BANG GIAO “BẮC KINH – VATICAN” ??
Một Kinh Nghiệm Quý Giá Cho Việt-Nam
Trần Chung Ngọc
http://sachhiem.net/TCN/TCNts/TCNts35.php
11 tháng 3, 2009
LTS: Qua nhiều bài phân tích về Vatican và giáo hội Rô Ma đăng tải nhiều nơi và trong sachhiem.net, có hàng trăm ngàn lý do không nên thiết lập ngoại giao với triều đình Vatican, và không có lấy một lý do nào để thảo luận ngoại giao với cái cơ chế không phải đạo, không phải đức, một quốc gia không giống ai này. Cái tổ chức quái dị này đang bị Âu Tây ruồng bỏ. Nhưng vấn đề cứ phải lập lại vì họ cứ đeo sát bám chặt như đĩa đói để được thu hồn hút vía những nước Á châu, nơi chưa biết nhiều về thành tích dã man của họ. Bài viết sau đây tóm tắt lại những trọng điểm cần biết để cho Việt Nam còn có những ngày mai tươi đẹp.(SH)
Ngày 20 tháng 12, 2008, để ăn
mừng 50 năm tự trị của Giáo hội Công giáo ở Trung Quốc, về quyền tấn phong các
giám mục, Bắc Kinh, một lần nữa, lại nhắc lại hai điều kiện tiên quyết để có
thể có bất cứ cuộc đối thoại nào giữa Bắc Kinh và Vatican, hai điều kiện này
đã được đưa ra năm 2007, khi giáo hoàng Benedict XVI tung ra một bức thư gửi
giáo hội Công giáo ở Trung Quốc :
-Vatican
không được xía vào chuyện nội bộ chính trị của Trung Quốc, gồm cả dùng chiêu
bài tôn giáo để xía vào chuyện nội bộ của Trung Quốc
[kể cả việc tấn phong các giám mục]
-Vatican
phải đoạn giao với Đài Loan và công nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là chính
quyền hợp pháp duy nhất đại diện Trung Quốc.
[BEIJING, China, December 20, 2008 -- The
occasion was the celebration of the 50th anniversary of the autonomy of the
Chinese church, in regard to the appointment and consecration of bishops. China
yesterday remembered the preconditions for any dialogue with the Holy See: "The
Vatican must not interfere in China's internal politics, including using
religion to interfere in our country's domestic affairs," (including the
appointment of bishops); The Vatican must break off its "so-called diplomatic
relationship" with Taiwan and recognize the government of the People's Republic
of China as the sole legal government representing China.] (AsiaNews)
Năm 2007, Benedict XVI đã gửi cho giáo dân ở Trung Quốc
một bức thư dài 55 trang đòi lại quyền để cho giáo dân Trung Quốc trở lại làm nô
lệ cho Vatican, phải để cho Vatican có quyền chọn người để Vatican tấn phong
giám mục, và giáo dân phải tiếp tục “quên mình trong vâng phục” , tuân hành “Đức
vâng lời” của Tòa Thánh, tuyệt đối vâng lời “tông huấn” (sic) của một “đức thánh
cha” mà đạo đức tôn giáo đã là một câu hỏi lớn cho cả thế giới phi-Công giáo
Rô-ma.
Giáo hoàng, với tâm cảnh của các giáo hoàng trong thời Trung Cổ, muốn
giành lại thần quyền của ông ta, nghĩa là bắt giáo dân Trung Hoa phải trung
thành với một ông giáo hoàng người Đức, ngồi ở La Mã và nổi tiếng vì một số danh
hiệu người đời đã tặng ông ta:
-“Hồng Y Thiết giáp” (Panzerkardinal),
vì ông ta có những hành động liều lĩnh, vô trí tuệ, nói năng bừa bãi, giống như
một khối sắt biết di chuyển, chuyên nghề xung kích, và qua lời phê phán
trước đây của ông về Phật Giáo khi nhà báo phỏng vấn ông về phản ứng đối nghịch
của Phật giáo trước cuốn Bước qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng [của John Paul II],
mà ông là người viết chính: “Buddhism is a kind of spiritual auto-eroticism”
(Phật Giáo là một loại tự dâm tâm linh), thì
dường như Benedict XVI không có mấy giáo dục và đạo đức tôn giáo; “the
God’s Rottweiler” (Rottweiler là một giống chó Đức giữ nhà rất hung tợn);
- “Đại Phán Quan” (The Grand Inquisitor), vì các biện pháp truy tố, đàn áp
nhiều nhà thần học Công giáo có những điểm không đồng ý với Vatican.
Cho tới nay, chưa có thư phúc đáp chính
thức của Chính Phủ Trung Quốc về bức thư của giáo hoàng. [So far, there has been
no official response from the Chinese government to the pope's letter.] Trung
Quốc nhìn rõ mánh mưu của Vatican: Giáo hoàng Benedict XVI chỉ tiếp nối chủ
trương cải đạo Á Châu, sách lược xâm lăng văn hóa Á Châu của Giáo hoàng tiền
nhiệm John Paul II.
Chúng ta biết rằng, vì Công giáo nói riêng, Ki Tô Giáo
nói chung, suy thoái thê thảm ở phương trời Âu Mỹ, và đây là một sự kiện bất khả
phủ bác, cho nên Vatican tìm cách bành trướng sang Á Châu, khai thác sự nghèo
khó, kém hiểu biết của quần chúng trong một số nước ở Á Châu, hi vọng có thể
mang những đồ phế thải ở Âu Châu để mê hoặc đám dân thấp kém, biến họ thành đám
tín đồ cuồng tín trong cái ngục tù tâm linh của mình, tăng thêm sự cuồng tín của
đám giáo dân đã có sẵn tại địa phương qua những màn phong thánh bừa bãi những
tên Hán gian, Việt gian, và từ đó sẽ có thể thu vét được tài sản qua sách lược
cố hữu “ngu dân dễ trị” của giáo hội mà sử sách đã ghi rõ.
Về thực tế,
Vatican không giúp ích gì cho Trung Quốc hay cho bất cứ quốc gia nào khác trong
việc phát triển kỹ thuật, kinh tế v..v… mà chỉ cố tạo một đoàn quân thứ 5 hùng
hậu tại các quốc gia để cho những mục đích thế tục của Vatican.
Theo tin từ Hồng Kông thì Bộ Ngoại Giao
Trung Quốc đã lên tiếng dứt khoát bác bỏ một bức thư như vậy từ năm 2007 vì nội
dung bức thư vẫn xoay quanh tâm điểm là “chơi lại khúc nhạc cũ rích”.
Cái “khúc nhạc cũ rích” này là những luận điệu thần học tồi tệ, hoang đường,
đã lỗi thời, mà Tây phương đã ruồng bỏ, và nhất định là chính giáo hoàng cũng
không còn tin [vì trong thời đại này không ai có đầu óc còn có thể tin được],
nhưng vì quyền lực của giáo hội nằm trong đám tín đồ thấp kém, nên ông ta vẫn
đưa ra một cách thiếu lương thiện trí thức để mê hoặc quần chúng. Thật vậy, căn
bản của vấn nạn Ki Tô Giáo ngày nay là, qua những công cuộc nghiên cứu nghiêm
chỉnh của nhiều học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-Tô, cộng với
nội dung cuốn Thánh Kinh gồm Cựu Ước và Tân Ước, Thiên Chúa của Ki Tô Giáo và
con ông ta, Giê-su, là những nhân vật không đáng để cho ai kính trọng, khoan nói
đến thờ phụng [Xin đọc bài “Chúa Cha và Chúa Con Của Người Ki-Tô-Giáo”:
http://giaodiemonline.com/2009/03/god.htm]
Chúng ta biết rằng, trong bức thư gửi cho giáo hội ở Trung Quốc được xem là
đáng kể nhất từ xưa đến nay, giáo hoàng thiết tha van xin một cuộc đối thoại
tích cực hơn với nhà nước vô thần [sic] và tìm cách lập lại quan hệ ngoại
giao đã bị chấm dứt hai năm sau khi chính quyền Cộng Sản lên cầm quyền năm
1949. Trong ba năm qua, có nhiều dấu hiệu về một cuộc đối thoại có thể xẩy ra
giữa các viên chức của Vatican và các giới chức trong Ủy Ban Tôn Giáo của Nhà
Nước Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc, khi khẳng định lại hai điều kiện tiên
quyết trên và ăn mừng 50 năm tự trị của giáo hội ở Trung Quốc, thì Trung Quốc có
thể đã làm tắt đi hi vọng đối thoại [China’s hardline speech, and the
celebration of the 50th anniversary of episcopal autonomy, threaten to
extinguish any hope.]
Trung Quốc là một nước với trên 1.3 tỷ dân
nhưng chưa tới nửa phần trăm (0.4%) theo Công giáo mà một số lớn lại thuộc giáo
hội quốc doanh. Cho nên Vatican nhắm vào một “mùa gặt mới” ở những miền đất phì
nhiêu này của Á Châu, nhưng ông có thành công không, cái đó còn tùy thuộc dân
trí của người dân trong các quốc gia ở Á Châu, và cũng tùy thuộc nhiều vào chính
sách tôn giáo của Nhà Nước trong mỗi quốc gia.
Chúng ta đã biết, Trung Quốc
không nhân nhượng trong vấn đề dân của mình phải trung thành với một thế lực
ngoại bang dù thế thực đó, bản chất chỉ là một định chế thế tục, nhưng thường
nấp sau bình phong tôn giáo. Tôi hi vọng Việt
Nam cũng có một chính sách tôn giáo hợp lý như Trung Quốc. Nhà Nước
nên để ý là những lực lượng chống phá Nhà Nước ngày nay, ở trong nước cũng như ở
ngoài nước, đều thuộc Công giáo Rô Ma hoặc Tin Lành: LM Nguyễn Văn Lý, LM Phan
Văn Lợi, LM Ngô Quang Kiệt, Nguyễn Chính Kết,
đảng Thăng Tiến, Khối 8406, Lê Thị Công Nhân v..v.. ở trong nước, và LM
Nguyễn Hữu Lễ, LM Đinh Xuân Minh v..v.. , các trang nhà Tiếng Nói Giáo dân,
Vietcatholic v..v.. ở ngoài nước, những cá nhân và tổ chức tuyệt đối trung thành
với giáo hoàng..
Những Điều Kiện Tiên Khởi
Chúng ta biết rằng Vatican đã 16 lần ve vãn
Việt Nam với hi vọng có thể thiết lập bang giao với Việt Nam. Nếu Trung Quốc
chỉ đưa ra hai điều kiện tiên quyết như trên, thì Việt Nam, với khúc mắc lịch sử
liên hệ đến thực dân Pháp, liên hệ đến lịch sử phản bội dân tộc của giáo hội
Công giáo ở Việt Nam, với những gì mà Vatican và các thừa sai Công giáo đã di
hại ở Việt Nam, đặc biệt là di hại của nền đạo lý Thiên La – Đắc Lộ, thì Việt
Nam có thể đưa ra không phải là hai, mà ít ra là 9 điều kiện rất hợp lòng dân
dựa theo đề nghị của Tỳ Kheo Thích Chơn Tế:
1-
“Xin lỗi dân tộc Việt Nam về những
hành động sai lầm của Giáo hội Công giáo
La Mã và những tín đồ Công giáo trong hai thế kỷ vừa qua,
đặc biệt là trong những thời kỳ đô hộ của thực dân Pháp và dưới chính quyền độc
tài Ngô Đình Diệm. Giáo hoàng tiền nhiệm, John Paul II, đã xin lỗi nhiều quốc
gia ngoại trừ Việt Nam, tuy rằng những bằng chứng lịch sử về tội ác của Giáo hội
Công giáo của Ngài ở Việt Nam là không thể phủ bác” (Apologize to the
Vietnamese people for all the erroneous actions generated by the Roman Catholic
Church and its followers during the past two centuries, especially during the
periods under French colonialism and under the Ngo Dinh Diem’s dictatorship. The
preceding Pope, John Paul II, has already asked for a public apology from
several other nations except Vietnam, even though the historical evidences of
the criminality of Your church in Vietnam are irrefutable.)
2-
“Bồi thường thỏa đáng cho những nạn nhân
chiến tranh trong những thời kỳ chiếm thuộc địa của Pháp và dưới chính quyền độc
tài Ngô Đình Diệm vì chính Vatican của Ngài đã dẫn đường mở lối và tích cực ủng
hộ cả hai. Một trong những tín đồ của Ngài, Giám mục Pháp Puginier, đã thú nhận
dứt khoát trong một tài liệu lịch sử là “Nếu không có những linh mục và giáo
dân Việt Nam thì người Pháp ở Việt Nam cũng như những con cua đã bị bẻ gãy hết
càng.” (Recompense satisfactorily
to the war victims during the periods under French colonialism and under the Ngo
Dinh Diem’s dictatorship since it was Your Vatican who led the way and actively
supported both of them. One of your ardent follower, French Catholic bishop
Puginier, emphatically confessed in a historical document that: “Without the
Catholic priests and (Vietnamese) Catholic populace, the French (in Vietnam)
will become like a crab with broken legs”.)
3-
“Hãy hoàn trả cho dân Việt Nam nhiều
đất đai và tài sản mà giáo hội Công giáo đã chiếm hữu dựa vào quyền lực của
chính quyền thực dân Pháp và chính phủ Ngô Đình Diệm”
(Return to the people of Vietnam numerous parcels of land and properties
that the Catholic Church exhorted by relying on the power of the French colonial
administration and the Ngo Dinh Diem government.)
4-
“Hãy hoàn trả cho Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam những Chùa đã bị chiếm hữu theo chủ trương biến đổi Chùa thành nhà thờ
như Chúa Báo Thiên đã trở thành nhà thờ lớn Hà-Nội, Chùa Lá Vằng đã trở thành
nhà thờ La Vang, một Chùa rất cổ đã trở thành nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn”
(Return to the Vietnamese Buddhist Church various pagodas being exhorted to
transform into Catholic cathedrals such as the Bao Thien Stupa which has become
the current Main Hanoi Cathedral, the La Vang pagoda which has become the
current LaVang Cathedral, a very old pagoda which has become the current
Cathedral of Saigon.)
5-
“Hãy giáo dục giới linh mục Việt Nam và
những tín đồ từ bỏ niềm tin ô nhục “Thà mất nước chứ chẳng thà mất Chúa”, niềm
tin đã biến họ trở thành những tay sai của ngoại bang đồng thời phản bội dân tộc
và nền văn hóa của chúng tôi” (Educate
the Vietnamese Catholic clergy and its followers to renounce the infamous credo
“Better to loose the Fatherland than loosing belief in God”. The credo
that turned them into lackeys of foreign governments while betraying our people
and our culture.)
6-
“Hãy ra lệnh cho giới linh mục Việt Nam
xưng tội và chấm dứt mọi sách nhiễu tình dục đối với trẻ con và phụ nữ như đã
từng xảy ra trong nhiều quốc gia khác”
(Order the Vietnamese Catholic clergy to confess and to stop all sexual abuses
onto children and women as already happened in many other countries.)
7-
Hãy giáo dục những tín đồ Công giáo
chấm dứt thái độ sai lầm, theo tín lý và kiêu căng trong niềm tin là những
người phi Công giáo thì xấu và những tín ngưỡng cổ truyền, nhân bản của
dân tộc chúng tôi là không chính thống” (Educate Catholics to end the
wrongful, dogmatic and arrogant attitude in their belief that non-Christians are
evil and traditional humanistic faiths of our people are heterodoxy.)
8-Hãy
dạy dỗ giới linh mục và tín đồ Công giáo tôn trọng nhân quyền, đặc biệt trong
những lãnh vực sau:
-Chấm
dứt thói bắt buộc những người trong tín ngưỡng khác phải từ bỏ niềm tin tôn giáo
của họ và phải cải đạo để được phép kết hôn với một người Công giáo.
-Hãy
chấm dứt thói dụ những người sắp chết và/hoặc những người già bệnh tật cải đạo
vào Công giáo
trong khi họ ở trong tình trạng không sáng suốt
hoặc trong khi họ không có thân nhân ở bên.
-Hãy
chấm dứt những hoạt động từ thiện dùng tiền và thực phẩm/thuốc men để cải đạo
những người nghèo và cô nhi vào Công giáo.
(Teach the Catholic clergy
and followers to respect human rights, especially in the following areas:
-To
end the practice of coercing peoples of other faith to deny his/her own
religious belief and to be converted to Catholicism in order for them to get
permission to marry with a Catholic.
-To
end the practice of luring the dying and/or old aged patient to convert to
Catholicism while the patient is in a bewildering state or while the patient is
alone without company of relatives.
-To
end the kind of charity works with money and food/medicine aids to convert the
poor and the orphans to baptize them into a Catholic.)
9. “Hãy hủy bỏ
ngay sự phong thánh hấp tấp cho 117 người Việt Nam và ngoại quốc chết trong nước
tôi trong hai thế kỷ qua. Những bằng chứng và hồ sơ lịch sử đã chứng minh rõ
ràng là họ bị kết án tử hình bởi Triều Đình vì họ đã phản bội quốc gia và/hoặc
đã có những hoạt động tình báo cho những lực lượng xâm lăng Pháp. Những bằng
chứng cũng đã chứng tỏ rằng họ không phải là những “thánh tử đạo” mà Vatican đã
ngụy tạo lên để thúc đẩy những tín đồ Công giáo Việt Nam đi vào con đường
phản bội quốc gia để được phong thánh.” (Immediately cancel the unusually
urgent and serial canonization by Pope John Paul II of 117 Vietnamese and
foreigners who died in my country during the past two centuries. Historical
evidences and records clearly proved that they received the official death
sentence by the Court because of their betrayal and/or their spying activities
for the French invading forces. The evidences also show that they were not
“martyrs” as maliciously fabricated by Vatican to incite the Vietnamese Catholic
followers to betray their country in order to get canonized.)
Vẫn chơi lại điệu nhạc cũ
Sau đây, để có một ý niệm xác thực về sách
lược ngu dân của Benedict XVI, chúng ta hãy trở lại “khúc nhạc cũ rích” trong
bức thư của Benedict VXI gửi cho giáo dân Tàu để thấy rằng, tới thời đại này mà
Giáo hoàng còn mang những luận điệu thần học cũ kỹ đã lỗi thời và Tây phương đã
ruồng bỏ để mong mê hoặc đầu óc người dân Á Châu trong âm mưu cải đạo Á Châu.
Đúng như Trung Quốc đã nhận định: bức thư
của Benedict XVI chẳng qua chỉ là “chơi lại khúc nhạc cũ rích”. Vấn đề chính là
cái khúc nhạc cũ rích này đã không còn hấp dẫn trong thế giới Tây phương nữa và
tôi cũng tin rằng nó không thể hấp dẫn đối với tuyệt đại đa số người dân Việt
Nam ngày nay. Tại sao? Vì đó chỉ là
những luận điệu thần học thuộc loại mê tín hoang đường đã cũ rích, những luận
điệu có tích cách mạ lỵ đầu óc con người, cho nên đã khiến cho con người trong
thế giới Tây phương ngày nay, theo chính những lời than phiền của Benedict XVI,
sống như là không cần đến Thiên Chúa, mà cũng chẳng cần gì đến Chúa Giêsu
nữa.
Sự thực là như vậy, nhưng Benedict XVI
vẫn mang những luận điệu thần học đã lỗi thời này xuất cảng sang Á Châu, hi vọng
có thể lừa dối được đầu óc người dân Á Châu. Thật vậy, chúng ta hãy đọc vài
đoạn trong khúc nhạc này của Benedict XVI với vài lời phê bình ngắn của tôi.
Tôi nghĩ rằng chỉ cần phê bình vài điểm trong Lời Chào mở đầu của Benedict
XVI cũng đủ để cho chúng ta thấy rõ mục đích huyễn hoặc người dân Á Châu bằng
những điều mê tín vô nghĩa, mâu thuẫn mà thế giới Tây phương đã từ bỏ. Trong
Lời Chào mở đầu, Benedict XVI viết:
Benedict 16:
“Chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô [sic],
Chúa chúng ta… Ngày nay, cũng như trong quá khứ, công bố Tin Mừng nghĩa là rao
giảng và làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô, chịu đóng đinh và sống lại, một Nhân
Loại mới, Đấng chiến thắng tội lỗi và sự chết.”
TCN:
Giáo hoàng tạ ơn Thiên Chúa vì Âu Châu, một lục địa được coi là văn minh tiến bộ
nhất về khoa học, triết học và thần học Ki Tô Giáo, một lục địa mà ngày nay, vì
đã mở mắt ra, nên theo lời than phiền
của chính giáo hoàng, cảm thấy
mệt nhọc với chính văn hoá của mình, một lục địa mà con người càng ngày càng
tỏ ra không cần đến Thiên Chúa, mà cũng chẳng cần gì đến Chúa Giêsu nữa.
Nhưng nay, Giáo hoàng tạ ơn Thiên Chúa vì có thể Thiên Chúa sẽ giúp ông ta
mang thứ văn hóa phế thải đó đi xâm lăng văn hóa Á Châu. Hơn nữa, Thiên
Chúa không thể là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô vì khoa
học đã chứng minh là một hồn ma (Holy Ghost) thì không thể
có hai loại chromosomes X và Y để có thể sinh ra con trai như Giê-su, và hai
loại nhiễm sắc thể này phải chích vào Mary bằng đường lối bình thường như bất cứ
người đàn ông nào khác muốn có con với vợ mình, khi mà kỹ thuật IVF (In Vitro
Fertilization) chưa được biết đến.
Vì sự thực Thiên Chúa trong Cựu Ước chỉ là
sản phẩm tưởng tượng của dân Do Thái để giải thích phần nào lịch sử bất hạnh của
Do Thái, nên không có ai có đầu óc còn có thể tin Thiên Chúa đó là “thân phụ của
Đức Giê-su Ki-Tô”. Hơn nữa, trong lãnh vực học thuật thì chính Giám Mục John
Shelby Spong trong
cuốn Sinh Ra Từ Một Người Đàn Bà: Một Giám Mục Nghĩ Lại Chuyện Sinh Ra Đời
Của Giê-su (Born of a woman: A Bishop Rethinks The Birth of Jesus, Harper,
SanFrancisco, 1992) đã đưa ra nhận xét, trang 41:
Nhưng Giê-su đã được “sinh ra từ một người đàn bà”. Nguồn gốc sinh ra đời của
Giê-su cũng gây nhiều tai tiếng như cách ông ta chết. Ông ta
(Giê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở
Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời này. Chẳng
có ai biết cha ông ta là ai. Rất có thể ông ta là một đứa con hoang. Rải
rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu
(4
Phúc Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những thỏi mìn chưa
kiếm ra và chưa nổ.
(But he was “born of a woman”… His origins were as scandalous as his means of
death. He (Jesus) was a nobody, a child of Nazareth out of which nothing good
was thought to come. No one seemed to know his father. He might well have been
illegitimate. Hints of that are scattered like undetected and unexploded
nuggets of dynamite in the landscape of the the early Christian tradition.)
Đó là nhận định của một Giám mục còn đang
hành nghề Giám mục. Ngoài ra, Uta Ranke-Heinemann, người phụ nữ đầu tiên trên
thế giới chiếm được ngôi vị Giáo sư Thần học Ca-Tô (The first woman in the world
to hold “A Chair in Catholic Theology”), viết trong phần dẫn nhập của cuốn
Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con như sau:
Chúng ta vấp phải sự thực sau đây về nhân vật Giê-su. Chúng ta không biết khi
nào ông ta sinh ra và ở đâu cũng như khi nào ông ta chết. Ông ta là một người
không có một tiểu sử. Chúng ta không biết những hoạt động của ông như là một
thầy giảng trước quần chúng thật sự đúng là ở đâu và kéo dài bao lâu. Nói cho
thật đúng, chúng ta chẳng biết gì nhiều hơn là ông ta đã sinh ra đời, có người
theo ông ta làm môn đồ, và ông ta bị hành quyết trên giá hình chữ thập – loại
hình phạt của La Mã – và như vậy có một kết cục xấu số...
Ông Giê-su này không chỉ nằm sâu dưới
đất ở Jerusalem (nghĩa là thực ra đã chết và chôn ở
Jerusalem. TCN) mà còn ở dưới một núi những nghệ thuật tồi tệ, chuyện
hoang đường, và cách diễn giải của giáo hội.
[Ranke-Heinemann, Uta, Putting Away
Childish Things, Harper-Collins., San Francisco, 1995, p. 2: We encounter
this truth in the person of Jesus. We know neither when and where he was born,
nor when he died: He is a man without a biography. We don’t know how long his
public activity as a peacher lasted or where exactly it took place. Strictly
speaking, we don’t know a whole lot more than that he was born, that there were
people who followed him as his disciples, and that he was executed on the cross
– the Roman version of the gallows – and thus came the wretched end... This
Jesus lies burried not only in Jerusalem, but also beneath a mountain of kitsch,
tall tales, and church phraseology.]
Điều lạ đối với tôi là tại sao trong thời
buổi này mà Benedict XVI còn mang những nghệ thuật tồi tệ, chuyện hoang đường để
mà huyễn hoặc đầu óc của đám dân ngu dốt. Không những thế ông còn tỏ ra mình là
người bất lương trí thức. Thật vậy, ông ta đã là cánh tay phải của Giáo hoàng
tiền nhiệm John Paul II, đã cầm đầu Bộ Truyền Giáo, biến thể của Tòa Án Xử Dị
Giáo khi xưa, cho nên ông ta không thể nào không biết là, trước những khám phá
khoa học liên hệ đến thuyết Tiến Hóa bất khả phủ bác trong nhiều bộ môn của khoa
học, năm 1996, Giáo hoàng John Paul II đã thú nhận trước thế giới là:
“thân xác con người có thể không phải là
một sự sáng tạo tức thời của Thượng đế, mà là kết quả của một quá trình tiến hóa
dần dần”. Ngài nói: “những kiến thức mới nhất dẫn đến việc phải chấp
nhận thuyết tiến hóa hơn chỉ là một giả thuyết”. (Pope John Paul II has put
the teaching authority of the Roman Catholic Church firmly behind the view that
“the human body may not have been the immediate creation of God, but is the
product of a gradual process of evolution.. The pope said that “fresh knowledge
leads to recognition of the theory of evolution as more than just a
hypothesis”).
Còn nữa, tháng 7 năm 1999, trước những khám phá xác tín nhất của khoa vũ trụ
học, và trước những hiểu biết của con người ngày nay về cấu trúc của trái đất,
Giáo Hoàng đã bắt buộc phải tuyên bố:
“thiên
đường không phải là một nơi trừu tượng mà cũng chẳng phải là một nơi cụ thể ở
trên các tầng mây” (Heaven is neither an abstraction nor a physical place in the clouds), và
“Hỏa ngục không phải là sự trừng phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng đế, mà là
trạng thái hậu quả của những thái độ và hành động mà con người đã làm trong đời
này” (Hell is not a punishment imposed externally by God, but the condition
resulting from attitudes and actions which people adopt in this life).
Chúng ta cũng đã
biết, GH John Paul II đã chấp nhận thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ,
vậy, rõ ràng là GH John Paul II đã chính thức bác bỏ thuyết “sáng tạo” của Ki
Tô Giáo, phá tan huyền thoại về Adam và Eve là tổ tông loài người do Thượng đế
tạo dựng từ đất sét, và kéo theo không làm gì có chuyện Adam và Eve sa ngã tạo
thành tội tổ tông. Do đó, vai trò “chuộc tội” và “cứu rỗi” của Giê-su chỉ là
những luận điệu thần học lừa dối của giới giáo sĩ Ki Tô Giáo khi xưa, được tiếp
tục đưa ra không ngoài mục đích khai thác lòng mê tín của một số người, huyễn
hoặc và khuyến dụ họ tin vào những điều không thực.
Thật vậy, sự kiện là, Giáo
hoàng đã bác bỏ đức tin quan trọng nhất trong Ki-tô giáo: Quyền năng “cứu
chuộc”, “cứu rỗi” , “luận phạt” của Giê-su, và cũng bác bỏ sự hiện hữu của một
thiên đường, do đó hi vọng của các tín đồ Ki-tô về một cuộc sống đời đời trên
thiên đường cùng Giê-su chẳng qua chỉ là một ảo vọng, bắt nguồn từ một sự mù lòa
tin bướng tin càn, và sự luận phạt của Giê-su đối với những người không tín
Giê-su chẳng qua chỉ là một sự hù dọa đã không còn ý nghĩa. Thật vậy, những
giáo lý căn bản của Công giáo như Giê-su sinh ra từ một Nữ Đồng Trinh do Thánh
Linh phủ, tội tổ tông, Giê-su chịu đóng đinh để chuộc tôi cho nhân loại, Giê-su
sống lại và bay lên trời ngồi bên tay phải của Thiên Chúa v…v.. ngày nay đã
không còn một giá trị nào lãnh vực học thuật về Ki Tô Giáo.
Malachi Martin, giáo sư tại viện nghiên cứu
Thánh Kinh của giáo hoàng tại Rô-ma dưới triều đại giáo hoàng John XXIII
(Professor at the Pontifical Biblical Institute of Rome, served in the Vatican
under Pope John XXIII), đã viết trong cuốn “Sự Suy Thoái Và Sụp Đổ của Giáo
Hội Rô-Ma” (The Decline and Fall of the Roman Church) như sau, trang 230:
Giáo Hoàng John XXIII nói trong buổi
khai mạc Công Đồng Vatican II ngày 11 tháng 10, 1962, rằng “những giáo lý và
quan niệm sai lầm vẫn còn tồn tại nhiều, nhưng ngày nay con người đã tự ý loại
bỏ chúng… Nhưng nếu Roncalli (John XXIII) không thấy là điều giảng dạy mới của
mình dẫn tới đâu, thì hàng trăm nhà thần học và giám mục đã thấy. Trong
những thập niên 1960-70, sau khi Roncalli chết, họ đã từ bỏ niềm tin về tội tổ
tông, về quỷ Satan, và về nhiều giáo lý căn bản khác.
[Martin, Malachi, The Decline and Fall
of the Roman Church, p. 230: Pope John XXIII told the opening session of his
council on October 11, 1962, that “false doctrines and opinions still abound,”
but that “today men spntaneously reject” them… But if Roncalli did not see
where his new teaching was leading, hundreds of theologians and bishops did. In
the sixties and the seventies after Roncalli’s death, they drew these
conclusions and abandoned belief in original sin, in the Devil, and in many
other fundamental doctrines.]
Nhận rõ được tính chất hoang đường, vô hiệu, lỗi thời của “bí tích rửa tội”,
của vai trò “chuộc tội” và “cứu rỗi” của Giê-su, nên trong cuốn Tại
Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Không Thì Chết (Why Christianity Must Change or
Die), Giám mục John Shelby Spong đã dành riêng chương 6 để viết về đề tài
Giê-su Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ (Jesus as Rescuer:
An Image That Has To Go). Trong chương này, Giám Mục Spong viết như sau, trang
98-99:
“Nhân loại chúng ta không sống trong
tội lỗi. Chúng ta không sinh ra trong tội lỗi. Chúng ta không cần phải rửa
sạch cái tì vết tội tổ tông trong lễ rửa tội. Chúng ta không phải là những
tạo vật sa ngã, mất đi sự cứu rỗi nếu chúng ta không rửa tội. Do đó, một
đấng cứu thế có nhiệm vụ khôi phục tình trạng trước khi sa ngã của chúng ta chỉ
là một sự mê tín trước thời Darwin
và một sự vô nghĩa sau thời Darwin.”
[We human beings do not live in sin. We are
not born in sin. We do not need to have the stain of our original sin washed
away in baptism. We are not fallen creatures who will lose salvation if we are
not baptized… A savior who restores us to our prefallen status is therefore
pre-Darwinian superstition and post-Darwinian nonsense.]
Và
trong cuốn “Thiên Chúa Vẫn Sống: Từ Sợ Hãi Tôn Giáo Đến Tự Do Tâm Linh”
(God Lives: From Religious Fear To Spiritual Freedom, Steven J. Nash Publishing,
IL., 1993), trang 114, Linh Mục James Kavanaugh viết:
Đối với tôi, đó là một huyền thoại “cứu
rỗi” thuộc thời sơ khai miêu tả một người cha lấy cái chết của chính con mình để
bớt đi cơn giận dữ. Đó là một chuyện ác độc không thể tưởng tượng được…
Tôi sẽ không chấp nhận cái huyền thoại về một Chúa Cha khắt khe đối xử với chính
con của mình, Giêsu, bằng một công lý vô tình cảm, và đòi hỏi con mình phải chết
trên thập giá cho những tội lỗi của tôi. Cái huyền thoại này cũng chẳng trở
thành hấp dẫn hơn vì Chúa Cha đã làm cho con sống lại, đội mồ mà lên một cách
vinh quang. Tôi không thể yêu mến một người cha như vậy hoặc phải biết ơn
một người con như vậy trong một câu chuyện mượn từ một câu chuyện truyền tụng
của nền thần học Do Thái cổ lỗ và thay đổi nó đi. Tôi không hề yêu cầu Giêsu
phải chịu khổ thay cho tôi và ngay cả muốn ông ta làm như vậy…”
[To me, it is a primitive ‘salvation” myth
which portrays an angry father appeased by the death of his own son. It is a
tale of unbelievable cruelty… I will not accept this mythical
God-the-demanding-Father Who could treat His own son Jesus in unfeeling justice
and demand his death on the cross to pay for my sins. Nor is the myth more
appealing because He brought His son gloriously from the tomb. I cannot love
such a Father or even be grateful for such a son in this borrowed and modified
tale of archaic semitic theology. I did not ask him to suffer for me or even
want him to..]
Một người như Benedict XVI không thể không
biết đến những lời phát biểu của GH John Paul II cũng như những kết quả nghiên
cứu về Giê-su và cuốn Thánh Kinh trong lãnh vực học thuật của rất nhiều học giả
và giới chức Công Giáo, nhưng tại sao ông vẫn còn mang những “nghệ thuật thần
học tồi tệ” và những chuyện hoang đường ra để mà lừa bịp đầu óc người dân thấp
kém, nếu không phải là khai thác sự ngu dốt của quần chúng cho những quyền lợi
thế tục. Chúng ta thấy GH John Paul II cũng như Benedict XVI đều không có sự
lương thiện trí thức, đã biết rõ là nền thần học Ki Tô Giáo đã không còn giá trị
trước những khám phá của khoa học về vũ trụ nhân sinh, nhưng vẫn mang nó ra để
lừa dối đầu óc ngây ngô cả tin của những người dân Á Châu để mong “cải đạo Á
Châu”. Thật là tội nghiệp cho những người nhắm mắt tin vào những điều không thể
tin được.
Benedict
16:
Thật vậy, chúng tôi đã được nghe nói về lòng tin
của anh em vào Đức Giêsu Kitô và về lòng mến của anh em đối với toàn thể dân
thánh; lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông cậy dành cho anh em trên
trời, niềm trông cậy anh em đã được nghe loan báo khi lời chân lý là Tin Mừng
đến với anh em.
TCN:
Giáo hoàng ca tụng lòng tin của các tín đồ Công giáo Á Châu, trong khi phần lớn
tín đồ Công giáo Âu Châu không còn tin nữa, không cần đến Thiên Chúa, mà cũng chẳng cần gì
đến Chúa Giêsu nữa. Thật là tội nghiệp cho đầu óc của các tín đồ Trung Quốc
nói riêng, Á Châu nói chung, nếu thực sự là họ còn có lòng tin vào “Đức Giê-su
Ki Tô” như Giáo hoàng viết. Tại sao họ vẫn còn tin? Vì họ
tin theo những gì giáo hội nhồi nhét vào đầu óc họ mà không tự mình tìm hiểu
thực chất “Đức Giê-su Ki Tô” là như thế nào. Đã có rất nhiều công cuộc nghiên
cứu về Giê-su, và mới đây tôi đã tóm tắt sơ lược những nét chính yếu về con
người thực của Giê-su [Xin đọc
http://www.sachhiem.net/TCNtg/ TCN64_Main.php].
Từ những kết quả nghiên cứu này, chúng ta không có một lý do nào để có thể tin
Giê-su là “Chúa Cứu Thế”. Các tín đồ Công giáo ở trong tình trạng thiếu hiểu
biết như vậy nên có lòng mến đối với toàn thể “dân thánh” nhưng không hề biết
rằng “dân thánh” “đáng mến” của Ngài đã phạm 7 núi tội ác
đối với nhân loại mà Giáo hoàng John Paul II đã phải xưng thú cùng nhân loại.
Ngoài ra trong “dân thánh” còn có một số chủ chăn mang chức Giáo hoàng như Ngài
nhưng cực kỳ vô đạo đức như
loạn dâm, loạn luân, trụy lạc, giết
người v..v..
mà lịch sử đã ghi rõ [Xin đọc bài “Đây!! Những Đức Thánh Cha” trên
http://giaodiemonline.com/2007/06/duccha.htm],
và gần đây nhất, có tới hơn 4000 “Chúa thứ hai ” như các linh mục, giám mục
thường tự nhận, bị truy tố về tội loạn dâm với trẻ con, nhiều “Chúa thứ hai” vào
ngồi đếm lịch trong tù, và giáo hội Công giáo đả phải bỏ ra trên 2 tỷ đô-la để
bồi thường cho các nạn nhân tình dục của các “Chúa thứ hai”, chưa kể là báo chí
đã phanh phui ra vụ các “Chúa thứ hai” đã cưỡng dâm nữ tu Công giáo trên 23 quốc
gia và có trường hợp còn bắt họ đi phá thai trong khi bộ mặt đạo đức của Vatican
lại rất năng nổ trong việc chống phá thai. Ngoài “hội thánh Công giáo” như trên
có “hội tôn giáo thế tục” nào trên thế giới tệ hại như “hội thánh” của Benedict
XVI không??
"Trời" của Thiên Chúa giáo ở đâu ?
Mặt khác, xin hỏi
Giáo hoàng và toàn thể “hội thánh” (sic) chỗ nào ở trên trời khi mà trái đất
đang di chuyển trong không gian với một vận tốc khoảng 100,000 cây số một giờ và
quay xung quanh trục Nam Bắc khoảng 1,600 cây số một giờ? Giám Mục
John Shelby Spong lương thiện hơn giáo
hoàng nhiều nên đã đặt vấn đề rất trí thức về “trời” như sau:
Trời là cái gì? Đâu là trời? Điều rõ
ràng là trong cái thế giới cổ xưa này, trời mà Thiên Chúa trong Cựu Ước dựng nên
được nghĩ là nơi ăn chốn ở của Thiên Chúa và nó ở trên quá vòm trời. Nhưng
chúng ta trong thế hệ này biết rõ rằng vòm trời không phải là mái của thế giới
mà cũng chẳng phải sàn nhà của cõi trời. Vậy chúng ta muốn nói gì khi chúng ta
khẳng định là Thiên Chúa toàn năng toàn trí đã dựng nên trời? Phải chăng chúng
ta muốn nói đến một vũ trụ vô biên mà trong thời Thánh Kinh được viết ra, không
một người nào hiểu gì về cái vũ trụ đó như thế nào?
[John Shelby Spong, Why Christianity
Must Change or Die, p. 10: What i- en? Where is heaven? It is clear
that in this ancient world the heaven that God created was thought of as God's
home, and it was located beyond the sky. But those of us in this generation
know that the sky is neither the roof of the world nor the floor of heaven. So
what are we referring to when we assert that this almighty God created heaven?
Are we talking about that almost infinite universe that no one living knew
anything about when the Bible was written?]
Cho nên “trời”
của Giáo hoàng không ở ngoài cái đầu của Giáo hoàng và các tín đồ. Tin mừng
là một cái “bánh vẽ trên trời” như Mục sư Ernie Bringas đã nhận định, đó là được
lên thiên đường hay lên “nước trời” cùng Chúa sau khi chết tuy rằng Giáo Hoàng
John Paul II đã phán là chẳng làm gì có thiên đường ở trên các tầng mây.
"Tin mừng Phúc Âm" ?
Người
ta thường cho là những Phúc Âm trong Tân Ước mang đến tin mừng, nhưng Giáo sư
David Voas lại viết cuốn “Cuốn Thánh Kinh Mang Tới Tin Xấu: Cuốn Tân Ước”
[The Bad News Bible: The New Testament] Thật vậy, trong Tân Ước, ngoài cái bánh
vẽ trên trời rất hoang đường của nền thần học tồi tệ Ki Tô Giáo, không có một
chuyện nào có thể gọi là Tin Mừng. Đọc những lời Giê-su nguyền rủa những người
không tin ông ta, đòi mang họ ra giết ngay trước mặt ông ta, và những điều khủng
khiếp quái gở trong Sách Khải Huyền, một người có đầu óc không thể nào tin được
là Tân Ước đã mang đến Tin Mừng. Tin
Mừng chỉ là mánh mưu của những kẻ có đầu óc để dụ khị những kẻ không có đầu óc cho những quyền lợi vật
chất của họ. Hãy nhìn vào tài sản của Vatican là bao nhiêu và đất đai cướp được
ở khắp nơi, kể cả ở Việt Nam thì đủ biết thực chất của Công giáo là như thế
nào. Mánh mưu trên và sự bất lương trí thức của Benedict XVI còn thể hiện rõ
trong câu sau:
Benedict
16:
Tôi, trong tư cách Người Kế Vị Thánh Phêrô và là
Mục Tử toàn thể Hội Thánh..
TCN:
Tại sao các tín đồ Công Giáo lại nhắm mắt tuân phục một ông Giáo hoàng mà nhiều
khi rất là vô đạo đức như lịch sử đã chứng minh? Thứ nhất, vì họ tin vào một
cái bánh vẽ trên trời, nghĩa là một thiên đường (mù) mà chính Giáo hoàng John
Paul II đã bác bỏ. Thứ nhì, vì họ tin rằng Giáo hoàng đích thực là người kế vị
Thánh Phê-rô và hội thánh Công giáo là do chính Chúa Giê-su thành lập và trao
quyền lại cho Phê-rô. Nhưng sự thật có phải như vậy không?
Chìa khóa nước Trời !
Sự thật là, Giáo hội Công giáo đã dựa vào một câu
ngụy tạo trong Tân ước, Matthew 16: 18-19: “…Ngươi là Phê-rô, và trên
phiến đá này ta sẽ xây dựng giáo hội của ta, dầu các cửa hỏa ngục cũng không
chống lại được, Ta sẽ giao cho ngươi những chìa khóa nước trời: sự gì con cầm
buộc dưới đất, thì cũng cầm buộc trên trời, còn sự gì con tháo cởi dưới đất thì
cũng tháo cởi trên trời…” (… you are Peter, and on this rock I will build my
church, and the gates of Hades shall not prevail against it. And I will give
you the keys of the kingdom of heaven, and whatever you bind on earth will be
bound in heaven, and whatever you loose on earth will be losed in heaven.) để mê
hoặc tín đồ rằng: “Giáo hội Công giáo của họ là do Chúa Giê-su thành lập, truyền
lại cho Tông Đồ Phê-Rô làm Giáo Hoàng, và rồi các Giáo Hoàng kế tiếp là những
người kế vị Phê-rô, là đại diện của Chúa (Vicars of Christ) trên trần, nghĩa là
có quyền cho ai lên thiên đường (mù) thì cho v..v…”
Nhưng thật ra, mánh mưu của Giáo hội Công
giáo không chỉ tạo quyền lực cho Giáo hoàng mà còn cho toàn thể giới chăn
chiên. Thật vậy, Giáo hội đã biến câu trên thành những quyền lực thế tục rất
hoang đường và phi lý cho giới giáo sĩ. Thí dụ, trong nghi lễ phong chức linh
mục, ông Giám mục đặt tay lên đầu vị tân linh mục và phán: “Hãy nhận lấy
Chúa Thánh Thần, chúng con tha tội cho ai thì họ được tha, cầm giữ ai thì họ bị
cầm giữ.” [Giáo Lý Công Giáo, Bản dịch của Hoài Chiên và Nguyễn Khắc
Xuyên, trang 231]. Theo tinh thần câu ngụy tạo mà Chúa truyền cho Phê-rô thành
lập giáo hội ở trên, điều này có nghĩa là các Linh mục nắm quyền muốn cho ai lên
Thiên đường thì cho, và lẽ dĩ nhiên, trong Công giáo Rô-ma, tập đoàn chăn chiên,
từ Giáo hoàng xuống tới các Linh mục, ai cũng đều nắm trong tay những chìa khóa
của nước trời, nếu có cái gọi là nước trời.
Hiển nhiên đây là chuyện hoang
đường nhất trong những chuyện hoang đường, xét đến vấn đề đạo đức của một số
không nhỏ thuộc giới chăn chiên, từ các giáo hoàng xuống tới các linh mục.
Nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận là, chính điều này đã tạo nên một tâm
cảnh sợ sệt, khúm núm, quỵ lụy “bề trên”, “quên mình trong vâng phục” trong đám
tín đồ thấp kém, vì họ tin rằng các “bề trên” của họ thực sự nắm trong tay cái
chìa khóa của nước trời, một nước chỉ hiện hữu trong nền thần học của giáo hội
để khuyến dụ tín đồ, và đã bị chính Giáo hoàng John Paul II và giới hiểu biết
trên thế giới bác bỏ.
Thật vậy, đối với các học giả nghiên cứu
Thánh Kinh và đối với giới trí thức ở trong cũng như ở ngoài giáo hội thì câu
Matthew 16: 18-19 trong Tân Ước ở trên rõ ràng là được thêm thắt sau này với
mục đích thiết lập quyền lực tinh thần cũng như quyền lợi vật chất của giới
lãnh đạo Công giáo trên đám đông tín đồ thấp kém ở dưới. Nghiên cứu kỹ Tân Ước,
các chuyên gia đã vạch ra rằng câu trên hoàn toàn mâu thuẫn với nhiều đoạn khác
trong Tân Ước, mâu thuẫn với sự tin tưởng của Giê-su, và nhất là không thích hợp
với tư cách của Phê-rô. Chứng minh?
Đọc Thánh kinh, chúng ta thấy rõ là những
người viết Tân Ước đều tin rằng Giê-su sẽ trở lại trần gian trong một tương lai
rất gần, ngay trong thời điểm của Giê-su. Thí dụ những đoạn sau đây đều được
trích từ Thánh Kinh: Cựu Ước Và Tân Ước, Hội Quốc Tế xuất bản, 1994; và
Holy Bible: The New King James Version, American Bible Society, New York, 1982:
Matthew 16: 27-28: “Ta (Con
của Người: Giê-su) sẽ trở lại với các thiên sứ trong vinh quang của Cha ta để
thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm. Ta cho các con biết: một vài người
đang đứng đây sẽ còn sống cho đến khi nhìn thấy ta vào trong Nước ta”.
(For
the Son of Man will come in the glory of His Father with His angels, and then He
will reward each according to his works. Assuredly, I say to you, there are some
standing here who shall not taste death till they see the Son of Man coming in
his kingdom.)
Matthew 24:34:
“Ta quả quyết, thời đại này chưa chấm dứt, các biến cố ấy đã xảy ra rồi”
(Assuredly, I say to you, this generation will by no means pass away till all
these things are fulfilled)
Mark 9: 1:
Chúa bảo các môn đệ: “Ta cho các con biết, một vài người đang đứng đây sẽ còn
sống cho đến khi nhìn thấy nước trời thiết lập với uy quyền vĩ đại”
(And He
said to them, “Assuredly, I say to you that there are some standing here who
will not taste death till they see the kingdom of God present with power.”)
Mark 13:30: “Ta quả quyết, thế hệ
này chưa qua đi thì các biến cố đó (các biến cố xung quanh ngày tận thế và
sự trở lại của Giê-su. TCN) đã xảy ra rồi”. (Assuredly, I say to you,
this generation will by no means pass away till all these things take place.)
Luke 21: 27, 32:
“Bấy giờ nhân loại sẽ thấy ta giáng xuống trong mây trời với vinh quang và uy
quyền tuyệt đối.. Ta quả quyết: thế hệ này chưa qua, các biến cố ấy đã xảy ra
rồi”. (Then they will see the Son of Man coming in a cloud with power and
great glory.. Assuredly, I say to you, this generation will by no means pass
away till all these things are fulfilled.)
John 14: 3:
“Ta đi chuẩn bị chỗ ở cho các con. Khi chuẩn bị xong, ta sẽ trở lại đón các
con về với ta để các con ở cùng ta mãi mãi.” (And if I go and prepare a
place for you, I will come again and receive you to myself; that where I am,
there you may be also).
Qua những đoạn trích dẫn ở trên từ Tân Ước,
chúng ta hãy tự hỏi: Giê-su thành lập
giáo hội và trao chức vụ giáo hoàng chăn dắt tín đồ cho Phê-rô để làm gì khi mà
ông ta tin rằng ngày tận thế gần kề, ngay trong thời của ông, khi một số môn đồ
của ông còn sống? Không những Giê-su tin như vậy, mà còn truyền cho các Tông Đồ
đi rao giảng về một “Nước trời” sắp đến, và chỉ được giảng trong những cộng đồng
người Do Thái, như được viết rõ trong Tân Ước.
Như vậy, có phải là giáo hội đã thêm thắt
câu “..ngươi là Phê-rô, và trên phiến đá này ta sẽ xây dựng giáo hội của ta…”
vào trong Tân Ước để lừa dối tín đồ là giáo hội do chính Chúa Giê-su thành lập
và các giáo hoàng đều là những người kế vị Phê-rô? Chúng ta cũng nên biết rằng,
4 Phúc Âm trong Tân ước được viết trong khoảng từ 40 đến 80 năm sau khi
Giê-su đã chết và mãi đến thế kỷ 4, 27 sách trong Tân ước bằng tiếng Hi Lạp mới
được công nhận là chính thức thuộc Tân Ước, và rồi được dịch ra tiếng Latin và
sau cùng mới được dịch ra các thứ tiếng khác nhau. Việc thêm thắt, ngụy tạo
những đoạn trong cuốn Tân Ước không phải là khó khăn gì.
Thực ra, quan niệm về một “Nước Trời” không
phải là của Giê-su mà là Giê-su chỉ lập lại một quan niệm cổ xưa của dân tộc Do
Thái, một dân tộc có quá nhiều bất hạnh trong suốt giòng lịch sử cho nên luôn
luôn khát vọng một quốc gia độc lập, tràn đầy sữa và mật như các Rabbi Do Thái
đã từng hứa hẹn với dân Do Thái như vậy để an ủi những bất hạnh dân Do Thái đang
gánh chịu, và dạy họ rằng hãy giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa của họ thì một
ngày nào đó Thiên Chúa sẽ đoái thương và cho họ được hưởng một cuộc sống trong
“Nước Trời’ dưới sự cai quản của chính Thiên Chúa của họ. Đây là một niềm tin
nguyên thủy, đặc thù của dân tộc Do Thái, không liên quan gì đến bất cứ dân tộc
nào khác.
Nhưng khi Ki Tô Giáo bành trướng trên thế giới thì họ đã đưa ra
nhiều định nghĩa khác nhau về một “Nước Trời” chung cho mọi người, nhưng
không ngoài điều kiện là phải tin vào Thiên Chúa và phải làm theo ý Chúa,
thực sự chỉ là ý của giáo hội, vì chẳng có ai biết được ý Chúa là như thế nào.
Nhưng nền học thuật về Ki Tô Giáo trong vòng 200 năm nay đã chứng tỏ rằng
Giê-su chỉ là một người thường sống với một ảo tưởng: chính mình là con
Thiên Chúa của Do Thái. Cho nên tin vào một Chúa không có thực, và hi vọng được
lên một “nước trời” không có thực, thì có phải là phí phạm và hạ thấp tâm linh
không?
Thứ nhì, đọc kỹ Tân Ước, chúng ta còn thấy,
sau khi trao chìa khóa thiên đường cho Phê-rô (Matthew 16:19), chỉ 4 câu
sau, Matthew 16: 23, Giê-su gọi Phê-rô là Satan: “Chúa quay lại và nói
với Phê-rô: “Hãy đi ra đàng sau ta, Satan, ngươi là một sự xúc phạm đối với ta”
(But he turned and said to Peter, “Get behind me, Satan! You are an offence to
Me]. Cũng vì sự mâu thuẫn và phi lý trong hai câu gần sát nhau trong Thánh kinh
và câu trong Luke ở trên mà Lloyd Graham đã bình luận như sau:
Như
vậy là giáo hội Ca-Tô được thành lập bởi Phê-rô, người mà, chỉ 4 câu sau trong
Thánh Kinh, Chúa gọi là Satan. Vậy, nếu giáo hội Ca-Tô được thành lập bởi
Phê-rô thì giáo hội đó đã được thành lập bởi Satan – một sự kiện mà chúng ta đã
nghi ngờ từ lâu. (Xét đến lịch sử đẫm
máu đầy tội ác của Ca-Tô Giáo mà giáo hoàng John Paul II và Tòa Thánh Vatican đã
phải xưng thú 7 núi tội ác trước nhân loại và xin được tha thứ thì câu bình
luận của Graham ở trên không phải là không có căn bản. TCN).
Câu chuyện về Phê-rô thậm vô nghĩa – một
người chết như mọi người mà lại có quyền lực trên khắp nhân loại trong muôn đời
muôn kiếp. Trong những vấn đề tôn giáo, tín đồ Ca-Tô thật là nhẹ dạ, cả tin,
nhưng họ có thể nhẹ dạ đến mức tin rằng, trước khi có Ki Tô Giáo, những bậc
thông thái như Pythagoras, Plato, Socrates…cần đến cái tên đánh cá Do Thái ngu
đần này (Phê-rô)
để đầy đọa hay cứu vớt linh hồn họ hay không? Nhất định là không, và chúng ta
[ngày nay]
cũng vậy.
[Graham, Lloyd, Deceptions & Myths of the
Bible, The Citadel Press Book, New York, 1995, p.: 438: Thus the Catholic
Church is founded on Peter whom, four verses later, Jesus openly calls Satan.
Thus if the Catholic Church is founded on Peter, it is founded on Satan – a fact
we have long expected. Peter’s story is the veriest nonsense – one mortal
man endowed with the power over all humanity for all eternity. In things
religious, Catholics are indeed credulous but can they be so credulous as to
believe that pre-Christian sages like Pythagoras, Plato, Socrates…require this
ignorant Jewish fisherman to bind and loose theirs souls? No, and neither are
we.]
Đối với chúng ta, một câu hỏi tất nhiên
cũng phải được đặt ra: người Việt Nam chúng ta, từ tổ tiên muôn đời đến chúng
ta, có cần đến sự đầy đọa hay cứu vớt linh hồn từ cái tên đánh cá Do Thái
Phê-rô, không những ngu đần mà còn hèn nhát, bị Satan sàng sể, như được viết
trong Tân Ước không? Và chúng ta có cần đến vai trò của người tự nhận là kế vị
Phê-rô, và tại sao cần, khi mà vai trò Giáo hoàng đầu tiên của Công giáo Rô-ma,
Phê-rô, rõ ràng chỉ là sự ngụy tạo thần học của Giáo hội?
Thứ ba, Thánh Kinh viết rõ, Phê-rô là mẫu
người coi lời Chúa như không có, phản phúc và hèn nhát. Trước ngày Giê-su bị
bắt, Giê-su bảo Phê-rô hãy thức cùng Giê-su để cầu nguyện cùng Giê-su, và Giê-su
đi ra chỗ khác cầu nguyện. Tân Ước viễt rõ, Giê-su cũng sợ chết, không muốn
chết nên cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Cha ơi, nếu có thể đừng bắt con phải
uống chén đắng này” [nghĩa là đừng bắt con phải chết] (Matthew 26: 38-39:
“O My Father, if it is possible, let this cup pass from Me”), nhưng khi trở lại
thì Phê-rô đã ngủ khì (Matthew 26: 40).. Khi Chúa bị bắt, vì sợ bị kết
tội đồng lõa, Phê-rô đã ba lần chối Chúa, thề là không hề biết Chúa (Matthew
26: 70, 72, 74: Then he began to curse and swear, saying, “I do not know the
Man!”). Khi Chúa bị đóng đinh trên thập giá thì Phê-rô trốn biệt. Tại sao
Phê-rô lại như vậy? Chúng ta hãy đọc Luke 22: 31-32: Thiên Chúa bảo
Phê-rô: “Simon, Simon (tên khác của Phê-rô), Satan đã xin phép ta để
sàng ngươi như sàng lúa mạch. Nhưng ta đã cầu nguyện cho ngươi để cho ngươi
khỏi mất đức tin” [And the Lord said, “Simon, Simon! Indeed, Satan has asked
for you, that he may sift you as wheat. But I have prayed for you, that your
faith should not fail] Nghĩa là Phê-rô bị Satan được phép tùy ý sàng sể, và
Thiên Chúa toàn năng chẳng biết làm gì hơn là cầu nguyện cho Phê-rô. Thánh
Kinh đều viết ngây ngô như vậy cả. Charlie Nguyễn, nhà mấy đời theo Công Giáo
nhưng đã mất đức tin, thế mà chẳng có ông giám mục, linh mục Mít nào, những
người tự nhận là Chúa thứ hai, cầu nguyện để cho ông ta khỏi mất đức tin.
Một người như Phê-rô có tư cách như vậy mà
Chúa lại chọn để thành lập giáo hội hay sao? Chúa không có môn đồ nào tốt hơn
và hiểu biết hơn tên đánh cá Phê-rô hay sao?
Trước những bằng chứng không thể phủ
bác như trên ở ngay trong Thánh Kinh, Joseph L. Daleiden, một học giả Công giáo,
trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng, trang 83, cho rằng “câu chuyện ủy
quyền cho Phê-rô xây dựng giáo hội là một chuyện tiếu lâm”
(On the face of
it, I would take it as a joke) và trích dẫn lời của Albert Camus, cho rằng
“Giê-su đã riễu cợt cái tên nghèo khổ, hèn nhát Phê-rô khi bảo Phê-rô là vững
như phiến đá” (Camus pointed out, Jesus must have been making fun of of
poor, cowardly Peter by referring to him as a rock of steadfastness.). Rồi
Daleiden kết luận:
Do
đó, chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi biết rằng nhiều học giả chuyên
về Thánh Kinh tin rằng câu chuyện về Phê-rô, giống như nhiều chuyện khác trong
Tân Ước, đã được người ta thêm thắt vào sau.
[Daleiden, Joseph, The Final
Superstition: A Critical Evaluation of the Judeo-Christian Legacy, Prometheus
Books, New York, 1994,
p. 83: It is not surprising, therefore, to learn that many biblical scholars
believe the evidence indicates that this reference to Peter, like many other New
Testament passages, was inserted at a later date.]
Nhưng không phải chỉ có các học giả như
Daleiden hay Graham mới nhận ra sự phi lý trong câu chuyện về Phê-rô,
mà chính những nhà Thần học nổi danh trong giáo
hội Công giáo cũng phải thừa nhận rằng thuyết Chúa thành lập giáo hội và trao
quyền cho Phê-rô chỉ là ngụy tạo.
Hans Kung, Giáo sư Thần học tại trường đại
học nổi tiếng Tubingen ở Đức, cũng phải viết như sau:
Con
người Giê-su lịch sử, tin chắc rằng ngày tận thế phải xảy ra ngay khi ông còn
đang sống. Và vì sự sắp tới của Nước Trời này, không còn nghi ngờ gì nữa là
ông ta không muốn lập ra một cộng đồng đặc biệt khác với nước Do Thái, với giáo
lý, nghi thức thờ cúng, định chế, cơ quan chỉ đạo riêng của Do Thái. Tất cả
những điều trên có nghĩa là khi còn sống Giê-su không bao giờ sáng lập một giáo
hội nào. Ông ta không hề có ý tưởng thành lập và tổ chức một hoạt động tôn
giáo đại qui mô như được tạo ra về sau.
[Một tôn giáo như Công giáo Rô-ma ngày nay].
[Kung, Hans, Christ Sein (1976),
p.338-339: The historical Jesus.. counted on the world’s coming to an end in his
own lifetime. And for this coming of God’s kingdom he doubtless did not want to
found a special community distinct from Israel, with its own creed, its own
cult, its own constitution, its own office…All this means that in his own
lifetime Jesus never found any church. He had no idea of founding and
organizing a large-scale religious operation that would have to be created…]
Và Uta Ranke-Heinemann, nữ Giáo sư Thần học
Công Giáo đầu tiên trong Giáo hội Công giáo, cũng viết:
Giáo hội đã biến Giê-su thành một dụng cụ tuyên truyền. Vì lý do này mà chúng
ta tin vào mọi điều biện minh cho sự thành lập một giáo hội như được thêm thắt
vào những lời Giê-su nói bởi những tác giả các phúc âm. Sự thêm thắt này gồm có
điều Giê-su ca tụng Phê-rô như một phiến đá làm nền tảng để Giê-su xây dựng giáo
hội của ông ta (Matt. 16:18),
vì Giê-su không bao giờ có ý thành lập một giáo hội… Ở đây, không phải là
Giê-su nói, mà là giáo hội ban khai muốn tạo cho mình một địa vị lãnh đạo và một
khuôn mặt quyền lực vì sự tăng trưởng của cấu trúc lãnh đạo theo cấp bậc.
Trong chương 21, chương ngụy tạo trong
phúc âm John – nghĩa là chương được thêm vào phúc âm chính sau này – ý tưởng về
một vai phó đã được phát triển rõ ràng. Phê-rô trở thành kẻ chăn đàn chiên của
Giê-su. Như là đại diện của Giê-su, người chăn chiên thực sự lúc đầu, hắn thay
thế Giê-su trong nhiệm vụ này. Ngay sau đó, giáo hội nghĩ rằng điều quan trọng
không phải là con người Phê-rô. Giáo hội quyết định rằng chức vụ của Phê-rô là
nền tảng của Giáo hội, do chính Giê-su thiết lập vĩnh viễn. Với quan niệm này
chúng ta có những giáo hoàng là người kế vị Phê-rô và là phụ tá của Giê-su, và
chế độ giáo hoàng là nền tảng của giáo hội.
[Uta Ranke-Heinemann, Putting Away
Childish Things, Harper-Collins., San Francisco, 1995, p. 217: The Church
has turned Jesus into its propagandist. For this reason we take everything that
presupposes or dicusses or promotes the existence of a Church as interpolation
by the authors of the Gospels into Jesus’ original sayings. That includes
Jesus’ hailing Peter as the rock on which he will build his church (Matt.
16:18), since Jesus never meant to found a church… It’s not Jesus who’s speaking
here; it’s the early church, which was interested in having such a leadership
position and authority figure because of its growing hierarchical structure. In
the inauthentic chapter 21 of John – that is, in a later addition to the actual
gospel – the idea of a deputy is already clearly developed. Peter becomes the
shepherd of the flock of Christ. He takes over the functions of Jesus, the
former and actual shepherd, as his representative. Shortly afterward, the
Church began to think that the important thing was not the person of Peter. The
Church decided that the office Peter held was the bedrock foundation of the
Church, and that Jesus established it permanently. With this concept we have
the popes as Peter’s successors and Christ’s deputies, and the papacy as the
foundation of the Church.]
Một nhận định chính xác về thực chất Giáo
hội Công giáo Rô Ma là của Linh Mục Joseph McCabe.
Linh mục Joseph McCabe là một học giả nổi tiếng về bộ sử 8 cuốn: A Complete
Outline of History. Bộ sử này được dùng trong các đại học Mỹ trong nhiều
thập niên. Nhưng nổi tiếng hơn cả là một bộ sách Thế Lực Đen Quốc Tế
“The Black International” (Chỉ Công giáo Rô-ma) gồm gần 20 cuốn sách mỏng,
viết về mọi mặt của Công giáo.
Nhưng tác phẩm dài
nhất và đầy đủ về cấu trúc của chế độ Giáo hoàng, Thực chất giới Linh Mục, Học
thuật Công Giáo (Catholic Scholarship), Các lễ tiết, bí tích mê tín trong Công
giáo Rô-ma v..v.. là cuốn Sự Thật Về Giáo Hội Công giáo Rô-ma (The Truth
About The Catholic Church, Girard, KS; Haldeman Julius, 1942). Cuốn sách này
gồm có hai phần: Phần đầu nói về Lịch sử Giáo Hội Rô-ma (The History Of
The Roman Church), và Phần hai nói về Giáo Hội Ngày Nay (The Church
Today). Ngay chương đầu, Linh mục Joseph McCabe viết:
Trong tất cả những chuyện
giả tưởng vẫn còn được ẩn núp dưới cái dù dột nát “Chân lý Công Giáo”, truyền
thuyết về chế độ giáo hoàng được thành lập bởi Chúa và hệ thống giáo hoàng thật
đúng là lì lợm và có tính cách lãng mạn nhất. Chẳng có quyền lực thần
thánh nào, mà chỉ là một chuỗi những ngụy tạo và cưỡng bách, những lừa đảo tôn
giáo và tham vọng ngỗ ngược, phạm phải trong một thời đại cực kỳ ngu si, đã
dựng lên quyền lực của giáo hoàng, hệ thống giáo sĩ và tín ngưỡng.
Từ “Giáo hội”
chẳng có nghĩa gì trong thời của Giê-su và Phê-rô. Không có từ đó trong tiếng
Aramic. Giê-su đã phải nói là “Giáo đường”
[nơi tụ tập cầu nguyện của
người Do Thái],
và ông ta ghét những Giáo đường.
[Of all the fictions
which still shelter from the storm of modern criticism under the leaky umbrella
of “Catholic Truth”, the legend of the divine foundation of the Papacy and the
Papal system is quite the boldest and most romantic. No divine force, but a
pitifully human series of forgeries and coercions, of pious frauds and truculent
ambitions, perpetrated in an age of deep ignorance, built up the Papal power,
hierarchy and creed…The word “church” had no meaning at all in the days of
Christ and Peter. There was no such word in Aramaic. Christ would have had to
say “synagogue”; and he hated synagogues.]
Ngoài ra, chúng ta cũng nên biết, Hội
Nghiên Cứu Về Giê-su (The Jesus Seminar) gồm nhiều học giả thuộc mọi hệ phái
Ki-tô, sau nhiều năm nghiên cứu, cũng đưa ra cùng một kết luận, nghĩa là,
Giê-su không hề có ý định thành lập giáo hội cũng như không hề ủy quyền cho
Phê-rô xây dựng giáo hội. Tất cả chỉ là những điều giáo hội Công giáo bịa
đặt để tạo quyền lực cho giáo hội mà thôi.
Cũng vì những bằng chứng không thể chối cãi
được ở ngay trong Thánh Kinh mà khi được hỏi rằng: “Giê-su có ý định thành
lập một tôn giáo mới, tôn giáo mà ngày nay chúng ta gọi là Ki Tô Giáo, hay ít
nhất là tạo ra một giáo hội Ki Tô tách biệt (ra khỏi Do Thái giáo. TCN)
không?” (Did Jesus intend to found a new religion, the one we now call
Christianity, or at least create a separate Christian church?), Linh mục John
Dominic Crossan đã trả lời: “Câu trả lời cho câu hỏi đó là một chữ “KHÔNG”
quyết định” (The answer to that is an emphatic NO).
Vậy mà ngày nay, Giáo hoàng Benedict XVI
vẫn thản nhiên tự nhận là “Tôi, trong tư cách
Người Kế Vị Thánh Phêrô và là Mục Tử toàn thể Hội Thánh” mà không chút
ngượng ngùng trước thế giới thì chúng ta phải hiểu là, Giáo hoàng có thể là bất
cứ cái gì khác nhưng thiếu vắng liêm sỉ và lương thiện trí thức..
Lịch sử đã chứng tỏ Giáo hội Công giáo triệt để khai thác sự ngu dốt của quần
chúng và cho đến ngày nay, vẫn duy trì sách lược giam giữ tín đồ trong sự ngu
dốt, trong một ngục tù tâm linh, không dám cho tín đồ biết về những sự thực về
Kinh Thánh cũng như về Công Giáo, tuy rằng những sự thật này đã được phổ biến
rộng rãi trên thế giới. Điều bất hạnh cho nhân loại là ngày nay vẫn có hàng
triệu người tin vào những điều lừa dối hoang đường của Giáo hội Công giáo, không
hề quan tâm đến những điều phi lý nằm trong những thủ đoạn thần học này..
Chúa Giê-su, nếu thực sự có một nhân vật
được gọi là Chúa, thì Chúa cũng không hề có ở trong giáo hội Công giáo Rô-ma
ngụy tạo này, và những người tin rằng có thể đến với Chúa qua ngả trung gian của
giáo hội Công giáo Rô-ma hay qua vị chủ chăn hay các linh mục, giám mục là những
người sống với một ước muốn, một hi vọng không tưởng, không bao giờ có thể thành
sự thật được. Đây là một sự thật khá đau lòng đối với một số người đã từng đặt
hết niềm tin vào một giáo hội với hi vọng có thể đến với Chúa qua trung gian của
giáo hội. Nhưng dù đau lòng cách mấy, khi đối diện với một sự thật bất khả phủ
bác, một số không ít người can đảm đã dứt khoát ra khỏi cái ngục tù tâm linh đã
giam hãm mình trong nhiều năm. Và đây là một sự kiện.
Ngoài ra và hơn nữa, điều đáng nói ở đây
là, ngoài sự vạch ra sự gian dối trên, các chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh còn
chứng minh rằng: Giê-su, với những lời hứa hẹn hão huyền đầy tính chất tự tôn,
tự cao, tự đại, là người mắc bệnh tâm thần hoang tưởng, và thực tế đã cho các
môn đệ ăn bánh vẽ vì ông ta đã ra đi và không hề trở lại. 2000 năm qua,
những người tin là Giê-su có quyền phép “cứu rỗi” họ và cho họ lên thiên đường ở
cùng ông đã dài cổ ra ngóng chờ “ngày trở lại” của Giê-su, nhưng năm này qua năm
khác, thế hệ này qua thế hệ khác, thiên niên kỷ này qua thiên niên kỷ khác,
Giê-su vẫn biệt tăm, tuy rằng trong thế giới Ki Tô có nhiều vị lãnh đạo tôn giáo
đã nhiều lần tiên đoán ngày trở lại của Chúa Giê-su, nhưng không có lần nào trở
thành hiện thực. Làm sao ông ta có thể trở về được khi ông ta đã bị đóng
đinh trên thập giá, chết, và táng xác? Lời hứa hẹn vô trách nhiệm đầy tính cách
lừa dối những kẻ nhẹ dạ như trên có giá trị gì khi những điều ông hứa không hề
mảy may thực hiện được đã 2000 năm nay. Nhưng điều kỳ lạ là trên thế giới hiện
nay vẫn có hàng triệu người tiếp tục tin tưởng và mong chờ ngày Giê-su trở lại
trần, nếu bộ xương của Giê-su trong một tiểu quách mới tìm thấy ở Jerusalem có
thể trở lại trần với nguyên vẹn hình người, hay hình Chúa..
Trên đây chỉ là vài nhận xét về vài đoạn trong
Lời Chào của GH Benedict XVI. Đọc toàn bản văn của bức thư, chúng ta thấy đúng
là Benedict XVI đã chơi lại “khúc nhạc cũ rích” của thời Trung Cổ. Thật vậy,
chúng ta đã biết, bản chất Benedict XVI là một người cuồng tín thuộc thời Trung
Cổ. Bởi vậy trong thời đại ngày nay, thời đại của những Christopher Hitchens,
Sam Harris, Richard Dawkins v..v.. mà ông ta còn có thể nói lên được một câu:
“Niềm tin vào Giê-su là điều duy nhất sẽ cứu thế giới” (Newsweek, May 21,
2007: Belief in Jesus is the only thing that will save the world). Ông ta không
nói là cứu thế giới như thế nào, cứu khỏi các thiên tai, bệnh tật, hay cứu khỏi
cái ngục tù tâm linh của Công Giáo Rô-ma, điều mà mọi tín đồ Công Giáo rất cần
đến trong đời này. Trong bức thư, chúng ta nhận thấy ông ta vẫn đưa ra những
luận điệu khoa trương đã lỗi thời như “Thiên Chúa là tình yêu”,
“vị Giám Mục Rôma, như người Kế Vị Thánh Phêrô, là
nguồn mạch và nền tảng vĩnh hằng và hữu hình”, “Giáo Hội đã được Chúa
Kitô xây dựng trên Phêrô và các thánh Tông Đồ khác”. Cho tới ngày nay, gần
2000 năm sau khi Giê-su “chịu đóng đinh”, nghĩa là đã chết khi không muốn chết
như Tân Ước đã viết rõ, để cứu chuộc nhân loại, nhưng số tín đồ Công Giáo,
qua những chính sách cưỡng bách cải đạo, toa rập với thực dân Âu Châu để truyền
đạo v.. v.., và kể cả những đứa con nít mới sinh ra đã vác đi rửa tội cùng những
con chiên đã bỏ đạo [ở Nam Mỹ mỗi ngày có tới 8000 con chiên bỏ đạo Công
Giáo] mà con số tín đồ Công Giáo
trên khắp thế giới cũng chỉ vào khoảng 15 hay 16% trên
tổng số hơn 6 tỷ người trên thế giới, vậy mà Benedict XVI vẫn tiếp tục huênh
hoang phán rằng “Niềm tin vào Giê-su là điều duy nhất sẽ cứu thế
giới”, và “Giáo hội Công Giáo Rô-ma là giáo hội duy nhất mang sự
“cứu rỗi” đến cho nhân loại” v.. v.. Benedict XVI vẫn tiếp tục mang những
luận điệu thần học tồi tệ và hoang đường ra để khuyến dụ đám con chiên vốn không
có mấy đầu óc.
Vài
Lời Cuối.
Đến đây, tôi muốn đặt một câu hỏi với các đồng
bào của tôi theo Ki Tô Giáo, Công giáo cũng như Tin Lành: Tín đồ Ki-tô Việt
Nam theo đạo Thiên Chúa là vì cái gì? khi mà những nghệ thuật tồi tệ và
hoang đường của nền thần học Ki Tô Giáo về “cứu chuộc”, “cứu rỗi”, “thiên
đường”, “địa ngục” v..v.. đã không còn chỗ đứng trong thế giới ngày nay, ít ra
là trong giới hiểu biết ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki-Tô. Qua phần
trình bày ở trên, tôi tin rằng các độc giả đã tìm ra câu trả lời. Riêng đối với
tôi, tôi thấy không có một lý do nào có thể thuyết phục là người Việt Nam cần
đến đạo Thiên Chúa.
Tại sao? Không phải vì tôi không tin như các Ki-tô hữu,
cũng không phải vì tôi là người ngoại đạo nên cố ý phủ bác niềm tin của các
Ki-tô hữu. Mà vì sự “cứu rỗi” của Giê-su, dính liền với những quan niệm thần
học về “tội tổ tông”, “thiên đường” và “hỏa ngục” v..v.. không đặt trên một căn
bản nào, thần học cũng như khoa học, có thể thuyết phục được những người có đôi
chút hiểu biết. Hiểu biết ở đây là tôi muốn nói hiểu biết về thực chất Kinh
Thánh, về lịch sử Do Thái, về sự bành trướng Ki-tô giáo trên thế giới, về khoa
học chứ không phải là hiểu biết đại cương về những bộ môn khác. Tôi không thể
nào trình bầy ở đây những luận cứ để bảo vệ sự xác định của tôi vì nó quá dài.
Để thay thế, tôi chỉ xin đặt cho các Ki-tô hữu hay Cơ đốc nhân hay dân Chúa vài
câu hỏi để các bạn, tôi không coi ai là kẻ thù, suy nghĩ.
- Các bạn có biết niềm tin về một đấng cứu thế
thật ra chỉ là niềm tin của người Do Thái về một người anh hùng Do Thái xuất
hiện để cứu dân tộc Do Thái ra khỏi những nghịch cảnh của một quốc gia ở trong
vòng nô lệ?
- Các bạn có bao giờ suy nghĩ về sự kiện dân
Do Thái là dân được Thượng đế chọn nhưng lại không tin Con Một của Thượng đế,
Giê-su, là đấng cứu thế mà chỉ coi Giê-su như một tiên tri giống như nhiều tiên
tri khác trong Cựu Ước? Cũng vì vậy mà sau này, khi Ki-tô giáo nâng Giê-su lên
hàng cứu thế cho cả nhân loại, đã cực kỳ thù ghét người Do Thái và vu cho người
Do Thái cái tội “giết Chúa” [nếu Chúa có thể bị giết] và bạo hành người
Do Thái trong nhiều thế kỷ với cao điểm là Hitler, một tín đồ Công giáo, đã tàn
sát 6 triệu người Do Thái trong Đệ Nhị Thế Chiến.
- Các bạn có biết Cựu Ước chỉ là niềm tin của
dân tộc Do Thái và Tân Ước chỉ là sự tiếp nối của Cựu Ước để hoàn thành những
luật của Thượng đế trong Tân Ước như chính Giê-su đã khẳng định?
- Các bạn có biết Kinh Thánh gồm Cựu Ước và
Tân Ước được viết trong bối cảnh lịch sử của dân Do Thái cách đây ít nhất là gần
2000 năm (Tân Ước), khi mà sự hiểu biết của con người về nhân sinh, vũ trụ của
những người viết Kinh Thánh còn ở trong thời kỳ bán khai, cho nên đã có quá
nhiều sai lầm về thần học cũng như về khoa học?
- Các bạn có biết là những người viết Kinh
Thánh hoàn toàn không có một ý niệm nào về sự cấu tạo của vũ trụ và trái đất,
cho rằng trái đất phẳng và dẹt, có 4 góc, do đó không thể biết là ở phía bên kia
của trái đất còn có nhiều dân tộc khác, cho nên tên các nhân vật trong Kinh
Thánh hoàn toàn là ở trong vùng Trung Đông, không hề có một tên nào ở Á Đông như
tên Tàu hay tên Việt Nam?
- Các bạn có biết rằng chính giáo hoàng John
Paul II đã phủ nhận sự hiện hữu của một thiên đường ở trên các tầng mây, và đã
thú nhận là con người có thể không do Thượng đế tạo ra một cách tức thời mà là
do một quá trình tiến hóa lâu dài. Như vậy thuyết sáng tạo và thuyết về tội tổ
tông chẳng qua chỉ là những huyền thoại của dân Do Thái. Không có sáng tạo,
không có tội tổ tông, không có thiên đường, vậy thì ai cần ai chuộc tội, ai cần
ai cứu rỗi? Chẳng có lẽ Chúa chết là để chuộc những tội ác như cướp của,
giết người hay loạn dâm? Các bạn có đủ can đảm để chất vấn hay phản đối giáo
hoàng về điều này không?
- Các bạn có biết, qua những nghiên cứu của
các học giả, chuyên gia về Kinh Thánh ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội
Ki-tô, kể cả một số chức sắc trong Ki Tô Giáo, trong mấy trăm năm nay đã đồng
thuận ở một điểm: Giê-su Thần Học và Giê-su Lịch Sử [con người thực của Giê-su]
là hai nhân vật hoàn toàn khác nhau? Do đó tất cả những điều các bạn tin về
Giê-su chỉ là Giê-su theo Thần học chứ không phải là Giê-su thực, MỘT NGƯỜI
THƯỜNG NHƯ MỌI NGƯỜI, nhưng hoang tưởng cho mình chính là Con của Thượng đế [của
dân Do Thái].
- Các bạn có biết là các khoa học gia trong
Ki-tô giáo, với những máy móc tối tân nhất, những kỹ thuật tinh vi nhất, bén
nhạy nhất, được dùng để cố chứng minh là trong con người có một linh hồn độc
lập, trường tồn, nhưng cho tới ngày nay đã hoàn toàn thất bại? Vậy hi vọng rằng
khi chết sẽ được Chúa “cứu rỗi” cho lên thiên đường để chờ ngày phần hồn đoàn tụ
với xác chết Chúa làm cho sống lại, chỉ là một ảo tưởng vô vọng của những người
tin vào một Chúa mà không phải là Chúa?
- Các bạn có biết, theo như đoạn cuối trong
sách Khải Huyền, thì Nước Trời chỉ là một Jerusalem mới của người Do Thái được
đặt dưới quyền thống trị của Thiên Chúa của dân Do Thái mà thôi?
Còn nhiều câu hỏi nữa, nhưng tôi cho rằng như
vậy cũng đã tạm đủ, trừ hai điều mà nay các bạn đã biết và một câu hỏi
cuối cùng.
1.Giáo hội Công Giáo tuyệt đối không phải là
do Chúa Giê-su thành lập. Do đó, Phê-rô tuyệt đối không phải là Giáo hoàng đầu
tiên. Do đó, các giáo hoàng của Giáo hội Công giáo tuyệt đối không phải là
những người kế vị Phê-rô và không phải là đại diện của Chúa trên trần (Vicars of
Christ).
2.Giáo hoàng John Paul II đã bác bỏ thuyết
“Sáng Tạo” nghĩa là không làm gì có “tội tổ tông”. Do đó, vai trò “cứu chuộc”
và “cứu rỗi” của Giê-su trở thành vô nghĩa. Giáo hoàng John Paul II cũng còn
phủ nhận sự hiện hữu của một “thiên đường” hay “hỏa ngục”.
Vậy thì câu hỏi cuối cùng là :
Người
Việt Nam theo đạo Thiên Chúa là vì cái gì?
Các bạn hãy suy nghĩ kỹ và trả lời với tất cả
sự lương thiện trí thức của mình.
Trần Chung Ngọc
Quanh việc Vatican "viếng thăm" Việt Nam"
Web cá nhân: Chiến dịch Giáo Hoàng
VietNam NgayNayRadio: "Việt Nam Có Nên Bang Giao Với Vatican Hay Không
?"
Các bài thời sự cùng tác giả
▪
22 Năm Giao Điểm: Trừ Tà - Hiển Chánh và Độ Sinh -
Trần Chung Ngọc
▪
Chủ Nghĩa Khủng Bố và Diệt Chủng -
Trần Chung Ngọc
▪
Cuốn Triumph Forsaken của Mark Moyar -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Người Máy Chống Cộng -
Trần Chung Ngọc
▪
Tại Sao Những Người Tin Chúa Lại Thù Ghét Những Người Vô Th -
Trần Chung Ngọc
▪
Tản Mạn về Chống Cộng -
Trần Chung Ngọc
▪
Ăn Cơm Quốc Gia Thờ Ma Cộng Sản - Một Câu Chữ Của Những Kẻ U Mê -
Trần Chung Ngọc
▪
ĐĐ Thích Nhật Từ và Các Xóm Đạo Washington D.C. -
Trần Chung Ngọc
▪
Đọc "Món Hàng Xuất Cảng Làm Chết Người Nhất Của Mỹ: DÂN CHỦ" -
Trần Chung Ngọc
▪
Avro Manhattan: Cơn Ác Mộng Của Một Quốc Gia -
Trần Chung Ngọc
▪
BA MƯƠI THÁNG TƯ VÀ TÔI TỪ KIẾN THỨC ĐẾN LẬP TRƯỜNG -
Trần Chung Ngọc
▪
Bang Giao "Bắc Kinh-Vatican" (?) Một Kinh Nghiệm Quý Giá Cho Việt Nam -
Trần Chung Ngọc
▪
Bang Giao Với Vatican? Bang Giao Như Thế Nào ?? -
Trần Chung Ngọc
▪
Công Nghiệp Cuối Cùng -
Vài Suy Tư Xung Quanh Sự Ra Đi Của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp -
Trần Chung Ngọc
▪
Cựu Tổng Thống Mỹ Jimmy Carter & Liên Hiệp Quốc Lên Án Mỹ Vi Phạm Quốc Tế Nhân Quyền -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Phịa Thời Sự: Tin Vịt Truyền Thông -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Thời Sự Về Bức Thư “Chê Chúa” Của Einstein -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Thời Sự - Về Bức Thư “Chê Chúa” Của Einstein -
Trần Chung Ngọc
▪
Kiến Thức 30/4 Qua Các Danh Nhân - Tại Sao Chúng Ta Thua ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Kiến Thức 30/4 Qua Các Danh Nhân - Tại Sao Chúng Ta Thua ? -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 ▪
>>>