Bang Giao Với Vatican??
Bang Giao Như Thế Nào??
Trần Chung Ngọc
http://sachhiem.net/TCN/TCNts/TCNts054.php
03-Mar-2012
Vài Lời Nói Đầu.-
Đầu tháng 7, 2005, do lời mời của Vatican, một phái
đoàn từ Việt Nam đã đến Vatican tham quan để biết rõ hơn những hoạt
động mà Vatican đã trình diễn và đưa ra những lời hứa hẹn ngọt ngào
để khuyến dụ phái đoàn, hi vọng đi đến việc thiết lập quan hệ ngoại
giao bình thường giữa hai “quốc gia”. Và cuối tháng 11, 2005, Hồng
Y Crescenzio Sepe, Bộ Trưởng Bộ Truyền Giáo của Vatican, hậu thân của
những tòa án xử dị giáo khi xưa, đã đặt chân lên đất nước mà khi xưa
người Ca-Tô Giáo La Mã đã tích cực hỗ trợ thực dân Pháp để đưa nước
nhà vào cảnh nô lệ trong 80 năm. Bộ Trưởng Sepe đến để phong chức lại
cho 57 linh mục đã từng là linh mục, và thăm “Thánh Địa La Vang”, một
thánh địa ăn cướp của Chùa Lá Vằng như sử sách đã ghi rõ, với mục đích
đẩy mạnh sự sùng bái và cuồng tín của các tín đồ Ca-Tô Việt Nam, số
tín đồ này nổi tiếng là mê muội và cuồng tín nhất trên thế giới ngày
nay, ở trong nước cũng như ở hải ngoại.
Như vậy, vấn đề thiết lập quan hệ ngoại giao bình
thường giữa Việt Nam và Vatican có lẽ không còn bao lâu nữa sẽ đi tới.
Tuy nhiên, có hai vấn đề cần được đặt ra. Nhà Nước cần phải biết rõ
mình bang giao với ai, một quốc gia thế tục như mọi quốc gia khác,
hay một tôn giáo? Như vậy, điều cần thiết là Vatican cần khẳng định
với Việt Nam: Vatican là một quốc gia thế tục hay là một tôn giáo?
Nếu là một quốc gia như mọi quốc gia thế tục khác thì việc bang giao
với Vatican là chuyện tất nhiên, cũng như Việt Nam đã bang giao với
nhiều quốc gia khác. Nếu chỉ là một tôn giáo thuần túy lo việc tâm
linh của tín đồ của một tôn giáo trong vô số tôn giáo trên thế gian,
thí dụ như Hồi giáo, Do Thái giáo v..v.. , thì không có lý do gì để
Việt Nam phải bang giao với một tôn giáo, nhất là tôn giáo này đã đưa
đến Việt Nam nhiều hệ lụy và còn đang nắm giữ đầu óc của 5-7% dân số
người Việt. Nếu Vatican vừa là một quốc gia thế tục vừa là một tôn
giáo thì có lẽ Việt Nam cũng cần phải bang giao với Vatican trong tinh
thần ngoại giao quốc tế giữa các quốc gia và nhất là về vấn đề tôn
giáo, Việt Nam có nhiều điều cần phải giải quyết với Vatican.
Nhà Nước cần giải quyết dứt khoát với Vatican những
vấn đề lịch sử khi Ca-Tô Giáo đến Việt Nam, nhất là trong thời kỳ Pháp
chiếm Việt Nam làm thuộc địa và sau đó; vấn đề những đất đai và tài
sản mà Ca-Tô Giáo đã dựa vào thế lực của thực dân Pháp và của chế độ
Ca-Tô Ngô Đình Diệm trong 9 năm ở miền Nam để cướp đoạt của Việt Nam;
những hệ lụy mà Vatican đã mang đến Việt Nam; những giáo lý và Kinh
Thánh của Ca-Tô Giáo Rô Ma trong truyền thống văn hóa của dân tộc Việt
Nam v..v…, và nhất là vấn đề tôn trọng chủ quyền Việt Nam trong mọi
hình thức hoạt động xã hội cũng như tôn giáo ở Việt Nam. Đây là những
vấn đề quan trọng cần phải giải quyết một khi cuộc bang giao đã hình
thành. Và ngày nay, nếu muốn, Nhà Nước có thể có đầy đủ tài liệu về
những vấn đề này để đặt trên bàn đối thoại thương thuyết với Vatican.
Như vậy, bang giao với Vatican không thành vấn đề,
nhưng Việt Nam cần phải “biết mình, biết người”. Việt Nam cần phải
biết rõ chính mình và quan trọng hơn nữa là cần phải biết rõ Vatican.
Hi vọng người dân trong nước, nhất là khối Phật Giáo, có thể tích cực
giúp Nhà Nước trong vấn đề biết rõ truyền thống văn hóa Việt Nam. Biết
rõ Vatican trong chính sách đối ngoại là vấn đề then chốt có ảnh hưởng
đến tương lai của cả dân tộc, của “dân vạn đại”, chứ không chỉ ảnh
hưởng đến một Đảng, một tôn giáo, hay một chế độ “quan nhất thời”.
Cũng vì vậy mà Nhà Nước cần sự góp ý của người dân, những người dân
không thuộc thế lực phi dân tộc và tất nhiên phản dân tộc. Hi vọng
bài viết này có thể góp được một phần, dù nhỏ nhoi, trong chính sách
đối ngoại của Nhà Nước đối với Vatican, qua một số thông tin về bản
chất, chủ trương của Vatican, và nhất là thực lực của Vatican trên
thế giới ngày nay.
Bộ trưởng Phạm Bình Minh đón Thứ trưởng Ngoại giao của Vatican,
ông Ettore Balestrero (Hà Nội, 28/2/2012)
Sơ Lược Về Thực Chất Ca-Tô Giáo La Mã Ngày Nay.
Trước khi nói về thực chất Ca-Tô Giáo La Mã, tôi xin
viết vài nét về Việt Nam. Có thể nói Việt Nam là một nước Phật Giáo
vì đa số người dân theo Phật Giáo, cũng như nước Mỹ vẫn tự coi là một
nước Ki-tô Giáo (Christian country), vì đa số dân Mỹ (khoảng gần 80%)
theo Ki-tô Giáo. Xin đừng dựa vào những con số thống kê của ngoại quốc
về số tín đồ Phật Giáo. Người Việt theo Phật Giáo không nhất thiết
phải Quy Y Tam Bảo, không nhất thiết phải đi Chùa, không nhất thiết
phải răm rắp tuân theo những lời phán của các “Trưởng Tử Như Lai”,
nhưng thường là trong nhà bao giờ cũng có bàn thờ Phật và bàn thờ Tổ
Tiên. Tuy là một nước Phật Giáo, nhưng ý thức tôn giáo của Việt Nam
là một ý thức chiết trung, nghĩa là dung hòa mọi tín ngưỡng. Do đó
tinh thần Tam Giáo (Thích, Nho, Lão) Đồng Nguyên đã là một vết son
đậm trong lịch sử tôn giáo của Việt Nam. Truyền thống văn hóa cao cả
này của Việt Nam hoàn toàn đối ngược với những tôn giáo độc thần như
Ki-Tô-Giáo, Do Thái Giáo, và Hồi Giáo, những tôn giáo cho rằng con
người chỉ có quyền được thờ thần của họ, dù rằng thần của họ chỉ là
một sản phẩm tưởng tượng của người dân miền Trung Đông trong thời kỳ
bán khai mà ngày nay đã không còn chỗ đứng trong những xã hội văn minh
tân tiến. Những bằng chứng khoa học ngày nay đã chứng tỏ rõ ràng như
vậy hơn bao giờ hết.
Là một nước Phật Giáo, Việt Nam không nên quên rằng,
Giáo Hoàng Bê-nê-đít-to XVI hiện thời, trước là Hồng Y Joseph Ratzinger,
người đã được thiên hạ tặng cho nhiều biệt danh không lấy gì làm vinh
dự cho lắm: Hồng Y thiết giáp (Panzerkardinal), kẻ
ép buộc (tín đồ phải tuân theo luật đã lỗi thời) của
Vatican (The Vatican’s Enforcer), the God’s Rottweiler (Rottweiler
là một giống chó giữ nhà rất hung tợn), Người canh chừng bảo
vệ giáo lý chính thống (The Watchdog of orthodoxy) và Đại
Phán Quan (The Grand Inquisitor), đã từng lên tiếng phê bình
Phật Giáo một cách “rất có đạo đức Ca-Tô”, nếu không muốn nói là “rất
có giáo dục Ca-Tô”, là “A Sort Of Spiritual Auto-Eroticism”. Giáo
dục Ca-Tô cũng đã được phản ánh qua lời phê phán của vị giáo hoàng
tiền nhiệm, John Paul II, coi các nhà truyền giáo Tin Lành như là các
con “chó sói đói mồi, đến gây bất hòa, chia rẽ, và cướp đi tín đồ
của ông ta.” [Không hiểu những giáo sĩ thừa sai Ca-Tô đến Việt
Nam gây bất hòa chia rẽ trong dân tộc Việt Nam thì là những con gì?]
Việt Nam cũng không nên quên là gần đây, để khích
động sự cuồng tín của tín đồ và tái tạo sách lược chống Cộng của Giáo
hội Ca-Tô trong thế kỷ trước, Bê-nê-đít-to XVI đã mạnh mẽ lên tiếng
lên án chủ thuyết quốc xã cũng như chủ thuyết Cộng sản vô thần. [Xin
đọc bản tin của VietCatholic ngày 19/5/2005: “Linh Mục Đặng Thế
Dũng: Đức Giáo Hoàng Benedictô XVI mạnh mẽ kết án chủ thuyết quốc xã
và chủ thuyết cộng sản vô thần.”] Chúng ta hãy thử tìm hiểu
xem những lời lên án mạnh mẽ này có giá trị gì trước thế giới, trong
bối cảnh lịch sử thế giới và lịch sử của Ca-Tô Giáo La Mã. Từ đây chúng
ta sẽ đi vào thực chất thế lực của Ca-Tô Giáo La Mã trên thế giới ngày
nay.
Trước hết là về lời lên án của Bê-nê-đít-to XVI về
chủ thuyết quốc xã. Xét theo những tài liệu lịch sử thì việc Giáo hoàng
lên án chủ thuyết quốc xã Đức hiển nhiên là một hành động bất lương
và vô liêm sỉ của vị chủ chăn Ca-Tô Giáo La Mã vì chính Bê-nê-đít-to
XVI, khi 14 tuổi đã từng gia nhập đoàn Thiếu Niên Tiền Phong của Hitler
(Hitler’s Youth), cho nên báo chí Mỹ và Tây Phương đã đặt thêm cho
ông ta một danh hiệu: Nazi Pope, tương đương với danh hiệu Hitler’s
Pope đã được đặt cho Giáo hoàng Pius XII. Một trang
nhà Ý, Indymedia Italia, đã đăng hình Giáo hoàng Bê-nê-đít-to XVI
trong bộ quân phục Nazi [An Italian website, Indymedia Italia,
has published a photo montage of Pope Benedict XVI dressed in a Nazi
uniform] Theo tài liệu trên Internet thì đoàn Thiếu Niên của Hitler
đã đóng một vai trò chính trong sự nổi giậy của đảng Nazi (Hitler’s
Youth played a major role in the rise of the Nazi party). Qua tuyên
truyền và áp lực của cùng lứa tuổi, Hitler đã có thể tuyển mộ được
8 triệu trẻ em Đức, gồm một số chỉ mới có 12 tuổi, để tham dự trong
“nỗ lực chiến tranh” (the importance of peer pressure and propaganda
to Hitler's ability to recruit eight million German children, including
some as young as twelve, to participate in the "war effort.") Sau khi
huấn luyện, mỗi đứa trẻ được chính thức nhận vào đoàn qua nghi lễ phát
cho một con dao găm trên có khắc hai chữ Máu và Danh Dự (a coveted
dagger with its inscription Blood and Honor). Chủ trương của Hitler,
như Hitler thường nói, là đào tạo một lớp trẻ bạo hành năng động, vượt
trội, gan dạ, tàn bạo (A violently active, dominating, intrepid, brutal
youth).
Ngoài ra, lịch sử cũng đã chứng minh là Giáo hội Ca-Tô
La Mã đã tích cực ủng hộ và liên kết với các chế độ Phát Xít Đức, Ý,
Tây Ban Nha, và Croatia trong Đệ Nhị Thế Chiến. Thành tích ô nhục của
Vatican ủng hộ những tên độc tài khát máu phát xít như Hitler, Mussolini,
Franco, Pavelic v..v.. đã quá rõ ràng qua hàng ngàn tài liệu đã được
phanh phui và qua một số sách đã xuất bản. Chúng ta có thể đọc Hitler’s
Pope Viking/Penguin, 1999, của John Cornwell; The Catholic
Church and Nazi Germany, Da Capo Press, 2000, của Guenter Lewy; The
Vatican’s Holocaust, Ozark Books, London, 1972, và The
Vatican in World Politics, Copyright 1949 by Gaer Associations,
Inc., của Avro Manhattan; Genocide in Satellite Croatia: 1941-1945,
The American Institute for Balkan Affairs, Chicago, 1961, của Edmond
Paris; Unholy Trinity, St. Martin’s Press, 1991,
của Mark Aarons và John Loftus; The Catholic Church in World
Politics, Princeton University Press, New Jersey, 1987, của
Eric O. Hanson; The Politics of the Vatican, Frederick
A. Praeger, Publishers, New York, 1968 và The Pope’s Divisions:
The Roman Catholic Church Today, Holt, Rinehart and Winston,
New York, 1981, của Peter Nichols; và vô số tài liệu trên Internet
để biết rõ hơn về sự ủng hộ và liên kết của Giáo hội Ca-Tô La Mã với
các chế độ phát xít.
Do đó, mười ngàn lời lên án quốc xã hay phát xít của The
Nazi Pope cũng không thể tẩy xóa được những vết nhơ của
Giáo hội Ca-Tô trong những liên hệ với Phát Xít. Mười ngàn lời
lên án Cộng Sản Vô Thần của The God’s Rottweiler cũng
không thể xóa bỏ được ảnh hưởng của Cộng Sản trong vấn đề làm Ca-Tô
Giáo suy sụp trên thế giới. Như vậy, thực chất những lời lên án
chủ thuyết quốc xã và chủ thuyết Cộng sản vô thần của Bê-nê-đít-to
XVI là hoàn toàn vô giá trị, chỉ có tính cách ngụy quân tử và khuyến
khích tín đồ Ca-Tô Việt Nam hãy tích cực chống Cộng.
Để cho vấn đề được rõ ràng, sau đây là vài tài liệu
điển hình về mối quan hệ của Giáo hội Ca-Tô La Mã với Chủ Thuyết Phát
Xít mà Giáo hoàng Bê-nê-đít-to XVI “mạnh mẽ lên án” gần đây.
Chúng ta hãy đọc vài đoạn trong cuốn The Vatican in World Politics của
Avro Manhattan:
Ngày 21 tháng 2, 1923, Hồng Y Vannutelli, đứng
đầu tập đoàn Hồng Y, đã tỏ lòng thành kính đối với Mussolini (nhà
độc tài phát xít Ý) trước quần chúng về “lòng nồng nhiệt dấn thân
cho quốc gia và rằng Mussolini đã được Thiên Chúa chọn để cứu nước
Ý và khôi phục tài sản quốc gia” [On February
21, 1923, Cardinal Vannutelli, Head of the Sacred College of Cardinals,
paid public homage to Mussolini "for his energetic devotion to his country," adding
that the Duce "had been chosen by God to save the nation and to restore
her fortune."]
Ngày 20 tháng 12, 1926, chính giáo hoàng đã tuyên
bố trước “mọi quốc gia” là “Mussolini là người được Thiên Chúa gửi
đến” [On December 20, 1926, the Pope himself, declared to “all
nations” that "Mussolini is the man sent by Providence."]
Nói tóm lại, Giáo hội Ca-Tô còn hơn là hợp tác
với chủ thuyết phát xít trong các trường học, trại huấn luyện, và
trong những viện đào tạo đoàn Thiếu Niên Phát Xít, nơi đây những
đứa trẻ phải cám ơn “The Duce = Mussolini” trước mỗi bữa ăn.” Sau
đây là những lời điển hình, được viết ra, và được giáo hội chấp thuận
và khuyến khích: “Duce (Mussolini), Xin cám ơn Ngài về những gì Ngàì
đã cho chúng tôi để chúng tôi lớn lên khỏe mạnh. Ô Thiên Chúa! Xin
Người hãy bảo vệ ông ta để ông ta có thể tồn tại lâu dài vì nước
Ý Phát Xít” [The Catholic Church, after all,
was more than co-operating with Fascism in schools, in camps, and
in the Fascist Youth Institutions, where children had to say grace
before each meal. The following is a typical sample, written, approved,
and encouraged by the Church: "Duce,
I thank you for what you give me to make me grow healthy and strong…O
Lord God, protect the Duce so that he may be long preserved for Fascist
Italy]
Chủ thuyết Phát xít và Giáo Hội (Ca-Tô) bắt tay
nhau cùng làm trong mọi khía cạnh của cuộc sống, đặc biệt là cuộc
sống của giới trẻ, chúng được nhồi nhét bằng những điều dạy dỗ của
tôn giáo và chủ thuyết phát xít. Để minh họa, chỉ cần nói rằng trong
những sách giáo khoa trong các trường tiểu học, một phần ba là những
chủ đề về tôn giáo – sách bổn, những bài cầu nguyện v.. v.. – trong
khi hai phần ba còn lại là để ca tụng chủ thuyết Phát xít và chiến tranh [Fascism
and the Church worked hand in hand during the following two years,
when all branches of life, especially youth, were subjected to a
double bombardment by religious and Fascist teaching. In illustration,
suffice it to say that textbooks in elementary schools had one-third
of their space devoted entirely to religious subjects---catechism,
prayers, etc.---while the remaining two-thirds consisted of praise
for Fascism and war.]
Có thể nào có một sự liên kết chặt chẽ giữa giáo
hội và quốc gia hơn là giữa Vatican và chế độ Phát xít không? [Could
there be a closer alliance between Church and State than that between
the Vatican and the Fascist regime?]
Nhưng không phải chỉ có những tài liệu thành văn về
sự hợp tác của Ca-Tô Giáo La Mã với các chế độ Phát xít trong những
cuốn sách nêu trên, mà những kho tài liệu như US Holocaust Museum, Holocaust
Encyclopedia, còn lưu trữ nhiều hình ảnh về sự hợp tác của Ca Tô
Giáo với Phát Xít. Trong bài The Pictures Tell the Tale: The Vatican
and Nazism in Germany and Croatia của Jared Israel, Editor, Emperor's
Clothes, 22 April 2005, trên Internet chúng ta có thể đọc vài đoạn
như sau có kèm theo một số hình chụp mà nội dung đã chứng minh rõ
ràng sự hợp tác giữa Vatican và Quốc Xã:
Những bằng chứng chứng tỏ rằng (The evidence shows
that):
*a) Hệ thống quyền lực của Giáo hội Ca-Tô –
đặc biệt là Eugenio Pacelli, trước và sau khi trở thành Giáo hoàng
Pius XII – đã giúp đỡ Nazis. Thật vậy, Pacelli đã giữ một vai trò
then chốt trong việc tạo nên Hitler, tên độc tài của nước Đức. [The
Catholic Church hierarchy - especially Eugenio Pacelli, before
and after he became Pope Pius XII - aided the Nazis. Indeed, Pacelli
played a key role in making Hitler the dictator of Germany.]
*b) Giáo hội Ca-Tô đã tích cực trong những phong
trào Nazi ngoài nước Đức, đặc biệt trong vùng Baltic [Yugoslavia] nơi
đây Giáo hội giúp quốc gia bù nhìn Nazi Croatia trong việc cai
trị. [Các linh mục dòng Phan-Xi-Cô ở Croatia đã dự phần trong
việc tàn sát gồm cắt cổ, thiêu sống hơn 700000 (7 trăm ngàn) dân
Chính Thống Serbs và cưỡng bách nhiều người Serbs phải cải đạo
vào Ca-Tô Giáo La Mã] Sau cuộc chiến [Đệ Nhị Thế Chiến] Vatican
đã chứa dấu những tội phạm chiến tranh Nazi. [The Catholic
Church was active in Nazi movements outside Germany especially
in the Baltic region and in the Balkans, where it helped run the
Nazi puppet State of Croatia. After the war, the Vatican sheltered
Nazi war criminals.] Điều này đã được viết rõ với đầy đủ chi tiết
và hình ảnh trong những cuốn The Vatican’s Holocaust của Avro
Manhattan và Genocide in Satellite Croatia: 1941-1945 của Edmond
Paris. [Xin đọc thêm bài Bối cảnh của chiến dịch ngoại giao qua thực trạng khủng hoảng pháp lý và tài chánh của Vaticancủa
Thường Đức trên Trang Nhà Giao Điểm]
*c) Sự kiện là Nazis đã dùng biểu tượng của Ki-tô,
hoạt động sát cánh với những giáo hội Ki-tô và dựa sự tấn công người
Do Thái một phần trên những văn bản Ki-Tô mà người Âu Châu đã quen
thuộc. Vatican không phản đối việc dùng những văn bản này. [The
fact is the Nazis used Christian symbolism, worked closely with Christian
churches and based their attacks on Jews in part on Christian texts,
with which Europeans were familiar. The use of these texts was not
attacked by the Vatican.]
Về những hình ảnh còn lưu trữ trong Holocaust Museum, Holocaust
Encyclopedia, chúng ta có thể thấy vài tấm điển hình [The pictures
tell the tale]:
· -) Hitler rời nhà thờ Marine ở Wilhelmshaven
sau lễ [Hitler leaves the Marine Church in Wilhelmshaven.] (Điều
này chứng tỏ Hitler là một tín đồ Ca-Tô và chưa bao giờ bị Tòa Thánh
tuyệt thông.)
· -) Hitler cầu nguyện trong một cuộc biểu tình
ở Vienna [Hitler praying after a rally in Vienna]
· -) Một Hồng Y cùng diễn hành với đoàn quân
Nazi Đức [A Cardinal marches with the German Nazis]
· -) Những linh mục duỗi thẳng tay phải lên (hô
Heil Hitler) trong một cuộc biểu tình ở sân vận động Berlin-Neukolln,
tháng 8, 1933 [Priests give Hitler salute at a Catholic youth rally
in the Berlin-Neukolln stadium in August 1933.]
· -) Nhà độc tài Ante Pavelic của tổ chức Ustashi
ở Croatia cùng với các linh mục dòng Phan-Xi-Cô. Dòng Phan-Xi-Cô
rất tích cực trong công cuộc diệt chủng người Serbs, Do Thái và Gypsies [Croatian
Ustashi dictator Ante Pavelic with Franciscan monks. The Franciscan
order was active in the genocide against Serbs, Jews and Gypsies]
· -) Cưỡng bách dân Serbs cải đạo vào Ca-Tô Giáo (Forced
conversion of Serbs to Catholicism). Trong hình có một đám đông
dân Serbs đang ngồi chờ để các linh mục cải đạo. Những người Ki Tô
Chính Thống Serbs từ chối cải đạo thì bị chém giết trong các làng của
họ, hoặc trong trại tử thần Jasenovac, hoặc ném xuống vực núi. [The
Nazi-like Croatian Ustashi state, set up immediately after the Nazi
German invasion of Yugoslavia, was based on fanatical Catholicism.
Orthodox Christian Serbs who refused to convert were butchered in their
villages, or at the Jasenovac death camp, or thrown into mountain crevices.]
Sự tàn sát hơn 700000 dân Serbs bởi chế độ Ca-Tô Ustashe
ở Croatia đã được Avro Manhattan viết rõ trong cuốn The Vatican’s
Holocaust, Ozark Books, Springfield, MO., 1986, dày hơn 200
trang, với rất nhiều hình ảnh về những tội ác của Ustashe với các linh
mục dòng Phan-Xi-Cô trong đó. Những tội ác của chế độ Ca-Tô Ustashe
thật quá dã man, khủng khiếp ngoài sức tưởng tượng của con người. Chúng
ta không thể tưởng tượng là những con cái Chúa, được Chúa dạy phải
thương yêu người lân cận như chính mình lại có thể độc ác đến mức như
vậy. Sau đây là một số lời ghi dưới những hình ảnh dùng làm tài liệu
trong cuốn The Vatican’s Holocaust của Avro Manhattan
về sự liên hệ của Vatican với chế độ Ca-Tô Ustashe và những tội ác
của chế độ này ở Croatia:
- Trang 21: Hình Tổng Giám Mục Stepinac, đại
diện của Tòa Thánh bên cạnh Quân Đội của chế độ Ustashe, đứng
đầu hội đồng giám mục Croatian và Ủy Ban thi hành chính sách cưỡng
bức cải đạo (Stepinac was not only the Head of the Council of
Croatian Bishops and of the Committee which carried out a policy
of forcible conversions, he was none other than the Supreme Military
Apostolic Vicar of the Ustashe Army)
Tổng Giám Mục Stepinac
- Trang 23: Ngày 28 tháng 4, 1941,
Stepinac ban lệnh cho giới linh mục ở Croatia ủng hộ quốc gia mới Ustashe,
và cảm tạ thiên chúa toàn năng vì đã thiết lập được chế độ độc tài
Ustashe (On April 28, 1941, Stepinac issued a Pastoral Letter ordering
the Croatian clergy support the new Ustashe State, and thanks to the
Almighty for the establishment of the Ustashe dictatorship)
- Trang 26: Hình Tổng Giám Mục Stepinac
chụp chung với Tướng Roata, chỉ huy lực lượng phát-xít chiếm đóng Nam
Tư, Tướng Slavko Kvaternik, Chỉ Huy quân đội Ustashe, và vị Tổng Chỉ
Huy lực lượng Đức chiếm đóng Nam Tư (From right to left: Archbishop
Stepinac; General Roata, Commander of the Fascist forces of occupation
in Yugoslavia; Field Marshal Slavko Kvaternik; and the Commander of
the German forces of occupation in Croatia)
Ante Pavelic
- Trang 27: Hình Ante Pavelic, người
lập lên quốc gia Ca-Tô Croatia và thi hành chính sách khủng bố, chính
trị cực đoan, và cuồng tín tôn giáo. Được sự bao che của Giáo Hoàng
Pius XII, người đã giúp hắn ta tài chánh qua đường lối ngoại giao để
hắn thực hiện mục tiêu. Khi chế độ Ustashe sụp đổ, Pavelic trốn
trong Vatican rồi giả dạng làm một linh mục, chuồn sang Á Căn Đình (Ante Pavelic, the creator and leader of the independent Catholic State
of Croatia. He employed terrorism, political extremism and religious
fanaticism.. He enjoyed the protection of Pope Pius XII, who helped
him via diplomatic and monetary to achieve his ultimate objective.
When Ustashe Croatia collapsed, Pavelic hid at the Vatican, then, disguised
as a priest, fled to the Argentine)
- Trang 34: Hình bản sao tài liệu gốc
về luật của Bộ Tư Pháp và Tôn Giáo Croatia, bắt buộc mọi viên chức
chính phủ theo Chính Thống phải cải đạo sang Ca-Tô. Từ chối sẽ
bị cất chức ngay, tài sản bị tịch thu, hoặc bị bắt giữ. Thường là bị
cả ba. (A copy of the original document dealing
with the conversion to the Catholic Church of all Orthodox persons
employed by the Government, issued in Zagreb by the Ministry of Justice
and Religion. Everyone had to be or to become a Catholic. Refusal meant
instant dismissal, loss of property, or arrest. And, very often, all
three.) [Chính quyền
Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam đã áp dụng phần nào chính sách dùng người
này.]
- Trang 35: Hình một cuộc hành quyết
tập thể ở Brode bởi Ustashe, đầu năm 1941, dưới sự chứng kiến của binh
sĩ Nazi (A mass execution carried out by the Ustashe at Brode, early
in 1941. Nazi troops looking at the victims)
- Trang 38: Hình một người Serb bị ném
sống xuống hố chôn tập thể ở tại tập trung Jasenovac.
Trong thời
dưới quyền của một linh mục dòng Franciscan, Linh mục Filipovic, những
sự khủng khiếp trong trại này thì tương đương với trại tập trung Dachau
(của Nazi).
(An Orthodox Serb being thrown alive into a mass grave
in the notorious concentration camp of Jasenovac, in 1942. The camp,
when run by the Franciscan Monk, Father Filipovic, equalled in horrors
Dachau Concentration Camp)
Linh mục Miroslav Filipovic
- Trang 39: Hình thây những đứa trẻ
chết đói trong trại Jasenovac dưới quyền của linh mục Filipovic. Theo
sự cố vấn của Linh mục D. Juric, Linh mục Filipovic đã để cho trên
2000 (2 ngàn) trẻ em Chính Thống chết đói dưới sự cai quản của ông
ta (Corpses of children starved to death in the notorious concentration
camp of Jasenovac, whose Commandant was a Franciscan monk, Father
Filipovic. Father Filipovic, following the advice of Father D. Juric,
let more than 2000 other Orthodox children die while the camp was
still under his rule)
Tù nhân ở trại Jasenovac bị cưa đầu
- Trang 46: Hình Ustashe cắt cổ một
trong số nạn nhân Serb theo Chính Thống. Hãy để ý có một Ustashi
khác cầm cái bát hứng máu để cho máu khỏi bắn ra làm nhơ quân phục.
Tội ác tàn bạo này – một trong nhiều tội ác khác – xảy ra gần Cajnice,
năm 1943
(Ustashi cutting the throat of one of their Serbisn Orthodox
victims. Notice a Ustashi is holding a vessel to collect the first
spurt of blood and thus prevent their uniform from being blood stained.
The brutal crime – one of many – took place near Cajnice in 1943.)
- Trang 50, 51, và 53: Hình những
người Serbs bị Ustashi treo cổ tập thể.
- Trang 67, 68, và 69: Hình các linh
mục làm lễ cải đạo đám đông dân Serbs. Avro Manhattan viết: Các
linh mục Công Giáo không ngần ngại thủ tiêu những người chống lại lệnh
cải đạo. Linh mục Dragutin Kamber, một linh mục dòng Tên, ra lệnh giết
300 người Serbs Orthodox ở Doboj. Linh mục Branimir Zupanic, ra lệnh
giết hơn 400 người trong một làng: Ragolje. Linh mục Srecko Peric,
hô hào giết người tập thể như sau: ‘Hãy giết hết dân
Serbs. Và khi giết xong hãy tới đây, vào nhà thờ, Ta sẽ nghe lời xưng tội và tha tội cho cho các con” Vì những lời này mà trên 5600 dân Serbs
Orthodox bị giết ở quận Livno. (Father Dragutin Kamber, a Jesuit
priest, ordered the killing of 300 Orthodox Serbs in Doboj. Father
Branimir Zupanic, had more than 400 people killed in one village alone:
Ragolje. Father Srecko Peric advocated mass murder with the following
words: “Kill all Serbs. And when you finish come here, to the Church,
and I will confess you and free you from sin”. This resulted in
a massacre, on August 10, 1941, during which over 5600 Orthodox Serbs
in the district of Livno lost their lives)
Trên đây chỉ là một phần những hình ảnh điển hình
trong 7 chương đầu của cuốn The Vatican’s Holocaust,
gồm tất cả 24 chương. Trong cuốn sách còn có rất nhiều hình ảnh khác
về sự liên hệ của Vatican với chế độ Ustashe và về những tội ác của
những người Ca-Tô Croatia, gồm cả các giám mục và linh mục, những
hình ảnh rùng rợn không thể tưởng tượng được. Đặc biệt là Avro Manhattan
viết chương 23 với đầu đề: VIETNAM: THE CROATIA OF ASIA.
So sánh chế
độ Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam với chế độ Ustashe ở Croatia là một
sự so sánh quá mức. Nhưng tác giả chỉ muốn nói lên một điều là bất
cứ ở đâu mà Ca-Tô Giáo lên cầm quyền thì ở đó sẽ xảy ra chuyện kỳ thị
tôn giáo và cưỡng bách cải đạo. Chính quyền Ngô Đình Diệm không đến
nỗi tàn bạo như chế độ Ustashi, nhưng trong 9 năm dưới triều Công Giáo
Ngô Đình Diệm, không phải là không có chuyện ép buộc cải đạo, giết
người ngoại đạo, vu khống là Việt Cộng để chiếm đoạt tài sản, và các
tổng giám mục, giám mục, linh mục Công Giáo tự tung tự tác, tác oai
tác quái, cướp đất của dân, độc quyền kinh tế v..v...
Trước những bằng chứng lịch sử bằng văn và bằng hình
ảnh rõ ràng như trên mà ngày nay Giáo hoàng Bê-nê-đít-to XVI lại lên
án chủ thuyết quốc xã thì những lời lên án đó có giá trị gì. Ông ta
không thể không biết đến những liên hệ của Giáo Hội Ca-Tô với những
chế độ Phát xít Đức, Ý, và những lời lên án của ông đã quật ngược lại
Giáo hội Ca-Tô La Mã, chứng tỏ đó chỉ là một hành động vô liêm sỉ và
đạo đức giả, đưa bộ mặt thánh thiện giả tạo của chính ông và giáo hội
mà ông đứng đầu. Nhưng những hành động vô liêm sỉ và đạo đức giả như
vậy chỉ có thể lừa bịp được đám tín đồ ngu ngơ như Linh Mục Đặng Thế
Dũng chứ không thể lừa bịp được ai khác.
Thật ra, sự vô liêm sỉ và đạo đức giả của Bê-nê-đít-to
XVI trong việc lên án quốc xã chỉ là đi theo vết chân của Giáo hoàng
Pius XII, Hitler’s Pope. Chúng ta biết rằng John Cornwell đã xuất bản
cuốn Hitler’s Pope: The Secret History of Pius XII năm
1999 dựa theo những hồ sơ mật của Vatican mà ông được phép tham khảo,
và những nguồn tài liệu của Đức về những hoạt động của Pius XII ở Đức
trong những thập niên 1920, 1930 kể cả những cuộc thương thuyết của
ông ta với Hitler trong năm 1933 [ Two key officials granted me access
to secret material: depositions under oath gathered 30 years ago to
support the process for Pacelli's canonization, and the archive of
the Vatican Secretariat of State, the foreign office of the Holy See.
I also drew on German sources relating to Pacelli's activities in Germany
during the 1920s and 1930s, including his dealings with Adolph Hitler
in 1933.] Với hàng ngàn tài liệu tham khảo, John Cornwell đã thấy những
gì? Chúng ta hãy nghe ông mô tả trong một đoạn ngắn.:
“Những bằng chứng nổ tung như bom. Lần đầu tiên
chúng chứng tỏ Pacelli (tức giáo hoàng Pius XII) là người
chống Do Thái có môn bài, qua chính những lời nói của ông
ta. Chúng phanh phui ra rằng ông ta đã giúp Hitler lên nắm
quyền lực và cùng lúc phá ngầm khả năng chống đối của Ca-Tô ở
Đức. Chúng chứng tỏ ông ta đã phủ nhận và tầm thường hóa Holocaust,
tuy rằng ông ta đã có những hiểu biết đáng tin cậy về mức độ của
Holocaust. Và, tệ hơn nữa, ông ta là một tên đạo đức giả, vì sau
chiến tranh ông ta đã vơ vào mình công lao thái quá là trong quá
khứ ông ta đã nói thẳng ra để chống sự bạo hành của Nazi.” [The
evidence was explosive. It showed for the first time that Pacelli
was patently, and by the proof of his own words, anti-Jewish. It
revealed that he had helped Hitler to power and at the same time
undermined potential Catholic resistance in Germany. It showed that
he had implicitly denied and trivialized the Holocaust, despite having
reliable knowledge of its true extent. And, worse, that he was
a hypocrite, for after the war he had retrospectively taken undue
credit for speaking out boldly against the Nazis’ persecution.]
Đạo đức của các vị chủ chăn Ca-Tô thường là như vậy,
cho nên ngày nay chúng ta không nên lấy làm lạ khi thấy giáo hoàng
Bê-nê-đít-to XVI, nguyên là một phần tử trong đoàn Thiếu Niên Tiền
Phong của Hitler, lên án quốc xã.
Bây giờ đến vấn đề Bê-nê-đít-to XVI lên án Cộng Sản
Vô Thần. Có lẽ vì suốt đời sống trong cái “bóng tối dày đặc của ý thức
hệ La Mã” (Dr. Barnado: In the thick darkness of Romanism) cho nên
Giáo hoàng Bê-nê-đít-to XVI không hề được học rằng, giữa thế kỷ 18,
nhà Đại Văn Hào Pháp Voltaire đã nhận định: “vô thần là thói
xấu của một số ít những người thông minh” (Atheism is the vice
of a few intelligent people) để đối chiếu với số đông những người “hữu
thần” ngu dốt tin nhảm tin nhí vào một thần trong thời đó ở Âu Châu,
tuyệt đại đa số là tín đồ Ki-Tô Giáo.
Nhưng có vẻ như đám người ngu dốt này, qua sự bành
trướng của Ca-Tô Giáo, không chỉ giới hạn ở Âu Châu, không tiến bộ
được chút nào trải qua đã vài thế kỷ, cho nên chúng ta vẫn thấy họ
dùng những từ như “Cộng sản vô thần” tràn ngập trên Internet, hầu hết
từ phía những người Ca-Tô Việt Nam, hàm ý “vô thần” là một cái gì xấu
xa, vì không chịu tin nhảm tin nhí vào thần của họ. Thật là tội nghiệp
cho họ. Họ có biết đâu “vô thần” là biểu hiện của tự hào, của danh
dự, của sự tiến bộ trí thức, và “vô thần” đã có trong suốt giòng lịch
sử của nhân loại, trong khi Cộng Sản mới chỉ thành hình vào đầu thế
kỷ 20. Tại sao họ lại ngu đần và mù quáng đến độ ngày nay còn dùng
đến chiêu bài “Cộng sản vô thần” như vậy? Vì họ đã bị những tôn giáo
độc thần làm tê liệt đầu óc, khiến cho họ suốt đời phải bám víu vào
một vị thần tưởng tượng do tôn giáo đó bày đặt ra, như bám víu vào
một cặp nạng để lê lết trên trường đời.
Họ là những người mù nhưng lại muốn dẫn đường cho
những kẻ sáng. Họ là những người què quặt nhưng lại muốn phát cho những
người lành lặn mỗi người một cặp nạng. Họ được dạy vô thần là chống
thần của họ, cho nên với bất cứ giá nào, họ phải chống những người
“vô thần” để duy trì sự mù quáng và những cặp nạng của họ. Họ không
thể hiểu được rằng, đối với những người vô thần thì thần của Ki-Tô
Giáo cũng như lông rùa, sừng thỏ, không thể có, không thể hiện hữu,
cho nên chống cái không có, không hiện hữu, là một chuyện phi lý, không
có mấy ai có đầu óc đi làm chuyện phi lý đó. Đọc danh sách những người
“vô thần” chúng ta thấy hầu hết đều là những danh nhân trí thức trên
thế giới, trong khi đọc danh sách những giáo hoàng Ca-Tô, những người
“hữu thần” nặng ký nhất, chúng ta thấy không thiếu gì những kẻ ngu
dốt, ác độc, giết người, loạn luân, phạm đủ mọi thứ tội ác thế gian.
Vậy “vô thần” hơn hay là “hữu thần” hơn. Những cuộc thánh chiến tôn
giáo, những tòa án xử dị giáo, những cuộc tra tấn nơi hình ngục, những
cuộc thiêu sống con người, những cuộc săn lùng phù thủy, những cuộc
chiếm đất diệt chủng của Ki-Tô Giáo, hai cuộc thế chiến vào thế kỷ
20 v..v.., là do “vô thần” hay “hữu thần” gây ra? Bê-nê-đít-to XVI
có biết đến lịch sử đẫm máu của chính giáo hội Ca-Tô La Mã không? Vậy
lấy tư cách gì để mà lên tiếng kết án chủ thuyết Cộng Sản vô thần?
Nhưng mà tại sao?
Giáo hoàng lên án chủ thuyết Cộng Sản Vô Thần là điều
tất nhiên vì Ca-Tô Giáo vốn không đội trời chung với Cộng Sản, một
ý thức hệ đối nghịch với ý thức hệ Ca-Tô và đã đưa Ca-Tô Giáo vào một
bước ngoặt lịch sử trên con đường suy thoái. Hiện tượng suy thoái của
Ca-Tô Giáo La Mã trên khắp thế giới, nhất là ở Tây Phương, cái nôi
của Ca-Tô Giáo trước đây, đã là điều hiển nhiên đối với những người
để tâm tìm hiểu. Vì vậy, Ca-Tô Giáo đang có nỗ lực cải đạo Á Châu,
một lục địa đông dân và tài nguyên phong phú, nơi đây đám đông quần
chúng còn nghèo và không có cơ hội học hỏi tìm hiểu để mở mang trí
tuệ, để có cùng trình độ hiểu biết và suy luận về tôn giáo như đa số
người dân Tây Phương, cho nên dễ bị mê hoặc bởi những mồi vật chất
nhỏ nhoi và bởi những điều mê tín hoang đường đã không còn chỗ đứng
ở Tây Phương. Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan v..v.. là những miền đất
tốt để cho Ca-Tô Giáo thực hiện âm mưu mang đồ phế thải ở Âu Mỹ tới
trồng cấy đàng sau chiêu bài cải đạo Á Châu, với hi vọng có thể xóa
bỏ nền văn hóa Đông Phương, biến con người thành những đàn chiên, tuyệt
đối tuân phục Vatican như những tín đồ trong thời Trung Cổ trước đây.
Những điều trên không phải là những suy đoán vu vơ
mà đã là những sự kiện mà chính Giáo hoàng Bê-nê-đít-to XVI cũng phải
thú nhận gần đây. Theo những tin tức trên báo chí trên thế giới và
cả trên tờ thông tin chính thức của Vatican, tờ L’Osservatore Romano,
vào những ngày 27, 28 tháng 7, 2005, thì Giáo hoàng Bê-nê-đít-to XVI
đã lên tiếng phàn nàn như sau:
- “Những tôn giáo chủ đạo Tây Phương có vẻ đang
chết dần vì các xã hội càng ngày càng trở nên thế tục và không
còn cần đến Thiên Chúa nữa” [Mainstream churches in the
West appear to be dying as societies that are increasingly secular
see less need for God].
- “Trong khi đức tin ở các nước đang phát triển
đang lên thì ở Tây Phương lại khác, một thế giới chán ngấy với
chính nền văn hóa của mình [Thật ra Tây Phương chán ngấy
nền văn hóa Ki Tô Giáo chứ không phải là nền văn hóa Tây Phương,
Giáo hoàng Bê-nê-đít-to XVI đã nhập nhằng đánh đồng nền văn hóa
Tây Phương, một nền văn hóa thiên về suy lý sáng tạo, với nền văn
hóa Ki-Tô Giáo, một nền văn hóa thiên về một đức tin mù quáng.
TCN] nơi đây không còn bằng chứng về một sự cần đến Thiên
Chúa, và ngay cả sự cần đến đấng Ki-Tô lại còn ít hơn nữa ” [It
is different in the Western world, a world which is tired of its
own culture, a world which is at the point where there's no longer
evidence for a need of God, even less of Christ].
- “Trong một số quốc gia tiến bộ có khi chỉ
có 5% giáo dân đi xem lễ ngày Chủ Nhật” [Participation
at Sunday Mass in some developed countries was as low as 5 percent.]
- “Bê-nê-đít-to cũng tỏ ra rầu rĩ về vấn đề
những tín đồ Ca-Tô ly dị đã tái hôn mà không cần đến phép hủy hôn
của Giáo hội. Ông ta khẳng định lại là những người này không thể
được hưởng bí tích ăn bánh thánh nhưng nhấn mạnh là họ nên nghĩ
rằng họ vẫn còn ở trong giáo hội.” [Benedict also expressed
sadness at the plight of divorced Roman Catholics who remarry without
getting an annulment, reaffirming that they cannot receive Communion
but streessing they should feel they still belong to the church.]
- Bê-nê-đít-to nói: Sự “vui mừng” về số lượng
các linh mục gia tăng trong các nước đang phát triển thì kèm theo
một “sự cay đắng hiển nhiên” vì một số các linh mục tương lai chỉ
theo đuổi một đời sống tốt đẹp hơn. [Đồng nghĩa với “theo đạo
có gạo mà ăn”] Trở thành linh mục, là họ trở thành như một ông
tù trưởng, đương nhiên được hưởng sự ưu đãi và có một lối sống
khác. [Benedict said the "joy" at the growing numbers of
churchmen in the developing world is accompanied by "a certain
bitterness" because some would be priests were only looking for
a better life."Becoming a priest, they become almost like a head
of a tribe, they are naturally privileged and have another type
of life.] (Điều này thật đúng vì thống kê cho biết đa số chủng
sinh vào nghề linh mục ở Mỹ hiện nay là gốc Mễ và gốc Mít, chẳng
phải là vì “ơn kêu gọi” của Thiên Chúa mà vì ông Washington trên
những tấm giấy xanh gọi. Báo Chicago Tribune ngày 11 tháng
12, 2005 đăng mẩu tin: “Vào thời điểm mà có ít tín đồ Ca-Tô
Mỹ biểu lộ sự thích thú vào nghề linh mục, những người Mỹ gốc Việt
là một sự bất thường. Họ là khối thiểu số lớn thứ nhì trong các
trường dòng, chỉ hơi ít hơn những người Mễ, trong đó có một số
người già, như Trinh Quang Le, đã 51 tuổi” [At a time when
fewer American Catholics are expressing interest in the priesthood,
Vietnamese-American men are an anomaly. They are the second-largest
minority ethnic group in seminaries, only slightly behind Hispanics.
There are a few older seminatians, like Trinh Quang Le, 51…]. TCN).
Lẽ dĩ nhiên những người Mỹ gốc Việt này xuất thân từ những gia
đình có truyền thống Bùi Chu - Phát Diệm – Hố Nai – Gia Kiệm và
những chuyên viên “bảy nghề”.
Những lo ngại của Bê-nê-đít-to XVI không phải là vô
căn cứ vì tình hình Ca-Tô Giáo ở Âu Châu đang suy thoái một cách thê
thảm. Ngày nay Vatican chỉ còn dựa trên đám tín đồ thấp kém, hơn 70%
thuộc thế giới thứ ba và một vài ốc đảo ngu dốt ở Á Đông, nơi đây tổng
số tín đồ chỉ chiếm nhiều nhất là 2% dân số Á Đông. Đây chính là thực
lực thực sự của Ca-Tô Giáo La Mã. Nhưng bộ máy tuyên truyền của Vatican
với sự phụ họa của đám con chiên nô lệ vẫn cố sức đưa ra những hình
ảnh hào nhoáng không thực về thực lực của Vatican.
Thật vậy, tình trạng suy thoái của Ki Tô Giáo nói
chung, Ca-Tô Giáo La Mã nói riêng, ở phương trời Âu Mỹ là một tình
trạng đã rõ rệt, không ai có thể phủ nhận. Một vài tài liệu với
vài con số thống kê sau đây có thể cho chúng ta thấy rõ hiện tượng
này. Trong cuốn Những Nhà Đi Truyền Giáo (Missionaries) của Julian
Pettifer và Richard Bradley, cuốn sách dựa trên một chương trình
TV 6 kỳ của đài BBC, nội dung nghiên cứu về lịch sử truyền giáo
của Ki Tô Giáo nói chung trên thế giới, chúng ta có thể đọc được
vài sự kiện như sau:
Trang 242: Âu châu đã trở thành “một mối
bối rối, lúng túng cho Ki Tô Giáo”, một lục địa mà nhà thần học
Đức Kierkegaard đã gọi là lục địa của những “người ngoại giáo đã
được rửa tội”. Nói ngắn gọn, Âu châu, trong nhiều thế kỷ là cái
nôi của chương trình truyền giáo Ki Tô đi khắp nơi, nay chính nó
lại đã trở thành nơi cần phải được truyền giáo.. Một số người
nói rằng đây là một lục địa “hậu-Ki-Tô”.
Theo Floyd McClung (một nhà truyền giáo Ki Tô)
thì: Người ta e rằng nếu Âu châu cứ tiếp tục quay lưng lại Thượng
đế thì sẽ có ngày Thượng đế sẽ quay lưng lại Âu Châu. [Nếu có
một Thượng đế].
Những nhà truyền giáo ngày nay tin rằng Âu Châu
hiện ở trong nguy cơ bị lún sâu trong làn sóng thủy triều của chủ
nghĩa thế tục. Họ cực lực phủ nhận đó là định mệnh tối hậu không
thể tránh được của các quốc gia theo Ki Tô Giáo.
(Europe had become “an embarrassement to Christianity”,
a continent of what the German theologian Kierkegaard called “baptised
pagans”. In short, Europe, for centuries the craddle of Christian
Mission, had itself become a mission field… Some say it is a “post-Christian”
continent.
For Floyd McClung: there is a fear that if Europe
continues to turn its back on God, the time may come when God will
turn His back on Europe.
The missionaries believe that Europe is in danger
of being swamped by a tidal wave of secularism. They vigorously
deny that this is the inevitable and ultimate destiny for all Christian
nations..)
Trang 244: Ở Anh Quốc: Tình
trạng vô Thượng đế ở Anh được coi như là một sự truyền nhiễm
trong giới lao động ở đô thị. Tuy rằng có những biệt lệ
đáng kể, giới trung lưu vẫn còn là những người, nếu không phải
là sợ Thượng đế thì ít nhất cũng là những kẻ tiếp tục đi lễ
nhà thờ... Hình ảnh này đã hoàn toàn thay đổi. Sự truyền nhiễm
đã tràn vào giới trung lưu sống ở ngoại thành, và ngay cả
mạch sống của giáo hội, những giáo xứ ở miền quê, cũng đã
bị nhiễm độc. Trong cuộc kiểm tra về ngày chủ nhật năm 1851,
vào khoảng 40% dân chúng đi lễ nhà thờ. Một thế kỷ sau, 1951,
số người đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật vào khoảng gần 10%.
Các nhà thống kê tranh cãi nhau về số tín đồ
Ki Tô thuần thành ở Anh thấp như thế nào. Một số người cho
rằng số người thường xuyên đi lễ nhà thờ chỉ là 4%. Tới năm
1986, 1/5 số 2870 nhà thờ Tin Lành ở Luân Đôn chỉ có cộng đồng
tín đồ dưới 25 tín đồ; 3/4 có dưới 100 tín đồ.. Nhà thờ trên
khắp nước Anh bị bỏ hoang vắng. Đặc biệt là ở Luân Đôn, sự
biến cải nhà thờ thành một cơ sở khác là một dịch vụ kiếm lời
lớn. Những đèn nhấp nháy để nhảy Disco soi sáng những khung
cửa kính màu của một nhà thờ chính ở Luân Đôn, nhà thờ này
đuọc đặt tên lại là Hộp Đêm Ánh Sáng; ở Barnsbury, Bromley-by-Bow,
Ealing và Highgate, những nhà phát triển địa ốc đã biến những
nhà thờ từ thời Victoria thành những căn nhà ở cho thuê; ở
Wales, giáo phái Trưởng Lão Tin Lành (Bresbyterian) biến cải 300
nhà thờ thành những nhà ở cho những cặp vợ chồng trẻ đang trong
cảnh khó khăn để mua được một căn nhà đầu tiên. Ở nhiều nơi khác, nhà
thờ được dùng làm kho bán hạ giá bàn ghế tủ giường thảm, và làm
tiệm ăn.
Tuy nhiên sự quan tâm về tình trạng suy sụp tâm
linh ở Anh chẳng có nghĩa lý gì khi so sánh với Pháp. Theo nhà truyền
giáo (Tin Lành) Mỹ David Barnes, mặc dù Pháp có một nền văn hóa
phong phú, dân Pháp cũng “không biết đến Thượng đế như là những
thổ dân thiếu văn minh ở trong những lục địa tối tăm nhất trên thế
giới.” Trong số 54 triệu dân, chỉ có 0.22% theo Tin Lành. Tuy
rằng 94% dân chúng được rửa tội theo Ca-Tô giáo, chỉ có 2% là thường
đi lễ nhà nhờ ngày chủ nhật. Dù rằng Pháp chịu ảnh huỏng rất
lớn của Ca-Tô giáo, Hội Truyền Giáo Đến Các Nơi Chưa Biết Đến Phúc
Âm tuyên bố Pháp là miền đất phải được truyền giáo.
(In Britain: Godlessness in Britain was presumed
to be a contagion confined to the urban working classes. Although
there were notable exceptions, the middle classes remained, if not
God- fearing, then at least church-going folk…The picture had completely
changed. The disease had spilled into middle-classes suburbia and
even the life-blood of the church, the rural parishes, had been
infected. On census Sunday in 1851, some 40% of the population went
to church. A century later, in 1951, it was nearer 10%.
The statisticians quibble about how just low the
figures are for practising Christians in Britain. Some argue that
consistent church attendance is as low as 4%. By 1986, a fifth of
London’s 2870 Protestant churches had congregations of less than
25; ¾ had less than 100 members… Churches all over Britain lie abandoned
and derelict. In London particularly, church conversion has become
big business. Disco lights illuminate the stained-glass windows
of one central London church, renamed the Limelight Nightclub; in
Barnsbury, Bromley-by-Bow, Ealing and Highgate, developers have
turned Victorian churches into exclusive apartments; ..In Wales,
the Bresbyterian Church is converting 300 churches into homes for
young married couples struggling to buy a first house. Elsewhere,
churches are being used as furniture warehouse, carpet disount stores
and restaurants.
But concerns over Britain’s spiritual welfare
is nothing compared to that over France. According to the American
missionary David Barnes, despite the richness of their culture,
the French “are as ignorant of the things of God as the uncivilised
natives of one of the world’s darkest continents”. A mere 0.22%
of France’s 54 million population are evangelical Protestants. Although
94% are baptised Catholics, a mere 2% regularly attend church. Despite
the huge influence of the Catholic Church, the Unevangelised Fields
Mission (UFM) have declared France a mission field.)
Ở Mỹ, tình trạng Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo
Rô-ma nói riêng, cũng không sáng sủa gì hơn. Đức tin Ca-tô càng
ngày càng suy giảm, linh mục và giáo dân bỏ đạo hàng loạt, các “bí
tích” trở thành mất ý nghĩa, do đó giáo dân không chịu đi lễ nhà
thờ ngày chủ nhật. Trong nhà thờ ngày chủ nhật chúng ta thấy phần
lớn là những bộ mặt già nua và những giáo dân Mít, Mễ, và gốc Phi
Châu. 60% tín đồ của hệ phái Tin Lành lớn nhất United Methodist
trên 50 tuổi. Một số nhà thờ, Ca-tô cũng như Tin Lành, được rao
bán để người mua muốn sử dụng làm gì thì làm, có nhiều trường hợp
nhà thờ nay biến thành chùa. Nhiều trường học Ca-tô ở các địa phương
đóng cửa vì không có học trò và không đủ tài chánh để tiếp tục hoạt
động. Nhưng các giáo xứ vẫn có tiền bồi thường, thường là lên đến
hàng triệu đô-la, cho các nạn nhân của các linh mục can tội loạn
dâm.
Năm 1990, linh mục David Rice dòng Đô-Mi-Nic xuất
bản cuốn Lời Nguyện Tan Vỡ: Linh Mục Bỏ Đạo (Shattered Vows: Priests
Who Leave), đưa ra kết quả nghiên cứu của ông sau khi đi khắp nơi
tổng cộng 38 ngàn dặm (khoảng 60 ngàn cây số) để phỏng vấn và tìm
hiểu đời sống của các linh mục bỏ đạo:
Một trăm ngàn ( 100000 ) linh mục Ca-tô Rô-ma
đã bỏ đạo trong 20 năm qua – cứ mỗi 2 giờ đồng hồ lại có hơn
một linh mục ra đi. Hầu như phân nửa số linh mục Mỹ sẽ bỏ đạo
– thường là để lập gia đình – chưa tới 25 năm sau khi được tấn phong.
Vatican không nói tới cuộc di dân này, nhưng đó chính là cuộc khủng
khoảng nghiêm trọng nhất mà giáo hội phải đối diện, kể từ khi có
cuộc Cải Cách tin Lành.
(100000 Roman Catholic priests have walked out
in the last 20 years – more than one every two hours. Almost half
of all American priests will leave – most often, to marry – before
the 25th anniversary of their ordination. The Vatican won’t talk
about this exodus, yet it is the most grievous crisis to face the
Church since the Protestant Reformation)
John Cornwell, một tín đồ Ca Tô và cũng là một
chuyên gia về Ca Tô Giáo và Vatican, tác giả 2 cuốn sách nổi tiếng
về Vatican: A Thief in the Night và Hitler’s Pope,
đã viết thêm một tác phẩm về Ca Tô giáo nhan đề Từ Bỏ Đức Tin:
Giáo Hoàng, Giáo Dân, và Số Phận của Ca Tô Giáo (Breaking Faith:
The Pope, The People, and The Fate of Catholicism), xuất bản năm
2001, trong đó chương đầu viết về Một Thời Đại Đen Tối Của
Ca Tô Giáo (A Catholic Dark Age). Trong chương này, tác giả
John Cornwell đưa ra tình trạng suy thoái trầm trọng của Ca Tô giáo
ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Anh, Mỹ, và Pháp. Số
tín đồ mang con đi làm lễ rửa tội giảm sút, vì ngày nay người ta
nhận thức được rằng chẳng làm gì có tội ở đâu mà phải đi rửa; đám
cưới tổ chức không cần đến linh mục, vì hôn phối có thể hợp thức
hóa ngoài nhà thờ và bí tích hôn phối đã mất hết ý nghĩa;
giới trẻ không buồn đến nhà thờ, vì chẳng thấy gì hấp dẫn trong những
lời giảng đi ngược thời gian của các linh mục; số từ bỏ đức
tin gia tăng, vì người ta không còn chịu chấp nhận một đức tin mù
quáng; từ 1958 đến nay, số vào nghề linh mục giảm đi 2/3
v..v.. [Vatican vớt vát được một phần bằng cách tuyển mộ được
một số linh mục Mít và Mễ] Tình trạng ở Châu Âu, trước đây là cái
nôi của Ca Tô giáo, thật là thê thảm. Ở Tây Âu (Western Europe),
từ 30 đến 50% các giáo xứ không có linh mục. Ở Ý, 90% theo
Ca Tô giáo nhưng chỉ có 25% đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, giảm 10%
kể từ đầu thập niên 1980, số người vào học trường Dòng giảm một
nửa. Ở Ái Nhĩ Lan (Ireland), xứ Ca Tô, số người cảm thấy mình
được ơn kêu gọi tụt xuống từ 750 năm 1970 còn 91 năm 1999, số
linh mục được tấn phong từ 259 xuống 43 trong cùng thời gian. Trong
một hội nghị đặc biệt vào năm 1999, các giám mục Âu Châu tuyên bố
rằng các dân tộc trong toàn lục địa Âu Châu đã quyết định sống “như
là Thiên Chúa không hề hiện hữu” (At a special synod in
1999, the bishops of Europe declared that the peoples of the entire
continent had decided to live “as though God did not exist”.) Ở
Nam Mỹ, tình trạng cũng không khá hơn. 7000 tín đồ mới có một linh
mục. Chỉ có 15% giáo dân đi xem lễ ngày chủ nhật. Theo một hội
nghị quốc gia của các giám mục Ba Tây thì mỗi năm có khoảng sáu
trăm ngàn tín đồ bỏ đạo (according to the National Conference
of Brazilian Bishops, some 600000 Catholics leave the Church each
year.)
Âu Châu và nhiều nơi khác trên thế giới đã trở
thành “vô thần”. Đây là một hiện tượng bất khả đảo ngược vì nó phù
hợp với sự tiến bộ trí thức của nhân loại nằm trong luật Tiến Hóa
của vũ trụ.
Tình trạng Ki Tô Giáo suy thoái ở Âu Châu là một
nghịch lý, vì Ki Tô Giáo vẫn tự nhận là một tôn giáo văn minh tiến
bộ nhất, và những xã hội Âu Mỹ hiển nhiên là những xã hội văn minh
tiến bộ nhất. Nghịch lý này cho chúng ta thấy rõ thực chất của Ki
Tô Giáo nói chung, Ca-Tô giáo nói riêng. Nghịch lý trên cũng đưa
ra một sự thật: luận điệu của các thừa sai Ca-Tô khi đến nước ta
vào những thế kỷ 17- 19, nói là để văn minh hóa những dân tộc mọi
rợ, điều mà các tín đồ Ca-Tô Việt Nam, kể cả những người được gọi
là trí thức, vẫn tin là như vậy cho đến ngày nay (Xin đọc Kinh Nhựt
Khóa của Công Giáo: “Ông thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e là lịnh rao
truyền tiếng đức Chúa Thánh Thần cho những dân mọi rợ.”, hoặc
cuốn “2000 Năm Một Thuở: Chứng Từ Của Một Số Người Công Giáo” do
nhóm Tin Nhà ở Pháp mời gọi một số trí thức Ca Tô viết và xuất bản
năm 2000, tác giả Nguyễn Tiến Cảnh, viết ở trang 44: "Ai cũng
biết hàng giáo sĩ công giáo là lớp người đi tiên phong về văn hóa,
mang văn minh tiến bộ đến các nơi tăm tối lạc hậu"), thật ra
chỉ là những luận điệu huênh hoang ngu đần cuồng tín, mang sự hoang
đường mê tín đến đầu độc đám dân chúng cùng đinh đần độn ở Việt
Nam, nơi đây các tôn giáo Á Đông thực sự đã vượt xa Ki Tô Giáo về
mọi phương diện, điều mà ngày nay thế giới Tây phương đang phải
chấp nhận. Thời gian qua, với sự tiến bộ trí thức không ngừng của
nhân loại, ngày nay bộ mặt thật của Ki Tô Giáo đã bị phơi bầy, và
chính ở trong những cái nôi của Ki Tô Giáo ở phương trời Âu Mỹ,
Ki Tô Giáo đang tuột dốc theo luật đào thải của con người văn minh
tiến bộ.
Tại sao trong những xã hội Âu Mỹ lại xảy ra hiện
tượng giải trừ Ki Tô Giáo (de-Christianization) và người dân lại
đang từ từ bỏ Ki Tô Giáo? Chẳng có gì là khó hiểu, vì như là một
qui luật thế gian, sự tiến bộ trí thức của con người và đời sống
vật chất thoải mái trong những xã hội này tất nhiên phải đưa đến
tình trạng suy thoái của Ki Tô Giáo.
Thật vậy, nữ học giả Ca-tô Joane H. Meehl, người
mà sau khi đã thấy rõ chủ đích và những việc làm của giáo hội Ca
Tô từ thế kỷ 4 tới nay, đã viết trong cuốn "Người Tín Đồ Ca Tô
Tỉnh Ngộ" (The Recovering Catholic), trg. 288, như sau:
"Đạo Ca-Tô chỉ thịnh hành và phát triển trong
đám người nghèo và ngu dốt. Nó chỉ bị khắc phục bằng giáo dục
(mở mang dân trí) và đời sống kinh tế thoải mái" (Catholicism
thrives and grows among the poor and ignorant. It is overcome
by education and economic well-being).
Trừ lớp tín đồ thấp kém trong Ca-Tô Giáo La Mã
vẫn tin rằng mình ở trong một “hội thánh”, “tông truyền”, “thiên
khải”, “duy nhất”, “thánh thiện” v..v.., những thuộc tính tự nhận
của giáo hội, thế giới Âu Mỹ tiến bộ ngày nay đã nhận ra bộ mặt
thật của Ca-Tô Giáo La Mã. Tài liệu về bộ mặt thật này, kết quả
nghiên cứu của các chuyên gia về tôn giáo ở trong cũng như ở ngoài
giáo hội, hiện nay có đầy dãy trong các thư viện và tiệm sách lớn
và trên Internet. Giáo hội đã mất đi quyền lực ngăn chận những tác
phẩm này như khi xưa giáo hội đã làm. Dân trí mở mang, sự thật được
phơi bày, và giới chăn chiên trong giáo hội chỉ còn có cách khuyên
các con chiên không nên đọc những tác phẩm mà họ quy kết là “chống
Ca-Tô” tuy rằng những tác phẩm này chỉ đưa ra những sự thật lịch
sử về Ca-Tô Giáo, những sự thật mà giới chăn chiên không bao giờ
muốn cho các con chiên của mình biết đến.
Nhưng tiến hóa là một định luật thiên nhiên, cho
nên không có cách nào giáo hội có thể ngăn cản được những bước tiến
trí thức của nhân loại. Do đó sự tiến bộ trí thức của nhân loại
tất nhiên sẽ phải đưa đến sự suy thoái của Ki Tô Giáo nói chung,
Ca Tô Giáo nói riêng, bởi vì căn bản tín ngưỡng Ki Tô Giáo đã không
còn chỗ đứng trước những công cuộc khảo cứu trí thức về cuốn Thánh
Kinh Ki Tô Giáo, về nhân vật Giê-su, về các tín điều hay huyền thoại
trong Ki Tô Giáo, và trước những thành quả của khoa học ngày nay
về nguồn gốc con người và vũ trụ.
Thật là đáng buồn, trong khi đạo Ca-Tô suy thoái
ở Tây Phương như vậy, thì có lẽ vì “cái khó nó bó cái khôn”, nên
một số người ở trong những hoàn cảnh khó khăn về kinh tế ở Đông
phương, và thiếu khả năng ở Tây Phương, lại lao đầu vào vòng nô
lệ tôn giáo, chạy theo một sản phẩm hầu như đã bị phế thải ở nơi
chính nó đã sản xuất ra, nhưng vẫn hãnh diện tự khoe rằng mình đã
được “ơn kêu gọi” để che đậy động cơ vật chất đã khiến mình bước
vào nghề linh mục. Chúng ta cũng biết Giáo hội Ca-Tô La Mã đang
bị khủng khoảng về nạn thiếu hụt linh mục nên đã bắt buộc phải hạ
thấp tiêu chuẩn tuyển chọn và đã chọn cả những người Tin Lành có
vợ cải đạo sang Ca-Tô Giáo và những người đã nhiều tuổi. Nhà Nước
Việt Nam nên nắm vững những sự kiện về Ca-Tô Giáo để có thể định
ra một đường hướng ngoại giao thích đáng với Vatican, tuyệt đối
không nên để cho Vatican có cơ hội mang đồ phế thải ở Âu Châu vào
làm ô nhiễm đất nước Việt Nam và có những thái độ trịch thượng coi
thường chủ quyền Việt Nam. Vatican ngày nay chỉ còn lớp sơn phết
bên ngoài, che dấu một khối mọt rỗng ở đàng sau, nhưng luôn luôn
vẫn dùng lớp sơn phết này với hậu thuẫn của đám tín đồ thấp kém
cuồng tín để lòe thiên hạ và đẩy mạnh những mưu toan bành trướng
của mình nơi miền đất mới: Á Châu.
Thực ra, kết hợp Vô Thần với Cộng Sản là một thủ
đoạn tuyên truyền xuyên tạc xảo quyệt mà Ki Tô Giáo nói chung, đặc
biệt là đạo Ca-Tô La Mã, dùng để gây hận thù tôn giáo, mê hoặc đám
tín đồ thấp kém mê tín và cuồng tín, trong sách lược chống Cộng
trước đây. Marx đã nhân danh vị thần theo định nghĩa của Ki-Tô Giáo
để bác bỏ vai trò của thần trong xã hội loài người. Điều này đưa
đến sự suy sụp về ý thức hệ của Ki-Tô Giáo kéo theo sự suy sụp của
nguồn lợi kinh tế mà Giáo hội có thể vơ vét được từ những sự đóng
góp của đám tín đồ cuồng tín, có đầu mà không có óc, tin tưởng rằng
mình đã đóng tiền “để cho đức Thánh Cha làm việc thiện”. Do đó,
không lạ gì, Ca-Tô Giáo La Mã hận Cộng Sản đến thấu xương, và chủ
trương phải tiêu diệt người em Cộng Sản sinh sau, học bài học từ
Cựu Ước: khi xưa Cain đã từng giết tốt người em Abel.
Cho nên, chính quyền Việt Nam không nên mơ
mộng tin vào những lời đường mật hứa hẹn của Vatican về bất cứ
vấn đề gì. Sách lược đối ngoại của Vatican luôn luôn là có lá mặt lá trái,
thả con săn sắt bắt con cá rô. Toán học Vatican chỉ có dấu cộng
dựa theo dấu thập ác chứ không có dấu trừ. Khi ở thế yếu thì
Vatican nhũn như con chi chi, hợp tác với bất cứ thế lực, chủ thuyết
nào, bất kể là độc tài tàn bạo như thế nào, thí dụ như Phát Xít
Đức, Ý, Tây Ban Nha, Croatia v..v.., miễn là có thể duy trì được
quyền lợi và mưu đồ thống trị thế giới bằng đạo Ca-Tô của Vatican.
Khi ở thế mạnh thì Vatican sẽ không khoan nhượng và không ngần ngại
dùng mọi thủ đoạn để tiêu diệt đối phương. Đối với Vatican, Cộng
Sản luôn luôn là kẻ thù truyền kiếp. Lời lên án Cộng Sản Vô Thần
của Bê-nê-đít-to XVI gần đây chỉ có mục đích hồi phục và mở đầu
cho một chiến dịch chống Cộng mới mà thôi. Bê-nê-đít-to XVI lên
án Cộng Sản Vô Thần nhưng thế giới chưa hề quên lịch sử Ca-Tô Giáo
La Mã là một lịch sử ô nhục đẫm máu nhất trên thế gian, với hàng
trăm triệu xác người vô tội, từ già tới trẻ, đè trên bờ vai của
Giáo hội Ca-Tô khiến cho Giáo hoàng John Paul II đã phải lên tiếng
đãi bôi xưng thú 7 núi tội lỗi của giáo hội đối với thế giới.
Do đó, tin rằng Vatican thật tình muốn giúp
Việt Nam, một nước Phật Giáo, hiện đảng Cộng Sản đang cầm quyền,
với những hứa hẹn bất cứ về vật chất hay về cái gì khác, thì thật
là ngây thơ hết chỗ nói. Vatican có tất cả những vòi của một con bạch
tuộc (Octopus Dei) và có thể ôm chặt và nghiền nát cả một quốc gia.
Lịch sử Ca-Tô Giáo, hơn gì hết, đã chứng tỏ như vậy. Rất có thể
Giáo hội Ca Tô tại Việt Nam, tung hỏa mù về thế lực giả tạo của
Vatican, chịu khó bỏ tiền ra mua chuộc cán bộ nhà nước, cộng với
áp lực của Mỹ, sẽ áp dụng chính sách dùng “củ cà rốt và cây gậy”
ở Việt Nam, để Nhà Nước phải nhượng bộ ít điều liên quan đến quyền
lực của Vatican, tin rằng như vậy chứng tỏ là đã tiến bộ về vấn
đề Tự Do Tôn Giáo trước thế giới, thỏa mãn yêu cầu của Mỹ, và do
đó sẽ có lợi cho Việt Nam. Thật đáng tiếc, Nhà Nước đã không đánh
giá đúng mức thực lực của Vatican trên thế giới cho nên đã có những
nhượng bộ đối với Vatican không cần thiết. Nhà Nước cần phải hiểu
sách lược của Vatican là “được đàng chân, lân đàng đầu” và như vậy
Nhà Nước sẽ còn phải tiếp tục nhượng bộ nhiều hơn nữa. Bài này hi
vọng có thể giúp Nhà Nước nhận ra thực chất của Vatican và ngưng
những nhượng bộ khác mà thực sự không cần thiết.
Vatican không ngừng tìm cách, nhất là sách lược
tạm thời “khom mình để chinh phục” (stoop to conquer), để
tái diễn tấn tuồng Ba Lan ở Việt Nam. Sự ngoan ngoãn của các tín
đồ Ca-Tô Việt Nam đối với Chính Quyền Việt Nam hiện nay, đồng thời
đẩy mạnh bộ mặt thánh thiện từ thiện giáo dục xã hội để tạo uy tín,
len lỏi vào những cơ quan công quyền, mua chuộc nhân sự v..v.. đều
nằm trong sách lược này. Nhưng ở hải ngoại, Ca-Tô Giáo và những
tay sai không ngừng dùng mọi thủ đoạn, kể cả bịa đặt, xuyên tạc
lắt léo để chống Cộng và họ đã từng lên tiếng gợi ý van xin Giáo
Hoàng John Paul II: “Cha đã tiên phong góp phần giải phóng
quê hương Cha [Ba Lan], và tiếp đến sẽ là quê hương chúng con [Việt
Nam].” [Xin đọc cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng,
Thăng Tiến, 1995, trang 11]. Cái nguy hại của Ca-Tô Giáo không phải
là ở chỗ tin nhảm tin nhí vào một vị thần của Do Thái, mà là họ
không chấp nhận bất cứ một đạo nào khác ngoài đạo của họ, và khi
có quyền lực hay có cơ hội họ sẽ không ngần ngại dùng mọi thủ đoạn,
bất kể là vô đạo đức và tàn nhẫn như thế nào, để cưỡng bách người
ngoại đạo theo đạo của họ, phải tin theo những điều nhảm nhí của
họ, phải tuân theo những tiêu chuẩn mà họ cho là đạo đức, và nhất
là, phải tuân phục Vatican không điều kiện. Lịch sử Ca-Tô Giáo trên
thế giới đã chứng minh như vậy. Và những sự kiện lịch sử về một
số chính quyền Ca-Tô trong thế kỷ 20, Pavelic ở Croatia, Franco
ở Tây Ban Nha, Ngô Đình Diệm ở Nam Việt Nam là những bằng chứng
rõ ràng hơn gì hết.
Có thể có độc giả cho rằng tôi đã viết quá dài
dòng, ra ngoài chủ đề bang giao với Vatican. Không hẳn vậy, tôi
thấy thực sự cần thiết phải đóng góp phần nào, cung cấp giúp cho
Nhà Nước Việt Nam một số thông tin, và đây chưa thể gọi là đủ đâu,
về bộ mặt thật và thế lực thực sự của Ca-Tô Giáo La Mã để Nhà Nước
Việt Nam sửa soạn con đường đi đến bang giao với Vatican.
Con Đường Bang Giao.
Vài nét đơn sơ về Vatican và đạo Ca Tô La Mã ở
trên hi vọng có thế giúp chính quyền Việt Nam phần nào trong sách
lược ngoại giao đối với Vatican. Như trên đã nói, việc bang giao
với Vatican không thành vấn đề, nhưng gồm có hai mặt: mặt thế tục
và mặt tôn giáo. Về mặt thế tục, Vatican như là một quốc gia nhỏ
với dân số ở Vatican vào khoảng một ngàn người, không mang gì đến
được cho Việt Nam. Vatican rất giầu về tiền bạc nhưng như trên đã
nói, toán học Vatican chỉ có dấu cộng chứ không có dấu trừ. Bất
cứ ở địa hạt nào, nếu không có lời, Vatican không bao giờ bỏ vốn
ra, nhất là cho không. Bởi vậy tài sản của Vatican ngày nay đã lên
tới trên ngàn tỷ đô-la. Thật vậy, Nino Lo Bello viết trong cuốn Đế
Quốc Vatican (The Vatican Empire), trang 153-154: “Đối với
người Ý, đặc biệt là những người sống ở Rome, Vatican nổi tiếng
là “rẻ tiền”, “thắt chặt hầu bao”, “keo kiệt”. Chẳng cần phải gợi
ý, người thường ở ngoài đường phố có thể nói với bạn : “Vatican
thu vào nhưng chẳng cho ai đồng nào” (Among the Italians, particularly
among the residents of Rome,, the Vatican has a reputation for being
“cheap”, “tight,” “stingy”. Without much provocation, the ordinary
man in the street is likely to tell you , Il Vaticano riceve – ma
non da a nessuno (The Vatican receives – but gives to no one). Cho
nên, chúng ta phải hiểu rằng, khi Vatican bỏ tiền ra là luôn
luôn có mưu đồ đàng sau. Vatican đã bỏ ra hàng trăm triệu đô-la
vào Ba Lan để lật đổ Cộng Sản ở Ba Lan. Khi cần, Vatican có thể “bóc
lột tiền của kẻ nghèo để trả kẻ giầu” (Rob Peter to pay Paul).
Dòng “Thừa sai Bác Ái” của bà Teresa đã kiếm cho Giáo hội
bao nhiêu triệu để trong các ngân hàng là một thí dụ điển hình.
Giáo hoàng tới thăm đâu, giáo hội địa phương phải trang trải phí
tổn cho chuyến “thăm giáo dân” của Ngài. Mỹ đã tốn trên 2 triệu
đô-la cho một chuyến thăm Mỹ của John Paul II trước đây.
Tin vào sự viện trợ của Vatican hay bất cứ hứa
hẹn vật chất nào của Vatican là chỉ thấy cái lợi trước mắt mà quên
cái hại sau lưng. Chính sách của Vatican đã rõ rệt từ muôn đời:
bỏ ra một, lấy lại 10 hay nhiều hơn. Họ dùng bả vật chất để chiêu
dụ tín đồ, một khi tín đồ đã bị mê hoặc bởi một cái bánh vẽ trên
trời rồi thì sẽ suốt đời tình nguyện đóng góp cho Giáo hội dù có
nghèo đến đâu, quy luật của giáo hội là phải đóng 10% lợi tức. Ở
Âu Châu trước đây, Giáo hội thu tiền của cả những người cùi, ăn
mày, gái điếm và người chết như Avro Manhattan đã viết trong cuốn The
Vatican Billions. Bất cứ ở đâu có chính quyền Ca-Tô là tài sản
quốc gia được vơ vét cho Vatican và cho giáo hội địa phương. Những
sự kiện lịch sử ở một số nước Phi Châu, Nam Mỹ và ở Nam Việt Nam
dưới chính quyền Ngô Đình Diệm là những bằng chứng bất khả phủ bác.
Đổi Thánh Kinh lấy tài sản là sách lược cố hữu của Ca Tô Giáo La
Mã. Họ mang cuốn Kinh Thánh đến để mê hoặc lòng người, nhưng kết
quả là đất đai thuộc về giáo hội như lời than tiêu biểu sau đây
của Giám-mục Tutu:
"Chúng tôi có đất đai và họ tới với cuốn Thánh
Kinh của họ. Chúng tôi tin họ, cầm cuốn Thánh Kinh trên tay, nhắm
mắt cầu nguyện. Khi mở mắt ra, chúng tôi có cuốn Thánh Kinh và
họ có đất đai của chúng tôi." ["We have our lands and they
came here with their Bible. We believed in them and we pray with
the Bible in our hands and our eyes closed. When we opened our
eyes, we have the Bible and they have our lands."]
Kinh nghiệm ở Việt Nam cũng cho thấy, theo Linh
mục Trần Tam Tĩnh trong cuốn Thập Giá Và Lưỡi Gươm:
"Năm 1939, tài sản Nhà Chung thừa sai Pháp (tại
Việt Nam) trị giá 50 triệu quan Pháp. Trị giá đó là chính thức,
nhưng theo các luật gia thuộc địa Caratini và Grandjean thì thấp
hơn giá trị thực tế và không bao gồm tất cả tài sản của Giáo Hội,
vì đã bỏ ra ngoài của cải của các xứ đạo và nhiều pháp nhân giáo
hội khác vốn có quyền sở hữu. Tài sản các Nhà Dòng Đa Minh Tây
Ban Nha cũng rất quan trọng… Nhà Chung được liệt vào hạng địa
chủ lớn nhất của thời ấy." “Chỉ một mình Nhà Chung
Công Giáo mà chiếm hết một phần tư đất trồng trọt ở Nam Kỳ. Phương
thế chiếm hữu đất đai đó rất đơn giản: dùng tham nhũng, hối lộ
và cưỡng ép. Đây là một vài ví dụ rõ ràng. Nhà Chung lợi
dụng khi mất mùa để cho nông dân vay tiền. Tiền lời cho vay rất
nặng, nên con nợ sẽ không thanh toán nổi khi tới ngày trả, và
như thế là đất cầm trở thành đất Nhà Chung. Giáo Hội không
từ một việc nào để nắm được những giấy tờ hệ lụy bí mật và nhờ
đó dọa dẫm các quan chức, bắt họ phải làm theo muốn. Giáo Hội
cũng liên minh với những tay tài phiệt để khai thác những vùng
đất nhượng cho không và những thửa ruộng cướp được của nông dân.
Giáo Hội có người của mình nắm những vai trò thế giá trong chính
quyền thuộc địa…"
Đây là một kinh nghiệm để đời cho các dân tộc nghèo
đang phát triển nhưng lại nghe lời đường mật của Vatican, và đặt
niềm hi vọng vào những hứa hẹn giúp đỡ vật chất của Vatican. Vatican
có hai mặt, vừa là một tôn giáo, vừa là một quốc gia có chủ quyền.
Vì thế chính trị của Vatican cũng có hai mặt, lúc thì nhân danh
là một tôn giáo, lúc thì nhân danh là một quốc gia. Vì vậy Vatican
có liên hệ ngoại giao với nhiều quốc gia khác. Mỹ và Mễ Tây Cơ đã
có thời cắt đứt liên lạc ngoại giao với Vatican nhưng rồi lại tái
thiết lập vì tình hình chính trị và vì cả hai nước đều có nhiều
tín đồ Công Giáo, ở Mỹ vào khoảng 22%, ở Mễ Tây Cơ hầu như toàn
tòng. Tuy vậy, vì những tác hại và lạm dụng của giới linh mục trong
nước nên Mễ Tây Cơ đã có đạo luật cấm các tu sĩ Công Giáo không
được mặc y phục Linh mục nơi công cộng, không được mở trường học
v..v.. Ở Mỹ, đa số người dân vẫn không ưa Công Giáo. Hình ảnh
những người dân Mỹ biểu tình phản đối cuộc viếng thăm trước đây
của Giáo hoàng John Paul II, cầm biểu ngữ đòi: Chính phủ Mỹ
chấm dứt công nhận Vatican (End US Gov’t Recognition Of
The Vatican), Hãy đăng ký các giám mục như là những điệp viên
ngoại quốc (Register Bishops As Foreign Agents), Ngưng
nạn đói: Hãy bán đi Vatican (Stop Starvation: Sell The Vatican), Vatican
chống dân chủ (The Vatican Is Anti-Democratic) v..v.. có
lẽ đã nói lên phần nào thực chất của Vatican. Tất cả những hình
ảnh này đều có trong phần cuối của cuốn Vatican: Thú Tội Và Xin
Lỗi?, Nhiều tác giả, Giao Điểm, 2000.
Tất cả những sự kiện như trên, và đây chỉ là một
số tượng trưng, đã chứng tỏ là vấn đề tâm linh và đạo đức không
phải là chủ trương của Giáo hội Ca-Tô La Mã, mà là vấn đề làm sao
có thể vơ vét của cải, tích lũy tài sản, và dùng chúng để đẩy mạnh
những mục tiêu thế tục, thống trị hoàn cầu mới là chính. Nhưng hiện
nay, như trên đã nói, ngoài mặt thì đối với những người không biết
rõ nội tình, thế lực của Vatican còn rất mạnh. Nhiều người còn tin
vào thế lực giả tạo của Vatican vì với một định chế thần trị, và
với sự tuân phục tuyệt đối của đám tín đồ, không ai có thể coi thường
Vatican. Nhưng những người này không nhìn kỹ vào nội tình Vatican
và nhất là không nhìn vào thực tế trên thế giới. Tuy tín đồ Ca-Tô
hoàn toàn tuân phục Vatican, nhưng ngày nay tôi đố Vatican có thể
hô hào khởi sự một cuộc Thánh Chiến như trước, tôi đố Vatican có
thể ép buộc mọi tín đồ phải tuân theo luật lệ và những tiêu chuẩn
đạo đức mà Vatican chỉ thị. Giáo hội Ca-Tô ngày nay cũng giống như
một cái Cafeteria, trong đó có nhiều món ăn, thực khách vào đó thích
món nào thì ăn món đó chứ không bắt buộc phải ăn tất cả mọi món.
Về chính trị xã hội, Vatican chỉ có thể khích động tín đồ ở một
số địa phương nhỏ và hầu như không thể tạo ra ảnh hưởng gì trên
thế giới. Nhưng Vatican có thể sẽ không ngần ngại sử dụng, hi sinh
một số tín đồ cuồng tín gây rối ở một số địa phương nhỏ trong những
quốc gia đang phát triển để dò đường và đẩy mạnh những âm mưu của
mình.
Vì thế giới đã tiến bộ, vì trình độ hiểu biết trên
thế giới đã tiến nhiều, vì con người đã nhận ra sự không cần thiết
đến một Thiên Chúa, cho nên điều không thể tránh được là Vatican
đang khủng khoảng, ở trên đà suy thoái, và uy tín của Vatican đã
giảm đi nhiều. Qua những xì-căng-đan mà cả thế giới đều biết, nhưng
rất ít tín đồ Công Giáo biết, nhất là ở trong những ốc đảo ngu dốt
(từ của Linh Mục Trần Tam Tĩnh) ở Phi Châu, Nam Mỹ và một vài nơi
ở Á Châu, chiếm trên 70% số giáo dân trên thế giới, cộng với sự
tiến bộ trí thức của nhân loại, thì Công Giáo đang ở trên đà suy
sụp bất khả cứu vãn. Những sự kiện sau đây đã góp phần nào vào sự
suy thoái của Công Giáo.
Giáo hội đã bắt buộc phải xưng thú 7 núi tội lỗi
của Giáo hội đối với nhân loại qua những lời xin lỗi suông trên
bờ môi mép lưỡi. Báo chí thế giới đã phanh phui ra những chuyện
động trời trong giáo hội như: Linh mục hiếp dâm các nữ tu (sơ) trên
23 quốc gia và nếu ai mang thai thì cưỡng bách họ phải đi phá thai
trong khi giáo lý chính thức của Giáo hội là cấm dùng thuốc ngừa
thai hay phá thai; trong một viện mồ côi ở Canada, các “em hiền
như ma sơ” mặc y phục xám (gray nuns) đã chọc thủng màng tai của
một số trẻ mồ côi để lấy thêm tiền trợ cấp của chính quyền vì số
tiền trợ cấp cho các em bị tàn tật thì nhiều hơn là cho các em bình
thường; trong một viện mồ côi khác, các sơ đã đổ nước sôi vào tay
trẻ mồ côi vì chúng bị để đói nên đi ăn cắp thức ăn của các sơ dùng
để nuôi thỏ; vụ nổ ở bên Anh: các em bị cha mẹ bỏ rơi hay nhà quá
nghèo khổ, được hứa hẹn mang đi nuôi, cho ăn học tử tế, rút cuộc
đã phải vào làm lao động đầu tắt mặt tối trong một xưởng giặt ở
nước ngoài của “hội Thánh”, trong mấy tháng trời không thấy ánh
sáng mặt trời; và nhất là vụ Vatican bao che trên mấy ngàn linh
mục can tội loạn dâm với các trẻ phụ tế và nữ tín đồ v..v.. Ngoài
ra, ở phương trời Âu Mỹ, như chúng ta đã biết, Linh mục, nữ tu,
và giáo dân bỏ đạo hàng loạt; nhiều nhà thờ, trường học Ca-Tô phải
đóng cửa và rao bán, số giáo dân đi lễ nhà thờ và đóng tiền cho
nhà thờ giảm sút nhanh, khiến cho Giáo hội phải đi kiếm những vùng
đất mới để cắm cây thánh giá và vơ vét tiền bạc, của cải. Vùng đất
mới này không gì khác là Á Châu, vùng đất chưa bị ô nhiễm nhiều
bởi Ca-Tô. Đó là tại sao Vatican cố gắng để có liên lạc ngoại giao
với Trung Quốc, Việt Nam v..v..
Nhưng yếu tố quyết định sự suy thoái của Ca-Tô
Giáo La Mã không phải là những chuyện nhơ bẩn trên, vì tín đồ rất
ít biết đến những sự thật trong nội tình Công Giáo, mà chính là
sự tiến bộ và những khám phá của khoa học về vũ trụ và con người. Khoa
học đã bắt buộc Giáo hoàng John Paul II phải lên tiếng, nhưng đa
số tín đồ trong các ốc đảo không bao giờ nghe thấy, công
nhận thuyết Big Bang (nguồn gốc vũ trụ), thuyết Tiến Hóa (nguồn
gốc con người), và phủ nhận sự hiện hữu của Thiên đường (nơi linh
hồn những người được Giê-su cứu rỗi tái nhập với thân xác và sống
đời đời) và Hỏa Ngục (nơi Giê-su dùng ngọn lửa vĩnh hằng để thiêu
đốt những người không tin ông ta). Như vậy, các tín lý của Giáo
hội bày đặt ra trước đây, vừa để khuyến dụ vừa để hù dọa những đầu
óc yếu kém, như “Tội tổ tông”, “Chúa Giê-su chịu chết trên thập
giá để chuộc tội cho nhân loại”, “Giê-su sinh ra từ một Nữ Đồng
Trinh”, “Maria đồng trinh suốt đời”, “Giê-su sống lại”, “Rửa Tội”,
“Ai tin Giê-su thì được cứu rỗi”, “quan niệm về Thiên Đường, Hỏa
Ngục”, và sự hoang đường của các “bí tích” v..v.. đã không còn một
chút giá trị nào trong thế giới những người hiểu biết nữa. Cho nên
tình trạng suy thoái của Công Giáo trên khắp thế giới, nhất là ở
phương trời Âu Mỹ, nơi đây người dân thường xuyên được cập nhật
hóa những thông tin về khoa học, xã hội, tôn giáo v..v.., là một
hiện tượng đã khá rõ rệt, và đã có nhiều nghiên cứu thống kê về
tình trạng này. Vì vậy, Vatican đang cố gắng dùng mọi thủ đoạn để
cải đạo Á Châu, nhiều nơi ở trên lục địa này người dân còn nghèo
khổ, còn bị áp bức, ít hiểu biết, nên rất dễ ăn vào cái bả của Ca-Tô
Giáo.
Thực chất thì như vậy, nhưng Giáo hội có đủ phương
tiện truyền thông để lái dư luận, để tiếp tục nhốt tín đồ trong
vòng ngu dốt, đồng thời tiếp tục phô trương quyền lực giả tạo để
thủ lợi. Sức mạnh của Vatican dựa trên một giáo hội có một tổ chức
toàn trị rất chặt chẽ, có một số tín đồ đông đảo nhất, nằm vùng
trong hầu hết các quốc gia trên thế giới, và sẵn sàng nhắm mắt nghe
theo lệnh của Vatican xuyên qua các “bề trên” như các tổng giám
mục, giám mục, linh mục địa phương. Trong cuốn The Vatican Empire, Nino
Lo Bello viết, trang 167: “Các chiến thuật của Vatican đều
dựa trên niềm tin là thật dễ cho Giáo hội duy trì sức mạnh ở những
nơi mà sự nghèo khổ và ngu dốt được nuôi dưỡng.” (Vatican
strategies are based on a belief that it is easier for the Church
to maintain its strength where poverty, misery, and ignorance breed)
Cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi thấy Ca-Tô Giáo càng ngày
càng mất ảnh hưởng ở phương trời Âu Mỹ, nơi đây đời sống kinh tế
của người dân cao, và trình độ hiểu biết của người dân cũng cao.
Hiểu rõ thực chất của Ca-Tô-Giáo La Mã trên thế
giới ngày nay và thấy rõ âm mưu bành trướng của Vatican trong những
vùng đất mới ở Á Đông, tôi hi vọng khối Phật Giáo ở bên nhà, với
tinh thần vô úy, hãy lên tiếng, đặt vấn đề trước Nhà Nước, góp ý
cùng Nhà Nước, và cùng Nhà Nước nghiên cứu những vấn nạn liên quan
đến những diễn biến ngoại giao giữa Nhà Nước và Vatican. Hơn bao
giờ hết, Nhà Nước Việt Nam cần phải hết sức thận trọng, đắn đo từng
bước khi dấn thân vào con đường “đánh đu với tinh”, và phải hoạch
định một đường lối sáng suốt thích hợp để đối phó với âm mưu và
sách lược của Vatican..
Vài Đề Nghị Với Nhà Nước Việt Nam Khi Bang Giao
Với Vatican.-
Trước khi đi vào những đề nghị với Nhà Nước Việt
Nam tôi nghĩ cũng cần ôn lại chút ít những hệ lụy mà Ca-Tô Giáo
La Mã đã mang đến cho Việt Nam. Sau đây là vài sự kiện:
1). Trở lại lịch sử, Ca Tô Giáo xâm nhập vào Việt
Nam từ 1533, và 140 năm sau, tới đầu thập niên 1670, các thừa sai
Ca Tô mới khuyến dụ được khoảng 60000 người theo đạo, tuyệt đại
đa số thuộc thành phần thấp kém nhất trong xã hội Việt Nam (Xin
đọc Catholicism et Sociétés Asiatiques của Yoshiharu Tsuboi),
không có khả năng phân biệt chánh tà, chân giả cho nên rất dễ bị
lùa vào trong vòng mê tín của Ca Tô Giáo. Sau đó, các thừa sai Pháp
thuyết phục thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam, mở đầu cuộc xâm chiếm
bằng cuộc tấn công vào Đà Nẵng năm 1858. Sau khi tích cực giúp quân
xâm lăng Pháp để đưa Việt Nam vào vòng đô hộ, Ca-Tô Giáo ở Việt
Nam dựa vào thế lực thực dân để truyền đạo, làm mưa làm gió trên
đất nước Việt Nam. Nhưng dù ở thế thượng phong, dưới cái dù của
thực dân trong gần 100 năm, cộng với 9 năm miền Nam dưới chế độ
độc tài, gia đình trị, Ca Tô trị của Ngô Đình Diệm, số tín đồ Ca-Tô
trên tỷ lệ dân số luôn luôn chỉ ở mức 7 phần trăm hay ít hơn. Điều
này chứng tỏ nền văn hóa Việt Nam không tương hợp với nền văn hóa
Ki Tô.
2). Bản chất của Giáo hội Ca-Tô Việt Nam chỉ là
một mớ tín đồ hạng hai. Ca-Tô giáo vào Việt Nam từ 1533 nhưng 400
năm sau (1933) mới có một giám mục đầu tiên (Nguyễn Bá Tòng). Nhưng
tệ hơn cả là Giáo hội này hoàn toàn lệ thuộc Vatican bất kể là những
quyết định của Vatican xâm phạm đến chủ quyền dân tộc và xúc phạm
đến nền văn hóa của Việt Nam tới đâu. Lịch sử cho thấy quyền lợi
của Vatican luôn luôn đối nghịch với quyền lợi của Việt Nam. Chừng
nào mà tinh thần nô lệ này còn tồn tại, thì chừng đó người dân Việt
Nam vẫn còn phải lưu tâm đề phòng lịch sử tái diễn. Tinh thần nô
lệ này hoàn toàn trái ngược với tinh thần yêu nước, yêu độc lập
của người dân Việt Nam, đã được chứng minh qua bao cuộc đánh đuổi
quân ngoại xâm. Ai có thể tin rằng người dân Việt Nam đã quên đi
vai trò của giáo hội Ca-Tô Rô-Ma tại Việt Nam trong việc đưa nước
Việt Nam vào vòng nô lệ của Pháp?
3). Bản chất của Ca-Tô Giáo và cả Tin Lành là lợi
dụng sự cuồng tín của tín đồ, tạo thành một lực lượng xã hội, để
khi có cơ hội và quyền thế thì sẽ khuynh loát chính quyền, đàn áp
và áp bức tín đồ của các tôn giáo khác. Bản chất cuồng tín này,
nếu ở vị thế nắm quyền hành thì sự tác hại của nó đối với khối dân
chúng không đồng tín ngưỡng không biết lên tới mức độ nào. Kinh
nghiệm lịch sử ở những nơi mà Ca-Tô giáo là chủ lực tinh thần trong
thời Trung Cổ, và trong thời cận đại ở Tây Ban Nha dưới quyền của
nhà độc tài Ca-Tô Franco, ở Croatia dưới quyền của tên Ca-Tô Ante
Pavelic và những linh mục khát máu dòng Phan-xi-cô, và ở Nam Việt
Nam dưới chế độ Ca-Tô Ngô Đình Diệm là một tấm gương cảnh tỉnh những
người còn mơ mộng là "tôn giáo nào cũng tốt cả". Ngày nay,
không ai còn coi Ki Tô Giáo là một lực lượng tôn giáo thuần túy
mà trái lại chỉ là những định chế coi nặng vấn đề quyền lợi chính
trị và kinh tế.
4) Sách lược truyền giáo của Ca-Tô Giáo là một
sách lược chủ trương xóa bỏ mọi nền văn hóa phi Ki-Tô, dùng bạo
lực thắng công lý, dùng gian xảo, dối trá để lừa dối dân gian, dùng
bả vật chất và mê tín dị đoan để chiêu dụ và giữ tín đồ, dùng những
phép lạ ngụy tạo để huyễn hoặc làm mê mẩn đầu óc tín đồ v..v.. Chúng
ta chỉ nhìn vào những cảnh tín đồ đổ xô đến quỳ cầu nguyện ở bất
cứ nơi nào có tin bà Mary hoặc khóc, khoặc chảy nước mắt, hoặc có
cái hình trong có vẻ giống bà Mary (chẳng ai biết mặt mũi bà ta
ra sao) do vết nước rỉ dưới gầm cầu, hoặc trên một miếng Pizza,
trên một vựa thóc, trên sàn nhà v..v.. là có thể sự thành công của
Giáo hội Ca-Tô về phương diện này như thế nào.
5) Kinh nghiệm cay đắng của Việt Nam đối diện với
sự xâm nhập của Ca-Tô Giáo còn ghi rõ trong sử sách. Ở đây, sách
lược truyền giáo của đạo Ca-Tô đã đưa tới những cảnh bất hòa trong
những gia đình nào có người bỏ tôn giáo truyền thống của gia đình,
của dân tộc, để tin theo những lời dụ dỗ huyền hoặc của Ca- Tô Giáo,
từ bỏ không còn tôn trọng những lễ tiết truyền thống trong gia đình.
Ca-Tô Giáo cũng đưa tới những cảnh Lương Giáo nghi kỵ, thù nghịch,
tàn sát lẫn nhau như lịch sử đã chứng tỏ. Gần đây, Ca-Tô giáo còn
đưa ra sách lược nham hiểm: dùng bọn người trí thức nô lệ mất gốc,
đưa ra những tác phẩm xuyên tạc lịch sử, văn hóa Việt Nam, nhất
là lịch sử và văn hóa Phật Giáo, hoặc đánh đồng khập khiễng vài
nét văn hóa Việt Nam hoặc Phật Giáo với nền văn hóa Ki Tô, ngụy
trang đằng sau những chiêu bài đầu môi chót lưỡi như “Thần học Ki
Tô Giáo theo cung cách Á Châu”, hoặc “quay về với truyền thống dân
tộc, hội nhập văn hóa dân tộc”, trong khi bản chất độc tôn cuồng
tín về “Chúa KiTô là đấng trung gian duy nhất”, nô lệ Vatican vẫn
không thay đổi.
Vatican city state,
link: http://www.vatican.va/vatican_city_state/index.htm
Qua những tài liệu vừa trình bày ở trên, tôi hi
vọng Nhà Nước Việt Nam đã có thể nắm được phần nào về bộ mặt thật
của Ca-Tô Giáo La Mã cũng như về thực lực của Vatican trên thế giới
hiện nay. Không nên tin rằng Vatican có thể giúp Việt Nam trên chính
trường quốc tế, nhất là đối với Mỹ. Vì thực sự Vatican chỉ có tiếng
chứ không có miếng. Tiếng nói của Vatican chỉ để cho tín đồ nghe
và ca tụng, ngoài ra thế giới chẳng có ai thèm để ý tới. Tại sao?
Tại vì chính lịch sử của Ca-Tô Giáo La Mã, vì những tệ nạn trong
nội bộ Giáo hội Ca-Tô, những vụ xì-căng-đan mang tai tiếng liên
tiếp xảy ra đã cho thế giới thấy rõ bản chất của Vatican trái ngược
với những lời nhân nghĩa, đạo đức phát ra từ Vatican. Phần lớn những
vụ phanh phui trong Ca-Tô Giáo lại do Mỹ, vì chính nước Mỹ cũng
không ưa gì Vatican. Vụ Linh mục loạn dâm nổ ở Boston trước đây,
vụ kiện Vatican và dòng tu Phan-Xi-Cô gần đây về tội chứa chấp tài
sản chiếm hữu bất lương ở Croatia của chính quyền Ca-Tô Pavelic
trong kỳ Đệ Nhị Thế Chiến cũng như tội Vatican rửa tiền bẩn thành
tiền sạch, và nhiều báo chí Mỹ đã viết về Bê-nê-đít-to XVI với danh
hiệu “The Nazi Pope” làm cho Vatican đau đầu lên tiếng cải chính
và than phiền v..v.. đã chứng tỏ là Mỹ đối với Vatican như thế nào.
Thế lực của Vatican nằm trong đám tín đồ thấp kém cuồng tín chứ
không ở trong chính trường quốc tế. Với những sự kiện như trên,
chúng ta có thể rút tỉa ra những điều gì?
1. Thực chất Giáo hội Ca-Tô La Mã không phải là
một tôn giáo lo phần tâm linh và đạo đức của tín đồ mà nặng về chính
trị thế tục thủ lợi. Sức mạnh của Ca-Tô Giáo nằm trong đống tài
sản khổng lồ của Vatican và nằm trong tuyệt đại đa số tín đồ được
nuôi dưỡng trong vòng ngu dốt, nhưng đây chỉ là sức mạnh của một
định chế thần trị, thu hẹp trong nội bộ giáo hội, không có ảnh hưởng
gì đến ngoài thế giới..
2. Thực lực thực sự của Vatican không như người
ta thường tưởng. Giáo hoàng John Paul II đã phải xin lỗi Phật Giáo
vì viết bậy về Phật Giáo trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng.
Trong vụ phong Thánh cho các Hán gian ở Trung Quốc, Trung Quốc vừa
mới lên tiếng phản đối, Vatican đã phải vội vàng xin lỗi.
3. Vatican đang suy thoái ở phương trời Âu Mỹ và
đang có kế hoạch cải đạo Á Châu để kiếm tín đồ và từ đó thu lợi
vật chất. Hai quốc gia Vatican nhắm tới hiện nay là Trung Quốc với
hơn một tỷ dân, và Việt Nam trong đó đã có sẵn 7% giáo dân nằm vùng
sẵn sàng hành động theo kế hoạch của Vatican.
4. Vatican luôn luôn chủ trương không đội trời
chung với Cộng Sản và luôn luôn mưu đồ để phá đổ Cộng Sản với mọi
thủ đoạn, kể cả các thủ đoạn nhân nhượng, khép mình, và ve vuốt.
Lời lên án chủ thuyết Cộng Sản của Bê-nê-đít-to XVI gần đây là một
dấu hiệu chiến lược, khuyến khích các tín đồ địa phương ở Trung
Quốc và Việt Nam hãy “được đàng chân thì lân đàng đầu.”
5. Một khi Ca-Tô-Giáo nắm được chính quyền rồi
thì các lực lượng phi Ca-Tô sẽ khốn khổ với Ca-Tô-Giáo, khoan kể
đến Cộng Sản sẽ đương nhiên bị diệt tận gốc.
6. Với tài sản hiện nay của Vatican, Vatican có
thể bỏ ra vài trăm triệu hay cả tỷ đô la không khó khăn gì để chiêu
dụ qua những hứa hẹn viện trợ, giúp đỡ giáo dục, mở trường học v..v..
Nhưng mưu đồ chính của Vatican là mở rộng các vòi bạch tuộc để nắm
giữ quần chúng và chính quyền. Báo chí Mỹ cho biết Giáo hội Ca-Tô
đã bỏ ra từ 2 đến 3 tỷ đô-la để bồi thường cho các nạn nhân bị các
linh mục loạn dâm, và cũng đã bỏ ra nhất nhiều tiền để mua sự im
lặng của giới truyền thông đồng thời tuyên truyền cho bộ mặt “thánh
thiện” của Ca-Tô Giáo..
7. Cách hữu hiệu nhất để chống lại những âm mưu
của Vatican là mở mang dân trí. Những tài liệu nghiên cứu về lịch
sử và những hoạt động buôn thần bán thánh của Vatican phải được
phổ biến rộng rãi trong quần chúng.
8. Quần chúng phải được dạy về những hiểm họa của
Ki-tô Giáo nói chung, dựa vào những sự kiện lịch sử và dựa vào ngay
những điều viết trong cuốn Kinh Thánh của Ki-Tô Giáo.
9. Quần chúng phải được dạy về những khám phá khoa
học và những sự kiện khoa học khám phá ra về vũ trụ và nhân sinh.
10. Quần chúng phải được dạy về chủ trương nhân
chủ và nhân bản của Tam Giáo.
Vậy thì, dựa trên những thông tin ở phần trên,
tôi xin đề nghị cùng Nhà Nước Việt Nam hãy sửa soạn kỹ những vấn
đề trong việc đi đến bang giao với Vatican. Việc sửa soạn này có
hai phần, phần đối nội và phần đối ngoại.
Thứ trưởng Ettore Balestrero và Tổng Giám mục Leopoldo Girelli
tại hội đàm ở Hà Nội (27/2/2012)
1). Về Phần Đối Nội.
Tôi thành thực ước mong chính quyền Việt Nam hãy
lưu tâm đến những tiếng nói từ phía Phật Giáo, một chủ lực xây dựng
và gìn giữ nước như trong lịch sử Việt Nam đã ghi rõ. Tôi cũng hi
vọng Nhà Nước Việt Nam hãy nhìn rõ hiểm họa của Ca-Tô Giáo nói riêng,
Ki Tô Giáo nói chung, trên đất nước và đưa ra một chính sách tôn
giáo hợp lý, không thiên vị. Đừng bao giờ để rơi vào những cạm bẫy
“đoàn kết tôn giáo” hay “đoàn kết quốc gia” mà ngăn chận chính sách
mở mang dân trí. Dân trí mở mang không bao giờ có thể là nguồn gốc
của sự chia rẽ hay gây hận thù. Sự hòa hợp giữa những khối dân có
tín ngưỡng khác nhau trong những quốc gia tân tiến Âu Mỹ, nơi đây
các tác phẩm nghiên cứu về tôn giáo được phổ biến rộng rãi, là một
bằng chứng rõ rệt nhất về lợi ích của việc mở mang dân trí để cho
người dân biết rõ sự thật về tôn giáo trong xã hội. Thật vậy, khoảng
85% dân Mỹ theo Ki Tô Giáo trong đó có khoảng 25% theo Ca Tô Giáo
Rô Ma, hơn 80% dân Pháp rửa tội theo Ca Tô Giáo v..v.. nhưng những
tác phẩm nghiên cứu về Ki Tô Giáo: những sự thực về lịch sử những
tội ác của Ca-Tô Giáo, về tổ chức độc tài của Giáo hội, về những
thần quyền tự phong của giới lãnh đạo Ca-Tô, cùng những tín điều
hoang đường phi lô-gic, phi lý trí, phản khoa học, huyền hoặc, lỗi
thời v..v.. của Ca-Tô Giáo nói riêng, Ki Tô Giáo nói chung, về con
người lịch sử Giê-su, về những sai lầm trong Thánh Kinh v..v.. đều
được tự do phổ biến mà các chính quyền Mỹ, Pháp không sợ làm mất
sự “đoàn kết tôn giáo” hay “đoàn kết dân tộc” trên đất nước của
họ, thì thử hỏi tại sao Việt Nam chỉ có 5-7% dân chúng theo Ca Tô
Giáo mà chính quyền lại sợ rằng những tác phẩm nghiên cứu nghiêm
chỉnh với đầy đủ tài liệu về tôn giáo lại có thể ảnh hưởng đến sự
đoàn kết tôn giáo hay đoàn kết dân tộc trên đất nước? Ngăn chận
sự mở mang dân trí trong thời buổi này là có tội với dân tộc, với
lịch sử.
Ngày nay, không một người nào có đầu óc còn nghĩ
đến những biện pháp cấm đạo và bách hại những người đi đạo như khi
xưa nữa. Vậy biện pháp nào thích hợp nhất để bảo vệ và gìn giữ nền
văn hóa truyền thống của Việt Nam? Tôi cho rằng, để tránh cái hiểm
họa Ca-Tô và Tin Lành, cái hiểm họa đã được chứng tỏ trong 2000
năm lịch sử của Ki Tô Giáo, đặc biệt là Ca-Tô giáo , ở Việt Nam,
ngoài việc cương quyết ngăn chận sự xâm nhập của các thừa sai truyền
đạo vào trong đất nước, con đường hữu hiệu nhất là con đường mở
mang dân trí. Qua con đường này, người dân sẽ biết rõ về bản chất
và những sự thực về Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo nói riêng,
và từ đó sẽ đỡ bị mê hoặc bởi những lời truyền đạo giả dối, che
đậy thực chất mê tín, hoang đường, phi lý của Ki Tô Giáo. Theo nữ
học giả Ca-Tô Joane H. Meehl, "Đạo Ca-Tô chỉ thịnh hành và phát
triển trong đám người nghèo và ngu dốt” , do đó chỉ có sự mở
mang dân trí và đời sống thoải mái kinh tế mới có thể loại trừ ảnh
hưởng của Ca Tô Giáo. Loại trừ bằng hiểu biết chứ không phải bằng
những biện pháp cứng rắn. Nhưng tại sao phải loại trừ? Vì Vatican
đã thành công đào tạo được một đám tín đồ bản xứ cuồng tín nô lệ
Vatican. Điều này sẽ gây nên những hành động theo chỉ thị ở ngoài,
thường là trái ngược với quyền lợi quốc gia, nếu không muốn nói
là phản bội quốc gia như sử sách đã ghi chép. Với sự hiểu biết,
các tín đồ sẽ bớt đi những sự mê tín và cuồng tín và có thể nhìn
về phía dân tộc nhiều hơn.
Điều này đã xảy ra trong những nước văn minh tiến
bộ Âu Mỹ trong đó đời sống vật chất của con người tương đối cao,
và những tác phẩm nghiên cứu nghiêm chỉnh về tôn giáo, bất kể tôn
giáo đó là tôn giáo nào, và bất kể chủ đề nghiên cứu là chủ đề nào,
của những người có uy tín trong giới trí thức như lãnh tụ tôn giáo,
học giả, chuyên gia, giáo sư đại học v..v.. được phổ biến rộng rãi
trong quần chúng. Hi vọng với đà tiến triển về kinh tế hiện nay
ở Việt Nam, với nhiều tác phẩm nghiên cứu về tôn giáo được nhà nước
sáng suốt cho phép phổ biến, Việt Nam có thể giảm bớt hiểm họa Ki
Tô trên đất nước.
Cần phải đưa cuốn Kinh Thánh ra Quốc Hội phân tích,
vạch ra những sự giết chóc độc ác, vô luân, loạn luân, hoang đường
mê tín phản khoa học v..v.. trong đó, và làm luật để ngăn cấm cuốn
sách không thích hợp với giá trị đạo đức và truyền thống văn hóa
của Việt Nam được phổ biến công khai trên toàn cõi Việt Nam.. Đây
không phải là vấn đề vi phạm tự do tín ngưỡng mà là vấn đề lành
mạnh hóa xã hội, phù hợp với truyền thống văn hóa bao dung, đạo
đức, lành mạnh tâm linh của Việt Nam. Cuốn Kinh Thánh có thể được
dùng trong phạm vi các nhà thờ Ki-Tô Giáo nhưng không được trình
bày lộ liễu nơi công cộng, và nhất là không được mang đi để truyền
đạo công khai. Nhà nước có đủ lý lẽ chính đáng và bằng cớ chính
xác từ cuốn Kinh Thánh để làm như vậy, và làm công khai trên diễn
đàn quốc tế.
Việt Nam cần phải ý thức được sự nguy hại của chiêu
bài nhập nhằng tự do tôn giáo với tự do truyền đạo để có thể tìm
cách đối phó, đưa ra những biện pháp ngăn chận thích nghi, hợp lý.
Những biện pháp ngăn chận này phải nằm trong quốc sách và phải được
cương quyết thi hành. Tôi tin rằng đa số người dân Việt Nam sẽ ủng
hộ những biện pháp bảo vệ nền văn hóa truyền thống Việt Nam này
vì chúng ta ý thức rõ ràng rằng không có một chế độ nô lệ nào độc
hại bằng nô lệ văn hóa.
2). Về Phần Đối Ngoại.-
Theo ý của chúng tôi thì Giáo hoàng Bê-nê-đít-to
XVI cần xin lỗi Phật Giáo về những lời rất khiếm nhã đối với Phật
Giáo trước đây. Nhưng chỉ xin lỗi Phật Giáo không không đủ, vì Phật
Giáo dù sao cũng chỉ là một tôn giáo ở Việt Nam, dù chiếm đa số.
Vấn đề ở đây là cả nước Việt Nam đã chịu nhiều khổ nạn vì sự truyền
đạo của Ca-Tô Giáo vào Việt Nam. Cho nên, theo ý chúng tôi, Việt
Nam đừng bao giờ có thêm những nhượng bộ đối với con cọp giấy Vatican
trước khi Vatican chính thức lên tiếng, nhân danh Ca Tô Giáo La
Mã, xin lỗi Việt Nam về những hoạt động của Ca-Tô Giáo tiếp tay
với thực dân Pháp để xâm chiếm Việt Nam trước đây, và sau đó Giáo
hội Ca Tô tại Việt Nam đã toa rập với thực dân Pháp để cướp bóc
đất đai, tài sản, chùa chiền của nhân dân Việt Nam, và thành thực
sám hối qua những hành động cụ thể như hoàn trả lại cho nhân dân
Việt Nam những tài sản đã chiếm hữu, và bồi thường cho Việt Nam
những tác hại mà Ca-Tô Giáo đã mang đến Việt Nam. Ngoài ra Giáo
hội Ca Tô Việt Nam cũng phải bố cáo rộng rãi, lên tiếng xin lỗi
tương tự nhân dân Việt Nam, bỏ đi những lời xúc phạm đến cả nước
Việt Nam, đến Phật Giáo, trong Kinh Nhựt Khóa của họ, và hoàn trả
những gì đã chiếm hữu của nhân dân Việt Nam từ trước tới nay.
Những ý kiến trên của tôi ở trên mà tôi đã từng
nêu lên trên trang nhà Giao Điểm trước đây rất phù hợp với những
yêu cầu của Tỳ Kheo Thích Chơn Tế trong bức thư bằng tiếng Anh mà
Tỳ Kheo gửi cho Giáo hoàng Bê-nê-đít-to XVI. Để kết thúc bài viết
này, tôi xin phép được liệt kê những điểm yêu cầu của Tỳ Kheo Thích
Chơn Tế, gồm có những điểm sau đây:
1- “Xin lỗi dân tộc Việt Nam về những hành
động sai lầm của Giáo hội Ca-Tô La Mã và những tín đồ Ca-Tô
trong hai thế kỷ vừa qua, đặc biệt là trong những thời kỳ đô
hộ của thực dân Pháp và dưới chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm.
Giáo hòang tiền nhiệm, John Paul II, đã xin lỗi nhiều quốc gia
ngoại trừ Việt Nam, tuy rằng những bằng chứng lịch sử về tội
ác của Giáo hội Ngài không thể phủ bác” (Apologize to
the Vietnamese people for all the erroneous actions generated
by the Roman Catholic Church and its followers during the past
two centuries, especially during the periods under French colonialism
and under the Ngo Dinh Diem’s dictatorship. The preceding Pope,
John Paul II, has already asked for a public apology from several
other nations except Vietnam, even though the historical evidences
of the criminality of Your church are irrefutable.)
2- “Bồi thường thỏa đáng cho những nạn nhân
chiến tranh trong những thời kỳ chiếm thuộc địa của Pháp và
dưới chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm vì chính Vatican của
Ngài đã dẫn đường mở lối và tích cực ủng hộ cả hai. Một trong
những tín đồ của Ngài, Giám mục Pháp Puginier, đã thú nhận dứt
kho át là “Nếu không có những linh mục và giáo dân Việt Nam
thì người Pháp ở Việt Nam cũng như những con cua đã bị bẻ gãy
hết càng.” (Recompense satisfactorily to the war victims
during the periods under French colonialism and under the Ngo
Dinh Diem’s dictatorship since it was Your Vatican who led the
way and actively supported both of them. One of your ardent
follower, French Catholic priest Puginier, emphatically confessed
in a historical document that: “Without the Catholic priests
and (Vietnamese) Catholic populace, the French (in Vietnam)
will become like a crab with broken legs”.)
3- “Hãy hoàn trả cho dân Việt Nam nhiều đất
đai và tài sản mà giáo hội Ca-Tô đã chiếm hữu dựa vào quyền
lực của chính quyền thực dân Pháp và chính phủ Ngô Đình Diệm” (Return
to the people of Vietnam numerous parcels of land and properties
that the Catholic Church exhorted by relying on the power of
the French colonial administration and the Ngo Dinh Diem government.)
4- “Hãy hoàn trả cho Giáo Hội Phật Giáo Việt
Nam những Chùa đã bị chiếm hữu theo chủ trương biến đổi Chùa
thành nhà thờ như Chúa Báo Thiên đã trở thành nhà thờ lớn Hà-Nội,
Chùa La Vang đã trở thành nhà thờ La Vang, một Chùa rất cổ đã
trở thành nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn” (Return to the Vietnamese
Buddhist Church various pagodas being exhorted to transform
into Catholic cathedrals such as the Bao Thien Stupa which has
become the current Main Hanoi Cathedral, the La Vang pagoda
which has become the current LaVang Cathedral, a very old pagoda
which has become the current Cathedral of Saigon.
5- “Hãy giáo dục giới linh mục Việt Nam và những
tín đồ rừ bỏ niềm tin ô nhục “Thà mất nước chứ chẳng thà mất Chúa,
niềm tin đã biến họ trở thành những tay sai của ngoại bang đồng
thời phản bội dân tộc và nền văn hóa của chúng tôi” (Educate the
Vietnamese Catholic clergy and its followers to renounce the infamous
credo “Better to loose the Fatherland than loosing belief in
God”. The credo that turned them into lackeys of foreign governments
while betraying our people and our culture.)
6- “Hãy ra lệnh cho giới linh mục Việt Nam
xưng tội và chấm dứt mọi sách nhiễu tình dục đối với trẻ con
và phụ nữ như đã từng xảy ra trong nhiều quốc gia khác” (Order
the Vietnamese Catholic clergy to confess and to stop all sexual
abuses onto children and women as already happened in many other
countries.)
7- Hãy giáo dục những tín đồ Ca-Tô chấm dứt
thái độ sai lầm, theo tín lý và kiêu căng trong niềm tin là
những người phi Ca-Tô thì xấu và những tín ngưỡng cổ truyền,
nhân bản của dân tộc chúng tôi là không chính thống” (Educate
Catholics to end the wrongful, dogmatic and arrogant attitude
in their belief that non-Christians are evil and traditional
humanistic faiths of our people are heterodoxy.)
8- Hãy dạy dỗ giới linh mục và tín đồ Ca-Tô
tôn trọng nhân quyền, đặc biệt trong những lãnh vực sau:
- Chấm dứt thói bắt buộc những người trong
tín ngưỡng khác phải từ bỏ niềm tin tôn giáo của họ và phải
cải đạo để được phép kết hôn với một người Ca-Tô.
- Hãy chấm dứt thói lùa những người sắp chết
và/hoặc những người già bệnh tật cải đạo vào Ca-Tô Giáo trong
khi họ ở trong tình trạng không sáng suốt hoặc trong khi họ
không có thân nhân ở bên.
- Hãy chấm dứt những hoạt động từ thiện dùng
tiền và thực phẩm/thuốc men để cải đạo những người nghèo và
cô nhi vào Ca-Tô Giáo.
(Teach the Catholic clergy and followers to respect
human rights, especially in the following areas:
- To end the practice of coercing peoples of other
faith to deny his/her own religious belief and to be converted to
Catholicism in order for them to get permission to marry with a
Catholic.
- To end the practice of luring the dying and/or
old aged patient to convert to Catholicism while the patient is
in a bewildering state or while the patient is alone without company
of relatives.
- To end the kind of charity works with money and
food/medicine aids to convert the poor and the orphans to baptize
them into a Catholic.)
9. “Hãy hủy bỏ ngay sự phong thánh hấp tấp
cho 117 người Việt Nam và ngoại quốc chết trong nước tôi trong
hai thế kỷ qua. Những bằng chứng và hồ sơ lịch sử đã chứng minh
rõ ràng là họ bị kết án tử hình bởi Triều Đình vì họ đã phản
bội quốc gia và/hoặc đã có những ho ạt động tình báo cho những
lực lượng xâm lăng Pháp. Những bằng chứng cũng đã chứng tỏ rằng
họ không phải là những “thánh tử đạo” mà Vatican đã ngụy tạo
lên để thúc đẩy những tín đồ Ca-Tô Việt Nam đi vào con đường
phản bội quốc gia để được phong thánh.” (Immediately
cancel the unusually urgent and serial canonization by Pope
John Paul II of 117 Vietnamese and foreigners who died in my
country during the past two centuries. Historical evidences
and records clearly proved that they received the official death
sentence by the Court because of their betrayal and/or their
spying activities for the French invading forces. The evidences
also show that they were not “martyrs” as maliciously fabricated
by Vatican to incite the Vietnamese Catholic followers to betray
their country in order to get canonized.)
Về vụ “phong thánh cho 117 Việt gian và thực dân”
ở Việt Nam của Giáo hoàng John Paul II thì đây là một vụ “phong
thánh” hấp tấp có chủ mưu như Tỳ Kheo Thích Chơn Tế đã vạch ra ở
trên. Thủ đoạn phong thánh của Vatican nhằm ba mục đích: thứ nhất,
khuyến khích tín đồ cuồng tín thêm, sẵn sàng hi sinh cho Chúa, nhưng
thực ra là cho Vatican, để rồi được phong thánh; thứ nhì, để thu
vào những nguồn lợi khổng lồ của các sở tại muốn cho ai đó trong
giáo phận của mình được phong thánh; và thứ ba, ngụy tạo những phép
lạ gán cho thánh để nuôi dưỡng sự mê tín của tín đồ.
Thật vậy, quá trình phong thánh tốn rất nhiều tiền,
tiền mà những nơi đề nghị phong thánh phải nộp để xin được Vatican
phong thánh. Quá trình này phức tạp và thường những phép lạ được
ngụy tạo ra tùy thời tùy lúc để phù hợp với tiêu chuẩn phong thánh
của chính Vatican đặt ra. Theo Paul Blanshard trong cuốn Sự Tự
Do Của Mỹ Và Quyền Lực Ca-Tô (American freedom and Catholic
Power), trang 219-220, thì quá trình phong á thánh rồi thánh được
tóm tắt như sau:
Guồng máy sản xuất thánh bằng lễ phong á thánh
(như cho 117 tội đồ Việt Nam) và rồi lên thánh thì đặt căn bản
trên một kế hoạch toán học để tạo ra những phép lạ. Thường thường
thì những phép lạ được liên kết bằng cách nào đó với những
di tích của thánh. Như Joseph Berinhart đã vạch ra trong sự mô
tả về guồng máy phong thánh của Vatican, sự phong á thánh chỉ
có thể thực hiện sau khi một thỉnh nguyện đã được đệ trình lên
các giới chức có thẩm quyền và chứng tỏ thánh tính và “ít nhất
là 2 phép lạ đã xảy ra sau khi chết”
Sau cuộc “điều tra” bởi những tín đồ Ca-Tô,
và sau khi được phong á thánh, thường là chỉ ban cho chức thánh
giới hạn và địa phương, á thánh có thể được phong thánh. Ông ta
trở nên đối tượng thờ kính phổ quát của giáo hội. Danh dự sau
cùng này chỉ đạt được nếu những di vật của á thánh hay thần linh
của á thánh dã thực hiện những phép lạ mới sau khi được phong
á thánh. [Như vậy, 117 á thánh tội đồ Việt Gian ở Việt Nam
chỉ có giá trị địa phương, hoàn toàn không có giá trị gì ngoài
giáo hội Ca-Tô La Mã tại Việt Nam]
(The present machinery for creating saints by beatification
and canonization is based upon a definite mathematical plan for
miracles. Usually those miracles are associated in some way with
the saint’s relics. As Joseph Berinhart points out in describing
the church’s machinery for creating saints, beatification comes
only after a petition has been submitted to the proper authorities
showing saintliness and “at least two miracles after death”.
After an “investigation”of Catholics devotees,
and after beatification, which confers only limited and local sainthood,
the saint may be canonized. He then becomes the object of universal
veneration in the church. This final honor is attained only if the
saint’s relics or spitit have performed new miracles after beatification.)
[Giáo hội đã có khả năng làm cho bà Mary hiện ra
khắp nơi thì vài cái phép lạ lẻ tẻ đó có nhằm nhò gì, muốn tạo ra
lúc nào chẳng được.]
Vậy thì, chắc chắn là giáo hội Ca-Tô La-Mã tại
Việt Nam cũng phải bỏ ra một số tiền lớn để chạy chọt để cho 117
tín đồ Ca-Tô, vốn là những tội đồ Việt gian và những kẻ đi cướp
nước đối với tuyệt đại đa số người dân Việt Nam, để được phong á
thánh. Paul Blanshard cũng viết, Ibid., trang 220:
Quá trình phong chân phước, hay á thánh, và
rõ rệt hơn nữa đối với quá trình phong thánh, tốn những khoản
tiền khổng lồ mà nơi thỉnh nguyện – một dòng tu, một gia đình,
một giáo phận – phải đài thọ. (The process of beatification,
and still more noticeably that of canonization, consumes huge
sum of money which the petitioner – an order, a family, a diocese
– must raise)
Những vụ phong thánh bừa bãi, hấp tấp, dưới triều
đại giáo hoàng John Paul II đã khiến cho một Hồng Y đã phải than
là Vatican đã trở thành một xưởng sản xuất thánh (a saint factory).
Vậy nếu thánh là một sản phẩm sản xuất hàng loạt bởi Vatican thì
ai muốn mua sản phẩm đó cũng phải bỏ tiền ra mua chứ không thể xin
không, Việt Nam không ra ngoài lệ.
Tôi khẩn xin quý vị có trách nhiệm ở Việt Nam hãy
nghĩ đến tương lai dân tộc để có thể định ra một đường lối ngoại
giao thích hợp đối với Vatican một khi quý vị đã nắm được phần nào
thực chất của Vatican. Chúng tôi, những người ở hải ngoại tuy không
bị ảnh hưởng trực tiếp những việc xảy ra ở bên nhà nhưng dù sao
cũng còn ít hiều gắn bó với dân tộc Việt Nam, quả thực là không
an tâm khi thấy có vẻ như cơn sốt quyền lực, tiền tài vật chất đang
hành hạ quý vị lên đến cao độ. Ngay những bộ phim ảnh của Việt Nam
cũng nói lên rất rõ rệt tình trạng này. Vậy chúng tôi nghĩ đã đến
lúc quý vị nên tìm cách làm giảm những cơn sốt này. Tôi xin quý
vị hãy bình tâm suy nghĩ lại, quý vị chạy theo vật chất vô thường,
bỏ bê vấn đề tâm linh trau giồi đạo đức, như vậy có đáng không?
Có lẽ quý vị chưa bao giờ nghĩ đến chân lý sau đây: “Không lâu đâu,
chỉ vài chục năm sau là nhiều, vấn đề không còn là quý vị có bao
nhiêu tiền trong chương mục, đi xe loại gì, ở nhà cao rộng như thế
nào, ăn uống của ngon vật lạ ra sao v..v.. mà chỉ còn là vấn đề
quý vị đã làm gì cho tương lai của con em, tương lai của đất nước
và dân tộc.” Nghĩ được như vậy, cơn sốt của quý vị sẽ giảm và giảm
rất nhanh.
Mong vậy thay.
Trần Chung Ngọc
Leap Day, 2012
Các bài thời sự cùng tác giả
▪
22 Năm Giao Điểm: Trừ Tà - Hiển Chánh và Độ Sinh -
Trần Chung Ngọc
▪
Chủ Nghĩa Khủng Bố và Diệt Chủng -
Trần Chung Ngọc
▪
Cuốn Triumph Forsaken của Mark Moyar -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Người Máy Chống Cộng -
Trần Chung Ngọc
▪
Tại Sao Những Người Tin Chúa Lại Thù Ghét Những Người Vô Th -
Trần Chung Ngọc
▪
Tản Mạn về Chống Cộng -
Trần Chung Ngọc
▪
Ăn Cơm Quốc Gia Thờ Ma Cộng Sản - Một Câu Chữ Của Những Kẻ U Mê -
Trần Chung Ngọc
▪
ĐĐ Thích Nhật Từ và Các Xóm Đạo Washington D.C. -
Trần Chung Ngọc
▪
Đọc "Món Hàng Xuất Cảng Làm Chết Người Nhất Của Mỹ: DÂN CHỦ" -
Trần Chung Ngọc
▪
Avro Manhattan: Cơn Ác Mộng Của Một Quốc Gia -
Trần Chung Ngọc
▪
BA MƯƠI THÁNG TƯ VÀ TÔI TỪ KIẾN THỨC ĐẾN LẬP TRƯỜNG -
Trần Chung Ngọc
▪
Bang Giao "Bắc Kinh-Vatican" (?) Một Kinh Nghiệm Quý Giá Cho Việt Nam -
Trần Chung Ngọc
▪
Bang Giao Với Vatican? Bang Giao Như Thế Nào ?? -
Trần Chung Ngọc
▪
Công Nghiệp Cuối Cùng -
Vài Suy Tư Xung Quanh Sự Ra Đi Của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp -
Trần Chung Ngọc
▪
Cựu Tổng Thống Mỹ Jimmy Carter & Liên Hiệp Quốc Lên Án Mỹ Vi Phạm Quốc Tế Nhân Quyền -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Phịa Thời Sự: Tin Vịt Truyền Thông -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Thời Sự Về Bức Thư “Chê Chúa” Của Einstein -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Thời Sự - Về Bức Thư “Chê Chúa” Của Einstein -
Trần Chung Ngọc
▪
Kiến Thức 30/4 Qua Các Danh Nhân - Tại Sao Chúng Ta Thua ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Kiến Thức 30/4 Qua Các Danh Nhân - Tại Sao Chúng Ta Thua ? -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 ▪
>>>