/):
Cách đây khoảng 1 tuần một đám đông hỗn độn
được hậu thuẫn của chính quyền đã đuổi gần 400 tăng ni ra khỏi một tu viện ở
miền Trung Việt Nam, chấm dứt một cuộc dậm chân tại chỗ khó chịu với
nhiều nguyên nhân phức tạp. Sự việc rắc rối trên đã đặt nghi vấn về sự
cam kết của Đảng đương quyền Cộng sản về tiến bộ về mặt tự do tôn giáo,
nhưng diễn biến ở Tu viện Bát Nhã phức tạp hơn nhiều, không đơn giản chỉ là
chuyện một “nhà nước độc tài đàn áp những người tu theo Phật Giáo”.
[A government-backed mob in
Vietnamabout aweek ago
booted nearly
400 Buddhist monks and nuns out of a monastery in the centre of the
country, bringing an apparent end to an uglystandoffwith complicated
origins. The incident has raised questions about the ruling Communist
Party’s commitment to progress on religious freedom, but the Bat Nha
Monastery narrative is much more complex thansimply an “authoritarian
government cracks down on the faithful” story.]
Tôi cũng đọc tác giả Minh Tân từ
www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/vande/BatNha_ cauhoi.htm (https://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/vande/BatNha_%20cauhoi.htm) trong bài “Vụ
Tu viện Bát Nhã: Những câu hỏi không biết trả lời sao!” trong đó tác giả
viết:
Xung quanh câu chuyện Tăng Ni tu tập theo pháp môn Làng Mai của Hòa
thượng Thích Nhất Hạnh có được tiếp tục tu học tại Tu viện Bát Nhã hay không
đã đặt ra hàng loạt câu hỏi mà một người tu Phật chân chính, hay một
người Việt có văn hóa, có lương tri, có tình người không biết trả lời sao
đây.
và đặt 5 câu hỏi, câu hỏi thứ 5 như sau:
5. Nếu đã “hết duyên” ở Bát Nhã, các Tăng Ni trẻ tu theo pháp
môn Làng Mai có nhất thiết cứ phải bám trụ tới cùng không? Trách nhiệm
của Làng Mai đến đâu trong việc “hết duyên” đó, nhất là sau những chuyện
không được khế cơ lắm như những “Lá thư Làng Mai”, “Giáo hội Làng Mai tại
VN”…
Tôi nghĩ rằng, chúng ta cũng nên tìm hiểu vụ Tu
Viện Bát Nhã phức tạp như thế nào và Trách nhiệm của Làng Mai đến đâu
trong việc “hết duyên” đó, và tại sao Minh Tân lại cho những
“Lá thư Làng Mai”, “Giáo hội Làng Mai tại VN là không được khế cơ.
Khế cơ, theo định nghĩa của Tu Viện Lộc Uyển là:
Khế Cơ:
Pháp mà ta nói, để có công năng phát khởi trí tuệ và từ bi, phải đáp ứng nhu
cầu và hoàn cảnh của con người và xã hội. Lời pháp ấy phải phù hợp với căn
bản đạo Bụt, không chống lại với giáo lý vô thường, vô ngã và niết bàn, đồng
thời phải thực dụng, phù hợp với hoàn cảnh tâm lý và xã hội. Có tám vạn bốn
nghìn pháp môn khác nhau để đi vào đạo Bụt, nhưng để đạo Bụt còn tiếp tục
như một nguồn trí tuệ linh động, ta còn phải có thêm nhiều pháp môn nữa.
[https://tuvienlocuyen.org/sinh-hoat/sinh-hoat-tu-vien-loc-uyen/cuoi-tuan-cua-tien-hien-khe-co.ics]
Còn trang nhà
https://www.daophat.com/ giảng: “Khế Cơ là giáo pháp hợp với mọi căn
cơ, trình độ của mỗi người trong mọi thời đại.”
Theo tôi hiểu thì Khế Cơ là tùy duyên mà giảng Giáo
Pháp hợp với căn cơ, trình độ của thính chúng trong những trường hợp khác
nhau nhưng không ra ngoài Khế Lý, nghĩa là Chân Giáo Pháp của Đức Phật.
Vụ Tu Viện Bát Nhã có ảnh hưởng đến mọi mặt của Việt
Nam: chính trị, tôn giáo, xã hội v.v…, do đó một Phật tử đã có đôi chút hiểu
biết về Phật Giáo như tôi, và vẫn nặng lòng với tương lai quê hương đất nước
nói chung, Phật giáo nói riêng, thì không thể không quan tâm và tìm hiểu.
Vậy thì chúng ta hãy bắt tay vào việc phân tích vụ việc ở Tu Viện Bát Nhã.
¨ ⊙ ¨
I. Vấn Đề Các Danh Từ
Bát Nhã, tiếng Sanskrit là Prajñā,
tiếng Pali là Paññā, thường rất khó dịch ra tiếng Việt sao cho gọn ghẽ.
Danh từ thông dụng để dịch Prajñā là “Trí Tuệ Bát Nhã”, nghĩa là, theo Phật
Giáo, trí tuệ thực chứng trực tiếp Tứ Diệu Đế, cùng Lý Vô Thường, Lý Duyên
Khởi, Lý Vô Ngã, và Tính Không của Vạn Pháp. Và như vậy, “Trí Tuệ Bát Nhã”
sẽ giúp cho hành giả dập tắt được những phiền não để đi đến giải thoát.
Pháp môn là phương pháp tu theo Phật Pháp để mở cánh
cửa giải thoát. Đức Phật đã chẳng nói: “Cũng như biển cả chỉ có một vị,
vị mặn, đạo của Ta cũng chỉ có một vị, vị giải thoát”. Nhưng Đức Phật
biết rõ là chúng sinh thì vô lượng nhưng căn trí thì bất đồng, cho nên giáo
Pháp của Người rất rộng, từ thấp đến cao, từ rõ ràng đơn giản đến huyền
nghĩa v…v…để cho mọi người ở mọi trình độ có thể tu tập theo một Pháp Môn
hợp với căn trí của mình. Vì vậy Phật Giáo có nhiều Tông Phái chính, tu
theo những giáo pháp khác nhau của Đức Phật. Vào Internet tìm hiểu về Pháp
Môn, tôi thấy trong
https://www.lotuspro.net/chonphap.htm có bài “Chọn Pháp Môn Trong
Thời Đại Văn Minh” trong đó có đoạn sau đây:
Xem lại pháp môn tu của Phật, được biết đến
hiện nay gồm có mười pháp môn tu theo mười tông phái: 1) Câu Xá Tông, 2)
Thành Thật Tông, 3) Tam Luận Tông còn gọi là Tánh Không Tông,4) Duy Thức
Tông còn gọi là Pháp Tướng Tông, 5) Pháp Hoa Tông còn gọi là Thiên Thai Tông
6) Hoa Nghiêm Tông còn gọi là Hiền Thủ Tông 7) Luật Tông, 8) Thiền Tông, 9)
Tịnh Độ Tông 10) Mật Tông còn gọi là Chơn Ngôn Tông.
Các pháp môn của những tông này hẳn nhiên là
những con đường chắc chắn tiến tới giải thoát.
Tăng Ni tu ở Tu Viện Bát Nhã, lẽ dĩ nhiên, là
hi vọng có thể đạt được “Trí Tuệ Bát Nhã” và Pháp Môn mà quý vị Tăng Ni này
tu theo được biết là “Pháp Môn Làng Mai”. Trước hết, tôi nghĩ “Pháp môn
Làng Mai” là Pháp môn mà chúng ta cần tìm hiểu rõ ràng trước khi bàn đến
chuyện ở Tu Viện Bát Nhã. Nhưng tôi đã phải bỏ cuộc vì tìm kiếm để biết
“Pháp môn Làng Mai” là Pháp môn như thế nào mà không thành công, vì không
thấy ở đâu cho tôi thấy một định nghĩa rõ rệt thế nào là “Pháp môn Làng
Mai”. Vào trang nhà Phương Bối: Trang nhà các tăng thân tu
học theo
pháp môn Làng Mai tại Việt Nam, có một nối kết [link]
vào “Pháp Môn Làng Mai” như trên, nhưng click vào đó, hi vọng có thể có một
quan niệm rõ rệt về “Pháp môn Làng Mai”, thì không thấy hiện ra gì liên hệ
đến Pháp Môn Làng Mai cả như mình mong muốn. Nhưng theo ý kiến của Tu Viện
Lộc Uyển trong định nghĩa về “Khế Cơ” ở trên: “Có tám
vạn bốn nghìn pháp môn khác nhau để đi vào đạo Bụt, nhưng để đạo Bụt còn
tiếp tục như một nguồn trí tuệ linh động, ta còn phải có thêm nhiều pháp môn
nữa” thì chúng ta có thể hiểu “Pháp Môn Làng Mai” là Pháp Môn thứ “Tám
vạn bốn nghìn lẻ một”
Quả thật tôi cảm thấy cụm từ “Pháp môn
Làng Mai” đối với tôi nó thế nào ý. Bởi vì thường thường, kèm theo Pháp
Môn là một phương pháp tu tập, thí dụ như Pháp Môn Niệm Phật, Pháp Môn Lạy
Phật, Pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông, Pháp môn Thiền quán, Pháp môn Bất Nhị
v..v…. Nhưng “Làng Mai” là một địa danh cho nên cụm từ “Pháp môn
Làng Mai” nghe thật không ổn. Đúng ra phải là “Pháp Môn theo Tông Làng Mai”
hay “Pháp Môn theo Tông Tiếp Hiện”, nghĩa là Tông thứ 11 ngoài 10 Tông
trên. Lẽ dĩ nhiên tôi hiểu “Pháp môn Làng Mai” là những phương pháp tu tập
rao giảng bởi tập thể Tăng Ni ở Làng Mai. Tuy nhiên hiểu là một chuyện mà
chính danh trên mặt văn tự lại là chuyện khác.
Tôi đọc trên trang nhà:
https://www.viengiac.de/vn/index.php?option=com_content&task=view&id=259&Itemid=64
thấy bài “Các pháp môn là phương tiện” của Thích
Kiến Tánh, ngày 04, tháng 01, năm 2007, trong đó có vài đoạn hay hay:
Như chúng ta đã
biết các pháp môn Đức Thế Tôn giả lập để đối trị tâm bịnh chúng sanh chỉ là
phương tiện. Bởi thế chư Phật và chư vị Tổ Sư đều tu Thiền, Tịnh, Mật... mà
chứng ngộ, mà không bao giờ chấp pháp môn của mình tu, hoặc tự xưng mình
ngộ. ..
Trong thời đại mới trăm hoa đua nở, đã có nhiều
tông phái xuất hiện khá hấp dẫn tại Việt Nam. Từ đó đã sanh ra sự tranh luận
đúng sai. Vì ai cũng muốn mình trở thành giáo chủ, lãnh tụ ở một chân trời
ngất ngưởng, để chúng sanh suy tôn, sùng tín, trở thành kinh tế thị trường
tôn giáo nhiều màu sắc.
Tôi nghĩ rằng “Pháp môn Làng Mai”
phải phản ánh giáo pháp của Làng Mai, nghĩa là những điều mà Làng Mai giảng
dạy. Theo tôi biết, Thầy Nhất Hạnh thường dạy về những phương pháp tu tập
như “Tỉnh Thức”, “Chánh Niệm”, “Hiểu và Thương”, “Thở vào, thở ra” v… v…
nhưng những phương pháp này là những phương pháp tu tập chung cho Phật Giáo,
đâu có phải là của riêng của Làng Mai. Vậy giáo pháp của Làng Mai phải có
gì đặc biệt lắm mới gọi là “Pháp môn Làng Mai”. Thật là đáng tiếc, tôi chỉ
đọc sách của Thiền Sư Nhất Hạnh chứ chưa có cơ duyên để nghe trực tiếp giáo
pháp của Làng Mai do Thiền Sư Nhất Hạnh hay các Giáo Thọ của Làng Mai giảng
dạy. Nhưng tôi tin nội dung những cuốn sách của Thiền Sư Nhất Hạnh và
những hoạt động tôn giáo của Làng Mai và các cơ sở tôn giáo ngoại vi của
Làng Mai chắc chắn chứa đựng những giáo pháp của Làng Mai. Tôi sẽ đi
sâu vào vấn đề này trong phần cuối.
Nhưng tại sao lại xảy ra vụ việc ở Tu Viện Bát
Nhã, nơi mà các Tăng Ni ở Tu Viện Bát Nhã tu tập “Tỉnh thức”, “Chánh Niệm”,
“Hiểu và Thương”?
Sau khi đọc kỹ những tài liệu của Làng Mai, của
Phương Bối, và của một số diễn đàn khác, tôi thấy rằng các Tăng Ni trẻ,
tuổi từ 15 đến 35, tu tập “Pháp môn Làng Mai” ở Tu Viện Bát Nhã là
nạn nhân của cả hai phía:
1. Những Tăng Ni trẻ này, rất hấp dẫn trước những
phương pháp tu tập của Thầy Nhất Hạnh cho nên đã phát triển Tâm Đạo và đến
tu ở Tu Viện Bát Nhã. Ai cũng biết Thầy Nhất Hạnh có sức thu hút mạnh qua
những phương pháp giảng đạo đơn giản, dễ hiểu và hợp với thời đại. Nhưng có
thể họ không biết rằng, chính một số hành động, ý tưởng ngoài “Phật pháp”
của Làng Mai từ những năm trước đã là một trong những nguyên nhân đưa
đến vụ Tu Viện Bát Nhã.
Họ, các Tăng Ni trẻ, ở trong tình trạng “quít
làm cam chịu” mà không tự biết vì chỉ biết có một điều: hết lòng tu
tập. Họ thực lòng tu tập, không nghĩ đến bối cảnh xã hội, chính trị trong
một đất nước mà chính quyền hiện nay rất nhạy cảm về chính trị, về diễn biến
hòa bình, và trước những sức ép về nhân quyền và dân chủ.
2. Họ là nạn nhân của một chính sách luôn luôn
nghi ngờ, của chính quyền Trung Ương, Ban Tôn giáo Chính Phủ cũng như
UBND tỉnh Lâm Đồng, và là nạn nhân của một số viên chức chính quyền địa
phương và của thầy Đức Nghi, bổn sư của họ và một số thầy Đồng, đệ tử của
thầy Đức Nghi, và những người không phải là Phật tử, đạo đức thấp kém, không
có mấy hiểu biết về truyền thống văn hóa Việt Nam, những người đã được thầy
Đồng Hạnh, chủ hộ chùa Bát Nhã sách động đến phá phách các công trình của
Thiền sư Nhất Hạnh xây trong Tu Viện Bát Nhã, bạo hành đối với các Tăng Ni.
Dù sao thì vụ Tu Viện Bát Nhã cũng đã làm hại
không ít đến uy tín của chính quyền và Ban Trị Sự THPG Lâm Đồng nói riêng,
Chính quyền Trung Ương và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam nói chung. Đọc những
ý kiến trên Internet về vụ Tu Viện Bát Nhã tôi thấy những ý kiến hoặc là thế
này hoặc là thế kia, ít có một phân tích tổng hợp để tìm ra những nguyên
nhân. Những luận cứ của Lữ Giang trong bài “Một Cuộc Đấu Trí” và “Việc đến
đã đến” và của Đỗ Thái Nhiên trong bài “Bi Kịch Bát Nhã Làng Mai” chẳng qua
chỉ là những suy diễn qua những hoang tưởng của chính mình, phản ánh những
thành kiến của họ đối với chính quyền, và đối với Thiền sư Nhất Hạnh.
II. Nội Vụ Bát Nhã:
Bây giờ chúng ta hãy đi vào việc phân tích vụ việc
Tu Viện Bát Nhã. Trước hết là về Tu Viện Bát Nhã. Theo trang nhà
Phuongboi.org, Trang nhà các tăng thân tu học theo
pháp môn Làng Mai tại Việt Nam, trong bài
“Vài Nét Về Tu Viện Bát Nhã” thì:
Tu viện Bát Nhã (xã Damb'ri, thị xã Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng) được
thành lập năm 1995 bởi Thượng tọa Thích Đức Nghi, niên trưởng của Tổ đình An
Lạc (TX Bảo Lộc)… Lúc mới khởi đầu, chính điện của tu viện là một ngôi nhà
nhỏ, sau đó dùng làm nhà trẻ và trường mẫu giáo cho con em các đồng bào
nghèo trong vùng....
Tháng 2 năm 2005 - trong chuyến đi Việt Nam đầu tiên của Thiền sư
Thích Nhất Hạnh - Thượng tọa Thích Đức Nghi đã cúng dường Tu viện Bát Nhã
cho Thiền sư Nhất Hạnh và tăng thân Làng Mai để xây dựng Bát Nhã thành một
tăng thân và một trung tâm tu học theo pháp môn Làng Mai tại Việt Nam…
Từ năm 2005, Phật tử trong và ngoài nước đã ủng hộ tài sức để xây
dựng thêm cơ sở mới và sửa chữa các cơ sở cũ tại Tu viện Bát Nhã để làm
phương tiện sinh hoạt và tu học cho tăng thân. Hiện tại có khoảng 400 thầy,
sư cô và cư sĩ đang tu học tại đây.
Có một điều không ổn trong đoạn trên. Đó là:
Thượng tọa Thích Đức Nghi đã cúng dường Tu viện Bát Nhã cho Thiền sư Nhất
Hạnh và tăng thân Làng Mai. Thường thì chúng ta biết trong Phật
Giáo có nghi thức “Cúng Dường Tam Bảo”: Cúng dường Phật Bảo, Cúng dường Pháp
Bảo, và Cúng dường Tăng Bảo. Thánh Tăng ngày xưa chỉ lo tu học kinh kệ
trong Chùa, do vậy người Phật tử thường cúng dường chư Tăng gồm có: Y phục,
thức ăn, giường và vật trải giường nằm, thuốc thang. Bốn thứ đó gọi là Tứ Sự
Cúng Dường. Ngày nay Phật tử có thể dâng cúng chư Tăng, Ni những phương tiện
để phục vụ cho sự hành đạo được dễ dàng hơn. Nếu sự cúng dường không nằm
trong những lãnh vực này thì đó là hiến tặng hay hiến cúng. Tu viện Bát Nhã
nằm trên đất của Thị Xã Lâm Đồng và nằm trong luật đất đai của Nhà Nước.
Mặt khác, theo truyền thống Việt Nam thì “Chùa Làng, Phong cảnh Bụt”, Chùa
là của làng, của dân, không phải là của riêng của vị trụ trì, dù vị này đã
có công sáng lập. Lý do rất đơn giản, vị trụ trì có thể nay còn mai
không còn nữa, nhưng Chùa thì vẫn còn đó để cho dân chúng trong vùng, từ đời
này đến đời khác. Hơn nữa, chuyện hiến cúng một Tu Viện gồm tài sản và
đất đai cho một cá nhân hay một tổ chức ở nước ngoài là không thể nào hợp lý.
Gần đây, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phát biều:
Không có tài sản đất đai nào của Vatican ở Việt Nam. Làng Mai và
Tăng Thân Làng Mai nhận sự cúng dường của TT Đức Nghi, cho đó là tài sản của
Thiền sư và Tăng thân Làng Mai, do đó đã bỏ rất nhiều tịnh tài vào việc xây
dựng Tu Viện Bát Nhã, nhưng vẫn để TT Đức Nghi là Viện chủ và Trụ trì là
thầy Thích Đồng Hạnh, với tất cả quyền hạn của Viện Chủ và Trụ trì, và Làng
Mai chỉ lo về việc tu học.
Mâu thuẫn chính của nội bộ Bát Nhã là thầy Đức
Nghi không có quyền hạn như Viện chủ ở Việt Nam, quyết định tất cả. Theo
cách của Làng Mai, tập thể giáo thọ quyết định. Đây là sự mâu thuẫn về cách
quản lý và quyền lực quản lý. Hai cơ chế của thầy Nhất Hạnh và thầy Đức Nghi
hoàn toàn khác nhau nên dẫn đến mâu thuẫn.
Cũng theo trang nhà Phương Bối thì:
Từ tháng 5 năm 2005 cho đến tháng 6 năm 2008, TT Đức Nghi đã mời và
bảo lãnh các thầy sư cô giáo thọ đã từng tu tập tại Làng Mai (trong đó
có các vị gốc Việt mang quốc tịch nước ngoài) về Bát Nhã để chia sẻ pháp
môn và đào tạo các vị xuất gia trẻ tu học theo mô thức Làng Mai. Thượng Tọa
cũng đề cử một đệ tử là thầy Thích Đồng Hạnh làm phụ tá để sinh hoạt và tu
học chung với tăng thân xóm Rừng Phương Bối và để giúp về việc hành chánh…
Tháng 6 năm 2008, TT Đức Nghi đổi ý, không bảo lãnh các thầy
sư cô giáo thọ có quốc tịch nước ngoài và không muốn Tu viện Bát Nhã tu tập
theo pháp môn Làng Mai nữa. Thượng Tọa muốn tăng thân tu học theo pháp môn
Làng Mai phải rời Bát Nhã.
Từ tháng 6 năm 2008 cho đến nay (tháng 6 năm 2009), tăng thân
ba xóm Rừng Phương Bối, Bếp Lửa Hồng và Mây Đầu Núi vẫn tiếp tục tu học tại
Tu viện Bát Nhã.
Tại sao Thượng Tọa Đức Nghi lại đổi ý, và tại
sao các Tăng Ni trẻ tu tại Tu Viện Bát Nhã lại không tôn trọng ý muốn của
Viện Chủ Đức Nghi mà cứ ở trong đó cả năm sau. Về chuyện TT Đức Nghi đổi ý,
chúng ta có thể đọc một văn kiện của chính TT Đức Nghi:
Ngày 1 tháng 9 năm 2008, Thượng tọa Đức Nghi có
gửi một Bản Kiến Nghị tới Hội đồng Trị sự Giáo Hội Phật Giáo VN, Ban Trị sự
Tỉnh Hội Phật Giáo Lâm Đồng và ban Đại diện Phật Giáo Thị xã Bào Lộc, và
cũng gửi cho cả Làng Mai, vì Thiền sư Nhất Hạnh có viết thư hồi đáp, trong
đó vài đoạn như sau có thể cho chúng ta thấy phần nào lý do đổi ý của TT Đức
Nghi:
“ Cách đây trên 3 năm, con đã nhiệt tình bảo lãnh để Làng Mai tu tập
tại Tu viện Bát Nhã. Được Giáo hội Trung ương cho phép, văn thư số 212
ngày 22-5-2006, Ban Tôn Giáo Chính phủ cho phép, văn thư số 525 ngày
7-7-2006. Ban đầu con cứ tưởng Làng Mai tôn trọng Giáo
Hội Phật Giáo VN và Nghị định 22 của Ban Tôn giáo Chính Phủ, cứ tưởng
tôn trọng lời đề nghị của con tại Làng Mai 2006, lời đề nghị của con tại
chùa Từ Hiếu năm 2007, lời đề nghị của con tại Tu viện Bát Nhã năm 2008.
Cả 3 lần trực tiếp gặp Sư Ông Làng Mai để nói
lên thực trạng của Tu viện Bát Nhã: Giáo Hội Làng mai chưa được phép sinh
hoạt tại Việt Nam, con chỉ đứng đơn xin tu theo pháp môn Làng Mai tại Tu
viện Bát Nhã. Nên mọi việc xẩy ra con chịu trách nhiệm trước Giáo Hội và
Nhà Nước. Con muốn tương lai Tu viện Bát Nhã sẽ lên tới 1.000 tu sinh,
nhưng những lời đề nghị của con lên Sư Ông và quý vị giáo thọ không ai lắng
nghe cả. Đã 3 năm qua, con đã hơn 10 lần bị kiểm điểm vì vi phạm Hiến
chương Giáo Hội và Nghị định 22 của Ban Tôn Giáo Chính Phủ.
…Kề từ hôm nay, ngày 01 tháng 09 năm 2008, con
xin rút lại tất cả những văn thư xin phép cho Làng Mai tu tập. Con không
bảo lãnh, không chịu trách nhiệm mọi việc sẽ xẩy ra của Làng Mai tại Tu viện
Bát Nhã trong thời gian tới. ”
Phải chăng đây chỉ là tất cả những lý do TT Đức Nghị đưa ra hay còn
những lý do nào khác, như “kinh tế” chẳng hạn, thí dụ như, theo một nguồn
tin, Thầy Đức Nghi muốn biến Tu Viện Bát Nhã thành một trung tâm du lịch
nhưng Thầy Nhất Hạnh không đồng ý, hoặc có những mâu thuẫn không giải quyết
được vì có sự bất đồng ý kiến giữa Làng Mai và TT Đức Nghi cùng chính quyền
địa phương, hay còn những lý do chính trị nữa.
Còn tại sao các Tăng Ni tu tập theo Pháp Môn Làng Mai lại cứ ở lại Tu
Viện cả năm sau. Phải chăng các Tăng Ni trẻ cho rằng, Tu Viện Bát Nhã là
tài sản của Làng Mai, và họ tu theo “Pháp môn Làng Mai” thì tất nhiên tu ở
đó không có vấn đề, mà quên rằng TT Đức Nghi là vị Viện chủ Tu Viện với đầy
đủ quyền hạn của một vị Viện chủ, dù Tu Viện Bát Nhã phần lớn là do Làng Mai
ở Pháp xây dựng lên. Hay phải chăng các Tăng Ni này đã tuân theo một huấn
thị từ Làng Mai: Cứ “Ngồi Yên Như Núi”? “Bát phong xuy bất động”.
Những điều trên có phải đã là những yếu tố đã góp phần tạo thành vụ
Tu Viện Bát Nhã hay không? Vì vậy Minh Tân mới đặt câu hỏi:
Nếu đã “hết duyên” ở Bát Nhã, các Tăng Ni trẻ tu
theo pháp môn Làng Mai có nhất thiết cứ phải bám trụ tới cùng không?
Những sự cố về sau xảy ra ở Tu Viện Bát Nhã khiến
cho những người có lòng với quê hương, với Phật Giáo, không khỏi đau lòng,
vì chúng có ảnh hưởng tác hại đến mọi phía, từ Làng Mai cho đến Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam cũng như chính quyền, mà nguồn gốc chính là vô minh.
Tình trạng dậm chân tại chỗ [standoff] ở Tu Viện chưa được giải quyết ổn
thỏa thì một sự cố khác lại xảy ra làm tăng thêm sự căng thẳng rắc rối giữa
chính quyền và Làng Mai về vụ Tu Viện Bát Nhã. Đó là nội dung bức thư của
Giáo sư Nguyễn Lang gửi Chủ Tịch Nước nguyên văn như sau:
A. Thư của Giáo sư Nguyễn Lang gửi Chủ
tịch nước Nguyễn Minh Triết
New York ngày 30 tháng 9, 2009
Kính thưa Chủ tịch,Tôi không biết hiện giờ Chủ tịch đang ở đâu, nên nhờ mạng Phù
sa gửi một bản thư này đến Chủ tịch. Đây là một tiếng chuông chánh
niệm. Cửa Phật là cửa rộng, những lúc hiểm nguy ai cũng có quyền tới nương
nhờ. Ngày xưa trong Cách mạng chống Pháp, hàng ngàn chiến sĩ cách mạng đã
từng tới ẩn náu tại chùa và các thầy các sư cô luôn luôn tìm mọi cách để đùm
bọc và che chở. Bây giờ đây cảnh sát và công an của Chủ tịch đã đánh bật
400 thầy và sư cô ra khỏi chùa (Tu Viện Bát Nhã ở Bảo Lộc) và các vị ấy
đã tìm tới tỵ nạn nơi một chùa khác (chùa Phước Huệ ở Bảo Lộc). Hiện thời
cảnh sát và công an của Chủ Tịch lại đang vây quanh chùa Phước Huệ buộc
các vị xuất gia ấy phải ra khỏi chùa trong đêm nay. Các vị cảnh sát và
công an này chắc hẳn không phải là con cháu của Cách Mạng. Tôi xin Chủ
Tịch kịp thời ngăn chận hành động trái chống luân thường đạo lý này.
Trân trọng cảm ơn Chủ Tịch.
Nguyễn Lang
Tác giả Việt Nam Phật Giáo Sử Luận
Tôi thấy có 3 vấn đề khá nghiêm trọng về bức thư Giáo sư Nguyễn Lang
gửi cho Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết.
¨ Thứ nhất, gửi thư cho Chủ Tịch Nước có cần thiết biết là Chủ Tịch đang
ở đâu không. Nếu gửi đến Phủ Chủ Tịch thì tự động nhân viên phụ trách trong
Phủ sẽ đọc trước và đệ trình Chủ Tịch sau, khi nào có thể. Lý do là vì
không biết hiện giờ Chủ tịch đang ở đâu [irrelevant], nên nhờ mạng
Phù sa gửi một bản thư này đến Chủ tịch lại là
một chuyện khá buồn cười, vì như vậy chứng tỏ Phù Sa đã biết là Chủ Tịch
đang ở đâu và không cho Làng Mai biết, và cho rằng Chủ Tịch Nguyễn Minh
Triết có thì giờ đọc mạng Phù Sa. Phù Sa chỉ là một trang nhà ở Pháp
[phusaonline.free.fr], cũng như trang nhà Làng Mai ở Pháp. Vậy sao không
gửi từ trang nhà Làng Mai mà lại phải nhờ Phù Sa? Biết Chủ Tịch Nước ở đâu
là những nhân viên sắp xếp những chuyến công du hay những nghị trình cho Chủ
Tịch, không phải là trang nhà Phù Sa mà nội dung thường không có thiện cảm
với chính quyền.
¨ Thứ nhì, Nguyễn Lang chỉ là bút hiệu của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh khi
viết cuốn Việt Nam Phật Giáo Sử Luận. Nhưng viết thư gửi Chủ Tịch
Nước thì không mấy ai dùng bút hiệu mà phải dùng tên thật, hoặc thế danh là
Nguyễn Xuân Bảo, hoặc Pháp danh là Thích Nhất Hạnh. Tại sao? Bởi vì Pháp
danh Thích Nhất Hạnh thì ai cũng đã biết, và trong hồ sơ hộ tịch của các
công dân Việt Nam, nếu còn giữ, thì chỉ có tên Nguyễn Xuân Bảo chứ không có
tên Nguyễn Lang. Hơn nữa, rất có thể Chủ Tịch Triết chưa hề đọc cuốn
Việt Nam Phật Giáo Sử Luận cho nên không biết Nguyễn Lang là ai. Cho
nên ký tên trong thư là Nguyễn Lang: Tác Giả cuốn Việt Nam Phật
Giáo Sử Luận có vẻ như nói lên tác phẩm Việt Nam Phật Giáo Sử Luận
rất đặc biệt, Chủ Tịch nước và toàn dân phải biết. Thường thì khi viết
thư cho vị Nguyên Thủ Quốc Gia tác giả chỉ nên ký tên thật, địa chỉ, và chức
vụ hay bằng cấp nếu có, chứ không ai lại đề là tác giả một cuốn sách. Đây
là điều tôi chưa từng thấy.
¨ Thứ ba, đọc câu Bây giờ đây cảnh sát và công an của Chủ tịch đã
đánh bật 400 thầy và sư cô ra khỏi chùa, tôi thấy Giáo sư Nguyễn
Lang, alias Thích Nhất Hạnh đã đi quá xa rồi, nếu không muốn nói là có vẻ
coi thường, thiếu lễ độ, với Chủ Tịch Nước dựa trên những thông tin hoàn
toàn sai lầm. Tôi không gạt bỏ trường hợp là trong đám người đến trục xuất
Tăng Ni ra khỏi Tu Viện Bát Nhã có cảnh sát và công an mặc thường phục,
nhưng đọc câu trên tôi có cảm tưởng tất cả đều là những cảnh sát và công an
của Chủ Tịch Nước đã phái đến để đánh bật 400 thầy và sư cô ra khỏi
chùa, dù rằng Chủ Tịch không có nhiệm vụ chỉ huy cảnh sát và công
an, và thật ra thì không có cảnh sát và công an nào của Chủ Tịch, mà đó là
những nhân viên của các cơ quan giữ an ninh địa phương. Nhưng điều khó hiểu
mà cũng rất dễ hiểu là tại sao những hành động dùng bạo lực của ĐĐ Đồng Hạnh
và tay chân đối với các Tăng Ni trẻ ở Tu Viện Bát Nhã, với sự có mặt chắc
chắn của các nhân viên an ninh địa phương, mà lại không bị khởi tố. Mặt
khác, GHPGVN, Ban trị sự PG Lâm Đồng có thưa kiện nhưng không ai giải quyết,
khi lãnh đạo PG bị đả thương. Vậy chúng ta phải suy luận sự việc này như
thế nào? Chắc chắn là, không nhiều thì ít, phải có vai trò của chính quyền
địa phương, và có thể cả chính quyền trung ương, trong những diễn biến thất
nhân tâm này.
Từ trước tới nay tôi vẫn kính trọng Thầy Nhất Hạnh. Tôi đã
từng giới thiệu cuốn “Đường Xưa Mây Trắng” của Thầy, đưa lên Internet
tác phẩm “Tùng”, và đã từng viết bài bênh vực Thầy trong vấn đề “Phản
Chiến” cũng như về lời Thầy tuyên bố về “Bến Tre” ở New York. Nhưng qua bức
thư gửi Chủ Tịch Nước, tôi thấy Giáo sư Nguyễn Lang đã vấp phải một
sai lầm trầm trọng khi viết câu trên trong bức thư gửi cho Chủ Tịch Nước.
Tôi không hiểu tại sao Thầy Nhất Hạnh lại sơ xuất đến thế, và tôi hy vọng
Giáo sư Nguyễn Lang hãy hồi tâm nghĩ lại, và có một lời giải thích thỏa đáng
với Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết công khai trước quần chúng, và trên Internet
vì thư đã được loan truyền trên Internet. Tại sao? Vì Giáo sư Nguyễn
Lang không thể viết như trên và không bao giờ nên viết như trên. Sự phân
tích vấn đề sau đây hi vọng sẽ làm sáng tỏ vấn đề.
B. Lời Tuyên Bố của Sư cô Chân Không
Nhưng trước hết, chúng ta hãy ghi nhận thêm một thông tin từ
Làng Mai. Tiếp theo bức thư của Giáo sư Nguyễn Lang là lời đe dọa chính
quyền của sư cô Chân Không, cánh tay phải của Sư Ông ở Làng Mai, trong
cuộc phòng vấn của VOA Việt Ngữ với Nguyễn Trung:
Trong cuộc phỏng vấn với Nguyễn Trung của VOA Việt Ngữ, sư cô Chân
Không, một trong những người
sáng lập Làng Mai ở Pháp, khẳng định rằng Nguyễn Lang chính là bút hiệu
của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, và rằng trong lần lên tiếng đầu tiên này,
Thiền sư ‘muốn xem phản ứng của Chủ tịch Việt Nam ra sao, rồi sẽ có các bước
đi tiếp theo’…
Sư ông Làng Mai, tức là Thiền sư Thích Nhất Hạnh, nói rằng phải đi
từng bước. Ở trong nước giải quyết trước, giống như truyền thống ở Việt Nam,
ở trong nhà bố mẹ không giải quyết được, thì nhờ cô dì. Cô dì lại không giải
quyết được, thì nhờ tới hàng xóm, rồi mới nhờ tới người ngoài tức là chính
quyền. Chính quyền không được thì mới tới nước ngoài. Thành ra, bây
giờ gửi tới cụ Nguyễn Minh Triết xem cụ giải quyết thế nào.
Tôi nghĩ rằng
“cụ Triết” không có bổn phận phải đích thân giải quyết một vấn đề về tôn
giáo ở Tu Viện Bát Nhã. Trong chính quyền không còn ai, thí dụ như Thủ Tướng
chẳng hạn, hay Ban Tôn Giáo Chính Phủ, có thể giải quyết được vụ này hay
sao. Nhất là, khi vụ Tu Viện Bát Nhã xảy ra thì Chủ Tịch Nước đang công du
nước ngoài theo như tải liệu của phóng viên Reuters John Ruwitch:
Cần ghi nhận là, khi tăng thân Làng Mai bị đuổi khỏi Tu Viện Bát Nhã
thì Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đang viếng thăm đồng minh Cộng sản Cuba,
ngay sau chuyến đi New York họp với Hội đồng Bảo an và một cuộc họp khoáng
đại tại trụ sở LHQ.
[It is interesting to note that President Triet was in Communist ally
Cuba when the Bat Nha evictions happened, just after a trip to New York for
a United Nations Security Council meeting and a General Assembly debate].
Chẳng có lẽ Chủ
Tịch Nước lại cắt ngang chương trình công du, thực hiện nhiệm vụ ngoại giao
của mình để trở về nước giải quyết vụ Tu Viện Bát Nhã theo ý muốn của Làng
Mai?? Việc này đã có chính quyền ở Lâm Đồng và Ủy ban Trị Sự Tỉnh Hội
Phật Giáo ở Lâm Đồng lo, vì đó chính là nhiệm vụ của họ. Nếu chính quyền
Lâm Đồng với các Ủy Ban Trị Sự Tỉnh Hội Phật Giáo, Ủy Ban Nhân Dân, Ban Tôn
Giáo và Mặt Trận Tổ Quốc ở ngay địa phương mà không giải quyết được thì Chủ
Tịch nước sẽ giải quyết theo cách nào? Giải quyết theo lời yêu cầu không
đúng cách và có tính cách xúc phạm của Giáo sư Nguyễn Lang, dựa trên những
thông tin sai lầm, “để xem Chủ Tịch Việt Nam phản ứng ra sao”??.
Lời đe dọa của sư cô Chân Không có ý nói rằng, nếu Chủ Tịch Triết không
giải quyết sự việc theo ý muốn của Làng Mai thì Làng Mai sẽ đi những bước kế
tiếp, bước cuối cùng là nhờ các nước ngoài.
Chính những điều này đã làm
cho Làng Mai không còn là Làng Mai nổi tiếng như trước nữa. Bây giờ chúng
ta hãy đi vào những biến cố đã xảy ra ở Tu Viện Bát Nhã. Đối với chính
quyền thì Thiền sư Nhất Hạnh là ai? Sư cô Chân Không là ai? Nếu là ai thì
đã không xảy ra vụ Tu Viện Bát Nhã.
C. Các Bản Tường Trình về các Bạo động
Đi vào chi tiết vụ Tu Viện Bát Nhã, qua những thông
tin trên trang nhà Phương Bối: Trang nhà các tăng thân tu học
theo
pháp môn Làng Mai tại Việt Nam chúng ta có thể thấy
việc đánh bật 400 thầy và sư cô ra khỏi chùa có sự
can dự của rất nhiều người xuất xứ không rõ, từ Thượng Tọa Thích Đức Nghi,
Đại đức Thích Đồng Hạnh cho đến các Phật tử của Tổ Đình An Lạc (các chùa do
thầy Đức Nghi làm viện chủ và trụ trì) v..v… chứ không phải chỉ là cảnh
sát và công an của Chủ Tịch như Giáo sư Nguyễn Lang đã viết.
Đúng vậy, chúng ta hãy duyệt qua vài nét chính
trong:
py Bản Tường Trình về các Bạo động tại Tu viện Bát
Nhã từ ngày 22.06 - 02.07.2009 do các đệ tử của TT Đức Nghi điều động của
Tỳ kheo Thích Chân Pháp Sĩ
(thế danh Nguyễn Duy Sơn)
TM Ban Đại Diện Đối Ngoại
Thứ hai 22/6/2009: Vào buổi sáng, các sư
cô xóm Bếp Lửa Hồng thấy có 3 thanh niên vào giựt sập 2 cốc tranh sát
bếp của xóm một cách ngang nhiên. Các sư cô không dám nói gì vì thấy thái độ
của họ quá hung hãn.
Thứ ba 23/6/2009: Buổi sáng, thầy
Đồng Hạnh đã tưới xăng đốt một cốc tranh còn lại nhưng vì đêm trước trời
mưa, cốc còn ướt, nên chỉ bốc cháy một phần nhỏ. Các sư cô xóm Bếp lửa Hồng
ra năn nỉ đừng đốt thì thầy nói: “Làng Mai không có quyền gì ở đây”….
Buổi trưa các sư cô phát hiện 3 đường dây điện thoại bàn của Xóm Bếp Lửa
Hồng không hoạt động được nữa.
Thứ tư 24/6/09: Buổi sáng có một
thanh niên với một số tu sĩ huynh đệ với thầy Đồng Hạnh tiếp tục xuống
Xóm Bếp Lửa Hồng giựt sập cốc. Trong lúc đó thầy Đồng Hạnh ngồi phía ngoài
dứ dứ cây rựa. Có một số Phật tử đến chùa thấy lạ đứng nhìn thì bị thầy Đồng
Hạnh một tay cầm rựa một tay chỉ vào mặt và nói: “Tụi bây quậy chùa tao,
cút khỏi đây, không tao giết chết hết bây giờ!!”. Không khí rất nặng nề và
đe dọa.
Thứ sáu 26/06/09: Các đường dây điện
thoại xóm Bếp Lửa Hồng được nối lại. Nhưng đường dây điện thoại bàn của xóm
Rừng Phương Bối lại bị cắt. Đồng thời tảng đá lớn trước đây có khắc chữ “Tu
Viện Bát Nhã” bằng tiếng Việt, tiếng Phạn, tiếng Hán, tiếng Anh đã bị đục bỏ
chỉ còn lại tiếng Việt.
Thứ bảy 27/06/09: Tối ngày 27/06/09 lúc
18g thì khu vực trai đường, khu cư xá Tâm Ban Đầu, khu vực nhà khách của tu
viện đã có điện lại. Trong khi đó khu vực tăng xá xóm Rừng Phương Bối, thiền
đường Cánh Đại Bàng, xóm Bếp Lửa Hồng vẫn không có điện. Khi ra chỗ cầu dao
tại cốc Tùng Xanh kiểm tra thì thấy cầu dao bị phá hủy, ra trụ điện 3 pha
kiểm tra thì thấy tất cả cầu chì (hệ thống điện của 3 nơi sinh hoạt nói
trên) bị mất.
Chủ Nhật 28/06/09: Vào lúc 11giờ 30 phút,
trong lúc gần 400 tu sinh đang thọ trai tại thiền đường Cánh Đại Bàng, thầy
Pháp Anh đang nằm nghỉ trong cư xá Tâm Ban Đầu thì thấy thầy Đồng Định
dùng cây đập vào ổ điện dùng để bơm nước tại cốc Tùng Xanh. Thấy như
thế, thầy Pháp Anh dùng máy ảnh nghi nhận sự kiện, bị thầy Đồng Định quay
lại ném 3 cục đá vào thầy Pháp Anh đang ở trong cư xá Tâm Ban Đầu. Thấy nguy
hiểm đến tánh mạng nên thầy Pháp Anh đi ra khỏi cư xá, lúc đó nhóm khoảng
200 người kia lần lượt xông tới hướng thầy Pháp Anh chửi bới và đe dọa bằng
gậy gộc. Nghe tiếng ồn ào, vài thầy đang có mặt tại tăng xá Rừng Phương
Bối đi ra và chụp ảnh. Cả nhóm người quay lại tấn công vào các thầy đang
chụp ảnh với thái độ giận dữ. Thấy tình thế nguy hiểm các thầy lui vào tăng
xá. Khi các anh Công An địa phương có mặt trước tăng xá thì nhóm gần 200
người ùa vào nhà bếp trai đường khiêng hết vật dụng bỏ ra ngoài. Thấy
cảnh hỗn độn nhiều anh Công An đến thổi còi can thiệp, nhưng tình trạng vẫn
được tiếp diễn. Sau đó mọi người đồng loạt chạy vào khu cư xá Tâm Ban
Đầu khiêng tất cả đồ vật cá nhân, giường chiếu, kinh sách…ra bỏ ngoài sân.
Trong lúc hỗn loạn như thế các anh Công An chỉ đứng quay phim chụp hình.
Thứ hai 29/6/09: Buổi sáng: phát
hiện tượng đài Mẹ tại công trường Bông Hồng Cài Áo bị đập phá và sơn chữ
lên. Đoạn đường từ xóm Rừng Phương Bối xuống xóm Bếp Lửa Hồng bị rào chắn
ngang. Buổi trưa: thấy những người tấn công hôm trước vào bếp lấy
củi trang bị mỗi người một cây. Trưa đó các sư cô dưới Bếp Lửa Hồng cung cấp
thức ăn cho các thầy ở Rừng Phương Bối vì nhà bếp của xóm đã bị chiếm lấy.
Lúc 15g giờ, từ trong tăng xá các xóm nghe tiếng ồn ào, la hét, thấy nhiều
người cầm gậy chạy ra hướng thiền đường Cánh Đại Bàng. Mọi người trong tăng
xá ba xóm sợ hãi không biết chuyện gì xảy ra
(sau này
mới biết là có Chư Tôn Đức Ban Trị Sự GHPGVN tỉnh Lâm Đồng và Phật Tử bị tấn
công). Lúc 16g30: Cũng nhóm người đó tấn công vào tăng xá Rừng Phương
Bối bằng cách xông vào đập phá đồ đạc và chặn đường cầu thang khi các thầy
lui lên thiền đường ở tầng 3. Vì một số các thầy chưa lên kịp nên cửa thiền
đường chưa đóng. Có hai thanh niên và một nhóm phụ nữ có thái độ rất
hung dữ theo lên tới tầng 3, xông vào thiền đường, xô đẩy mấy thầy và chửi
bới om xòm. Lúc đó có vài Công An mặc sắc phục xuất hiện, can thiệp và
mời những người đó xuống lầu, rời khỏi Tăng Xá. Sau đó đường vào thiền
đường Cánh Đại Bàng bị rào chắn ngang bằng cây xanh.
Thứ ba 30/6/09: Khu vực Rừng Phương
Bối: Có khoảng 5, 6 thanh niên dáng điệu hùng hổ vào nhà kho gần tăng
xá xóm Rừng Phương Bối lấy xà beng, ống sắt xây dựng vác đi quanh khu vực
tăng xá và chửi rủa chúng tôi.
Thứ tư 1/7/09: Lúc 5h sáng, khi các thầy
lén lên Mây Đầu Núi để tìm cách nối lại dây điện thì phát hiện máy bơm nước
tại cổng tháp nước bị phá, đường ống bị đập bể và có người bỏ đầy cát, đá
vào ống bơm nước. Như vậy tình hình lúc này là các xóm đều bị mất điện,
thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng. Chỉ còn một máy bơm nhỏ duy nhất trên xóm
Rừng Phương Bối hoạt động mỗi ngày nửa tiếng để cung cấp nước uống.
Thứ năm 2/7/09: Lúc 8g sáng, phát hiện
ống dẫn nước từ bể chứa tăng xá quý thầy dẫn xuống bể nước xóm Bếp Lửa Hồng
bị đập bể. Lúc 15 giờ, phát hiện máy bơm nước, (sau khi bị phá), ở tháp nước
đã bị lấy mất.
Trên đây đại khái là những gì đã xảy ra trước ngày
27/9/2009, ngày các Tăng Ni ở Tu Viện Bát Nhã bị đe dọa và phải rời khỏi Tu
Viện. Những gì xảy ra ở Tu Viện Bát Nhã ngày 27/9/2009 thì không rõ rệt đối
với tôi. Đọc những thông tin trên Internet thì phần lớn là những thông tin
gián tiếp. Nhưng có một nhân chứng có mặt tại Tu Viện Bát Nhã đúng ngày
27/9/2009 và tôi tin rằng những thông tin của anh ta là trung thực. Đó là
nhà nghiên cứu sử Nguyễn Đắc Xuân ở Huế. Sau đây là vài đoạn trong một bài
viết của anh (nguyên văn lá thư đăng trên
https://bauxitevietnam.info/c/12705.html).
py Bài của nhà nghiên cứu sử
Nguyễn Đắc Xuân
Tôi rảo bước đến cuối Thiền đường đi về hướng xóm Rừng
Phương Bối dành cho các tăng sinh. Khu vực này nằm ngay phía sau khu vực
Chánh điện và các cơ sở chính của TV Bát Nhã của TT Đức Nghi. Chỉ cách nhau
một cái sân hẹp. Tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy trên tường TV Bát Nhã
nhìn về phía dãy lầu xóm Rừng Phương Bối, TT Đức Nghi cho treo những
băng-đờ-rôn viết những khẩu hiệu bằng một thứ ngôn ngữ chợ búa đe dọa, xua
đuổi, xuyên tạc việc tu tập của gần 400 Thiền sinh tu theo Pháp môn Làng Mai.
Tôi đi men theo con đường sát với khu nhà bếp đối diện
với xóm Rừng Phương Bối. Nhìn qua hàng rào tôi thấy bên trong hàng trăm
người đàn ông, đàn bà, con trai con gái, áo nâu, áo lam nhếch nhác, nhiều
người ăn mặc như cán bộ, một số cầm máy ảnh, máy quay phim, đùi, gậy, dao
rựa đi đi lại lại, ăn nói, cười cợt lao xao. Tôi liên tưởng đến những
côn đồ, xã hội đen, giả Phật tử đã từng tung hoành ở Bát Nhã được lưu trong
các trang web phapnanbatnha, phusa, langmai lâu nay. Tôi sợ phải đối đầu với
những đồng chí của mình nên muốn nhanh chân ra khỏi nơi này.
Tôi vừa ra đến bên hông Chánh điện thì phía sau lưng
tôi vang lên tiếng la ó, chửi bới và đám đông ùa qua Rừng Phương Bối đánh
đuổi các Thiền sinh. Không hiểu sao, tôi quay lại thấy tất cả các Thiền sinh
đều ngồi trong tư thế kiết già, bất động, chắp tay niệm danh hiệu Bồ Tát
Quán Thế Âm để mặc cho người của TT Đức Nghi hành động đánh đập, lôi
kéo, phá tán.
Như cái máy, tôi lui ra. Quay nhìn xuống dưới vườn chè
lại thấy một nhóm người khác của TT Đức Nghi ùa xuống xóm Bếp Lửa Hồng. Và
cảnh bạo hành như ở Rừng Phương Bối diễn ra và các ni cũng ngồi kiết già
niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.
Trên đây là một số những hành động có tính cách bạo
lực, vô cương vô pháp, ở Tu Viện Bát Nhã ngày 27/9/2009 mô tả bởi một nhân
chứng tại chỗ. Anh Nguyễn Đắc Xuân đưa ra một số quy trách và sau đây là
hai lời lên án điển hình:
- Việc bạo hành đã và đang xảy ra tại Tu viện Bát Nhã từ trước đến nay,
TT. Thích Đức Nghi, Thích Đồng Hạnh và đồng bọn phải hoàn toàn chịu trách
nhiệm trước luật pháp nhà nước và giáo luật của Giáo hội “ (NĐX nhấn
mạnh)
- Tất cả các cuộc bạo hành do thầy trò TT Đức Nghi tiến
hành ở Tu viện Bát Nhã từ tháng 6 đến nay đều có sự chứng kiến của công an
cảnh sát địa phương. Công an cảnh sát là những người có nhiệm vụ trấn áp tội
phạm bảo vệ dân lành, tại sao các anh lại không ngừng phối hợp với tội phạm
mang tên Thích Đức Nghi? Hay Thích Đức Nghi là người của …?
- Công an, cảnh sát là lực lượng thi hành pháp luật,
chính đại quang minh, thế lực lượng công an cảnh sát của địa phương đi
đâu mà không tham gia vào việc cưỡng chế 400 Thiền sinh ở tu viện Bát Nhã mà
lại đi dùng đến những thành phần ô hợp xã hội đen? Hành xử như thế các
anh có biết là tiếp tay cho bọn chống phá Việt Nam bôi nhọ chính quyền ta
không?
Tôi nghĩ rằng, xúc cảm trước cảnh đau lòng, anh
Nguyễn Đắc Xuân đã cho rằng công an địa phương đã dùng đến những thành phần
ô hợp xã hội đen. Tôi thấy điều này không đúng, vì xã hội đen là xã hội của
những người thuộc các băng đảng tội phạm, có thể làm bất cứ điều gì để có
tiền, kể cả tống tiền, ăn cướp, giết người v..v…. Nhưng xem mấy cái video
trên trang nhà phuongboi.org, thí dụ như video
«công an quay phim sinh hoạt
với các côn đồ» tôi chỉ thấy có vài người quay phim, không thấy cảnh sinh
hoạt nào, và đa số những người trong video là phụ nữ còn trẻ, có cả các
thiếu niên, đi qua đi lại, một số đang khuân vác đồ đạc v.v… Hơn nữa trong
đoạn trên anh Xuân có thấy hàng trăm người đàn ông, đàn bà, con trai
con gái, áo nâu, áo lam nhếch nhác. Chẳng có lẽ một thị xã nhỏ như
Lâm Đồng lại có nhiều người ở trong xã hội đen với những thành phần tạp nham
như vậy hay sao, mà lại dưới quyền sử dụng của công an? Một ý nghĩ thoáng
qua đầu: phải chăng có sự tương phản giữa đời sống vất vả lam lũ của dân
trong vùng và hình ảnh tu tập an nhiên tự tại của Tăng Ni ngày này sang ngày
khác, tháng này sang tháng khác, cho nên sự tương phản này đã bị khai thác.
Bất kể vì những nguyên nhân nào mà xảy
ra vụ Tu Viện Bát Nhã, những hành động có tính cách bạo lực, vô cương vô
pháp, đe dọa hành hung các Tăng sĩ ở Tu Viện Bát Nhã trước sự làm ngơ của
lực lượng công an cảnh sát Lâm Đồng cũng phải lên án, và chính quyền Lâm
Đồng phải chịu trách nhiệm. Không có lý lẽ nào có thể biện minh cho những
hành động trên được. Mặt khác những hành động của các TT Thích Đức Nghi,
Thích Đồng Hạnh, Thích Đồng Định đã làm hoen ố bộ mặt của các trưởng tử Như
Lai, không xứng đáng làm người con Phật và cần phải có biện pháp kỷ luật, có
thể là cưỡng bách hoàn tục, không thể để mang họ Thích trong cộng đồng Phật
Giáo.
Tuy nhiên, để cho cuộc nghiên cứu của tôi về vụ Tu
Viện Bát Nhã tạm gọi là có đầu có đuôi, tôi không thể không nói đến những
nguyên nhân mà theo ý tôi đã đưa đến vụ Bát Nhã, bởi vì tôi thấy trong vụ
việc này có nhiều mâu thuẫn bí ẩn. Tìm hiểu những nguyên nhân này tuyệt
đối không phải để biện minh cho những biện pháp dùng bạo lực ở Bát Nhã, như
tôi vừa nhận định ở trên. Trước hết chúng ta hãy tổng duyệt lại những sự
cố chính về Tu Viện Bát Nhã.
III. Diễn Tiến Và Những Bí Ẩn
Sau khi tổng hợp và phân tích các tài liệu thu thập
được tôi thấy rằng, ngoài nguyên nhân gần mà vai trò chính là TT Đức Nghi
với những hành động trực tiếp hay gián tiếp đối với các Tăng Ni ở Tu Viện
với sự đồng tình hay làm lơ của chính quyền, có lẽ nguyên nhân chính và xa
đưa đến vụ Tu Viện Bát Nhã là trên thực tế thì "Dù Thầy NH vô tình hay
hữu ý, dù Thầy NH muốn hay không muốn, thì những tuyên bố của Thầy là một
ứng xử chính trị: đối tượng là chính trị, lãnh vực là chính trị, nội dung là
chính trị, hậu quả là chính trị." dù rằng có luận cứ cho rằng Thầy Nhất
Hạnh không làm chính trị mà chỉ nói lên…sự thật, hay chỉ nói lên tiếng nói
lương tâm của người tu sĩ Phật Giáo. Cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở hải
ngoại cũng như ở trong nước có nhiều quan điểm khác nhau về Thiền sư Nhất
Hạnh và Làng Mai, và không phải là tất cả đều có thiện cảm. Cũng có thể
Thiền Sư Nhất Hạnh và Tăng thân Làng Mai đã quen hoạt động ở nước ngoài nên
không để ý đến chuyện “nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục”, quên rằng,
đối với Việt Nam, họ chỉ là người nước ngoài. Vì vậy trong những chuyến về
Việt Nam, Thiền sư Nhất Hạnh và Tăng thân Làng Mai đã có một số hành động
gây ấn tượng hoành tráng cho một số người, nhưng đồng thời cũng gây nên một
số ấn tượng không đẹp đối với chính quyền và đại khối Phật Giáo không theo
Làng Mai.
A. Từ Đón Rước Tưng Bừng
Đầu năm 2005, Thiền Sư Nhất Hạnh cùng với đoàn tăng
ni Phật tử vài trăm người tháp tùng đã về Việt Nam và được đón tiếp rất
trọng thể. Tại phi trường có cả một đám đông chờ đón, có rắc hoa thơm trên
lối đi, có nhiều phóng viên phỏng vấn. Và trong những cuộc đón tiếp sau đó
chúng ta thấy cảnh thảm đỏ, lọng vàng v…v… Tôi không tin là Thầy Nhất Hạnh
muốn như vậy, nhưng phải tùy thuận với ý muốn của chính quyền hay Giáo Hội
Phật Giáo bên nhà. Nhưng với những nghi thức đón tiếp như vậy trong thời
đại ngày nay, không phải không có những người thấy đó là những hình thức phô
trương bề ngoài và có thể đưa đến sự hiểu lầm như một số ý kiến phê bình
tiêu cực trên một số diễn đàn truyền thông Hải ngoại .
Đầu năm 2007 Thiền Sư Nhất Hạnh đã cùng Tăng thân
Làng Mai về Việt Nam và tổ chức ba Đại Trai Đàn Chẩn Tế , hay Đại Trai Đàn
Thủy Lục Giải Oan Bình Đẳng ở Thành Phố Hồ Chí Minh, Huế, và Hà Nội. Chiều
5-5-2007, tại Phủ Chủ tịch ở Hànội, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã tiếp
Thiền Sư Thích Nhất Hạnh và đại diện thiền sinh, cư sĩ trong đoàn tăng thân
Làng Mai (Pháp) tới chào xã giao, nhân dịp đoàn về thăm Việt Nam theo lời
mời của Ban Phật giáo Quốc tế thuộc Giáo hội Phật Giáo Việt Nam.
Trong chuyến về này, tại Tu Viện Bát Nhã có lễ
Truyền Đăng do Thiền Sư Nhất Hạnh chủ trì. Theo Báo Viet Tide thì:
Truyền Đăng là một nghi thức trong Phật Giáo,
được truyền thừa qua nhiều đời, là một buổi lễ ấn chứng, xác quyết khả năng
tu tập và năng lực nội tại của đệ tử, sau khi vị thầy thấy được tâm đắc của
đệ tử trình bày qua thi, kệ. Người được truyền đăng được xem là vị
Giáo thọ, không những trên mặt truyền bá giáo lý, mà thân giáo, khẩu giáo và
hành giáo đều đáng là bậc trưởng tử Như Lai. Tưởng cũng nên biết,
Thượng tọa Đức Nghi đã được Thiền Sư Nhất Hạnh “truyền Đăng” tại Mai Thôn
vào năm 2006.
Với vụ Tu Viện Bát Nhã mà vai chính trong đó là TT Đức Nghi thì có vẻ như
Thiền Sư Nhất Hạnh đã truyền Đăng lầm người. Mà không phải chỉ có TT Đức
Nghi mà còn ĐĐ Đồng Hạnh cũng đã được truyền Đăng ở Làng Mai năm 2006.
Năm 2008, Thiền sư Nhất Hạnh cùng phái đoàn Tăng
thân Làng Mai về dự Đại Lễ Vesak Tam Hợp Liên Hiệp Quốc được tổ chức ở Việt
Nam, do lời mời của Ban Phật giáo Quốc tế trong Giáo hội Phật giáo VN
(GHPGVN) và UB Tổ chức Quốc tế Đại lễ Phật đản Liên Hiệp Quốc 2008 (IOC).
Được biết trong những dịp về Việt Nam, Thiền sư Nhất Hạnh và Tăng thân Làng
Mai đã tổ chức các khóa tu cho Tăng Ni, Phật tử Việt Nam và cho người nước
ngoài sinh sống ở Việt Nam.
Nếu tất cả những gì Thiền sư Nhất Hạnh và Tăng thân
Làng Mai làm ở Việt Nam chỉ có những hoạt động tôn giáo như trên và nằm
trong khuôn khổ luật pháp Việt Nam và Hiến Chương của Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam thì tôi nghĩ sẽ không xảy ra vụ Tu Viện Bát Nhã, vì chúng ta đã
biết, theo một tài liệu của một số Tăng Ni trẻ ở Tu Viện, thì họ đã có rất
nhiều đóng góp cho cộng đồng. Sau đây là một đoạn trong bản “Bản
Tường Trình về Sinh hoạt của Tăng thân Làng Mai tại Tu viện Bát Nhã” của
mấy Tăng Ni ở Bát Nhã: Thích Chân Pháp Khâm, Thích Chân Trung Hải,
Thích Nữ Chân Thoại Nghiêm, Thích Nữ Chân Phúc Nghiêm.
Trong ba năm qua, về mặt tu học chúng con đã tổ chức các khoá tu 5
ngày cho cả ngàn người trẻ (một năm hai lần và đã có hai lần dành riêng cho
tăng ni), các ngày tu quán niệm (hàng tháng), hướng dẫn Phật tử đến tu học
thường xuyên tại tu viện, tụng kinh nhật tụng (mỗi tối), sám hối (rằm và
mồng một), tổ chức và tham dự các sinh hoạt lễ hội lớn như Tết, Phật Đản và
Vu Lan. Trong lễ Tam Hợp vừa qua chúng con cũng đồng thời tham dự lễ Vesak
tại Hà Nội với Sư Ông, lễ Vesak tại tu viện Bát Nhã, tại thị xã Bảo Lộc, tại
Đà Lạt, tại chùa Hoa Nghiêm (Bảo Lâm). Chúng con cũng giúp hướng dẫn tu học
cho Phật tử vùng sâu vùng xa tại huyện Bảo Lâm (ngày quán niệm), cho các
điệu người dân tộc tại chùa Di Đà, buôn Đăng Đừng (sinh hoạt mỗi
tuần). Đặc biệt với các em trong GĐPT tại Bát Nhã đã ngừng sinh hoạt vì
không có huynh trưởng, chúng con đã hướng dẫn Phật pháp, ngồi thiền, chơi
thể thao, dạy tiếng Anh và từ 20 em đã lên tới 70 em (từ 5 tuổi đến trên 20
tuổi) sinh hoạt hàng tuần. Mỗi ngày quán niệm đầu tháng có trên 20 em ở Bảo
Lâm thường xuyên tham dự. Chúng con phát quà Trung thu, hỗ trợ sách giáo
khoa và vở mỗi đầu năm học và năm nay có 90% các em đủ sách vở đi học. Với
sự giúp đỡ của các thiền sinh trẻ từ Sàigòn lên tham dự khóa tu ở Bát Nhã và
của nhóm tình nguyện ‘Ước mơ xanh’, hiện giờ các em đã có tủ sách với trên
2.000 đầu sách để đọc và mượn mỗi tuần. Chúng con cũng đến thăm và giúp giải
quyết nhiều trường hợp cha gặp khó khăn, bạo động đánh vợ đâm con, khuyên
răn và hỗ trợ vật chất, cấp học bổng mỗi 6 tháng để giúp em yên tâm học tập. Về mặt từ thiện, chúng con cũng tổ chức và tham dự vào các chương
trình từ thiện giúp đồng bào dân tộc (phát quà, phát gạo và nâng cao phẩm
chất sống vệ sinh ở buôn Đăng Đừng) và kêu gọi Phật tử yểm trợ tài chánh để
phát quà cho đồng bào quanh vùng mỗi mùa Vu Lan (khoảng 380 phần). Chúng con
cũng yểm trợ Hội Khuyến Học ở thôn 14 để giúp các em học sinh có điều kiện
học tốt hơn bằng cách phát sách vở, đồ dùng học tập (khoảng 100
em) vào mỗi đầu năm học.
B. Tài liệu của John Ruwitch, phóng viên
Reuters
 Thầy Đức Nghi tại lễ Truyền Đăng |
Với những hoạt động xã hội, từ thiện, văn hóa.. như
trên, không lẽ vì vậy mà TT Đức Nghi thay đổi ý kiến và chính quyền địa
phương lại quyết tâm không để cho các Tăng Ni này tu tập ở Tu Viện Bát Nhã.
Tất nhiên phải có những nguyên nhân nào đó đã là mầm mống để đưa đến vụ Tu
Viện Bát Nhã.
Chúng ta hãy trở lại một tài liệu của John Ruwitch, phóng
viên Reuters đã nói đến ở trên. Ruwitch viết:
Một tài liệu của chính quyền địa phương mà đệ tử
của Thích Nhất Hạnh có được và cho Reuters coi nói là nhóm Tăng thân Làng
Mai –Việt Nam không được nhà nước (CHXHCNVN) hay Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
công nhận và đã tu học tại viện Bát Nhã bất hợp pháp. Nguyên nhân của vấn đề
có thể là từ quá khứ, ít ra là một phần, liên quan đến chuyến thăm Việt Nam
cuối năm 2007 của Thích Nhất Hạnh. Trong chuyến đi Việt Nam đó, ông ta đã
nói với Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết rằng nhà nước nên dẹp bõ ngành công
an tôn giáo và giải tán Ban Tôn giáo chính phủ, cơ quan giám định những sinh
hoạt tôn giáo. Rồi đến 2008, niên giám của Làng Mai đề xuất
với chính phủ hãy từ bỏ Chủ Nghĩa Cộng Sản, bỏ chữ “Cộng Sản” ra khỏi tên
của Đảng chính trị cầm quyền, và bỏ cụm từ “Xã hội chủ nghĩa” ra khỏi tên
chính thức của nước, “Cộng hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Theo một tài
liệu của Làng Mai thuật lại chi tiết vụ Tu Viện Bát Nhã thì những đề nghị
đó dù được đề xuất với ước muốn có lợi cho đất nước nhưng đã làm phật ý nhóm
công an tôn giáo, và từ đó trở đi có vẻ như đã giáng sự phật ý này trên
Thích Nhất Hạnh và những người theo ông ta.
[A local government document fromlast monthobtained by Thich Nhat
Hanh’s followers andshown to Reutersstated that the group wasnot
recognised by the state or the official Buddhist congregation and was
staying at Bat Nha illegally. The roots of theproblemmay go back, in part
at least, to Thich Nhat Hanh’s late 2007 visit to Vietnam. During that trip,
he told Vietnamese President Nguyen Minh Triet that the government
shouldabolish the arm of the police that tracks religious groups and
disband the government’s Religious Affairs Committee, which regulates
religious activities.
Then, in early 2008, the annual journal of Plum Village proposed that the
government abandon Communism, take the word Communist out of the name of the
ruling political party and remove “Socialist” from the country’s official
name, Socialist Republic of Vietnam. Although the comments may have been
made with the interests of the Vietnamese nation in mind, theywere resented
by the religiouspolice who, from that point on, pretty much had it in for
Thich Nhat Hanh and his followers, a Plum Village document detailing the
background of the incident said.]
Tôi đã kiểm chứng thông tin trên của John Ruwitch. Trong Lá thư Làng
Mai số 31, trang 13, quả thật có những ý kiến về đổi tên đảng Cộng Sản và bỏ
cụm từ “Xã Hội Chủ Nghĩa” trong tên nước thành “Cộng Hòa Việt Nam” hay chỉ
đơn giản là “Việt Nam”. Về những đề nghị chính trị trên của của Làng Mai,
trong cuộc trao đổi ý kiến với tôi, Trang Chủ trang nhà Sachhiem.net đã đưa
ra nhận xét:
Bỏ qua tất cả những nhận xét về cá nhân ông,
riêng cá nhân tôi nhận thấy rằng, nếu đạo Phật tin vào thuyết “nhân quả”,
thì chính thầy Nhất Hạnh phải tự cảm thấy có trách nhiệm gián tiếp trong vấn
đề 400 tu sinh này.- Nếu thầy NH nhận thấy lời tuyên bố và
khung cảnh tuyên bố của ông là xác đáng, đương nhiên thầy chấp nhận "đối
đầu" với đối tác của ông trong chuyện này mặc kệ cho việc đẩy tu sinh của
ông vào vòng nguy hiểm. Ông cũng phải chịu trách nhiệm, và tuyên bố sự thách
thức đó.
- Việc đặt tên nước và quốc kỳ càng không liên quan gì đến sinh mệnh của dân tộc hay tôn giáo nào. Ai lại nỡ dùng sự an sinh của các đệ tử để thách thức chính quyền bằng nhận định chính trị đầy thành kiến của mình. Lẽ ra thầy NH nên xin lỗi với chính phủ và nhân dân Việt Nam về lời yêu cầu có tính cách phủ nhận đối với công cuộc giành độc lập của Việt Nam mà xét ra, ông không có dự phần vào công lao đó... Điều ông tuyên bố đã đi ngược với giá trị lịch sử của công cuộc cách mạng
của dân Việt Nam đối với ngoại xâm. .
Riêng tôi, tôi cho là những đề nghị chính trị trên là những bước đi
chính trị vụng về. Người Cộng Sản rất tự hào là đã đưa được đất nước ra
khỏi vòng nô lệ của thực dân Pháp và đánh bại được sự can thiệp quân sự của
đế quốc Mỹ. Từ ngày thực dân Pháp, với sự hỗ trợ rất đáng kể của Công
giáo Việt Nam, lập được nền đô hộ ở Việt Nam, thì đã có biết bao nhiêu tổ
chức, đảng phái hoạt động để giành lại độc lập cho Việt Nam nhưng không có
tổ chức, đảng phái nào thành công. Và đảng Cộng sản đã lập được công đó.
Nay Thiền sư Nhất Hạnh muốn đảng Cộng Sản đổi tên, phải chăng muốn xóa bỏ
công trên của Cộng sản. Lá thư Làng Mai đưa ra vài tên đảng Cộng Sản đã đổi
tên, thí dụ như đảng Cộng sản Ý. Nhưng hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam hoàn
toàn khác biệt. Thử hỏi trên thế giới này, có đảng Cộng sản được thành lập
để chống ngoại xâm như đảng Cộng sản Việt Nam và đã thành công trong việc
đánh đuổi ngoại xâm? Vả chăng hai chữ Cộng sản ngày nay chỉ còn trên mặt
văn tự, có còn gì là Cộng sản nữa đâu. Thứ nhì, bỏ đi cụm từ “Xã hội chủ
nghĩa” thì phải chăng tên nước trở thành “Việt Nam [đệ tam] Cộng Hòa”? Tại
sao chúng ta còn cứ câu nệ chấp nhất vào mấy cụm từ hữu danh vô thực?
C. Thêm những đề nghị khác của Thiền sư Nhất Hạnh
Ngoài ra Thiền sư Nhất Hạnh còn có bản đề nghị 10 điểm với Chủ Tịch
Nguyễn Minh Triết trong chuyến về thăm Việt Nam năm 2007. Theo một nguồn
tin thì Nhà Nước sẽ cứu xét và đề nghị không công bố bản đề nghị này. Nhưng
Lá thư Làng Mai số 31
(https://www.langmai.org/) đã đăng bản đề nghị này, trang 25, và theo một nguồn
tin thì Làng Mai đã cho tán phát Lá Thư Làng Mai số 31 này trước khi TS Nhất
Hạnh về dự lễ Vesak. Theo ý kiến riêng của tôi thì trong bản đề nghị có
những điểm không thực tế và không thể thực hiện được trong bất cứ quốc gia
nào.
Điểm thứ 4: Xin cho những người gốc Việt cư trú ở nước ngoài
được về nước thăm viếng, làm việc, đầu tư, giảng dạy, hoằng Pháp mà không
cần Visa.
Có thực tế không trong hoàn cảnh đất nước hiện nay, với những tổ chức
chống Cộng cho Chúa, chống Cộng cực đoan, chống Cộng theo gương Thánh
Đa-vít, chống Cộng theo gương Chúa Thánh Thần v.v… Trên trang nhà Tin Paris
đã có 6 danh sách hàng trăm các Tiến sĩ, Kỹ sư, Giáo sư, nhà kinh doanh v…
v… đã về Việt Nam làm việc, đầu tư, giảng dạy và còn đóng góp trong
nhiều địa hạt nữa mà có vấn đề gì đâu. Hơn nữa người gốc Việt cư trú ở nước
ngoài nay mang quốc tịch của quốc gia nào, mang sổ thông hành của quốc gia
nào, và quốc gia đó đã có thỏa hiệp với Việt Nam là miễn Visa cho dân chúng
hai nước chưa?
Điểm thứ 7: Xin có một chính sách đặc biệt đối với Phật Giáo,
bởi vì đạo Phật đã là nền móng dựng nước và giữ nước trong gần 2000 năm, và
là yếu tố chính của nền văn hóa Việt Nam.
Đây là điều hiển nhiên đối với Phật Giáo Việt Nam và chắc Chính
quyền cũng đã nhận ra như vậy. Nhưng không thể xin một cách công khai như
vậy vì Nhà nước không thể thiên vị và có chính sách đặc biệt đối với bất cứ
tôn giáo nào trong một xã hội đa tôn giáo. Nước Mỹ có thể nói là nước Ki Tô
Giáo [God country, In God we trust v…v…] nhưng Hiến Pháp Mỹ không cho phép
chính quyền thiên vị đối với bất cứ tôn giáo nào và còn thường xuyên kiểm
soát những hoạt động của tôn giáo.
Điểm thứ 9: Xin cho Tăng Ni được phép hành đạo khắp nơi trên
lãnh thổ quê hương không bị hạn chế bởi vấn đề hộ khẩu, có quyền dựng Chùa
Viện bất cứ ở đâu không kể nơi đó có nền Chùa cũ hay không – các tỉnh Thanh
Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Lào Cai, Thái Nguyên v…v…
Đây là một đề nghị vừa chí lý vừa phi lý. Chí lý là Nhà Nước không
nên dùng hộ khẩu để hạn chế sự hành đạo của các Tăng Ni. Còn phi lý là
quyền dựng Chùa Viện bất cứ ở đâu không thể thực hiện trong bất cứ quốc
gia văn minh tiến bộ nào. Ở Mỹ, ngay một tư nhân muốn sửa sang nhà cửa,
thay máy móc trong nhà, cũng phải xin phép chính quyền địa phương, đóng lệ
phí, và đặt dưới quyền kiểm soát của địa phương từng giai đoạn thi công
một. Chùa, nhà thờ không thể xây cất ở bất cứ đâu mà phải xây ở những chỗ
thích hợp với kế hoạch về gia cư và đất đai của chính quyền. Giả thử Nhà
Nước chấp thuận và công bố trước quốc dân điều này thì đối với các tôn giáo
khác ở Việt Nam ra sao? Phật Giáo có đủ tiền bạc và nhân sự có nhiệt huyết
để thi đua với Công Giáo và Tin Lành không, biết rằng nguồn tài chính của họ
là vô tận. Chúng ta cũng nên biết đến một tài liệu trên Internet về vấn đề
này ở Âu Châu ngày nay:
Những chính phủ Âu Châu bị qui tội một phần làm cho Ki Tô Giáo suy
thoái, bị trách cứ là đã giới hạn những hoạt động tôn giáo và làm khó khăn
sự bành trướng của những nhóm tín ngưỡng. Ví dụ như, trong nước Pháp dân
chủ, một nhà thờ xin phép để xây cất thêm hay mua bất động sản có thể không
bao giờ được cấp giấy phép.
(European governments have been partially blamed for the decline of
Christianity, being accused of restricting religious activities and
hindering the expansion of faith groups. For example, in the democratic
country of France, a church requesting permit to expand its church building
or buy property may never receive permission.)
۞
Đọc Lá Thư Làng Mai số 31 chúng ta có thể thấy vài nét kiêu căng, thí
dụ như: “Có những điểm trong bản đề nghị đã gây “sốc” làm cho Ngài Chủ
Tịch nước có lúc đã phản ứng”, “Làng Mai đã không công bố bản đề nghị
này trên báo chí, sợ làm như thế sẽ mất đi hiệu quả của thiện chí xây dựng”
[Nhưng Làng Mai đã công bố trên Lá Thư Làng Mai những đề nghị có thể gọi là
thiếu trí tuệ đó] Lá thư Làng Mai viết: “Thầy Làng Mai không bao giờ lên
án, công kích, buộc tội, mà chỉ thực tập phép lắng nghe và ái ngữ để giúp
người khác có cơ hội thay đổi nhận thức về họ” nhưng trong một đoạn khác
thì lôi những chuyện cũ rích như “cải cách ruộng đất”, “Nhân văn
giai phẩm” ra và viết: “Ý thức hệ Mác xít duy vật như một cơn sốt đã
xâm nhập vào cơ thể dân tộc ta trong nhiều thập niên, và trong thời gian đó
đã có biết bao tư duy và hành động tạo nên khổ đau, cũng vì thái độ cố chấp
và cuồng tín vào một chủ thuyết được mệnh danh là khoa học.” . Đó không
phải là lên án, công kích, buộc tội hay sao. Đó không phải là những lời lên
án, công kích một chiều hay sao.
Nhưng viết như trên thì Làng Mai cho chúng ta thấy họ rất ít hiểu biết
về những bối cảnh lịch sử của Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp
và Mỹ và cũng chẳng hiểu gì mấy về chủ thuyết Mác-xít cả. Marx đã được thế
giới tôn vinh và ngày nay, trong các trường đại học Âu Mỹ đều có dạy lý
thuyết Marx. Vị trí của Marx trong số những tư tưởng gia vĩ đại của thế
giới là như thế nào?
1. “Theo kết quả thăm dò ý kiến thính giả đài BBC Radio 4
trong tháng 7, 2005 thì, trong số 20 tư tưởng gia được biết đến, kính trọng,
và có ảnh hưởng nhiều nhất, Marx lại được coi như là một triết gia vĩ đại
nhất của mọi thời đại”??. [BBC Press Release: 13-7-2005: Out of a
shortlist of twenty of the best known, most respected and influential
philosophical thinkers, nominated by the In Our Time
audience, Karl Marx has been voted the Greatest Philosopher of all time by
BBC Radio 4 listeners.] Theo bảng kết quả thì David Hume, một nhà nhân bản,
xếp hạng 2, Nietzshe hạng 4, Kant hạng 6, và Aquinas của Ki-tô Giáo hạng 7.
2. “Kết quả chọn vĩ nhân của Đức Quốc, với con số tham dự trên 5 triệu
người, Karl Marx đứng hàng thứ 3 trong 100 ứng viên, Albert Einstein đứng
hàng thứ 10 (
www.unserebesten.zdf.de). Lạ nhỉ, cả thế giới trí thức này mù và ngu cả
hay sao mà không nhìn và đánh giá Marx như là Làng Mai?
Trong đoạn của John Ruwitch ở trên có nói đến một tài liệu của chính
quyền địa phương. Để hiểu rõ ngọn ngành về vụ Tu Viện Bát Nhã chúng ta cũng
nên đọc tài liệu đó. Nếu tôi không lầm thì đó là Văn thư số 789 của Ủy Ban
Nhân Dân Lâm Đồng, nguyên văn như sau [Nguồn:
https://phuongboi.org/index.php/]:
D. Tài liệu của chính quyền địa phương
◎ Văn thư Số: 789 / UBND V/v giải quyết tình hình Tại chùa Bát Nhã xã Đambri
nguồn:
https://www.phuongboi.org/index.php/cac-s-kin-ti-bat-nha


Ngoài ra, chúng ta cũng nên biết đến một văn kiện của Ban Tôn Giáo Chính
Phủ ngày 29 tháng 10 năm 2008:


Có bao nhiêu phần đúng trong hai văn kiện trên? Tôi
không ở vị thế có thể biết rõ. Cần phải có sự sáng tỏ vấn đề của Chính
quyền cũng như của Làng Mai.
E. Đến Bi Kịch
Bức tượng một phụ nữ vươn cao, dưới chân phụ nữ là hai bức tượng trẻ con bị đập gãy (Lời chú và hình của Nguyễn Đắc Xuân) |
Ra Đi Trong Đêm
 |
Đến đây tôi nghĩ chúng ta đã có thể thấy từ đâu mà xảy
ra vụ Tu Viện Bát Nhã. Chúng ta biết, chính quyền đã chấp thuận cho TT Đức
Nghi bảo lãnh những người nước ngoài về giảng Phật Pháp và tu ở Tu Viện Bát
Nhã. Chúng ta cũng biết là Chính quyền và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã
chấp thuận “Pháp môn Làng Mai” là Pháp môn tu tập cho những tăng thân Làng
Mai và những ai muốn tu theo Pháp môn đó. Chính quyền Trung Ương cũng như
địa phương cũng đã chấp thuận để cho Làng Mai phát triển cơ sở Tu Viện Làng
Mai do sự vận động của TT Đức Nghi. Mọi sự có vẻ êm ả nhưng tại sao gió bão
lại nổi lên.
Muốn giải đáp điều này, tôi thấy Làng Mai cần phải làm sáng tỏ
vài điểm sau đây..
► - Mầm mống bất hòa ở Tu Viện Bát Nhã có phải là, như trên
đã viết, vì sự mâu thuẫn về cách quản lý và quyền lực quản lý Tu Viện. TT
Đức Nghi nhân danh là Viện chủ mà không có quyền hạn như Viện chủ ở Việt
Nam, quyết định tất cả. Theo cách của Làng Mai, tập thể giáo thọ quyết định.
Nhưng Làng Mai là khách và TT Đức Nghi là chủ.
► - Theo chính quyền thì các vị tu theo pháp môn làng
Mai đã tổ chức khóa tu tại tu viện Bát Nhã mà không xin phép Giáo hội Phật
giáo Việt Nam và cơ quan nhà nước có thẩm quyền, số người tới tu cũng không
đăng ký tạm trú theo quy định của pháp luật. Việc làm này là vi phạm thủ tục
hành chính của Việt Nam, vi phạm giới luật, hiến chương Giáo hội Phật giáo
Việt Nam. Những vụ việc này ra sao, cần phải giải thích rõ ràng. [Lá thư
Làng Mai có viết là TS Nhất Hạnh và Tăng Thân Làng Mai đã đi nhiều nước,
được tự do mở khóa tu mà không cần phải xin phép bất cứ cơ quan nào]
► - Những đề nghị chính trị và tôn giáo của Thiền Sư Nhất
Hạnh có thích hợp trong hoàn cảnh hiện nay của đất nước không?
► - Câu hỏi của Minh Tân: Nếu đã “hết duyên” ở Bát Nhã,
các Tăng Ni trẻ tu theo pháp môn Làng Mai có nhất thiết cứ phải bám trụ tới
cùng không?
Mặt khác, Chính quyền Trung Ương, Chính quyền Lâm Đồng,
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, Ban Trị Sự THPG Lâm Đồng, và TT Đức Nghi cũng
nên làm sáng tỏ vài câu hỏi sau đây:
► - Tại sao lại để xảy ra một sự cố tồi tệ như vậy,
gây nên sự mất mát cho cả mọi phía: Chính quyền, Phật Giáo, Làng Mai, và cho
cả dân tộc. Trách nhiệm chính là cá nhân hay tập thể nào?
► - Những hành động của TT Đức Nghi, Đồng Hạnh cùng
các đồng sự đồng đệ để đối phó với các Tăng Ni ở Tu Viện Bát Nhã có xứng
đáng là những hành động của những người con Phật không. Quý vị trên sẽ có
những hành động cụ thể nào để sám hối trước Chính quyền [vì đã vô cương vô
pháp làm giảm uy tín của Chính quyền trước thế giới], trước Giáo Hội Phât
Giáo Việt Nam và quần chúng Phật tử [vì đã gây nên một bộ mặt xấu cho Phật
Giáo]
Cá nhân tôi, chắc chắn không vui vẻ
và ích lợi gì cho bản thân lúc viết về vụ việc Bát Nhã. Nhưng hy vọng qua
bài nầy sẽ soi rọi một tia sáng nào đó cho công bằng và lẽ phải. Tôi thấy
trong Lá Thư Làng Mai có hai câu sau đây:
NHỊN MỘT GIÂY GIÓ YÊN SÓNG LẶNG
LÙI MỘT BƯỚC BIỂN RỘNG TRỜI QUANG
Nhưng gió bão đã nổi lên chỉ vì không nhịn nổi và vì
ai cũng chỉ muốn tiến lên chứ không chịu lùi. Cơn gió bão đã thổi qua, nay
là lúc phải dọn sạch những tàn phá đã đổ lên đầu những Tăng Ni vô tội và vô
can. Chúng tôi mong Chính Quyền cũng như Làng Mai có thể đi đến một giải
pháp có thể giải quyết ổn thỏa các sự việc, đừng để vấn đề lây lan ngày càng
lớn và tạo một hình ảnh xấu cho bộ mặt quốc gia đối với thế giới cùng làm
phai nhạt hình ảnh, hào quang của một tổ chức tôn giáo mà đáng lẽ có thể
phục vụ tốt hơn cho dân tộc Việt Nam nếu không bước vào con đường chính trị
với những đề nghị thiếu tế nhị, thiếu khôn khéo và bất khả thi.
IV. Những đề nghị thực tiễn
Vài Đề Nghị Cá Nhân:
- Sự việc đã xảy ra như vậy, tôi nghĩ khó mà các
Tăng Ni trẻ có thể trở lại tu ở Tu Viện Bát Nhã. Nhưng chính quyền có thể
thu xếp ở một số Chùa hay Tu Viện nào đó để cho các Tăng Ni có quốc tịch
Việt Nam tự do tu theo “Pháp môn Làng Mai”. Họ chỉ cần đăng ký sự có mặt
của họ với chính quyền địa phương mà không bị hạn chế bởi chế độ hộ khẩu.
Cần hạn chế số tu sinh nước ngoài, kể cả những người Việt mang quốc tịch
nước ngoài, vì họ có thể tu ở Làng Mai hay Lộc Uyển hay ở bất cứ đâu họ
muốn.
- Chính quyền cũng như Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
cần phải có những biện pháp kỷ luật đối với TT Đức Nghi, ĐĐ Đồng Hạnh và các
đệ tử, khiển trách chính quyền Lâm Đồng, cử một Tăng hay Ni đạo đức thay thế
quản trị Tu Viện Bát Nhã và dễ dãi để cho những Tăng Ni trẻ nào muốn trở lại
Bát Nhã tu tập được toại ý. Những Tăng Ni này tự do tu theo “Pháp môn Làng
Mai” nhưng không thuộc quyền quản lý của Làng Mai.
Về phía Làng Mai thì tôi cũng có vài đề nghị:
Thứ nhất, Sư Cô Chân Không nên nói bớt đi. Nếu có
thể thì diện bích tịnh khẩu trong 1 năm, vì nói ít thì sai ít, nói nhiều sai
nhiều, càng nói càng sai.
Thứ nhì, xin Thiền Sư Nhất Hạnh nên rút kinh nghiệm
từ vụ này để có thể đóng góp hữu hiệu hơn cho Phật Giáo Việt Nam về sau.
Giảng dạy Phật Pháp là sở trường của Thiền sư, chính trị là sở đoản, Không
nên để cho sở đoản làm giảm hào quang của sở trường.
Sau cùng tôi có một điều thắc mắc đã từ lâu. Những
phương pháp tu tập của Làng Mai như “Chánh Niệm”, “Tỉnh thức”, “Hiểu và
Thương” , “Thở vào tâm tĩnh lặng, thở ra mỉm miệng cười” v…v… rất cần thiết
cho Việt Nam ngày nay, nhưng tôi không hiểu rồi Làng Mai có cho nhập cảng
một số hoạt động tôn giáo của Làng Mai và Lộc Uyển ở ngoại quốc như “Tổ chức
Lễ Giáng Sinh trong Chùa, hát Thánh ca”
(1) v. v… và giảng về Ki Tô Giáo, về Thượng đế và Chúa Giê-su như TS đã viết trong những cuốn như “Living
Buddha, Living Christ”, và "Going Home: Jesus and Buddha as Brothers"
. Đây chính là thắc mắc mà tôi cho rằng không ít thì nhiều cũng có ảnh
hưởng đến quan niệm của đại khối Phật Giáo bên nhà, không nằm trong hệ thống
Làng Mai, đối với Thiền sư Nhất Hạnh và Làng Mai.
xem tiếp phần V. Yếu Tố Vô Ảnh Nhưng Khả Nghi.
1 2
(1) Xin xem "Sinh Hoạt Tâm Linh Ở Tu Viện Lộc Uyển" của Đất Việt Buddhist Review