BANG GIAO “BẮC KINH – VATICAN” ??

Một Kinh Nghiệm Quý Giá Cho Việt-Nam

Trần Chung Ngọc

http://sachhiem.net/TCN/TCNts/TCNts35.php

11 tháng 3, 2009

 

LTS: Qua nhiều bài phân tích về Vatican và giáo hội Rô Ma đăng tải nhiều nơi và trong sachhiem.net, có hàng trăm ngàn lý do không nên thiết lập ngoại giao với triều đình Vatican, và không có lấy một lý do nào để thảo luận ngoại giao với cái cơ chế không phải đạo, không phải đức, một quốc gia không giống ai này. Cái tổ chức quái dị này đang bị Âu Tây ruồng bỏ. Nhưng vấn đề cứ phải lập lại vì họ cứ đeo sát bám chặt như đĩa đói để được thu hồn hút vía những nước Á châu, nơi chưa biết nhiều về thành tích dã man của họ. Bài viết sau đây tóm tắt lại những trọng điểm cần biết để cho Việt Nam còn có những ngày mai tươi đẹp.(SH)


 

Ngày 20 tháng 12, 2008, để ăn mừng 50 năm tự trị của Giáo hội Công giáo ở Trung Quốc, về quyền tấn phong các giám mục, Bắc Kinh, một lần nữa, lại nhắc lại hai điều kiện tiên quyết để có thể có bất cứ cuộc đối thoại nào giữa Bắc Kinh và Vatican, hai điều kiện này đã được đưa ra năm 2007, khi giáo hoàng Benedict XVI tung ra một bức thư gửi giáo hội Công giáo ở Trung Quốc :

-Vatican không được xía vào chuyện nội bộ chính trị của Trung Quốc, gồm cả dùng chiêu bài tôn giáo để xía vào chuyện nội bộ của Trung Quốc [kể cả việc tấn phong các giám mục]

-Vatican phải đoạn giao với Đài Loan và công nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là chính quyền hợp pháp duy nhất đại diện Trung Quốc.

[BEIJING, China, December 20, 2008 -- The occasion was the celebration of the 50th anniversary of the autonomy of the Chinese church, in regard to the appointment and consecration of bishops. China yesterday remembered the preconditions for any dialogue with the Holy See: "The Vatican must not interfere in China's internal politics, including using religion to interfere in our country's domestic affairs," (including the appointment of bishops); The Vatican must break off its "so-called diplomatic relationship" with Taiwan and recognize the government of the People's Republic of China as the sole legal government representing China.] (AsiaNews)

Năm 2007, Benedict XVI đã gửi cho giáo dân ở Trung Quốc một bức thư dài 55 trang đòi lại quyền để cho giáo dân Trung Quốc trở lại làm nô lệ cho Vatican, phải để cho Vatican có quyền chọn người để Vatican tấn phong giám mục, và giáo dân phải tiếp tục “quên mình trong vâng phục” , tuân hành “Đức vâng lời” của Tòa Thánh, tuyệt đối vâng lời “tông huấn” (sic) của một “đức thánh cha” mà đạo đức tôn giáo đã là một câu hỏi lớn cho cả thế giới phi-Công giáo Rô-ma.

Giáo hoàng, với tâm cảnh của các giáo hoàng trong thời Trung Cổ, muốn giành lại thần quyền của ông ta, nghĩa là bắt giáo dân Trung Hoa phải trung thành với một ông giáo hoàng người Đức, ngồi ở La Mã và nổi tiếng vì một số danh hiệu người đời đã tặng ông ta:
-“Hồng Y Thiết giáp” (Panzerkardinal), vì ông ta có những hành động liều lĩnh, vô trí tuệ, nói năng bừa bãi, giống như một khối sắt biết di chuyển, chuyên nghề xung kích, và qua lời phê phán trước đây của ông về Phật Giáo khi nhà báo phỏng vấn ông về phản ứng đối nghịch của Phật giáo trước cuốn Bước qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng [của John Paul II], mà ông là người viết chính: “Buddhism is a kind of spiritual auto-eroticism” (Phật Giáo là một loại tự dâm tâm linh), thì dường như Benedict XVI không có mấy giáo dục và đạo đức tôn giáo; “the God’s Rottweiler” (Rottweiler là một giống chó Đức giữ nhà rất hung tợn);
- “Đại Phán Quan” (The Grand Inquisitor), vì các biện pháp truy tố, đàn áp nhiều nhà thần học Công giáo có những điểm không đồng ý với Vatican.

Cho tới nay, chưa có thư phúc đáp chính thức của Chính Phủ Trung Quốc về bức thư của giáo hoàng. [So far, there has been no official response from the Chinese government to the pope's letter.] Trung Quốc nhìn rõ mánh mưu của Vatican: Giáo hoàng Benedict XVI chỉ tiếp nối chủ trương cải đạo Á Châu, sách lược xâm lăng văn hóa Á Châu của Giáo hoàng tiền nhiệm John Paul II.

Chúng ta biết rằng, vì Công giáo nói riêng, Ki Tô Giáo nói chung, suy thoái thê thảm ở phương trời Âu Mỹ, và đây là một sự kiện bất khả phủ bác, cho nên Vatican tìm cách bành trướng sang Á Châu, khai thác sự nghèo khó, kém hiểu biết của quần chúng trong một số nước ở Á Châu, hi vọng có thể mang những đồ phế thải ở Âu Châu để mê hoặc đám dân thấp kém, biến họ thành đám tín đồ cuồng tín trong cái ngục tù tâm linh của mình, tăng thêm sự cuồng tín của đám giáo dân đã có sẵn tại địa phương qua những màn phong thánh bừa bãi những tên Hán gian, Việt gian, và từ đó sẽ có thể thu vét được tài sản qua sách lược cố hữu “ngu dân dễ trị” của giáo hội mà sử sách đã ghi rõ.

Về thực tế, Vatican không giúp ích gì cho Trung Quốc hay cho bất cứ quốc gia nào khác trong việc phát triển kỹ thuật, kinh tế v..v… mà chỉ cố tạo một đoàn quân thứ 5 hùng hậu tại các quốc gia để cho những mục đích thế tục của Vatican.

Theo tin từ Hồng Kông thì Bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã lên tiếng dứt khoát bác bỏ một bức thư như vậy từ năm 2007 vì nội dung bức thư vẫn xoay quanh tâm điểm là “chơi lại khúc nhạc cũ rích”. Cái “khúc nhạc cũ rích” này là những luận điệu thần học tồi tệ, hoang đường, đã lỗi thời, mà Tây phương đã ruồng bỏ, và nhất định là chính giáo hoàng cũng không còn tin [vì trong thời đại này không ai có đầu óc còn có thể tin được], nhưng vì quyền lực của giáo hội nằm trong đám tín đồ thấp kém, nên ông ta vẫn đưa ra một cách thiếu lương thiện trí thức để mê hoặc quần chúng. Thật vậy, căn bản của vấn nạn Ki Tô Giáo ngày nay là, qua những công cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh của nhiều học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-Tô, cộng với nội dung cuốn Thánh Kinh gồm Cựu Ước và Tân Ước, Thiên Chúa của Ki Tô Giáo và con ông ta, Giê-su, là những nhân vật không đáng để cho ai kính trọng, khoan nói đến thờ phụng [Xin đọc bài “Chúa Cha và Chúa Con Của Người Ki-Tô-Giáo”: http://giaodiemonline.com/2009/03/god.htm]

Chúng ta biết rằng, trong bức thư gửi cho giáo hội ở Trung Quốc được xem là đáng kể nhất từ xưa đến nay, giáo hoàng thiết tha van xin một cuộc đối thoại tích cực hơn với nhà nước vô thần [sic] và tìm cách lập lại quan hệ ngoại giao đã bị chấm dứt hai năm sau khi chính quyền Cộng Sản lên cầm quyền năm 1949. Trong ba năm qua, có nhiều dấu hiệu về một cuộc đối thoại có thể xẩy ra giữa các viên chức của Vatican và các giới chức trong Ủy Ban Tôn Giáo của Nhà Nước Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc, khi khẳng định lại hai điều kiện tiên quyết trên và ăn mừng 50 năm tự trị của giáo hội ở Trung Quốc, thì Trung Quốc có thể đã làm tắt đi hi vọng đối thoại [China’s hardline speech, and the celebration of the 50th anniversary of episcopal autonomy, threaten to extinguish any hope.]

Trung Quốc là một nước với trên 1.3 tỷ dân nhưng chưa tới nửa phần trăm (0.4%) theo Công giáo mà một số lớn lại thuộc giáo hội quốc doanh. Cho nên Vatican nhắm vào một “mùa gặt mới” ở những miền đất phì nhiêu này của Á Châu, nhưng ông có thành công không, cái đó còn tùy thuộc dân trí của người dân trong các quốc gia ở Á Châu, và cũng tùy thuộc nhiều vào chính sách tôn giáo của Nhà Nước trong mỗi quốc gia.

Chúng ta đã biết, Trung Quốc không nhân nhượng trong vấn đề dân của mình phải trung thành với một thế lực ngoại bang dù thế thực đó, bản chất chỉ là một định chế thế tục, nhưng thường nấp sau bình phong tôn giáo. Tôi hi vọng Việt Nam cũng có một chính sách tôn giáo hợp lý như Trung Quốc. Nhà Nước nên để ý là những lực lượng chống phá Nhà Nước ngày nay, ở trong nước cũng như ở ngoài nước, đều thuộc Công giáo Rô Ma hoặc Tin Lành: LM Nguyễn Văn Lý, LM Phan Văn Lợi, LM Ngô Quang Kiệt, Nguyễn Chính Kết, đảng Thăng Tiến, Khối 8406, Lê Thị Công Nhân v..v.. ở trong nước, và LM Nguyễn Hữu Lễ, LM Đinh Xuân Minh v..v.. , các trang nhà Tiếng Nói Giáo dân, Vietcatholic v..v.. ở ngoài nước, những cá nhân và tổ chức tuyệt đối trung thành với giáo hoàng..

Những Điều Kiện Tiên Khởi

Chúng ta biết rằng Vatican đã 16 lần ve vãn Việt Nam với hi vọng có thể thiết lập bang giao với Việt Nam. Nếu Trung Quốc chỉ đưa ra hai điều kiện tiên quyết như trên, thì Việt Nam, với khúc mắc lịch sử liên hệ đến thực dân Pháp, liên hệ đến lịch sử phản bội dân tộc của giáo hội Công giáo ở Việt Nam, với những gì mà Vatican và các thừa sai Công giáo đã di hại ở Việt Nam, đặc biệt là di hại của nền đạo lý Thiên La – Đắc Lộ, thì Việt Nam có thể đưa ra không phải là hai, mà ít ra là 9 điều kiện rất hợp lòng dân dựa theo đề nghị của Tỳ Kheo Thích Chơn Tế:

1- “Xin lỗi dân tộc Việt Nam về những hành động sai lầm của Giáo hội Công giáo La Mã và những tín đồ Công giáo trong hai thế kỷ vừa qua, đặc biệt là trong những thời kỳ đô hộ của thực dân Pháp và dưới chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm. Giáo hoàng tiền nhiệm, John Paul II, đã xin lỗi nhiều quốc gia ngoại trừ Việt Nam, tuy rằng những bằng chứng lịch sử về tội ác của Giáo hội Công giáo của Ngài ở Việt Nam là không thể phủ bác” (Apologize to the Vietnamese people for all the erroneous actions generated by the Roman Catholic Church and its followers during the past two centuries, especially during the periods under French colonialism and under the Ngo Dinh Diem’s dictatorship. The preceding Pope, John Paul II, has already asked for a public apology from several other nations except Vietnam, even though the historical evidences of the criminality of Your church in Vietnam are irrefutable.)

2- “Bồi thường thỏa đáng cho những nạn nhân chiến tranh trong những thời kỳ chiếm thuộc địa của Pháp và dưới chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm vì chính Vatican của Ngài đã dẫn đường mở lối và tích cực ủng hộ cả hai. Một trong những tín đồ của Ngài, Giám mục Pháp Puginier, đã thú nhận dứt khoát trong một tài liệu lịch sử là “Nếu không có những linh mục và giáo dân Việt Nam thì người Pháp ở Việt Nam cũng như những con cua đã bị bẻ gãy hết càng.” (Recompense satisfactorily to the war victims during the periods under French colonialism and under the Ngo Dinh Diem’s dictatorship since it was Your Vatican who led the way and actively supported both of them. One of your ardent follower, French Catholic bishop Puginier, emphatically confessed in a historical document that: “Without the Catholic priests and (Vietnamese) Catholic populace, the French (in Vietnam) will become like a crab with broken legs”.)

3- “Hãy hoàn trả cho dân Việt Nam nhiều đất đai và tài sản mà giáo hội Công giáo đã chiếm hữu dựa vào quyền lực của chính quyền thực dân Pháp và chính phủ Ngô Đình Diệm” (Return to the people of Vietnam numerous parcels of land and properties that the Catholic Church exhorted by relying on the power of the French colonial administration and the Ngo Dinh Diem government.)

4- “Hãy hoàn trả cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam những Chùa đã bị chiếm hữu theo chủ trương biến đổi Chùa thành nhà thờ như Chúa Báo Thiên đã trở thành nhà thờ lớn Hà-Nội, Chùa Lá Vằng đã trở thành nhà thờ La Vang, một Chùa rất cổ đã trở thành nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn” (Return to the Vietnamese Buddhist Church various pagodas being exhorted to transform into Catholic cathedrals such as the Bao Thien Stupa which has become the current Main Hanoi Cathedral, the La Vang pagoda which has become the current LaVang Cathedral, a very old pagoda which has become the current Cathedral of Saigon.)

5- “Hãy giáo dục giới linh mục Việt Nam và những tín đồ từ bỏ niềm tin ô nhục “Thà mất nước chứ chẳng thà mất Chúa”, niềm tin đã biến họ trở thành những tay sai của ngoại bang đồng thời phản bội dân tộc và nền văn hóa của chúng tôi” (Educate the Vietnamese Catholic clergy and its followers to renounce the infamous credo “Better to loose the Fatherland than loosing belief in God”. The credo that turned them into lackeys of foreign governments while betraying our people and our culture.)

6- “Hãy ra lệnh cho giới linh mục Việt Nam xưng tội và chấm dứt mọi sách nhiễu tình dục đối với trẻ con và phụ nữ như đã từng xảy ra trong nhiều quốc gia khác” (Order the Vietnamese Catholic clergy to confess and to stop all sexual abuses onto children and women as already happened in many other countries.)

7- Hãy giáo dục những tín đồ Công giáo chấm dứt thái độ sai lầm, theo tín lý và kiêu căng trong niềm tin là những người phi Công giáo thì xấu và những tín ngưỡng cổ truyền, nhân bản của dân tộc chúng tôi là không chính thống” (Educate Catholics to end the wrongful, dogmatic and arrogant attitude in their belief that non-Christians are evil and traditional humanistic faiths of our people are heterodoxy.)

8-Hãy dạy dỗ giới linh mục và tín đồ Công giáo tôn trọng nhân quyền, đặc biệt trong những lãnh vực sau:

-Chấm dứt thói bắt buộc những người trong tín ngưỡng khác phải từ bỏ niềm tin tôn giáo của họ và phải cải đạo để được phép kết hôn với một người Công giáo.

-Hãy chấm dứt thói dụ những người sắp chết và/hoặc những người già bệnh tật cải đạo vào Công giáo trong khi họ ở trong tình trạng không sáng suốt hoặc trong khi họ không có thân nhân ở bên.

-Hãy chấm dứt những hoạt động từ thiện dùng tiền và thực phẩm/thuốc men để cải đạo những người nghèo và cô nhi vào Công giáo.

(Teach the Catholic clergy and followers to respect human rights, especially in the following areas:

-To end the practice of coercing peoples of other faith to deny his/her own religious belief and to be converted to Catholicism in order for them to get permission to marry with a Catholic.

-To end the practice of luring the dying and/or old aged patient to convert to Catholicism while the patient is in a bewildering state or while the patient is alone without company of relatives.

-To end the kind of charity works with money and food/medicine aids to convert the poor and the orphans to baptize them into a Catholic.)

9. “Hãy hủy bỏ ngay sự phong thánh hấp tấp cho 117 người Việt Nam và ngoại quốc chết trong nước tôi trong hai thế kỷ qua. Những bằng chứng và hồ sơ lịch sử đã chứng minh rõ ràng là họ bị kết án tử hình bởi Triều Đình vì họ đã phản bội quốc gia và/hoặc đã có những hoạt động tình báo cho những lực lượng xâm lăng Pháp. Những bằng chứng cũng đã chứng tỏ rằng họ không phải là những “thánh tử đạo” mà Vatican đã ngụy tạo lên để thúc đẩy những tín đồ Công giáo Việt Nam đi vào con đường phản bội quốc gia để được phong thánh.” (Immediately cancel the unusually urgent and serial canonization by Pope John Paul II of 117 Vietnamese and foreigners who died in my country during the past two centuries. Historical evidences and records clearly proved that they received the official death sentence by the Court because of their betrayal and/or their spying activities for the French invading forces. The evidences also show that they were not “martyrs” as maliciously fabricated by Vatican to incite the Vietnamese Catholic followers to betray their country in order to get canonized.)

Vẫn chơi lại điệu nhạc cũ

Sau đây, để có một ý niệm xác thực về sách lược ngu dân của Benedict XVI, chúng ta hãy trở lại “khúc nhạc cũ rích” trong bức thư của Benedict VXI gửi cho giáo dân Tàu để thấy rằng, tới thời đại này mà Giáo hoàng còn mang những luận điệu thần học cũ kỹ đã lỗi thời và Tây phương đã ruồng bỏ để mong mê hoặc đầu óc người dân Á Châu trong âm mưu cải đạo Á Châu.

Đúng như Trung Quốc đã nhận định: bức thư của Benedict XVI chẳng qua chỉ là “chơi lại khúc nhạc cũ rích”. Vấn đề chính là cái khúc nhạc cũ rích này đã không còn hấp dẫn trong thế giới Tây phương nữa và tôi cũng tin rằng nó không thể hấp dẫn đối với tuyệt đại đa số người dân Việt Nam ngày nay. Tại sao? Vì đó chỉ là những luận điệu thần học thuộc loại mê tín hoang đường đã cũ rích, những luận điệu có tích cách mạ lỵ đầu óc con người, cho nên đã khiến cho con người trong thế giới Tây phương ngày nay, theo chính những lời than phiền của Benedict XVI, sống như là không cần đến Thiên Chúa, mà cũng chẳng cần gì đến Chúa Giêsu nữa.

Sự thực là như vậy, nhưng Benedict XVI vẫn mang những luận điệu thần học đã lỗi thời này xuất cảng sang Á Châu, hi vọng có thể lừa dối được đầu óc người dân Á Châu. Thật vậy, chúng ta hãy đọc vài đoạn trong khúc nhạc này của Benedict XVI với vài lời phê bình ngắn của tôi. Tôi nghĩ rằng chỉ cần phê bình vài điểm trong Lời Chào mở đầu của Benedict XVI cũng đủ để cho chúng ta thấy rõ mục đích huyễn hoặc người dân Á Châu bằng những điều mê tín vô nghĩa, mâu thuẫn mà thế giới Tây phương đã từ bỏ. Trong Lời Chào mở đầu, Benedict XVI viết:

Benedict 16: “Chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô [sic], Chúa chúng ta… Ngày nay, cũng như trong quá khứ, công bố Tin Mừng nghĩa là rao giảng và làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô, chịu đóng đinh và sống lại, một Nhân Loại mới, Đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết.”

TCN: Giáo hoàng tạ ơn Thiên Chúa vì Âu Châu, một lục địa được coi là văn minh tiến bộ nhất về khoa học, triết học và thần học Ki Tô Giáo, một lục địa mà ngày nay, vì đã mở mắt ra, nên theo lời than phiền của chính giáo hoàng, cảm thấy mệt nhọc với chính văn hoá của mình, một lục địa mà con người càng ngày càng tỏ ra không cần đến Thiên Chúa, mà cũng chẳng cần gì đến Chúa Giêsu nữa. Nhưng nay, Giáo hoàng tạ ơn Thiên Chúa vì có thể Thiên Chúa sẽ giúp ông ta mang thứ văn hóa phế thải đó đi xâm lăng văn hóa Á Châu. Hơn nữa, Thiên Chúa không thể là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô vì khoa học đã chứng minh là một hồn ma (Holy Ghost) thì không thể có hai loại chromosomes X và Y để có thể sinh ra con trai như Giê-su, và hai loại nhiễm sắc thể này phải chích vào Mary bằng đường lối bình thường như bất cứ người đàn ông nào khác muốn có con với vợ mình, khi mà kỹ thuật IVF (In Vitro Fertilization) chưa được biết đến.

Vì sự thực Thiên Chúa trong Cựu Ước chỉ là sản phẩm tưởng tượng của dân Do Thái để giải thích phần nào lịch sử bất hạnh của Do Thái, nên không có ai có đầu óc còn có thể tin Thiên Chúa đó là “thân phụ của Đức Giê-su Ki-Tô”. Hơn nữa, trong lãnh vực học thuật thì chính Giám Mục John Shelby Spong trong cuốn Sinh Ra Từ Một Người Đàn Bà: Một Giám Mục Nghĩ Lại Chuyện Sinh Ra Đời Của Giê-su (Born of a woman: A Bishop Rethinks The Birth of Jesus, Harper, SanFrancisco, 1992) đã đưa ra nhận xét, trang 41:

Nhưng Giê-su đã được “sinh ra từ một người đàn bà”. Nguồn gốc sinh ra đời của Giê-su cũng gây nhiều tai tiếng như cách ông ta chết. Ông ta (Giê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời này. Chẳng có ai biết cha ông ta là ai. Rất có thể ông ta là một đứa con hoang. Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những thỏi mìn chưa kiếm ra và chưa nổ.

(But he was “born of a woman”… His origins were as scandalous as his means of death. He (Jesus) was a nobody, a child of Nazareth out of which nothing good was thought to come. No one seemed to know his father. He might well have been illegitimate. Hints of that are scattered like undetected and unexploded nuggets of dynamite in the landscape of the the early Christian tradition.)

Đó là nhận định của một Giám mục còn đang hành nghề Giám mục. Ngoài ra, Uta Ranke-Heinemann, người phụ nữ đầu tiên trên thế giới chiếm được ngôi vị Giáo sư Thần học Ca-Tô (The first woman in the world to hold “A Chair in Catholic Theology”), viết trong phần dẫn nhập của cuốn Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con như sau:

Chúng ta vấp phải sự thực sau đây về nhân vật Giê-su. Chúng ta không biết khi nào ông ta sinh ra và ở đâu cũng như khi nào ông ta chết. Ông ta là một người không có một tiểu sử. Chúng ta không biết những hoạt động của ông như là một thầy giảng trước quần chúng thật sự đúng là ở đâu và kéo dài bao lâu. Nói cho thật đúng, chúng ta chẳng biết gì nhiều hơn là ông ta đã sinh ra đời, có người theo ông ta làm môn đồ, và ông ta bị hành quyết trên giá hình chữ thập – loại hình phạt của La Mã – và như vậy có một kết cục xấu số...

Ông Giê-su này không chỉ nằm sâu dưới đất ở Jerusalem (nghĩa là thực ra đã chết và chôn ở Jerusalem. TCN) mà còn ở dưới một núi những nghệ thuật tồi tệ, chuyện hoang đường, và cách diễn giải của giáo hội.

[Ranke-Heinemann, Uta, Putting Away Childish Things, Harper-Collins., San Francisco, 1995, p. 2: We encounter this truth in the person of Jesus. We know neither when and where he was born, nor when he died: He is a man without a biography. We don’t know how long his public activity as a peacher lasted or where exactly it took place. Strictly speaking, we don’t know a whole lot more than that he was born, that there were people who followed him as his disciples, and that he was executed on the cross – the Roman version of the gallows – and thus came the wretched end... This Jesus lies burried not only in Jerusalem, but also beneath a mountain of kitsch, tall tales, and church phraseology.]

Điều lạ đối với tôi là tại sao trong thời buổi này mà Benedict XVI còn mang những nghệ thuật tồi tệ, chuyện hoang đường để mà huyễn hoặc đầu óc của đám dân ngu dốt. Không những thế ông còn tỏ ra mình là người bất lương trí thức. Thật vậy, ông ta đã là cánh tay phải của Giáo hoàng tiền nhiệm John Paul II, đã cầm đầu Bộ Truyền Giáo, biến thể của Tòa Án Xử Dị Giáo khi xưa, cho nên ông ta không thể nào không biết là, trước những khám phá khoa học liên hệ đến thuyết Tiến Hóa bất khả phủ bác trong nhiều bộ môn của khoa học, năm 1996, Giáo hoàng John Paul II đã thú nhận trước thế giới là:

“thân xác con người có thể không phải là một sự sáng tạo tức thời của Thượng đế, mà là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần”. Ngài nói: “những kiến thức mới nhất dẫn đến việc phải chấp nhận thuyết tiến hóa hơn chỉ là một giả thuyết”. (Pope John Paul II has put the teaching authority of the Roman Catholic Church firmly behind the view that “the human body may not have been the immediate creation of God, but is the product of a gradual process of evolution.. The pope said that “fresh knowledge leads to recognition of the theory of evolution as more than just a hypothesis”).

Còn nữa, tháng 7 năm 1999, trước những khám phá xác tín nhất của khoa vũ trụ học, và trước những hiểu biết của con người ngày nay về cấu trúc của trái đất, Giáo Hoàng đã bắt buộc phải tuyên bố:

“thiên đường không phải là một nơi trừu tượng mà cũng chẳng phải là một nơi cụ thể ở trên các tầng mây” (Heaven is neither an abstraction nor a physical place in the clouds), “Hỏa ngục không phải là sự trừng phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng đế, mà là trạng thái hậu quả của những thái độ và hành động mà con người đã làm trong đời này” (Hell is not a punishment imposed externally by God, but the condition resulting from attitudes and actions which people adopt in this life).

Chúng ta cũng đã biết, GH John Paul II đã chấp nhận thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ, vậy, rõ ràng là GH John Paul II đã chính thức bác bỏ thuyết “sáng tạo” của Ki Tô Giáo, phá tan huyền thoại về Adam và Eve là tổ tông loài người do Thượng đế tạo dựng từ đất sét, và kéo theo không làm gì có chuyện Adam và Eve sa ngã tạo thành tội tổ tông. Do đó, vai trò “chuộc tội” và “cứu rỗi” của Giê-su chỉ là những luận điệu thần học lừa dối của giới giáo sĩ Ki Tô Giáo khi xưa, được tiếp tục đưa ra không ngoài mục đích khai thác lòng mê tín của một số người, huyễn hoặc và khuyến dụ họ tin vào những điều không thực.

Thật vậy, sự kiện là, Giáo hoàng đã bác bỏ đức tin quan trọng nhất trong Ki-tô giáo: Quyền năng “cứu chuộc”, “cứu rỗi” , “luận phạt” của Giê-su, và cũng bác bỏ sự hiện hữu của một thiên đường, do đó hi vọng của các tín đồ Ki-tô về một cuộc sống đời đời trên thiên đường cùng Giê-su chẳng qua chỉ là một ảo vọng, bắt nguồn từ một sự mù lòa tin bướng tin càn, và sự luận phạt của Giê-su đối với những người không tín Giê-su chẳng qua chỉ là một sự hù dọa đã không còn ý nghĩa. Thật vậy, những giáo lý căn bản của Công giáo như Giê-su sinh ra từ một Nữ Đồng Trinh do Thánh Linh phủ, tội tổ tông, Giê-su chịu đóng đinh để chuộc tôi cho nhân loại, Giê-su sống lại và bay lên trời ngồi bên tay phải của Thiên Chúa v…v.. ngày nay đã không còn một giá trị nào lãnh vực học thuật về Ki Tô Giáo.

Malachi Martin, giáo sư tại viện nghiên cứu Thánh Kinh của giáo hoàng tại Rô-ma dưới triều đại giáo hoàng John XXIII (Professor at the Pontifical Biblical Institute of Rome, served in the Vatican under Pope John XXIII), đã viết trong cuốn “Sự Suy Thoái Và Sụp Đổ của Giáo Hội Rô-Ma” (The Decline and Fall of the Roman Church) như sau, trang 230:

Giáo Hoàng John XXIII nói trong buổi khai mạc Công Đồng Vatican II ngày 11 tháng 10, 1962, rằng “những giáo lý và quan niệm sai lầm vẫn còn tồn tại nhiều, nhưng ngày nay con người đã tự ý loại bỏ chúng… Nhưng nếu Roncalli (John XXIII) không thấy là điều giảng dạy mới của mình dẫn tới đâu, thì hàng trăm nhà thần học và giám mục đã thấy. Trong những thập niên 1960-70, sau khi Roncalli chết, họ đã từ bỏ niềm tin về tội tổ tông, về quỷ Satan, và về nhiều giáo lý căn bản khác.

[Martin, Malachi, The Decline and Fall of the Roman Church, p. 230: Pope John XXIII told the opening session of his council on October 11, 1962, that “false doctrines and opinions still abound,” but that “today men spntaneously reject” them… But if Roncalli did not see where his new teaching was leading, hundreds of theologians and bishops did. In the sixties and the seventies after Roncalli’s death, they drew these conclusions and abandoned belief in original sin, in the Devil, and in many other fundamental doctrines.]

Nhận rõ được tính chất hoang đường, vô hiệu, lỗi thời của “bí tích rửa tội”, của vai trò “chuộc tội” và “cứu rỗi” của Giê-su, nên trong cuốn Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Không Thì Chết (Why Christianity Must Change or Die), Giám mục John Shelby Spong đã dành riêng chương 6 để viết về đề tài Giê-su Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ (Jesus as Rescuer: An Image That Has To Go). Trong chương này, Giám Mục Spong viết như sau, trang 98-99:

“Nhân loại chúng ta không sống trong tội lỗi. Chúng ta không sinh ra trong tội lỗi. Chúng ta không cần phải rửa sạch cái tì vết tội tổ tông trong lễ rửa tội. Chúng ta không phải là những tạo vật sa ngã, mất đi sự cứu rỗi nếu chúng ta không rửa tội. Do đó, một đấng cứu thế có nhiệm vụ khôi phục tình trạng trước khi sa ngã của chúng ta chỉ là một sự mê tín trước thời Darwin và một sự vô nghĩa sau thời Darwin.”

[We human beings do not live in sin. We are not born in sin. We do not need to have the stain of our original sin washed away in baptism. We are not fallen creatures who will lose salvation if we are not baptized… A savior who restores us to our prefallen status is therefore pre-Darwinian superstition and post-Darwinian nonsense.]

Và trong cuốn “Thiên Chúa Vẫn Sống: Từ Sợ Hãi Tôn Giáo Đến Tự Do Tâm Linh” (God Lives: From Religious Fear To Spiritual Freedom, Steven J. Nash Publishing, IL., 1993), trang 114, Linh Mục James Kavanaugh viết:

Đối với tôi, đó là một huyền thoại “cứu rỗi” thuộc thời sơ khai miêu tả một người cha lấy cái chết của chính con mình để bớt đi cơn giận dữ. Đó là một chuyện ác độc không thể tưởng tượng được… Tôi sẽ không chấp nhận cái huyền thoại về một Chúa Cha khắt khe đối xử với chính con của mình, Giêsu, bằng một công lý vô tình cảm, và đòi hỏi con mình phải chết trên thập giá cho những tội lỗi của tôi. Cái huyền thoại này cũng chẳng trở thành hấp dẫn hơn vì Chúa Cha đã làm cho con sống lại, đội mồ mà lên một cách vinh quang. Tôi không thể yêu mến một người cha như vậy hoặc phải biết ơn một người con như vậy trong một câu chuyện mượn từ một câu chuyện truyền tụng của nền thần học Do Thái cổ lỗ và thay đổi nó đi. Tôi không hề yêu cầu Giêsu phải chịu khổ thay cho tôi và ngay cả muốn ông ta làm như vậy…”

[To me, it is a primitive ‘salvation” myth which portrays an angry father appeased by the death of his own son. It is a tale of unbelievable cruelty… I will not accept this mythical God-the-demanding-Father Who could treat His own son Jesus in unfeeling justice and demand his death on the cross to pay for my sins. Nor is the myth more appealing because He brought His son gloriously from the tomb. I cannot love such a Father or even be grateful for such a son in this borrowed and modified tale of archaic semitic theology. I did not ask him to suffer for me or even want him to..]

Một người như Benedict XVI không thể không biết đến những lời phát biểu của GH John Paul II cũng như những kết quả nghiên cứu về Giê-su và cuốn Thánh Kinh trong lãnh vực học thuật của rất nhiều học giả và giới chức Công Giáo, nhưng tại sao ông vẫn còn mang những “nghệ thuật thần học tồi tệ” và những chuyện hoang đường ra để mà lừa bịp đầu óc người dân thấp kém, nếu không phải là khai thác sự ngu dốt của quần chúng cho những quyền lợi thế tục. Chúng ta thấy GH John Paul II cũng như Benedict XVI đều không có sự lương thiện trí thức, đã biết rõ là nền thần học Ki Tô Giáo đã không còn giá trị trước những khám phá của khoa học về vũ trụ nhân sinh, nhưng vẫn mang nó ra để lừa dối đầu óc ngây ngô cả tin của những người dân Á Châu để mong “cải đạo Á Châu”. Thật là tội nghiệp cho những người nhắm mắt tin vào những điều không thể tin được.

Benedict 16: Thật vậy, chúng tôi đã được nghe nói về lòng tin của anh em vào Đức Giêsu Kitô và về lòng mến của anh em đối với toàn thể dân thánh; lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông cậy dành cho anh em trên trời, niềm trông cậy anh em đã được nghe loan báo khi lời chân lý là Tin Mừng đến với anh em.

TCN: Giáo hoàng ca tụng lòng tin của các tín đồ Công giáo Á Châu, trong khi phần lớn tín đồ Công giáo Âu Châu không còn tin nữa, không cần đến Thiên Chúa, mà cũng chẳng cần gì đến Chúa Giêsu nữa. Thật là tội nghiệp cho đầu óc của các tín đồ Trung Quốc nói riêng, Á Châu nói chung, nếu thực sự là họ còn có lòng tin vào “Đức Giê-su Ki Tô” như Giáo hoàng viết. Tại sao họ vẫn còn tin? Vì họ tin theo những gì giáo hội nhồi nhét vào đầu óc họ mà không tự mình tìm hiểu thực chất “Đức Giê-su Ki Tô” là như thế nào. Đã có rất nhiều công cuộc nghiên cứu về Giê-su, và mới đây tôi đã tóm tắt sơ lược những nét chính yếu về con người thực của Giê-su [Xin đọc http://www.sachhiem.net/TCNtg/ TCN64_Main.php].

Từ những kết quả nghiên cứu này, chúng ta không có một lý do nào để có thể tin Giê-su là “Chúa Cứu Thế”. Các tín đồ Công giáo ở trong tình trạng thiếu hiểu biết như vậy nên có lòng mến đối với toàn thể “dân thánh” nhưng không hề biết rằng “dân thánh” “đáng mến” của Ngài đã phạm 7 núi tội ác đối với nhân loại mà Giáo hoàng John Paul II đã phải xưng thú cùng nhân loại. Ngoài ra trong “dân thánh” còn có một số chủ chăn mang chức Giáo hoàng như Ngài nhưng cực kỳ vô đạo đức như loạn dâm, loạn luân, trụy lạc, giết người v..v.. mà lịch sử đã ghi rõ [Xin đọc bài “Đây!! Những Đức Thánh Cha” trên http://giaodiemonline.com/2007/06/duccha.htm], và gần đây nhất, có tới hơn 4000 “Chúa thứ hai ” như các linh mục, giám mục thường tự nhận, bị truy tố về tội loạn dâm với trẻ con, nhiều “Chúa thứ hai” vào ngồi đếm lịch trong tù, và giáo hội Công giáo đả phải bỏ ra trên 2 tỷ đô-la để bồi thường cho các nạn nhân tình dục của các “Chúa thứ hai”, chưa kể là báo chí đã phanh phui ra vụ các “Chúa thứ hai” đã cưỡng dâm nữ tu Công giáo trên 23 quốc gia và có trường hợp còn bắt họ đi phá thai trong khi bộ mặt đạo đức của Vatican lại rất năng nổ trong việc chống phá thai. Ngoài “hội thánh Công giáo” như trên có “hội tôn giáo thế tục” nào trên thế giới tệ hại như “hội thánh” của Benedict XVI không??

"Trời" của Thiên Chúa giáo ở đâu ?

Mặt khác, xin hỏi Giáo hoàng và toàn thể “hội thánh” (sic) chỗ nào ở trên trời khi mà trái đất đang di chuyển trong không gian với một vận tốc khoảng 100,000 cây số một giờ và quay xung quanh trục Nam Bắc khoảng 1,600 cây số một giờ? Giám Mục John Shelby Spong lương thiện hơn giáo hoàng nhiều nên đã đặt vấn đề rất trí thức về “trời” như sau:

Trời là cái gì? Đâu là trời? Điều rõ ràng là trong cái thế giới cổ xưa này, trời mà Thiên Chúa trong Cựu Ước dựng nên được nghĩ là nơi ăn chốn ở của Thiên Chúa và nó ở trên quá vòm trời. Nhưng chúng ta trong thế hệ này biết rõ rằng vòm trời không phải là mái của thế giới mà cũng chẳng phải sàn nhà của cõi trời. Vậy chúng ta muốn nói gì khi chúng ta khẳng định là Thiên Chúa toàn năng toàn trí đã dựng nên trời? Phải chăng chúng ta muốn nói đến một vũ trụ vô biên mà trong thời Thánh Kinh được viết ra, không một người nào hiểu gì về cái vũ trụ đó như thế nào?

[John Shelby Spong, Why Christianity Must Change or Die, p. 10: What i- en? Where is heaven? It is clear that in this ancient world the heaven that God created was thought of as God's home, and it was located beyond the sky. But those of us in this generation know that the sky is neither the roof of the world nor the floor of heaven. So what are we referring to when we assert that this almighty God created heaven? Are we talking about that almost infinite universe that no one living knew anything about when the Bible was written?]

Cho nên “trời” của Giáo hoàng không ở ngoài cái đầu của Giáo hoàng và các tín đồ. Tin mừng là một cái “bánh vẽ trên trời” như Mục sư Ernie Bringas đã nhận định, đó là được lên thiên đường hay lên “nước trời” cùng Chúa sau khi chết tuy rằng Giáo Hoàng John Paul II đã phán là chẳng làm gì có thiên đường ở trên các tầng mây.

"Tin mừng Phúc Âm"  ?

Người ta thường cho là những Phúc Âm trong Tân Ước mang đến tin mừng, nhưng Giáo sư David Voas lại viết cuốn “Cuốn Thánh Kinh Mang Tới Tin Xấu: Cuốn Tân Ước” [The Bad News Bible: The New Testament] Thật vậy, trong Tân Ước, ngoài cái bánh vẽ trên trời rất hoang đường của nền thần học tồi tệ Ki Tô Giáo, không có một chuyện nào có thể gọi là Tin Mừng. Đọc những lời Giê-su nguyền rủa những người không tin ông ta, đòi mang họ ra giết ngay trước mặt ông ta, và những điều khủng khiếp quái gở trong Sách Khải Huyền, một người có đầu óc không thể nào tin được là Tân Ước đã mang đến Tin Mừng. Tin Mừng chỉ là mánh mưu của những kẻ có đầu óc để dụ khị những kẻ không có đầu óc cho những quyền lợi vật chất của họ. Hãy nhìn vào tài sản của Vatican là bao nhiêu và đất đai cướp được ở khắp nơi, kể cả ở Việt Nam thì đủ biết thực chất của Công giáo là như thế nào. Mánh mưu trên và sự bất lương trí thức của Benedict XVI còn thể hiện rõ trong câu sau:

Benedict 16: Tôi, trong tư cách Người Kế Vị Thánh Phêrô và là Mục Tử toàn thể Hội Thánh..

TCN: Tại sao các tín đồ Công Giáo lại nhắm mắt tuân phục một ông Giáo hoàng mà nhiều khi rất là vô đạo đức như lịch sử đã chứng minh? Thứ nhất, vì họ tin vào một cái bánh vẽ trên trời, nghĩa là một thiên đường (mù) mà chính Giáo hoàng John Paul II đã bác bỏ. Thứ nhì, vì họ tin rằng Giáo hoàng đích thực là người kế vị Thánh Phê-rô và hội thánh Công giáo là do chính Chúa Giê-su thành lập và trao quyền lại cho Phê-rô. Nhưng sự thật có phải như vậy không?

Chìa khóa nước Trời !

Sự thật là, Giáo hội Công giáo đã dựa vào một câu ngụy tạo trong Tân ước, Matthew 16: 18-19: “…Ngươi là Phê-rô, và trên phiến đá này ta sẽ xây dựng giáo hội của ta, dầu các cửa hỏa ngục cũng không chống lại được, Ta sẽ giao cho ngươi những chìa khóa nước trời: sự gì con cầm buộc dưới đất, thì cũng cầm buộc trên trời, còn sự gì con tháo cởi dưới đất thì cũng tháo cởi trên trời…” (… you are Peter, and on this rock I will build my church, and the gates of Hades shall not prevail against it. And I will give you the keys of the kingdom of heaven, and whatever you bind on earth will be bound in heaven, and whatever you loose on earth will be losed in heaven.) để mê hoặc tín đồ rằng: “Giáo hội Công giáo của họ là do Chúa Giê-su thành lập, truyền lại cho Tông Đồ Phê-Rô làm Giáo Hoàng, và rồi các Giáo Hoàng kế tiếp là những người kế vị Phê-rô, là đại diện của Chúa (Vicars of Christ) trên trần, nghĩa là có quyền cho ai lên thiên đường (mù) thì cho v..v…”

Nhưng thật ra, mánh mưu của Giáo hội Công giáo không chỉ tạo quyền lực cho Giáo hoàng mà còn cho toàn thể giới chăn chiên. Thật vậy, Giáo hội đã biến câu trên thành những quyền lực thế tục rất hoang đường và phi lý cho giới giáo sĩ. Thí dụ, trong nghi lễ phong chức linh mục, ông Giám mục đặt tay lên đầu vị tân linh mục và phán: “Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần, chúng con tha tội cho ai thì họ được tha, cầm giữ ai thì họ bị cầm giữ.” [Giáo Lý Công Giáo, Bản dịch của Hoài Chiên và Nguyễn Khắc Xuyên, trang 231]. Theo tinh thần câu ngụy tạo mà Chúa truyền cho Phê-rô thành lập giáo hội ở trên, điều này có nghĩa là các Linh mục nắm quyền muốn cho ai lên Thiên đường thì cho, và lẽ dĩ nhiên, trong Công giáo Rô-ma, tập đoàn chăn chiên, từ Giáo hoàng xuống tới các Linh mục, ai cũng đều nắm trong tay những chìa khóa của nước trời, nếu có cái gọi là nước trời.

 Hiển nhiên đây là chuyện hoang đường nhất trong những chuyện hoang đường, xét đến vấn đề đạo đức của một số không nhỏ thuộc giới chăn chiên, từ các giáo hoàng xuống tới các linh mục. Nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận là, chính điều này đã tạo nên một tâm cảnh sợ sệt, khúm núm, quỵ lụy “bề trên”, “quên mình trong vâng phục” trong đám tín đồ thấp kém, vì họ tin rằng các “bề trên” của họ thực sự nắm trong tay cái chìa khóa của nước trời, một nước chỉ hiện hữu trong nền thần học của giáo hội để khuyến dụ tín đồ, và đã bị chính Giáo hoàng John Paul II và giới hiểu biết trên thế giới bác bỏ.

Thật vậy, đối với các học giả nghiên cứu Thánh Kinh và đối với giới trí thức ở trong cũng như ở ngoài giáo hội thì câu Matthew 16: 18-19 trong Tân Ước ở trên rõ ràng là được thêm thắt sau này với mục đích thiết lập quyền lực tinh thần cũng như quyền lợi vật chất của giới lãnh đạo Công giáo trên đám đông tín đồ thấp kém ở dưới. Nghiên cứu kỹ Tân Ước, các chuyên gia đã vạch ra rằng câu trên hoàn toàn mâu thuẫn với nhiều đoạn khác trong Tân Ước, mâu thuẫn với sự tin tưởng của Giê-su, và nhất là không thích hợp với tư cách của Phê-rô. Chứng minh?

Đọc Thánh kinh, chúng ta thấy rõ là những người viết Tân Ước đều tin rằng Giê-su sẽ trở lại trần gian trong một tương lai rất gần, ngay trong thời điểm của Giê-su. Thí dụ những đoạn sau đây đều được trích từ Thánh Kinh: Cựu Ước Và Tân Ước, Hội Quốc Tế xuất bản, 1994; và Holy Bible: The New King James Version, American Bible Society, New York, 1982:

Matthew 16: 27-28: “Ta (Con của Người: Giê-su) sẽ trở lại với các thiên sứ trong vinh quang của Cha ta để thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm. Ta cho các con biết: một vài người đang đứng đây sẽ còn sống cho đến khi nhìn thấy ta vào trong Nước ta”. (For the Son of Man will come in the glory of His Father with His angels, and then He will reward each according to his works. Assuredly, I say to you, there are some standing here who shall not taste death till they see the Son of Man coming in his kingdom.)

Matthew 24:34: “Ta quả quyết, thời đại này chưa chấm dứt, các biến cố ấy đã xảy ra rồi” (Assuredly, I say to you, this generation will by no means pass away till all these things are fulfilled)

Mark 9: 1: Chúa bảo các môn đệ: “Ta cho các con biết, một vài người đang đứng đây sẽ còn sống cho đến khi nhìn thấy nước trời thiết lập với uy quyền vĩ đại” (And He said to them, “Assuredly, I say to you that there are some standing here who will not taste death till they see the kingdom of God present with power.”)

Mark 13:30: “Ta quả quyết, thế hệ này chưa qua đi thì các biến cố đó (các biến cố xung quanh ngày tận thế và sự trở lại của Giê-su. TCN) đã xảy ra rồi”. (Assuredly, I say to you, this generation will by no means pass away till all these things take place.)

Luke 21: 27, 32: “Bấy giờ nhân loại sẽ thấy ta giáng xuống trong mây trời với vinh quang và uy quyền tuyệt đối.. Ta quả quyết: thế hệ này chưa qua, các biến cố ấy đã xảy ra rồi”. (Then they will see the Son of Man coming in a cloud with power and great glory.. Assuredly, I say to you, this generation will by no means pass away till all these things are fulfilled.)

John 14: 3: “Ta đi chuẩn bị chỗ ở cho các con. Khi chuẩn bị xong, ta sẽ trở lại đón các con về với ta để các con ở cùng ta mãi mãi.” (And if I go and prepare a place for you, I will come again and receive you to myself; that where I am, there you may be also).

Qua những đoạn trích dẫn ở trên từ Tân Ước, chúng ta hãy tự hỏi: Giê-su thành lập giáo hội và trao chức vụ giáo hoàng chăn dắt tín đồ cho Phê-rô để làm gì khi mà ông ta tin rằng ngày tận thế gần kề, ngay trong thời của ông, khi một số môn đồ của ông còn sống? Không những Giê-su tin như vậy, mà còn truyền cho các Tông Đồ đi rao giảng về một “Nước trời” sắp đến, và chỉ được giảng trong những cộng đồng người Do Thái, như được viết rõ trong Tân Ước.

Như vậy, có phải là giáo hội đã thêm thắt câu “..ngươi là Phê-rô, và trên phiến đá này ta sẽ xây dựng giáo hội của ta…” vào trong Tân Ước để lừa dối tín đồ là giáo hội do chính Chúa Giê-su thành lập và các giáo hoàng đều là những người kế vị Phê-rô? Chúng ta cũng nên biết rằng, 4 Phúc Âm trong Tân ước được viết trong khoảng từ 40 đến 80 năm sau khi Giê-su đã chết và mãi đến thế kỷ 4, 27 sách trong Tân ước bằng tiếng Hi Lạp mới được công nhận là chính thức thuộc Tân Ước, và rồi được dịch ra tiếng Latin và sau cùng mới được dịch ra các thứ tiếng khác nhau. Việc thêm thắt, ngụy tạo những đoạn trong cuốn Tân Ước không phải là khó khăn gì.

Thực ra, quan niệm về một “Nước Trời” không phải là của Giê-su mà là Giê-su chỉ lập lại một quan niệm cổ xưa của dân tộc Do Thái, một dân tộc có quá nhiều bất hạnh trong suốt giòng lịch sử cho nên luôn luôn khát vọng một quốc gia độc lập, tràn đầy sữa và mật như các Rabbi Do Thái đã từng hứa hẹn với dân Do Thái như vậy để an ủi những bất hạnh dân Do Thái đang gánh chịu, và dạy họ rằng hãy giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa của họ thì một ngày nào đó Thiên Chúa sẽ đoái thương và cho họ được hưởng một cuộc sống trong “Nước Trời’ dưới sự cai quản của chính Thiên Chúa của họ. Đây là một niềm tin nguyên thủy, đặc thù của dân tộc Do Thái, không liên quan gì đến bất cứ dân tộc nào khác.

Nhưng khi Ki Tô Giáo bành trướng trên thế giới thì họ đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về một “Nước Trời” chung cho mọi người, nhưng không ngoài điều kiện là phải tin vào Thiên Chúa và phải làm theo ý Chúa, thực sự chỉ là ý của giáo hội, vì chẳng có ai biết được ý Chúa là như thế nào. Nhưng nền học thuật về Ki Tô Giáo trong vòng 200 năm nay đã chứng tỏ rằng Giê-su chỉ là một người thường sống với một ảo tưởng: chính mình là con Thiên Chúa của Do Thái. Cho nên tin vào một Chúa không có thực, và hi vọng được lên một “nước trời” không có thực, thì có phải là phí phạm và hạ thấp tâm linh không?

Thứ nhì, đọc kỹ Tân Ước, chúng ta còn thấy, sau khi trao chìa khóa thiên đường cho Phê-rô (Matthew 16:19), chỉ 4 câu sau, Matthew 16: 23, Giê-su gọi Phê-rô là Satan: “Chúa quay lại và nói với Phê-rô: “Hãy đi ra đàng sau ta, Satan, ngươi là một sự xúc phạm đối với ta” (But he turned and said to Peter, “Get behind me, Satan! You are an offence to Me]. Cũng vì sự mâu thuẫn và phi lý trong hai câu gần sát nhau trong Thánh kinh và câu trong Luke ở trên mà Lloyd Graham đã bình luận như sau:

Như vậy là giáo hội Ca-Tô được thành lập bởi Phê-rô, người mà, chỉ 4 câu sau trong Thánh Kinh, Chúa gọi là Satan. Vậy, nếu giáo hội Ca-Tô được thành lập bởi Phê-rô thì giáo hội đó đã được thành lập bởi Satan – một sự kiện mà chúng ta đã nghi ngờ từ lâu. (Xét đến lịch sử đẫm máu đầy tội ác của Ca-Tô Giáo mà giáo hoàng John Paul II và Tòa Thánh Vatican đã phải xưng thú 7 núi tội ác trước nhân loại và xin được tha thứ thì câu bình luận của Graham ở trên không phải là không có căn bản. TCN).

Câu chuyện về Phê-rô thậm vô nghĩa – một người chết như mọi người mà lại có quyền lực trên khắp nhân loại trong muôn đời muôn kiếp. Trong những vấn đề tôn giáo, tín đồ Ca-Tô thật là nhẹ dạ, cả tin, nhưng họ có thể nhẹ dạ đến mức tin rằng, trước khi có Ki Tô Giáo, những bậc thông thái như Pythagoras, Plato, Socrates…cần đến cái tên đánh cá Do Thái ngu đần này (Phê-rô) để đầy đọa hay cứu vớt linh hồn họ hay không? Nhất định là không, và chúng ta [ngày nay] cũng vậy.

[Graham, Lloyd, Deceptions & Myths of the Bible, The Citadel Press Book, New York, 1995, p.: 438: Thus the Catholic Church is founded on Peter whom, four verses later, Jesus openly calls Satan. Thus if the Catholic Church is founded on Peter, it is founded on Satan – a fact we have long expected. Peter’s story is the veriest nonsense – one mortal man endowed with the power over all humanity for all eternity. In things religious, Catholics are indeed credulous but can they be so credulous as to believe that pre-Christian sages like Pythagoras, Plato, Socrates…require this ignorant Jewish fisherman to bind and loose theirs souls? No, and neither are we.]

Đối với chúng ta, một câu hỏi tất nhiên cũng phải được đặt ra: người Việt Nam chúng ta, từ tổ tiên muôn đời đến chúng ta, có cần đến sự đầy đọa hay cứu vớt linh hồn từ cái tên đánh cá Do Thái Phê-rô, không những ngu đần mà còn hèn nhát, bị Satan sàng sể, như được viết trong Tân Ước không? Và chúng ta có cần đến vai trò của người tự nhận là kế vị Phê-rô, và tại sao cần, khi mà vai trò Giáo hoàng đầu tiên của Công giáo Rô-ma, Phê-rô, rõ ràng chỉ là sự ngụy tạo thần học của Giáo hội?

Thứ ba, Thánh Kinh viết rõ, Phê-rô là mẫu người coi lời Chúa như không có, phản phúc và hèn nhát. Trước ngày Giê-su bị bắt, Giê-su bảo Phê-rô hãy thức cùng Giê-su để cầu nguyện cùng Giê-su, và Giê-su đi ra chỗ khác cầu nguyện. Tân Ước viễt rõ, Giê-su cũng sợ chết, không muốn chết nên cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Cha ơi, nếu có thể đừng bắt con phải uống chén đắng này” [nghĩa là đừng bắt con phải chết] (Matthew 26: 38-39: “O My Father, if it is possible, let this cup pass from Me”), nhưng khi trở lại thì Phê-rô đã ngủ khì (Matthew 26: 40).. Khi Chúa bị bắt, vì sợ bị kết tội đồng lõa, Phê-rô đã ba lần chối Chúa, thề là không hề biết Chúa (Matthew 26: 70, 72, 74: Then he began to curse and swear, saying, “I do not know the Man!”). Khi Chúa bị đóng đinh trên thập giá thì Phê-rô trốn biệt. Tại sao Phê-rô lại như vậy? Chúng ta hãy đọc Luke 22: 31-32: Thiên Chúa bảo Phê-rô: “Simon, Simon (tên khác của Phê-rô), Satan đã xin phép ta để sàng ngươi như sàng lúa mạch. Nhưng ta đã cầu nguyện cho ngươi để cho ngươi khỏi mất đức tin” [And the Lord said, “Simon, Simon! Indeed, Satan has asked for you, that he may sift you as wheat. But I have prayed for you, that your faith should not fail] Nghĩa là Phê-rô bị Satan được phép tùy ý sàng sể, và Thiên Chúa toàn năng chẳng biết làm gì hơn là cầu nguyện cho Phê-rô. Thánh Kinh đều viết ngây ngô như vậy cả. Charlie Nguyễn, nhà mấy đời theo Công Giáo nhưng đã mất đức tin, thế mà chẳng có ông giám mục, linh mục Mít nào, những người tự nhận là Chúa thứ hai, cầu nguyện để cho ông ta khỏi mất đức tin.

Một người như Phê-rô có tư cách như vậy mà Chúa lại chọn để thành lập giáo hội hay sao? Chúa không có môn đồ nào tốt hơn và hiểu biết hơn tên đánh cá Phê-rô hay sao?

Trước những bằng chứng không thể phủ bác như trên ở ngay trong Thánh Kinh, Joseph L. Daleiden, một học giả Công giáo, trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng, trang 83, cho rằng “câu chuyện ủy quyền cho Phê-rô xây dựng giáo hội là một chuyện tiếu lâm” (On the face of it, I would take it as a joke) và trích dẫn lời của Albert Camus, cho rằng “Giê-su đã riễu cợt cái tên nghèo khổ, hèn nhát Phê-rô khi bảo Phê-rô là vững như phiến đá” (Camus pointed out, Jesus must have been making fun of of poor, cowardly Peter by referring to him as a rock of steadfastness.). Rồi Daleiden kết luận:

Do đó, chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi biết rằng nhiều học giả chuyên về Thánh Kinh tin rằng câu chuyện về Phê-rô, giống như nhiều chuyện khác trong Tân Ước, đã được người ta thêm thắt vào sau.

[Daleiden, Joseph, The Final Superstition: A Critical Evaluation of the Judeo-Christian Legacy, Prometheus Books, New York, 1994, p. 83: It is not surprising, therefore, to learn that many biblical scholars believe the evidence indicates that this reference to Peter, like many other New Testament passages, was inserted at a later date.]

Nhưng không phải chỉ có các học giả như Daleiden hay Graham mới nhận ra sự phi lý trong câu chuyện về Phê-rô, mà chính những nhà Thần học nổi danh trong giáo hội Công giáo cũng phải thừa nhận rằng thuyết Chúa thành lập giáo hội và trao quyền cho Phê-rô chỉ là ngụy tạo.

Hans Kung, Giáo sư Thần học tại trường đại học nổi tiếng Tubingen ở Đức, cũng phải viết như sau:

Con người Giê-su lịch sử, tin chắc rằng ngày tận thế phải xảy ra ngay khi ông còn đang sống. Và vì sự sắp tới của Nước Trời này, không còn nghi ngờ gì nữa là ông ta không muốn lập ra một cộng đồng đặc biệt khác với nước Do Thái, với giáo lý, nghi thức thờ cúng, định chế, cơ quan chỉ đạo riêng của Do Thái. Tất cả những điều trên có nghĩa là khi còn sống Giê-su không bao giờ sáng lập một giáo hội nào. Ông ta không hề có ý tưởng thành lập và tổ chức một hoạt động tôn giáo đại qui mô như được tạo ra về sau. [Một tôn giáo như Công giáo Rô-ma ngày nay].

[Kung, Hans, Christ Sein (1976), p.338-339: The historical Jesus.. counted on the world’s coming to an end in his own lifetime. And for this coming of God’s kingdom he doubtless did not want to found a special community distinct from Israel, with its own creed, its own cult, its own constitution, its own office…All this means that in his own lifetime Jesus never found any church. He had no idea of founding and organizing a large-scale religious operation that would have to be created…]

Và Uta Ranke-Heinemann, nữ Giáo sư Thần học Công Giáo đầu tiên trong Giáo hội Công giáo, cũng viết:

Giáo hội đã biến Giê-su thành một dụng cụ tuyên truyền. Vì lý do này mà chúng ta tin vào mọi điều biện minh cho sự thành lập một giáo hội như được thêm thắt vào những lời Giê-su nói bởi những tác giả các phúc âm. Sự thêm thắt này gồm có điều Giê-su ca tụng Phê-rô như một phiến đá làm nền tảng để Giê-su xây dựng giáo hội của ông ta (Matt. 16:18), vì Giê-su không bao giờ có ý thành lập một giáo hội… Ở đây, không phải là Giê-su nói, mà là giáo hội ban khai muốn tạo cho mình một địa vị lãnh đạo và một khuôn mặt quyền lực vì sự tăng trưởng của cấu trúc lãnh đạo theo cấp bậc.

Trong chương 21, chương ngụy tạo trong phúc âm John – nghĩa là chương được thêm vào phúc âm chính sau này – ý tưởng về một vai phó đã được phát triển rõ ràng. Phê-rô trở thành kẻ chăn đàn chiên của Giê-su. Như là đại diện của Giê-su, người chăn chiên thực sự lúc đầu, hắn thay thế Giê-su trong nhiệm vụ này. Ngay sau đó, giáo hội nghĩ rằng điều quan trọng không phải là con người Phê-rô. Giáo hội quyết định rằng chức vụ của Phê-rô là nền tảng của Giáo hội, do chính Giê-su thiết lập vĩnh viễn. Với quan niệm này chúng ta có những giáo hoàng là người kế vị Phê-rô và là phụ tá của Giê-su, và chế độ giáo hoàng là nền tảng của giáo hội.

[Uta Ranke-Heinemann, Putting Away Childish Things, Harper-Collins., San Francisco, 1995, p. 217: The Church has turned Jesus into its propagandist. For this reason we take everything that presupposes or dicusses or promotes the existence of a Church as interpolation by the authors of the Gospels into Jesus’ original sayings. That includes Jesus’ hailing Peter as the rock on which he will build his church (Matt. 16:18), since Jesus never meant to found a church… It’s not Jesus who’s speaking here; it’s the early church, which was interested in having such a leadership position and authority figure because of its growing hierarchical structure. In the inauthentic chapter 21 of John – that is, in a later addition to the actual gospel – the idea of a deputy is already clearly developed. Peter becomes the shepherd of the flock of Christ. He takes over the functions of Jesus, the former and actual shepherd, as his representative. Shortly afterward, the Church began to think that the important thing was not the person of Peter. The Church decided that the office Peter held was the bedrock foundation of the Church, and that Jesus established it permanently. With this concept we have the popes as Peter’s successors and Christ’s deputies, and the papacy as the foundation of the Church.]

Một nhận định chính xác về thực chất Giáo hội Công giáo Rô Ma là của Linh Mục Joseph McCabe. Linh mục Joseph McCabe là một học giả nổi tiếng về bộ sử 8 cuốn: A Complete Outline of History. Bộ sử này được dùng trong các đại học Mỹ trong nhiều thập niên. Nhưng nổi tiếng hơn cả là một bộ sách Thế Lực Đen Quốc Tế “The Black International” (Chỉ Công giáo Rô-ma) gồm gần 20 cuốn sách mỏng, viết về mọi mặt của Công giáo.

Nhưng tác phẩm dài nhất và đầy đủ về cấu trúc của chế độ Giáo hoàng, Thực chất giới Linh Mục, Học thuật Công Giáo (Catholic Scholarship), Các lễ tiết, bí tích mê tín trong Công giáo Rô-ma v..v.. là cuốn Sự Thật Về Giáo Hội Công giáo Rô-ma (The Truth About The Catholic Church, Girard, KS; Haldeman Julius, 1942). Cuốn sách này gồm có hai phần: Phần đầu nói về Lịch sử Giáo Hội Rô-ma (The History Of The Roman Church), và Phần hai nói về Giáo Hội Ngày Nay (The Church Today). Ngay chương đầu, Linh mục Joseph McCabe viết:

Trong tất cả những chuyện giả tưởng vẫn còn được ẩn núp dưới cái dù dột nát “Chân lý Công Giáo”, truyền thuyết về chế độ giáo hoàng được thành lập bởi Chúa và hệ thống giáo hoàng thật đúng là lì lợm và có tính cách lãng mạn nhất. Chẳng có quyền lực thần thánh nào, mà chỉ là một chuỗi những ngụy tạo và cưỡng bách, những lừa đảo tôn giáo và tham vọng ngỗ ngược, phạm phải trong một thời đại cực kỳ ngu si, đã dựng lên quyền lực của giáo hoàng, hệ thống giáo sĩ và tín ngưỡng.

Từ “Giáo hội” chẳng có nghĩa gì trong thời của Giê-su và Phê-rô. Không có từ đó trong tiếng Aramic. Giê-su đã phải nói là “Giáo đường” [nơi tụ tập cầu nguyện của người Do Thái], và ông ta ghét những Giáo đường.

[Of all the fictions which still shelter from the storm of modern criticism under the leaky umbrella of “Catholic Truth”, the legend of the divine foundation of the Papacy and the Papal system is quite the boldest and most romantic. No divine force, but a pitifully human series of forgeries and coercions, of pious frauds and truculent ambitions, perpetrated in an age of deep ignorance, built up the Papal power, hierarchy and creed…The word “church” had no meaning at all in the days of Christ and Peter. There was no such word in Aramaic. Christ would have had to say “synagogue”; and he hated synagogues.]

Ngoài ra, chúng ta cũng nên biết, Hội Nghiên Cứu Về Giê-su (The Jesus Seminar) gồm nhiều học giả thuộc mọi hệ phái Ki-tô, sau nhiều năm nghiên cứu, cũng đưa ra cùng một kết luận, nghĩa là, Giê-su không hề có ý định thành lập giáo hội cũng như không hề ủy quyền cho Phê-rô xây dựng giáo hội. Tất cả chỉ là những điều giáo hội Công giáo bịa đặt để tạo quyền lực cho giáo hội mà thôi.

Cũng vì những bằng chứng không thể chối cãi được ở ngay trong Thánh Kinh mà khi được hỏi rằng: “Giê-su có ý định thành lập một tôn giáo mới, tôn giáo mà ngày nay chúng ta gọi là Ki Tô Giáo, hay ít nhất là tạo ra một giáo hội Ki Tô tách biệt (ra khỏi Do Thái giáo. TCN) không?” (Did Jesus intend to found a new religion, the one we now call Christianity, or at least create a separate Christian church?), Linh mục John Dominic Crossan đã trả lời: “Câu trả lời cho câu hỏi đó là một chữ “KHÔNG” quyết định” (The answer to that is an emphatic NO).

Vậy mà ngày nay, Giáo hoàng Benedict XVI vẫn thản nhiên tự nhận là Tôi, trong tư cách Người Kế Vị Thánh Phêrô và là Mục Tử toàn thể Hội Thánh” mà không chút ngượng ngùng trước thế giới thì chúng ta phải hiểu là, Giáo hoàng có thể là bất cứ cái gì khác nhưng thiếu vắng liêm sỉ và lương thiện trí thức.. Lịch sử đã chứng tỏ Giáo hội Công giáo triệt để khai thác sự ngu dốt của quần chúng và cho đến ngày nay, vẫn duy trì sách lược giam giữ tín đồ trong sự ngu dốt, trong một ngục tù tâm linh, không dám cho tín đồ biết về những sự thực về Kinh Thánh cũng như về Công Giáo, tuy rằng những sự thật này đã được phổ biến rộng rãi trên thế giới. Điều bất hạnh cho nhân loại là ngày nay vẫn có hàng triệu người tin vào những điều lừa dối hoang đường của Giáo hội Công giáo, không hề quan tâm đến những điều phi lý nằm trong những thủ đoạn thần học này..

Chúa Giê-su, nếu thực sự có một nhân vật được gọi là Chúa, thì Chúa cũng không hề có ở trong giáo hội Công giáo Rô-ma ngụy tạo này, và những người tin rằng có thể đến với Chúa qua ngả trung gian của giáo hội Công giáo Rô-ma hay qua vị chủ chăn hay các linh mục, giám mục là những người sống với một ước muốn, một hi vọng không tưởng, không bao giờ có thể thành sự thật được. Đây là một sự thật khá đau lòng đối với một số người đã từng đặt hết niềm tin vào một giáo hội với hi vọng có thể đến với Chúa qua trung gian của giáo hội. Nhưng dù đau lòng cách mấy, khi đối diện với một sự thật bất khả phủ bác, một số không ít người can đảm đã dứt khoát ra khỏi cái ngục tù tâm linh đã giam hãm mình trong nhiều năm. Và đây là một sự kiện.

Ngoài ra và hơn nữa, điều đáng nói ở đây là, ngoài sự vạch ra sự gian dối trên, các chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh còn chứng minh rằng: Giê-su, với những lời hứa hẹn hão huyền đầy tính chất tự tôn, tự cao, tự đại, là người mắc bệnh tâm thần hoang tưởng, và thực tế đã cho các môn đệ ăn bánh vẽ vì ông ta đã ra đi và không hề trở lại. 2000 năm qua, những người tin là Giê-su có quyền phép “cứu rỗi” họ và cho họ lên thiên đường ở cùng ông đã dài cổ ra ngóng chờ “ngày trở lại” của Giê-su, nhưng năm này qua năm khác, thế hệ này qua thế hệ khác, thiên niên kỷ này qua thiên niên kỷ khác, Giê-su vẫn biệt tăm, tuy rằng trong thế giới Ki Tô có nhiều vị lãnh đạo tôn giáo đã nhiều lần tiên đoán ngày trở lại của Chúa Giê-su, nhưng không có lần nào trở thành hiện thực. Làm sao ông ta có thể trở về được khi ông ta đã bị đóng đinh trên thập giá, chết, và táng xác? Lời hứa hẹn vô trách nhiệm đầy tính cách lừa dối những kẻ nhẹ dạ như trên có giá trị gì khi những điều ông hứa không hề mảy may thực hiện được đã 2000 năm nay. Nhưng điều kỳ lạ là trên thế giới hiện nay vẫn có hàng triệu người tiếp tục tin tưởng và mong chờ ngày Giê-su trở lại trần, nếu bộ xương của Giê-su trong một tiểu quách mới tìm thấy ở Jerusalem có thể trở lại trần với nguyên vẹn hình người, hay hình Chúa..

Trên đây chỉ là vài nhận xét về vài đoạn trong Lời Chào của GH Benedict XVI. Đọc toàn bản văn của bức thư, chúng ta thấy đúng là Benedict XVI đã chơi lại “khúc nhạc cũ rích” của thời Trung Cổ. Thật vậy, chúng ta đã biết, bản chất Benedict XVI là một người cuồng tín thuộc thời Trung Cổ. Bởi vậy trong thời đại ngày nay, thời đại của những Christopher Hitchens, Sam Harris, Richard Dawkins v..v.. mà ông ta còn có thể nói lên được một câu: “Niềm tin vào Giê-su là điều duy nhất sẽ cứu thế giới” (Newsweek, May 21, 2007: Belief in Jesus is the only thing that will save the world). Ông ta không nói là cứu thế giới như thế nào, cứu khỏi các thiên tai, bệnh tật, hay cứu khỏi cái ngục tù tâm linh của Công Giáo Rô-ma, điều mà mọi tín đồ Công Giáo rất cần đến trong đời này. Trong bức thư, chúng ta nhận thấy ông ta vẫn đưa ra những luận điệu khoa trương đã lỗi thời như “Thiên Chúa là tình yêu”, “vị Giám Mục Rôma, như người Kế Vị Thánh Phêrô, là nguồn mạch và nền tảng vĩnh hằng và hữu hình”, “Giáo Hội đã được Chúa Kitô xây dựng trên Phêrô và các thánh Tông Đồ khác”. Cho tới ngày nay, gần 2000 năm sau khi Giê-su “chịu đóng đinh”, nghĩa là đã chết khi không muốn chết như Tân Ước đã viết rõ, để cứu chuộc nhân loại, nhưng số tín đồ Công Giáo, qua những chính sách cưỡng bách cải đạo, toa rập với thực dân Âu Châu để truyền đạo v.. v.., và kể cả những đứa con nít mới sinh ra đã vác đi rửa tội cùng những con chiên đã bỏ đạo [ở Nam Mỹ mỗi ngày có tới 8000 con chiên bỏ đạo Công Giáo] mà con số tín đồ Công Giáo trên khắp thế giới cũng chỉ vào khoảng 15 hay 16% trên tổng số hơn 6 tỷ người trên thế giới, vậy mà Benedict XVI vẫn tiếp tục huênh hoang phán rằng “Niềm tin vào Giê-su là điều duy nhất sẽ cứu thế giới”, “Giáo hội Công Giáo Rô-ma là giáo hội duy nhất mang sự “cứu rỗi” đến cho nhân loại” v.. v.. Benedict XVI vẫn tiếp tục mang những luận điệu thần học tồi tệ và hoang đường ra để khuyến dụ đám con chiên vốn không có mấy đầu óc.

Vài Lời Cuối.

Đến đây, tôi muốn đặt một câu hỏi với các đồng bào của tôi theo Ki Tô Giáo, Công giáo cũng như Tin Lành: Tín đồ Ki-tô Việt Nam theo đạo Thiên Chúa là vì cái gì? khi mà những nghệ thuật tồi tệ và hoang đường của nền thần học Ki Tô Giáo về “cứu chuộc”, “cứu rỗi”, “thiên đường”, “địa ngục” v..v.. đã không còn chỗ đứng trong thế giới ngày nay, ít ra là trong giới hiểu biết ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-Tô. Qua phần trình bày ở trên, tôi tin rằng các độc giả đã tìm ra câu trả lời. Riêng đối với tôi, tôi thấy không có một lý do nào có thể thuyết phục là người Việt Nam cần đến đạo Thiên Chúa.

Tại sao? Không phải vì tôi không tin như các Ki-tô hữu, cũng không phải vì tôi là người ngoại đạo nên cố ý phủ bác niềm tin của các Ki-tô hữu. Mà vì sự “cứu rỗi” của Giê-su, dính liền với những quan niệm thần học về “tội tổ tông”, “thiên đường” và “hỏa ngục” v..v.. không đặt trên một căn bản nào, thần học cũng như khoa học, có thể thuyết phục được những người có đôi chút hiểu biết. Hiểu biết ở đây là tôi muốn nói hiểu biết về thực chất Kinh Thánh, về lịch sử Do Thái, về sự bành trướng Ki-tô giáo trên thế giới, về khoa học chứ không phải là hiểu biết đại cương về những bộ môn khác. Tôi không thể nào trình bầy ở đây những luận cứ để bảo vệ sự xác định của tôi vì nó quá dài.

Để thay thế, tôi chỉ xin đặt cho các Ki-tô hữu hay Cơ đốc nhân hay dân Chúa vài câu hỏi để các bạn, tôi không coi ai là kẻ thù, suy nghĩ.

- Các bạn có biết niềm tin về một đấng cứu thế thật ra chỉ là niềm tin của người Do Thái về một người anh hùng Do Thái xuất hiện để cứu dân tộc Do Thái ra khỏi những nghịch cảnh của một quốc gia ở trong vòng nô lệ?

- Các bạn có bao giờ suy nghĩ về sự kiện dân Do Thái là dân được Thượng đế chọn nhưng lại không tin Con Một của Thượng đế, Giê-su, là đấng cứu thế mà chỉ coi Giê-su như một tiên tri giống như nhiều tiên tri khác trong Cựu Ước? Cũng vì vậy mà sau này, khi Ki-tô giáo nâng Giê-su lên hàng cứu thế cho cả nhân loại, đã cực kỳ thù ghét người Do Thái và vu cho người Do Thái cái tội “giết Chúa” [nếu Chúa có thể bị giết] và bạo hành người Do Thái trong nhiều thế kỷ với cao điểm là Hitler, một tín đồ Công giáo, đã tàn sát 6 triệu người Do Thái trong Đệ Nhị Thế Chiến.

- Các bạn có biết Cựu Ước chỉ là niềm tin của dân tộc Do Thái và Tân Ước chỉ là sự tiếp nối của Cựu Ước để hoàn thành những luật của Thượng đế trong Tân Ước như chính Giê-su đã khẳng định?

- Các bạn có biết Kinh Thánh gồm Cựu Ước và Tân Ước được viết trong bối cảnh lịch sử của dân Do Thái cách đây ít nhất là gần 2000 năm (Tân Ước), khi mà sự hiểu biết của con người về nhân sinh, vũ trụ của những người viết Kinh Thánh còn ở trong thời kỳ bán khai, cho nên đã có quá nhiều sai lầm về thần học cũng như về khoa học?

- Các bạn có biết là những người viết Kinh Thánh hoàn toàn không có một ý niệm nào về sự cấu tạo của vũ trụ và trái đất, cho rằng trái đất phẳng và dẹt, có 4 góc, do đó không thể biết là ở phía bên kia của trái đất còn có nhiều dân tộc khác, cho nên tên các nhân vật trong Kinh Thánh hoàn toàn là ở trong vùng Trung Đông, không hề có một tên nào ở Á Đông như tên Tàu hay tên Việt Nam?

- Các bạn có biết rằng chính giáo hoàng John Paul II đã phủ nhận sự hiện hữu của một thiên đường ở trên các tầng mây, và đã thú nhận là con người có thể không do Thượng đế tạo ra một cách tức thời mà là do một quá trình tiến hóa lâu dài. Như vậy thuyết sáng tạo và thuyết về tội tổ tông chẳng qua chỉ là những huyền thoại của dân Do Thái. Không có sáng tạo, không có tội tổ tông, không có thiên đường, vậy thì ai cần ai chuộc tội, ai cần ai cứu rỗi? Chẳng có lẽ Chúa chết là để chuộc những tội ác như cướp của, giết người hay loạn dâm? Các bạn có đủ can đảm để chất vấn hay phản đối giáo hoàng về điều này không?

- Các bạn có biết, qua những nghiên cứu của các học giả, chuyên gia về Kinh Thánh ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-tô, kể cả một số chức sắc trong Ki Tô Giáo, trong mấy trăm năm nay đã đồng thuận ở một điểm: Giê-su Thần Học và Giê-su Lịch Sử [con người thực của Giê-su] là hai nhân vật hoàn toàn khác nhau? Do đó tất cả những điều các bạn tin về Giê-su chỉ là Giê-su theo Thần học chứ không phải là Giê-su thực, MỘT NGƯỜI THƯỜNG NHƯ MỌI NGƯỜI, nhưng hoang tưởng cho mình chính là Con của Thượng đế [của dân Do Thái].

- Các bạn có biết là các khoa học gia trong Ki-tô giáo, với những máy móc tối tân nhất, những kỹ thuật tinh vi nhất, bén nhạy nhất, được dùng để cố chứng minh là trong con người có một linh hồn độc lập, trường tồn, nhưng cho tới ngày nay đã hoàn toàn thất bại? Vậy hi vọng rằng khi chết sẽ được Chúa “cứu rỗi” cho lên thiên đường để chờ ngày phần hồn đoàn tụ với xác chết Chúa làm cho sống lại, chỉ là một ảo tưởng vô vọng của những người tin vào một Chúa mà không phải là Chúa?

- Các bạn có biết, theo như đoạn cuối trong sách Khải Huyền, thì Nước Trời chỉ là một Jerusalem mới của người Do Thái được đặt dưới quyền thống trị của Thiên Chúa của dân Do Thái mà thôi?

Còn nhiều câu hỏi nữa, nhưng tôi cho rằng như vậy cũng đã tạm đủ, trừ hai điều mà nay các bạn đã biết và một câu hỏi cuối cùng.

1.Giáo hội Công Giáo tuyệt đối không phải là do Chúa Giê-su thành lập. Do đó, Phê-rô tuyệt đối không phải là Giáo hoàng đầu tiên. Do đó, các giáo hoàng của Giáo hội Công giáo tuyệt đối không phải là những người kế vị Phê-rô và không phải là đại diện của Chúa trên trần (Vicars of Christ).

2.Giáo hoàng John Paul II đã bác bỏ thuyết “Sáng Tạo” nghĩa là không làm gì có “tội tổ tông”. Do đó, vai trò “cứu chuộc” và “cứu rỗi” của Giê-su trở thành vô nghĩa. Giáo hoàng John Paul II cũng còn phủ nhận sự hiện hữu của một “thiên đường” hay “hỏa ngục”.

Vậy thì câu hỏi cuối cùng là :

Người Việt Nam theo đạo Thiên Chúa là vì cái gì?

Các bạn hãy suy nghĩ kỹ và trả lời với tất cả sự lương thiện trí thức của mình.

 

Trần Chung Ngọc

 


Quanh việc Vatican "viếng thăm" Việt Nam"

  • Web cá nhân: Chiến dịch Giáo Hoàng
  • VietNam NgayNayRadio: "Việt Nam Có Nên Bang Giao Với Vatican Hay Không ?"