TẢN MẠN VỀ CHỐNG CỘNG !!
Trần Chung Ngọc
http://sachhiem.net/TCN/TCNts/TCNts004.php
30 tháng 5, 2007
Kể từ ngày tôi “tự cưỡng bách di
tản” khỏi Saigon vào mấy ngày cuối tháng 4, 1975, nay đã hơn 30 năm sống
trên đất Mỹ. Cuộc chiến Việt Nam đã đưa đẩy nhiều người đến những số
phận không ai muốn. Nhưng dù muốn hay không, với bản năng sinh tồn, con
người vẫn phải tiếp tục sống, và tự chọn cho mình một lối sống.
Hơn 30 năm sống trên đất Mỹ nhưng lối
sống của tôi chẳng phải là lối sống Mỹ, mà cũng chẳng phải là lối sống
Việt.. Không xem football, không xem “soap” trên TV, không ăn gà tây
nhân dịp lễ người Da Đỏ “không tạ ơn”, không la cà quán rượu, không ly
dị [không Mỹ]; không hút thuốc lá, không uống rượu, chưa từng đặt chân
đến những buổi nhạc hội ca vũ, chưa từng dự một cuộc biểu tình nào, chưa
từng bỏ tiền ra mua Thúy Nga Paris, và không chống Cộng [không Việt], và
từ năm 1985, sau khi đọc vài cuốn sách về cách nuôi súc vật và gia cầm ở
Mỹ, đến nay đã 21 năm, chưa từng có một miếng thịt nào, bất kể là thịt
gì, còn đi vào trong người.
Hơn
30 năm sống xa quê hương nhưng bù lại cả một khung trời thế giới đã mở
rộng trước mắt. Thật vậy, nhờ “hồng ân thiên chúa” nên tôi đã có dịp đi
tham quan, ngoài gần khắp nước Mỹ, khá nhiều nơi trên thế giới: Trung
Quốc, Đài Loan, Singapore, Tây Âu, Đông Âu, Bắc Âu. Nhưng riêng đối với
tôi, điều bù đắp hơn hết là tôi có cơ hội đọc rất nhiều sách về chiến
tranh Việt Nam, về Ki Tô Giáo cũng như về Phật Giáo. Điều này đã khiến
tư duy của tôi thay đổi trên nhiều phương diện.
Về Ki Tô Giáo, sau khi đọc một số
sách nghiên cứu về Ki Tô Giáo trong vòng 200 năm gần đây của một số vị
lãnh đạo cũng như một số học giả trong Ki Tô Giáo, cùng những khám phá
trong vũ trụ học, sinh học, sinh hóa học, di truyền học v..v.., cuối
cùng tôi khám phá ra rằng, chẳng làm gì có Thiên Chúa để mà có “hồng ân
thiên chúa”, đúng như Richard Dawkins đã nhận định trong cuốn sách mới
xuất bản của ông, “The God Delusion”: Thiên Chúa chỉ là một ảo
tưởng, ảo tưởng của những người tin là Thiên Chúa thực sự hiện hữu..
Về Phật Giáo, tôi nghĩ có lẽ tôi đã
tu từ nhiều kiếp trước nên nay tôi mới có thể có một cuộc sống như vậy,
và tôi tin rằng thuyết “duyên sinh” cộng với thuyết “nghiệp báo” của nhà
Phật là cách giải thích hợp lý nhất về những thiên sai vạn biệt trên thế
giới.
Còn
về chiến tranh Việt Nam, tôi đã viết một bài nhan đề “Chiến Tranh
Nhìn Từ Một Phía: Phía Của Không Phía”.
Có người cho rằng đã mang danh là một
người “di cư tị nạn CS” thì tất nhiên phải tham gia việc chống Cộng ở
hải ngoại. Không hẳn vậy, tuyệt đại đa số thầm lặng không muốn dính
dáng đến những hoạt động chống Cộng trong những vùng “gió tanh mưa máu”
[mượn từ của Tú Gàn] rải rác ở ngoại quốc, các vùng Bolsa, San Jose ở
California và vùng Sydney ở Úc là những vùng nổi tiếng nhất. Tôi không
thuộc đa số thầm lặng trên mà lại thuộc thiểu số không thầm lặng. Không
thầm lặng trước những hành động chống Cộng làm nhục lây đến những người
Việt Quốc Gia chân chính. Tôi không có nói chỉ để mà nói, mà vì những
lý do sau đây.
1)
Hiện Tượng Chụp Mũ Cộng Sản Bừa Bãi.
Có một sự kiện khá ngộ nghĩnh trên
một số trang nhà hải ngoại là bất cứ ý kiến nào, của bất cứ ai, mà không
thuộc loại Chống Cộng Cực Đoan hay Chống Cộng Cuồng Điên [CCCĐ], hay
Chống Cộng Chết Bỏ [CCCB], hay Chống Cộng Cho Chúa [CCCC], hoặc là đụng
đến Ki Tô Giáo dù rằng chỉ là những sự thật, được dẫn chứng đàng hoàng
từ những tài liệu do chính những học giả Tây phương trong Ki Tô Giáo
viết, thì y như rằng ý kiến đó bị một số người có vẻ như thiếu moron ở
trong óc chụp mũ đó là của Cộng Sản, nằm trong chính sách chống Thiên
Chúa Giáo [Thiên Chúa ở đây nên hiểu là Thiên Chúa của Ki Tô Giáo, một
trong số hàng trăm Thiên Chúa khác nhau trên thế giới], nếu sự thực ở
trên cõi đời này có một Thiên Chúa như người Ki Tô thường tin, và những
người viết ra những sự thực về Ki Tô Giáo đương nhiên phải là tay sai
của Cộng Sản Việt Nam. Hiện nay, Cộng Sản có chống Thiên Chúa Giáo hay
không, đó là một câu hỏi lớn (a big question).
Ôn cố tri tân. Nếu ngày xưa [xin đọc
Peter de Rosa, Vicars of Christ, trang 48], Giáo hoàng Stephen
VII khai quật xác chết của Giáo hoàng tiền nhiệm, Formosous, đã chết
trước đó 9 tháng, cho mặc áo mũ cân đai của giáo hoàng, đặt ngồi trên
ngai ở điện Lateran, rồi đích thân tố khổ một xác chết, thì ngày nay,
những người thuộc giới CCCĐ, CCCB, CCCC, vẫn khai quật cái xác chết của
CS, để mà tố khổ, tuy rằng những người Công Giáo Việt Nam vẫn ca tụng
công ơn của Đức Thánh Cha của họ [John Paul II] đã cùng với TT Mỹ Ronald
Reagan khai tử CS từ năm 1989, và hi vọng là tiếp theo, Đức Thánh Cha
của họ sẽ “giải phóng quê hương chúng con”.. Nhưng quê hương
chúng con đã được giải phóng từ năm 1954 và sau đó, 1975, và Giáo hoàng
John Paul II chưa kịp “giải phóng” cái “quê hương đã được giải phóng”,
giải phóng khỏi ách thực dân, giải phóng khỏi mưu đồ Công Giáo hóa Việt
Nam của các con chiên của Ngài, thì Ngài đã đi chuyến tàu suốt về chầu
Chúa nơi Thiên Đường (mù), nơi mà chính Ngài đã phủ nhận sự hiện hữu.
Vì vậy, một bạn trẻ đã viết trên Đàn Chim Việt: “CS chết rồi nhưng
chưa chôn”. Thật vậy, chúng ta thử về Việt Nam xem có còn cái gì là
CS không? Tất nhiên chỉ còn trên hình thức và sách vở. Bởi vì nếu thực
sự còn là Cộng sản Mao hay Cộng sản Xít-Ta-Lin thì chẳng làm gì còn các
“nhà dân chủ” ngày ngày liên lạc với những tổ chức chống Việt Nam ở Hải
Ngoại, ra tuyên ngôn nọ kia, lập hội lập hè v..v..
Điều này không lấy gì làm lạ. Khai
thác tâm cảnh thù hận Quốc-Cộng của một thiểu số ở hải ngoại, thế lực
đen, alias Công Giáo, một tôn giáo có mối thù truyền kiếp với CS, đã nắm
hầu hết những phương tiện truyền thông ở hải ngoại, và vô cùng tích cực
trong việc xử dụng hai thứ vũ khí mà Công Giáo thường dùng: vu khống và
gây thù hận, khi Công Giáo không còn khả năng xử dụng thanh gươm và bó
củi như trong thời Trung Cổ, đúng như John Remsburg đã nhận định trong
cuốn “False Claims”. Bất cứ người nào nói đụng đến Công Giáo, dù
tất cả chỉ là sự thật, cũng đều bị họ vu khống chụp cho cái mũ “chống
Công Giáo” cộng với “làm tay sai cho Cộng Sản” để gây thù hận đối với
những tín đồ Công Giáo và đối với những người chống Cộng. Họ làm như
chống Công Giáo là một điều cấm kỵ, không được phép làm, hay là một việc
vô đạo đức vì đã vạch ra những điều vô đạo đức trong Công Giáo, tuy rằng
những nghiên cứu lịch sử về Ki Tô Giáo nói chung, Công Giáo nói riêng,
đã là những điều rất thông thường và tràn ngập trong thế giới Âu, Mỹ..
Bất cứ người nào không đồng ý với
những hành động chống Cộng một cách thiếu trình độ văn hóa, giáo dục, và
cuồng tín như họ cũng đều bị họ vu khống cho là Cộng Sản qua những cụm
từ đã trở thành lố bịch: “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”, “ăn cháo đá
bát”, “đón gió trở cờ”, “mong được ăn cơm thừa canh cặn của CS”, “làm
tay sai cho CS”, “nịnh bợ CS”. Nhưng có một điều mà ai cũng thấy rõ, đó
là, những người đi chụp mũ vu khống người khác là Cộng Sản không bao giờ
đưa ra bất cứ một chứng cớ nào, cũng như không bao giờ nói rõ những lý
do nào đã khiến cho cá nhân bị chụp mũ đó đi “làm tay sai cho CS”, hay
đi “nịnh bợ CS” trong thời buổi này. Vì danh? Danh gì? Vì lợi? Lợi
gì? Vì chức tước? Chức tước gì? Có thực tế không? Có thích hợp với
tuổi tác, địa vị, tình trạng kinh tế gia đình của người bị vu khống
không? Lẽ dĩ nhiên những người đi buôn nón cối và đi buôn thù hận này
không bao giờ cần để ý đến những chi tiết quan trọng này. Đối với họ,
sự lương thiện trí thức không phải là vấn đề đáng để ý, vì bản tính của
họ đã thuộc loại bất lương rồi, chủ đích của họ chỉ cần gây thù hận là
đủ.
Một sự kiện khá ngộ nghĩnh khác là
dân chống Cộng hải ngoại thường có thái độ “độc tôn”, cho nên bất cứ ai
không chống Cộng theo ý ta cũng là Cộng Sản cả. Bởi vậy mới có cảnh
tượng bát nháo, hội đoàn này chụp mũ hội đoàn kia là Cộng Sản, cá nhân
này chụp mũ cá nhân kia là Cộng Sản, Công giáo chụp mũ Phật Giáo là Cộng
Sản để chạy tội bán nước, và người ngoại đạo cũng lên án Công Giáo là
Cộng Sản, hay ít ra cũng là thân Cộng, vì những thủ đoạn chính trị nhơ
bẩn “stoop to conquer” của Vatican v..v…
Tại sao vậy? Vì sống ở trên những
đất nước tự do nhất thế giới mà những kẻ trên chưa bao giờ đọc đến câu:
“Tôi không chấp nhận những điều anh nói, nhưng tôi sẽ bảo vệ đến chết
quyền của anh nói như vậy.” (I disapprove of what you say, but I
will defend to the death your right to say it), mà theo một tác giả trên
Internet, thực ra là của Beatrice Hall, bí danh là S.G. Tallentyre, nói
năm 1907, câu mà người ta thường lầm lẫn cho là của Voltaire. [???] Cái
mũ “Cộng Sản” đã được xử dụng như là một vũ khí để giữ độc quyền ăn nói
và bịt miệng những người không đồng quan điểm với mình, nhưng càng ngày
càng trở nên lố bịch vì ngày nay mọi người đều coi nó như một trò hề
chính trị của những kẻ hạ căn, cho nên không gây nên một tác dụng nào.
Cộng Sản bất chiến tự nhiên thành, vì
bỗng nhiên càng ngày càng có nhiều đồng minh: cá nhân, hội đoàn, Phật
giáo, Công giáo, và đặc biệt, theo một vài bạn trẻ trên trang nhà Đàn
Chim Việt, những nhân vật nổi danh như Giám Mục Peter de Rosa, tác giả
cuốn Những Đại Diện Của Chúa Ki-Tô: Cái Mặt Đen Tối Của Những Triều
Chính Giáo Hoàng (Vicars of Christ: The Dark Side of The Papacy);
Giám Mục John Shelby Spong, tác giả cuốn Tại Sai Ki Tô Giáo Phải Thay
Đổi Không Thì Chết (Why Christianity Must Change or Die); Helen
Ellerbe, tác giả cuốn Cái Mặt Đen Tối Của Ki Tô Giáo (The Dark
Side of Christianity); Douglas Lockhart, tác giả cuốn Cái Mặt Đen Tối
Của Thượng Đế [Của Ki Tô Giáo] (The Dark Side of God); và hàng trăm
tác giả khác gồm các bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo, các giáo sư đại học,
chuyên gia về tôn giáo trong thế giới Tây Phương, chỉ vì những nhân vật
này cũng “chống Ki Tô Giáo” vì đã viết ra những sự thật về Ki Tô Giáo,
do đó là… “thành viên của Giao Điểm”. Nếu chúng ta có dịp ghé qua trang
nhà Đàn Chim Việt, chúng ta sẽ thấy “Giao Điểm” đã trở thành cái mũ để
đội lên đầu bất cứ người nào không cùng ý kiến chống Cộng, hay nói ra
vài sự thực về Công Giáo, hay trích dẫn tài liệu từ Giao Điểm, dù rằng
Giao Điểm không hề biết những người này là ai. Tôi đã đích thân hỏi
Giao Điểm và các thân hữu Giao Điểm có ai viết trên Đàn Chim Việt
không. Ai cũng cười và trả lời Đàn Chim Việt không phải là chỗ để họ
viết bài hay góp ý kiến trên đó.
Nói đến hai chữ “Giao Điểm” thì cũng
có nhiều chuyện đáng nói. Thứ nhất, chỉ nghe thấy tên “Giao Điểm” là có
nhiều người phát dị ứng, uất nghẹn nhưng không thể nói ra thành lời, vì
nói thế nào cũng kẹt. Hơn 30 đầu sách Giao Điểm xuất bản không hề nhận
được sự phản bác nào, trừ vài điều phê bình lặt vặt, lạc lõng, vô giá
trị về cuốn “Đối Thoại Với Giáo Hoàng…” của vài con chiên nghiện
đạo bênh vực “Đức Thánh Cha” như Nguyễn Văn Chức, Đỗ Mạnh Tri và một trí
thức dỏm viết theo đơn đặt hàng: Dương Ngọc Dũng. Tại sao vậy? Vì tất
đều là những tác phẩm nghiên cứu với đầy đủ tài liệu bất khả phủ bác.
Không phủ bác được đành phải dùng vài cái mũ “chống tôn giáo” hay “chia
rẽ tôn giáo”. Thật là lạ lùng và khó hiểu, ở thế giới Tây phương,
cái nôi của Ki Tô Giáo, tràn ngập những sách viết về Ki Tô giáo, chỉ
trích Ki Tô giáo, phân tích Ki Tô giáo v..v.. thì không có vấn đề.
Nhưng nếu người Việt Nam nào mà xử dụng cùng những nguồn tài liệu của
Tây phương về Ki Tô giáo như trên thì y như rằng là có tội “chống tôn
giáo” hay “chia rẽ tôn giáo”. Chẳng có lẽ người Việt Nam chưa đủ
trình độ để chấp nhận những sự kiện lịch sử về tôn giáo hay sao? Chẳng
có lẽ chúng ta cứ phải tiếp tục nhốt người dân vào trong vòng tăm tối về
tôn giáo vì sợ mất tình đoàn kết tôn giáo hay sao. Người ta chỉ thấy
cái lợi trước mắt mà quên cái hại sau lưng. Đoàn kết tôn giáo chỉ có thể
thực hiện khi người dân biết rõ về mỗi tôn giáo và tự mình định cho mình
một hướng đi tâm linh thích hợp trong tinh thần khoan nhượng của các xã
hội đa tôn giáo tân tiến. Người ta còn tự bảo vệ bằng luận điệu tôn giáo
nào cũng dạy làm điều lành tránh điều ác. Đúng vậy, nhưng ngoài cái gọi
là “làm điều lành tránh điều ác” có còn cái gì khác nữa không, hay tất
cả chỉ có thế? Có ai đã đọc kỹ các Kinh sách của các tôn giáo chưa, và
có ai đã đọc kỹ lịch sử truyền bá của các tôn giáo chưa? Có gì giống
nhau và khác nhau ở chỗ nào?
Thứ nhì, có một số người chống Cộng
cho rằng Giao Điểm là “cánh tay nối dài của CS” ở hải ngoại, tuy rằng
một trong những người sáng lập tổ chức Giao Điểm, anh Hồng Quang, cách
đây ít năm, khi về Việt Nam đã hơn một lần được Công An ưu ái mời lên
“làm việc” vì cho rằng Giao Điểm có mục đích chính trị nào đó. Nhưng
dần dần Giao Điểm đã chứng tỏ là theo đúng chủ trương đặt ra: Trừ Tà
[Giải hoặc], Hiển Chánh [Chấn Hưng Phật Giáo], Độ Sinh [Làm việc từ
thiện] cho nên ngày nay Giao Điểm tạm gọi là dễ thở đối với Nhà Nước.
Mặt khác, họ chỉ nói lên vậy thôi để gây thù hận chứ tuyệt đối họ không
biết gì về tổ chức Giao Điểm cũng như những người cộng tác với Giao
Điểm, và nhất là họ không bao giờ dám lên tiếng thảo luận về các lập
luận trong các chủ đề mà Giao Điểm viết lên, bởi vì, như trên đã nói,
tất cả những bài viết trên Giao Điểm đều thuộc loại nghiên cứu với đầy
đủ tài liệu dẫn chứng.
Thứ ba, có một số Phật tử cho rằng
Giao Điểm là nhóm Phật tử quá khích vì viết ra những sự thực về Công
giáo tuy rằng những người đóng góp trí tuệ cho Giao Điểm không phải tất
cả đều là Phật tử, và không có một tác giả nào trên Giao Điểm nhân
danh Phật Tử hay Phật Giáo để viết về những sự thực lịch sử về Công
Giáo, hay về thời sự, chính trị v..v…. Tất cả đều chỉ là những nghiên
cứu trí thức trong lãnh vực học thuật với đầy đủ tài liệu dẫn chứng, nằm
trong chủ trương “giải hoặc” và mở mang kiến thức của người dân, một
điều vô cùng cần thiết trong thời đại mới. Những Phật tử này còn
khuyên rằng Giao Điểm nên thể hiện đức từ bi của Đạo Phật, chỉ nên ngồi
hít vào thở ra cho thoải mái tâm thân, và chỉ nên dùng “ái ngữ” dù rằng
ái ngữ nhiều khi chỉ có tính cách mị dân, che dấu hay sai sự thật. Khi
dẫn chứng một tài liệu tiếng ngoại quốc thì phải dịch cho sát nghĩa,
không thể dịch sai để phù hợp với chủ trương dùng “ái ngữ”. Đây là vấn
đề lương thiện trí thức trong lãnh vực học thuật.
Thứ tư, có người nhờ uy tín, tiền,
và tình của Giao Điểm nên cũng tạo được đôi chút tiếng tăm, nhưng rồi
lại muốn chiếm Giao Điểm làm của riêng để lái Giao Điểm đi sang đường
khác, tự tung tự tác đi nghịch lại với chủ trương của Giao Điểm, rồi trở
mặt coi bạn thành thù, đem tâm thù ghét và đả kích, xuyên tạc Giao Điểm
bằng những loại văn chưa từng có trên Giao Điểm. Nhưng thật là khôi
hài, chỉ vì cái tiếng và uy tín của Giao Điểm, nên vẫn phải bám vào hai
chữ “Giao Điểm” để câu độc giả cho những mục đích riêng tư. Nhưng giới
độc giả tất nhiên biết rõ Giao Điểm nào là Giao Điểm chính gốc, và Giao
Điểm nào là “Ngụy Giao Điểm.” Giao Điểm mua được một kinh nghiệm đắt
giá: đành mang chút tai tiếng, và để cho tình, tiền của thân hữu suôi
theo chiều gió. Lòng người thật là khó lường.
Và thứ năm, cá nhân tôi tuy không
nằm trong tổ chức Giao Điểm, nhưng không hẳn là nằm ngoài theo nghĩa tôi
vẫn góp bài cho Giao Điểm, dĩ nhiên vì có thiện cảm với chủ trương của
Giao Điểm. Tôi có thiện cảm với Giao Điểm vì Giao Điểm là một trong
những diễn đàn truyền thông hiếm hoi ở hải ngoại dám đăng những bài, dám
xuất bản những sách mà không có nơi nào khác dám làm. Chẳng phải là
những bài viết thuộc loại nghiên cứu trên Giao Điểm không có giá trị mà
vì nhiều cơ quan truyền thông khác, vì lý do kinh tế, vì sợ mất nồi cơm,
sợ mất quảng cáo, sợ bị đánh phá, nên chỉ ủng hộ ngầm mà không ra mặt
ủng hộ Giao Điểm. Nhưng mỗi ngày có vài trăm người đã vào đọc trong
Giao Điểm chính gốc, giaodiemonline.com, con số này không phải là nhiều,
nhưng thành phần độc giả chọn lọc, trong Giao Điểm không có chửi lộn,
không để cho những hạng người thiếu trí tuệ và giáo dục với những lời
văn tục tĩu tham gia.
Có một chuyện ngộ nghĩnh khác là,
sau khi chụp mũ CS, có người đặt câu hỏi, một câu rất ngớ ngẩn, là tại
sao những người mà họ chụp mũ là thân Cộng không về Việt Nam sống với
Cộng Sản. Chỉ có kẻ đần độn mới đặt một câu hỏi xâm phạm vào đời tư của
người khác như vậy, nhất là khi đặt trên một giả định vu vơ là họ thân
Cộng Sản mà không đưa ra bất cớ một bằng chứng nào. Hỏi như vậy thì tốt
hơn là nên hỏi 7 triệu người Công Giáo Việt Nam, những người mê mẩn làm
nô lệ cho Vatican, nhất nhất đều tuân theo lệnh của Vatican, sao không
sang Vatican mà ở, ở đó có “Đức Thánh Cha” là đại diện của Chúa trên
trần, có rất nhiều “Cha cũng như Chúa thứ hai”, cho nên chắc chắn là
đường lên thiên đường gần hơn và mau hơn là ở Việt Nam. Riêng tôi, nếu
có ai hỏi vậy thì tôi sẽ trả lời: Tôi muốn sống ở đâu là quyền của tôi,
đâu có phải việc của các người mà xía vào chuyện này. Hơn nữa, ở Mỹ tôi
mới có đủ tự do, đủ tài liệu để “chống Công Giáo”, “chống Mỹ”, như các
người thường vu khống, và nhất là, “chống những người như các người.”
2) Những Cảnh Chống Cộng Vô
Trí Ở Hải Ngoại.
Tôi có thể nói rằng chính những
cảnh chống Cộng bát nháo, thấp kém, vô trí tuệ ở hải ngoại đã làm tôi
không thể đứng chung hàng ngũ với những người thuộc loại [CCCĐ] hay
[CCCB] hay [CCCC] mà phần lớn thuộc thế lực đen, chống Cộng với tâm cảnh
cuồng tín tôn giáo. Điều khôi hài nhất là mấy ông linh mục ở bên nhà,
sống trong một định chế tôn giáo thần trị (theocracy) phi dân chủ, phi
nhân quyền v..v.., chỉ có quyền “Tòa Thánh có đánh r…. cũng khen thơm”,
hay quyền “hôn nhẫn hôn chân đức thánh cha” v..v.., thế mà lại họp bè
họp đảng tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền. Đang cam tâm tự nguyện
sống trong cảnh nô lệ, dù là nô lệ tâm linh, mà lại đi tranh đấu cho
nhân quyền thì thật là điều không tưởng. Trong thời Ngô Đình Diệm chẳng
thấy ông Linh Mục nào đòi đa nguyên, đa đảng hay dân chủ, nhân quyền.
Tại sao? Vì các Ngài còn đang hưởng ơn mưa móc của một đầy tớ Chúa, ở
địa vị các lãnh chúa, hối mại quyền thế, độc quyền buôn lậu và bóc lột,
cướp đất của dân, và kiếm linh hồn cho Chúa.
Sau đây là một số hành động thiếu
trình độ văn hóa, giáo dục những người nhân danh chống Cộng. Một nghệ
sĩ cải lương Bạch Tuyết cũng làm cho các người ùn ùn kéo đến Chùa biểu
tình phản đối. Một đoàn trình diễn văn nghệ, hay một cuộc triển lãm
tranh ảnh cũng làm cho các người ra công biểu tình la ó chửi rủa ngăn
chận hành hung những người đi coi. Một vị sư sang chữa bệnh cũng làm
cho các người xông xáo vào Chùa thốt ra những lời hỗn hào vô lễ. Một
vài chương trình TV tiếp vận từ bên nhà cũng làm cho các người biểu tình
phản đối, đòi xóa bỏ. Các người cho rằng một nghệ sĩ, một vài màn trình
diễn văn nghệ cổ truyền, một vài vị sư sang chữa bệnh, một vài bức
tranh, một vài chương trình TV ở bên nhà v..v.. có thể làm cho lý tưởng
quốc gia của các người, những người đã chạy bán sống bán chết khỏi Cộng
Sản, bị chao đảo. Và còn nhiều nữa, làm sao kể ra cho hết. Như vậy,
các người đã coi người Việt tỵ nạn toàn như các người, sợ bóng sợ gió
ảnh hưởng của một nghệ sĩ, của một ông sư, của một chương trình TV v..v.
từ trong nước ra. Các người đã làm nhục những người quốc gia chân chính
như đa số thầm lặng vì không muốn dây với hạng người như các người.
Phản ứng của đa số thầm lặng ra
sao? Họ vẫn kéo đến Chùa nghe ca sĩ Bạch Tuyết. Họ vẫn kéo đến nghe
các tu sĩ Phật Giáo thuyết Pháp. Họ vẫn đi coi các chương trình văn
nghệ do các nghệ sĩ bên nhà sang trình diễn. Họ vẫn xem trực tiếp những
chương trình TV từ Việt Nam. Họ vẫn đi xem triển lãm. Họ làm tất cả
những điều này bất kể những sự phản đối hung hăng của các người. Vậy
những sự phản đối, những hành động chống Cộng ấu trĩ của các người có
tác dụng gì trong cộng đồng? Các người hãy vắt tay lên trán suy nghĩ
xem người quốc gia như các người có làm cái gì để vinh danh người Việt
Quốc Gia hay chỉ làm nhục thêm họ vì những hành động chống Cộng vô lối
của các người mà đã nhiều lần làm cho báo chí Mỹ phải lên tiếng dè
bỉu. Các người áp dụng y chang sách lược của Công Giáo: cấm tín đồ
không được đọc thánh kinh, không được đọc sách báo nào giáo hội không
chấp thuận, không được đọc sách…Giao Điểm, sợ tín đồ mất lòng tin.
Nhưng sự bất lương của các người là chống Cộng theo chính sách lưỡng
chuẩn: Sư Phật Giáo từ Việt Nam sang thì chống phá, ngược lại mấy ông
đầy tớ Chúa rầm rập từ Việt Nam sang quyên tiền, cấm treo cờ vàng ba sọc
đỏ trong nhà thờ, thì các người im thin thít. Đó là quan niệm về tự do,
nhân quyền, đa nguyên đa đảng của các người đấy. Thật là xấu hổ. Thử
hỏi, nếu các người lên cầm quyền, thì quan niệm về tự do, nhân quyền, đa
nguyên đa đảng của các người sẽ đi xuống đâu, và đất nước sẽ trở nên thế
nào? Nhưng lịch sử khó có thể tái diễn với một Ngô Đình Diệm thứ hai và
một lũ quạ đen nhân danh tôn giáo để mà tự tung tự tác, hà hiếp, bóc lột
người dân.
3. Hiện Tượng Chống Cộng Bằng
Chiến Thuật “Mách Bu” Của Trần Ích Tắc:
Trên
trang nhà Chuyển Luân, tháng 11, 2006, có bài “Chuyện Xưa,
Chuyện Nay” của Quảng Thiện, trong đó có câu:
“Yêu nước vốn
là bổn phận thiêng liêng của bất cứ người dân của một dân tộc nào. Vì
yêu nước nên giả sử có một cách nhìn, một chính kiến, một chính sách
khác đối lập với Nhà Nước cũng là chuyện bình thường. Tuy nhiên yêu
nước kiểu Trần Ích Tắc yêu cầu ngoại bang can thiệp vào nước mình là một
hành động không yêu nước chút nào, nếu không nói đó là hành động phản
quốc.”
Ngoài
ra cũng còn bài
'Vọng ngoại tắc ngu' của
Trần Đình Hoàng cũng nói lên
cùng một ý tưởng. Thảm thay, ở hải
ngoại không thiếu gì những Trần Ích Tắc thời đại như vậy. Sau đây xin
đơn cử vài sự kiện đậm mùi Trần Ích Tắc.
Những điều hoang tưởng vọng ngoại như
“Cha đã tiên phong góp phần giải phóng quê hương Cha, và tiếp đến sẽ
là quê hương chúng con” (Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng, trang 11),
hoặc “Ủy ban Nhân Quyền Quốc Tế cho rằng...” hay “Tổ Chức Ân
Xá Hoa Kỳ tố cáo rằng..”, “Dư luận cả thế giới và nhất là Quốc
Hội Mỹ đều tập trung xoáy vào điểm...” , hay ca tụng “Nghị Quyết
của Hạ Viện Mỹ”, “Luật về tự do tôn giáo thế giới của Mỹ”
v..v.. để ép Việt Nam, đều nói lên “lòng yêu nước” của Trần Ích Tắc,
đồng thời tỏ rõ sự yếu kém của những tổ chức tranh đấu hải ngoại, tự
mình không thể làm nên trò trống gì, cứ phải dựa hơi những tổ chức, cơ
quan ngoại quốc mà thực chất chẳng có ảnh hưởng gì trên quốc tế, nhất là
đối với các nước Á Đông.
Người ta đã tin tưởng vào vài lời
nói đãi bôi của vài nghị sĩ, dân biểu Mỹ cần kiếm phiếu, hay vài cái
nghị quyết chỉ có giá trị trên mặt giấy tờ của Hạ Viện Mỹ, hay đạo luật
về tự do tôn giáo thế giới (The International Religious Freedom Act) của
Quốc hội Mỹ, làm như Mỹ có toàn quyền thay đổi bộ mặt chính trị ở Việt
Nam bằng nghị quyết và đạo luật của Mỹ. Kết quả ra sao, chúng ta đã
thấy rõ. Chẳng có ai buồn quan tâm đến thực chất của những nghị quyết
hay đạo luật về tự do tôn giáo của Mỹ là như thế nào. Riêng về đạo
luật về tự do tôn giáo thì Giáo sư luật tại đại học Emory, Abdullahi
Ahmed An-Na'im, đã phê bình như sau: "Nhiều người nhớ lại những lời
hoa mỹ thiên Ki Tô trước đây và tin rằng Hoa Kỳ chỉ quan tâm đến sự hỗ
trợ các thừa sai Mỹ ở ngoại quốc." (Emory University law professor
Abdullahi Ahmed An-Na'im says many remember the early pro-Christian
rhetoric and believe the United States is only interested in aiding
American missionaries abroad.), và J. Paul Martin, Giám đốc trung tâm
nghiên cứu nhân quyền tại đại học Columbia còn đi xa hơn nữa. Ông nói:
"Ở các nước như Nga sô, Pháp, Bỉ, và Đức, nhiều người coi đạo luật về
tự do tôn giáo của quốc hội Hoa Kỳ là một phần của chủ nghĩa đế quốc
rộng lớn hơn của Mỹ" (J. Paul Martin, executive director of Columbia
University's Center for the study of Human Rights, goes further. In
such countries as Russia, France, Belgium, and Germany, he says, many
see Congress' action as "part of a larger American imperialism".) Nhưng
người Việt chống Cộng lại coi đạo luật này như là một khuôn vàng thước
ngọc có ảnh hưởng đến tình trạng tôn giáo ở Việt Nam, hay nói đúng hơn,
có ảnh hưởng đến vài vị lãnh đạo tôn giáo chống chính quyền ở Việt Nam.
Người ta cũng còn tin tưởng ở hiệu
quả của cái nghị quyết số 1481 mà nội dung là "Về sự cần thiết lên án
của quốc tế đối với tội ác của các chế độ cộng sản độc tài" của một
số nghị viên trong Quốc hội Âu Châu đưa ra, số nghị viên này quên cả sự
cần thiết lên án cái lịch sử đầy những tội ác vô tiền khoáng hậu của Âu
Châu đối với nhân loại. Theo Christopher Caldwell thì cái gọi là Quốc
Hội Âu Châu, có tổng hành dinh ở Strasbourg, thường bị chế nhạo là
“một tiệm phát ngôn vô hiệu quả và là nhà hưu trí cho những chính trị
gia không bao giờ có thể được bầu vào trong quốc hội ở những quốc gia
của họ.” [The European Union's 25-country parliament, which sits in
Strasbourg, is often ridiculed as a feckless talking shop and a
retirement home for politicians who could never get elected to their
national parliaments.]
Vô thượng thiên tài “mách bu” là Võ
Văn Ái: Chuyên viên ngụy tạo văn kiện, thông tin giả từ trong nước theo
đơn đặt hàng của NED để trình chủ và thế giới, từ đó kiếm được gần trăm
ngàn đô-la mỗi năm từ ông chủ NED. Những Trần Ích Tắc thời đại cũng còn
thành lập phái đoàn nọ kia đến xin với Thủ Tướng Úc John Howard và Tổng
Thống Bush của Mỹ để làm áp lực với Nhà Nước khi đến Việt Nam tham dự
Hội Nghị APEC. Nhưng kết quả ra sao thì ai cũng biết. Bush và Howard
không coi các Trần Ích Tắc vào đâu, và đặc biệt, Mỹ đã bỏ Việt Nam ra
khỏi danh sách những nước cần quan tâm về vấn đề tự do tôn giáo. Bây giờ
họ bèn quay ra lên án Bush là đã phản bội, không ủng hộ họ, không làm
theo ý họ, mà không hiểu rằng kẻ phản bội [quốc gia của họ] chính là họ,
chứ không phải là Bush. Họ tự coi mình là những nhân vật quan trọng mà
không hiểu rằng Bush không hề coi họ là cái gì. Thật vậy, họ có cái gì?
trí tuệ, uy tín, hậu thuẫn của quần chúng? v..v.. đáng để cho Bush phải
quan tâm đến. Thật ra thì Mỹ có bỏ hay không bỏ cũng chẳng nhằm nhò gì,
vì đáng quan tâm hay không đáng quan tâm thì Mỹ cũng chỉ lập danh sách
đó với tính cách giai đoạn chính trị và kinh tế mà thôi. Những người
chống Cộng cực đoan hầu như đều có đầu óc của những con bò mộng Tây Ban
Nha, cứ thấy màu đỏ là húc, chẳng còn biết trời đất nào nữa. Khi ngoại
trưởng Condoleezza Rice tuyên bố một câu có ý khen tặng sự tiến bộ của
Việt Nam là “Bắc Hàn và Myanmar nên thay đổi, lấy Việt Nam làm một bài
học mà bắt chước” thì những người Việt Nam có tinh thần dân tộc đều
thấy đó làm niềm hãnh diện. Nhưng đối với những người chống Cộng đến
chiều thì lại khác, họ lên án bà Rice là thiển cận. Họ không biết rằng
Bắc Hàn còn đóng kín không mở cửa đi vào cộng đồng thế giới như Việt Nam
(Hội Nghị APEC đã chứng tỏ như vậy), và Myanmar là một chế độ quân
phiệt, xã hội hỗn loạn, không ổn định như Việt Nam. Họ thất vọng vì bà
Rice không lên án Cộng Sản Việt Nam như họ mong muốn. Họ chống Cộng với
quan điểm rất thiển cận: sự tự do của một số người chống đối chính quyền
là sự tự do của cả dân tộc, và vài chức sắc tôn giáo chính là tôn giáo.
Còn nữa, những nhà dân chủ đến Tòa Đại Sứ Mỹ uống sâm banh không có một
khái niệm nào về chính trị của Mỹ, cứ tưởng Mỹ gọi mình đến cho uống sâm
banh là hết lòng ủng hộ sát cánh với mình trong cuộc đấu tranh cho dân
chủ của mình, không biết rằng Mỹ chỉ dùng mình như cái bàn đạp trong
những cuộc thương thuyết về kinh tế với Việt Nam. Kinh nghiệm Mỹ dùng
Diệm Thiệu khi xưa không làm mở mắt những người vẫn còn thích đi làm đầy
tớ.
Vì không hiểu rõ tinh thần dân tộc
của người dân Việt Nam, không nghiên cứu về thực chất của vấn đề nhân
quyền và tự do tôn giáo, không biết rằng Mỹ cũng là nước vi phạm nhân
quyền vào bậc nhất trong cộng đồng quốc tế, không thuộc lịch sử Việt
Nam, yếu kém về chính trị, và không rõ chính sách đối ngoại của Mỹ
v..v.. cho nên tới bây giờ mà vẫn còn những tổ chức chính trị, lực lượng
tôn giáo đi “mách bu” mong rằng “bu” sẽ can thiệp vào nội bộ Việt Nam.
Thật là đáng buồn. Thử nghĩ xem Việt Nam có người nào tôn sùng những
thứ người như Trần Ích Tắc hay Lê Chiêu Thống? Những Trần Ích Tắc thời
đại không những thiếu hiểu biết về chính trường quốc tế, lại cũng không
biết rằng đã từ lâu Á Đông không chấp nhận quan niệm về nhân quyền của
Tây phương, vì ngoài những bất đồng về văn hóa, xã hội, nhân sinh v..v..
giữa những nền văn minh khác nhau, Á Đông còn coi sách lược lưỡng chuẩn
(double standard) về nhân quyền của Tây phương như là một sự áp đặt để
đạt những mục đích kinh tế, tôn giáo. Tây phương, với bản chất đế quốc,
chưa bao giờ tôn trọng nhân quyền ở các nơi khác trên thế giới. Noam
Chomsky, một học giả lừng danh của Mỹ, đã viết rõ:
“Thật ra chính sách ngoại giao của
Mỹ là đặt căn bản trên nguyên tắc không liên quan gì đến nhân quyền, mà
là liên quan nhiều đến sự tạo ra một bầu không khí thuận lợi cho ngoại
thương” (James Speck, Editor, The Chomsky Reader, p. 331:
U.S. foreign policy is in fact based on the principle that human rights
are irrelevant, but that improving the climate for foreign business
operations is highly relevant.)
Mơ tưởng ở sự hữu hiệu của chiến
thuật “mách bu”, giới chống Cộng bây giờ mới ngã ngửa người ra thất
vọng, và các nhà bình luận nổi tiếng là bình luận láo trên các diễn đàn
truyền thông hải ngoại, đã quay ra bình luận tiêu cực về chuyến đi Việt
Nam của ông Bush. Trước kinh nghiệm này, không hiểu họ đã chịu mở mắt
ra chưa hay vẫn còn hi vọng vào Hạ Viện Mỹ, Dân Biểu Mỹ, Quốc Hội Mỹ,
Quốc Hội Âu Châu hay vào vài cái nghị quyết, đạo luật ấm ớ mà thực chất
chẳng có tác dụng là bao nhiêu.
Bây giờ tôi xin sang đến vấn đề cá
nhân: chống hay không chống Cộng? Tôi không ngần ngại mà khẳng định một
điều: “Tôi không chống Cộng”. Tại sao? Tôi có bổn phận phải giải thích
cho bất cứ ai là tại sao không? Tuyệt đối là không. Nhưng đã viết về
chống hay không chống thì có lẽ tôi cũng nên có vài nhận xét về chủ đề
này. Trước hết, chúng ta cần phải nhận rõ một điều: “không chống Cộng”
và “là Cộng” là hai điều hoàn toàn khác nhau. Hai chữ “Cộng Sản” thực
ra chỉ là cái mũ của những người không đủ khả năng thảo luận trên các
chủ đề, hoặc không thể chấp nhận những quan điểm khác với quan điểm
chống Cộng của mình.
Như trên đã nói, ở Mỹ trong mấy chục
năm, tôi đã có cơ hội đọc rất nhiều sách về cuộc chiến tranh Việt Nam,
về Phật Giáo, và về Ki Tô Giáo, và điều này đã làm tôi thay đổi tư duy
rất nhiều về thực chất của cuộc chiến cũng như thực chất của hai tôn
giáo lớn ở Việt Nam: Phật Giáo và Công Giáo.
Thứ nhất, về cuộc chiến chống Pháp
trở lại Đông Dương thì không có gì đáng nói, vì cuộc chiến đó hầu như là
của toàn dân, trừ số người đã phục vụ cho Pháp, trong đó có tôi, vì hoàn
cảnh đã đưa đẩy tôi phải nhập trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định, và sau đó
phục vụ trong quân đội Quốc Gia, dưới cái dù của quân đội Pháp, và sau
này, trong QLVNCH.. Có đáng nói hay không là kết quả đã đưa đến Hiệp
Định Genève.
Một luận điệu bóp méo lịch sử thường
thấy ở hải ngoại là: “Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam”, hay
“Cộng sản xâm lược miền Nam”. Những lời nói vô trí này đặt trên giả
định là hai miền Nam Bắc là hai quốc gia riêng biệt, độc lập. Muốn biết
những luận điệu này có khớp hay không, chúng ta cần trở lại vài điều
khoản chính yếu trong Hiệp Định Genève. Hiệp định Genève có hai phần:
phần “Thỏa Hiệp” và phần “Tuyên Ngôn cuối cùng” [Final Declaration]
Phần “Thỏa Hiệp...”, gồm 47 điều
khoản, được ký kết giữa Tướng Pháp Henri Delteil, Quyền Tổng Tư Lệnh Lực
Lượng Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương, và ông Tạ Quang Bửu, Thứ Trưởng Quốc
Phòng của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Có vài điều khoản chính như sau:
Điều khoản 1 (Article 1) nói về sự
thiết lập “một đường ranh giới quân sự tạm thời” (A
provisional military demarcation line) [Vĩ tuyến 17] để quân đội
hai bên rút quân về: Lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam ở phía Bắc, và
lực lượng Liên Hiệp Pháp (French Union) ở phía Nam làn ranh giới.
Điều khoản 8 ấn định quyền kiểm
soát hành chánh ở phía Bắc Vĩ Tuyến 17 thuộc Việt Minh và ở phía Nam
thuộc Pháp (Civil administration in the regroupment zone to the
North of the 17th parallel was to be in the hands of the
Vietminh, and the area to the South of the parallel was to be in the
hands of the French)
Điều khoản 14, đoạn (a) [Article 14,
Paragraph (a)] viết rõ: “Trong khi chờ đợi cuộc Tổng Tuyển Cử để
Thống Nhất Việt Nam, quyền hành chánh dân sự trong mỗi vùng rút quân nằm
trong tay các phe có quân đội rút quân (nghĩa là Pháp và Việt Minh) theo
tinh thần của bản Thỏa Hiệp.” (Pending the general elections
which will bring about the Unification of Vietnam, the conduct of civil
administration in each regrouping zone shall be in the hands of the
party whose forces are to be regrouped there in virtue of the present
Agreement).
Bản “Tuyên Ngôn...” gồm 13 đoạn, liên
quan đến cả Cambod và Lào, có một đoạn đáng để ý:
Đoạn (6) [Paragraph (6)] nguyên văn
như sau:
“Hội
Nghị nhận thức rằng mục đích chính yếu của Thỏa Hiệp về Việt Nam là dàn
xếp những vấn đề quân sự trên quan điểm chấm dứt những đối nghịch quân
sự và rằng ĐƯỜNG RANH GIỚI QUÂN SỰ LÀ TẠM THỜI VÀ KHÔNG THỂ DIỄN GIẢI
BẤT CỨ BẰNG CÁCH NÀO ĐÓ LÀ MỘT BIÊN GIỚI PHÂN ĐỊNH VỀ CHÍNH TRỊ HAY ĐẤT
ĐAI . Hội Nghị bày tỏ sự tin tưởng là thi hành những điều khoản trong
bản Tuyên Ngôn này và trong Thỏa Hiệp ngưng chiến sẽ tạo nên căn bản cần
thiết để trong tương lai gần đạt tới một sự dàn xếp chính trị ở Việt
Nam”
(The Conference recognizes that the
essential purpose of the Agreement relating to Vietnam is to settle
military questions with a view to ending hostilities and that THE
MILITARY DEMARCATION LINE IS PROVISIONAL AND SHOULD NOT IN ANY WAY BE
INTERPRETED AS CONSTITUING A POLITICAL OR TERITORIAL BOUNDARY. The
Conference expresses its conviction that the execution of the provisions
set out in the present Declaration and in the Agrrement on the cessation
of hostilities creates the necessary basis for the achievement in the
near future of a political settlement in Vietnam.)
Qua những văn kiện lịch sử này, chúng
ta thấy rõ là “Việt Nam Quốc Gia” vốn nằm dưới cái dù của Pháp, và phải
thi hành Hiệp định Genève dưới cái dù của Pháp. Nhưng khi Mỹ, dùng
cường quyền thắng công lý, nhảy vào thay thế Pháp, đưa con cờ “Công Giáo
chống Cộng” Ngô Đình Diệm về [Xin đọc bài “Vài Nét Về “Cụ Diệm”
trên giaodiemonline.com], dựng lên miền Nam, sống vì viện trợ Mỹ, chịu
sự sai khiến của Mỹ, chạy làng không chịu thi hành cuộc Tổng Tuyển Cử
vào năm 1956, và cưỡng ép người dân phải chấp nhận một sự phân chia hai
miền độc lập, phản bội điều khoản: “ĐƯỜNG
RANH GIỚI QUÂN SỰ LÀ TẠM THỜI VÀ KHÔNG THỂ DIỄN GIẢI BẤT CỨ BẰNG CÁCH
NÀO ĐÓ LÀ MỘT BIÊN GIỚI PHÂN ĐỊNH VỀ CHÍNH TRỊ HAY ĐẤT ĐAI”
trong Hiệp định Genève. Đây là những sự kiện lịch sử. Ai có thể
phủ bác được xin lên tiếng.
Nói tóm lại, không làm gì có chuyện
chia nước Việt Nam thành hai miền độc lập về chính trị và quân sự.
Huyền thoại về một miền Nam độc lập như một quốc gia riêng biệt chỉ là
sản phẩm do Mỹ dùng cường quyền thắng công lý tạo ra về sau, tuy trong
bản Tuyên Ngôn Đơn Phương (Unilateral Declaration) của Mỹ về Hội Nghị
Genève, Mỹ không bao giờ nói đến “Nam” hay “Bắc” mà chỉ nói đến một nước
Việt Nam (Kahin & Lewis: Nowhere in its unilateral declaration did
the US speak of a “South” or “North” Vietnam. Every reference of the
American representative was to a SINGLE VIETNAM.). Ngoài ra Mỹ cũng
đã hứa sẽ không đe dọa hoặc can thiệp bằng võ lực vào việc thống nhất
đất nước qua cuộc Tổng Tuyển Cử năm 1956. Thật vậy, Thứ Trưởng Ngoại
Giao Mỹ, Walter Bedell Smith xác định trong bản Tuyên Ngôn tại
Washington D.C. như sau:
“Trong trường hợp những quốc
gia nay bị chia đôi ngoài ý muốn, chúng ta sẽ tiếp tục tìm kiếm giải
pháp thống nhất qua bầu cử tự do, giám sát bởi Liên Hiệp Quốc để bảo đảm
là bầu cử được thi hành nghiêm chỉnh” và “Hoa Kỳ sẽ tự kiềm chế, không
đe dọa hay dùng võ lực để phá những sự Thỏa Hiệp”
(In the case of nations divided
against their will, we shall continue to seek to achieve unity through
free elections, supervised by the United Nations to ensure that they are
conducted fairly... The US will refrain from the threat or the use of
force to disturb them)
Trong cuốn The United States In
Vietnam: An Analysis In Depth Of The History Of America’s Involvement In
Vietnam, hai Giáo sư đại học Cornell, George McTurnan Kahin và John
W. Lewis, viết, trang 59:
“Tuy Hoa Kỳ nói rằng “sẽ tự
kiềm chế, không đe dọa hay dùng võ lực để phá những sự Thỏa Hiệp” nhưng
điều hiển nhiên chúng ta thấy ngay sau đó là Hoa Kỳ đã sửa soạn dùng mọi
phương cách khác để ủng hộ chế độ Saigon [do Mỹ dựng lên] trong
việc không tôn trọng những điều khoản trong Thỏa Hiệp”
(Though the US said it would
“refrain from the threat or the use of force to disturb” the agreements,
it soon become evident that it was prepared to use every other means to
back up the Saigon regime in its departure from their central
provisions).
[Tưởng
chúng ta không nên quên là ngay từ sau Hiệp Định đình chiến 1954, Mỹ đã
gửi Lansdale ra ngoài Bắc để phá hoại, tuyên truyền, và cổ võ giáo dân
Công giáo di cư vào Nam làm hậu thuẫn cho Ngô Đình Diệm với những khẩu
hiệu như “Chúa đã vào Nam” và “Đức Mẹ đã bỏ miền Bắc vào Nam” v..v.. để
dụ đám giáo dân thấp kém. Vì vậy hơn 800 ngàn Giáo dân Công Giáo đã ào
ào kéo vào Nam, không buồn để ý đến chuyện những khẩu hiệu lố bịch trên
đã chứng tỏ là nếu tin như vậy thì thành ra Ông Mác đã đuổi Chúa và Đức
Mẹ chạy từ Bắc vào Nam, tuy rằng Chúa và Đức Mẹ đều là những bậc toàn
năng, toàn trí, quyền phép vô cùng, làm gì cũng được, cùng lúc chứng
minh trình độ và ý thức tôn giáo của giáo dân Công giáo Việt Nam. Thật
là tội nghiệp cho đầu óc của họ.]
Hãy để tâm suy nghĩ một chút. Việt
Minh động viên người dân, tốn bao xương máu trong cuộc kháng chiến chống
Pháp, cuối cùng đi đến chiến thắng Điện Biên Phủ, chấm dứt nền đô hộ của
thực dân Pháp, thu hồi độc lập cho đất nước, phải chăng chỉ để chia nước
Việt Nam thành hai miền riêng biệt, để cho miền Nam trù phú thóc gạo,
lâm, ngư sản thuộc quyền những kẻ không hề có một công trạng gì với đất
nước như Ngô Đình Diệm, một người thuộc dòng họ Tam Đại Việt Gian như
Giáo sư sử Nguyễn Mạnh Quang đã chứng minh, và nằm yên trong vài Trường
Dòng Công Giáo ở ngoại quốc trong khi đa số người dân đang kháng chiến
chống Pháp và một số nhỏ hơn đang chiến đấu cho cái mà họ tin là lý
tưởng quốc gia? Nếu không tin ở giải pháp chính trị để tiết kiệm xương
máu người dân thay vì theo đuổi giải pháp quân sự, là đất nước sẽ thống
nhất qua cuộc Tổng Tuyển Cử vào năm 1956 theo quy định của Hiệp định
Genève thì Việt Minh có chịu ký Hiệp định Genève không khi đang thắng
thế. Thống nhất đất nước là mục tiêu tối hậu không thể thay đổi của
Việt Minh và rất hợp với lòng dân, với truyền thống dân tộc, và xóa bỏ
chính sách chia Việt Nam làm ba Kỳ để trị của Pháp.. Nhưng Mỹ đã vì
những quan niệm chính trị sai lầm về chính trị nên đã dùng miền Nam làm
tiền đồn chống Cộng cho Mỹ, vi phạm Hiệp định Genève, và đưa Việt Nam
vào một cuộc chiến tàn khốc vô ích vì kết cục không thay đổi: Việt Nam
vẫn đi đến thống nhất dù bắt buộc phải dùng đến giải pháp quân sự.
Người Đại Hàn rất ngưỡng mộ Việt Nam vì họ không biết đường nào để đi
đến thống nhất đất nước của họ, tuy muốn.
Tôi vẫn thường thắc mắc: “Miền Nam
có hơn một triệu quân, một thời cộng với hơn nửa triệu quân Mỹ, với đầy
đủ vũ khí, đạn dược, và có ưu thế tuyệt đối về máy bay, xe tăng, tàu
chiến, B52, và cả thuốc khai quang Agent Orange để cho Việt Cộng không
còn chỗ ẩn núp v..v.. nhưng tại sao vẫn không thắng nổi đối phương để
rồi Mỹ phải tìm cách Việt Nam hóa cuộc chiến, “rút lui trong danh dự”,
và cuối cùng Việt Cộng vẫn “cưỡng chiếm” được miền Nam? Vậy ngoài yếu
tố quân sự, những yếu tố nào đã quyết định cuộc chiến? Phải chăng là
lòng yêu nước? Chính Nghĩa? Hợp với lòng dân và được dân ủng hộ? Ý
chí chiến đấu của binh sĩ? Khả năng chỉ huy của các cấp lãnh đạo? Và
còn gì nữa? Vậy luận cứ “Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam” ở hải ngoại có
một giá trị trí thức nào không hay chỉ là nói để mà nói mà không biết
mình nói cái gì.
Chuyện Mỹ “rút lui trong danh dự” ra
khỏi miền Nam, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam, nhìn qua lăng kính lịch
sử thì không lấy gì làm lạ. Tại sao? Vì bản chất cuộc chiến hậu Genève
ở Việt Nam là cuộc chiến chống xâm lăng và thống nhất đất nước, và Việt
Nam có truyền thống chống xâm lăng rất kiên trì và chịu đựng mọi hi
sinh. Nhưng mà ai xâm lăng? Chúng ta hãy đọc vài tài liệu của Mỹ trong
số hàng trăm tài liệu khác:
Daniel
Ellsberg trong cuốn Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon
Papers, Viking, 2002, p.255, viết: Theo tinh thần Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà chúng ta công khai thừa
nhận, đó là một cuộc ngoại xâm, sự xâm lăng của Mỹ. (In terms
of the UN Charter and our own avowed ideals, it was a war of foreign
agression, American aggression.);
và John Carlos Rowe and Rick
Berg viết trong cuốn Chiến Tranh Việt Nam Và Văn Hóa Mỹ (The
Vietnam War and American Culture, Columbia University Press, New York,
1991), cũng viết, trang 28-29: Cho tới năm 1982 – sau nhiều
năm tuyên truyền liên tục mà hầu như không có tiếng nói chống đối nào
được phép đến với đại chúng – trên 70% dân chúng vẫn coi cuộc chiến (ở
Việt Nam) “căn bản là sai lầm và phi đạo đức”, chứ không chỉ là
“một lỗi lầm.”…Nói ngắn gọn, Mỹ xâm lăng Nam Việt Nam, ở đó Mỹ đã
tiến tới việc làm ngơ tội ác xâm lăng với nhiều tội ác khủng khiếp chống
nhân lọại trên khắp Đông Dương. (As late as 1982 – after years
of unremitting propaganda with virtually no dissenting voice permitted
expression to a large audience – over 70% of the general population (but
far fewer “opinion leaders”) still regarded the war as “fundamentally
wrong and immoral,’ not merely “a mistake”.. In short, the US invaded
South Vietnam, where it proceeded to compound the crime of aggression
with numerous and quite appalling crimes against humanity throughout
Indochina.)
Bây giờ chúng ta hãy nhìn vào những
con số tổn thất trong cuộc chiến do Mỹ gây nên vì chính trị sai lầm như
nhiều chính khách và học giả Mỹ đã thú nhận và nhận định.
-
Mỹ: Chết 57,702; bị thương 313,616, cộng với
hơn 1,000 chết không phải do chiến trận.
-
Nam Việt Nam: Chết 185,528; bị thương
499,026.
-
Bắc Việt: Chết 924,048; số bị thương ước tính
ít nhất gấp đôi.
-
Cả hai miền: 415,000 thường dân chết; 936,000
bị thương.
-
Trên 10 triệu tấn bom đã thả xuống Việt Nam,
Cam bốt, và Lào (vào khoảng gấp hơn 2 lần tấn bom mọi phe dùng trong đệ
nhị Thế Chiến.)
-
Mỹ cũng đã trải trên đất nước Việt Nam
76,954,806 lít hóa chất trong đó có 49,268,937 lít
chất độc màu da cam (Nguyễn Văn
Tuấn, Chất Độc Màu Da Cam Và Cuộc Chiến Việt Nam,
Giao Điểm 2005, trang 52).
Chúng
ta hãy tự đặt cho mình một câu hỏi, với những con số tổn thất như vậy,
bên nào bị nặng hơn, và nếu cần phải thù hận thì bên nào sẽ thù hận
hơn. Nhưng trên thực tế, chúng ta chỉ thấy những thái độ thù hận một
chiều, đúng ra là ngược chiều, từ phía những người quốc gia ở hải
ngoại. Có vẻ như những người đi buôn thù hận này nghĩ rằng, những người
bên phía CS không phải là người, không có cha mẹ, vợ chồng con cái, bạn
bè thân thuộc v..v.. nên những mất mát tổn thất của họ không đáng kể,
chỉ có những tổn thất của phía chúng ta mới đáng để thù hận. Có vẻ như
những người chống Cộng một chiều này nghĩ rằng trong cuộc chiến chỉ có
CS là ác, còn QG hay Mỹ thì không. Họ lầm to, họ không biết gì về những
hành động đối với dân, với kẻ thù của người lính Quốc Gia cũng như của
người lính Mỹ.
Cộng Sản có Đặng Thùy Trâm. Chúng ta
có ai? Chúng ta đã thua CS về quân sự, nay chúng ta lại thua về tình
người, vì ở trong nước, dư luận có luận điệu thù hận phe quốc gia thật
là hiếm hoi. Nhưng cũng may, những tổ chức CCCĐ, CCCB, CCCC ở ngoại
quốc chung quy chỉ là những tổ chức của đám người hoặc mất gốc, hoặc đã
phi dân tộc thì thể nào cũng phản bội dân tộc, đang nắm những phương
tiện truyền thông ở hải ngoại nhưng thiếu khả năng, thiếu trí tuệ và
giáo dục, nên chỉ có thể đưa ra những hành động chống Cộng phi lý làm
nhục lây đến cả cộng đồng người Việt di cư như rủ nhau đi biểu tình
chống phá Expo, triển lãm tranh ảnh, văn nghệ của Việt Nam, chống phá
phái đoàn các em học sinh về Việt Nam nghiên cứu trao đổi văn hóa
v..v... Tuyệt đại đa số người Việt di cư đã bỏ lại đàng sau quá
khứ, hướng về tương lai của dân tộc, bằng chứng là mỗi năm có hàng trăm
ngàn “Việt kiều” về thăm quê hương, trong số đó không thiếu gì những
người khi xưa đã giữ những chức vị cao cấp ở miền Nam.
Phải chăng vì vậy mà, Phật Giáo, vốn
là tôn giáo của dân tộc, đang sửa soạn đi một bước đi ngoạn mục đầy tình
người, đầy tinh thần Phật Giáo, đầy tinh thần dân tộc, mà đáng lẽ chính
quyền Việt Nam đã phải thực hiện từ lâu rồi: Phối hợp Phật Giáo trong
và ngoài nước, trong tương lai gần, Phật Giáo Việt Nam sẽ tổ chức
ba Đại Trai Đàn Chẩn Tế Giải Oan, một tại Sài Gòn, một tại
Huế và một tại Hà Nội, để cầu nguyện và giải trừ oan khổ cho tất cả
những ai đã từng gánh chịu hậu quả khắc nghiệt của cuộc chiến tranh, dù
đã qua đời hay còn tại thế. Các Đại Trai Đàn này có tên là Thủy Lục
Giải Oan Bình Đẳng Cứu Bạt Trai Đàn. Oan khổ là tất cả
những bất hạnh xảy ra ngoài ý muốn và không đáng xảy ra.
Quan điểm của Phật Giáo về việc tổ
chức Đại Trai Đàn Chẩn Tế Giải Oan được trình bày qua vài đoạn
sau trong bản Phổ Cáo Cùng Đồng Bào trong Và Ngoài Nước:
“Quý đồng bào và liệt vị Phật tử
chắc cũng thấy như chúng tôi rằng muốn có một tương lai cho đất nước
và quê hương, chúng ta phải có khả năng nắm tay nhau cùng đi trong tình
huynh đệ và nghĩa đồng bào. Điều này chỉ có thể thực hiện một khi ta
chấp nhận được nhau và tha thứ cho nhau, và vì thế chữa lành thương tích
trong lòng người, nói lên được niềm đau nỗi khổ và những oan khuất lâu
nay là một điều thiết yếu. Đại Trai Đàn Chẩn tế Giải Oan là để làm
công việc ấy. Tại Đại Trai Đàn, chúng ta tới với nhau, nhìn nhận nhau
như anh chị em ruột thịt một nhà, chúng ta cầu nguyện cho tất cả những
người thân đã từng chết đi một cách oan ức…Ta sẽ có dịp khóc cho tất cả
các đồng bào và thân nhân xấu số của ta …Đồng bào ta từ giới lão
trượng đến giới trung niên và thiếu niên, ai cũng có tâm yêu nước thương
nòi, ai cũng ao ước đấu tranh cho nền độc lập, tự do, thống nhất và hòa
bình cho đất nước; nhưng khi đất nước bị đặt vào một hoàn cảnh khó xử,
nhiều người trong chúng ta đã phải đối đầu với nhau và trở nên nạn nhân
của một cuộc đấu tranh khắc nghiệt và lâu dài. Nhiều người trong chúng
ta đã phải trải qua những hoàn cảnh cực kỳ bi thương, thê thảm, đọa đày,
nỗi oan ức chưa bao giờ được biết tới... Nay đất nước đã được thống
nhất, hòa bình đã được tái lập, chúng ta có dịp trở về với nhau, nắm tay
nhau, chấp nhận nhau để cùng cầu nguyện cho nhau, cho những người đã
khuất và những người còn đang tiếp tục gánh chịu oan nghiệt, và để tất
cả cùng có cơ hội chữa lành những vết thương rướm máu lâu ngày chưa
lành. Các Đại Trai Đàn Chẩn Tế Giải Oan là một trong những hình thức
thực tập chữa trị thương tích, nối kết lại tình đồng bào ruột thịt, và
làm vơi đi những oan khổ uất ức đã được chứa chất lâu nay.
Chúng tôi biết, tổ chức những Đại
Trai Đàn như vậy không phải là một chuyện dễ. Sẽ có những người đồng bào
không đồng ý với công việc này. Có thể vì đã từng bị mất mát khổ đau và
thiệt thòi quá nhiều trong quá khứ hoặc vì còn sợ hãi không dám nhìn
nhận nỗi đau thương vẫn còn chôn kín ở đáy lòng mình và ở đáy lòng những
người đồng bào mình, cho nên các vị ấy chưa mở trái tim của mình ra
được. Tuy nhiên, trái tim của đại đa số đồng bào ta hiện tại đã mở ra
trên chiều hướng tha thứ, chấp nhận; hầu hết đều ước ao có cơ hội chữa
lành những thương tích rướm máu còn lại trong tâm hồn. Vì nhận thấy
được điều đó nên chúng tôi đã dám đứng ra làm công việc Phật sự này.”
Vậy đến bao giờ số người nhỏ
nhoi, sống với dĩ vãng, nuôi dưỡng thù hận, đi ngược thời gian mới có
thể mở được trái tim ra, mở để mà thấy kéo dài sự thù hận là một điều
phi lý, vì tất cả chúng ta đều là nạn nhân của một cuộc chiến không ai
muốn, là nạn nhân của một hoàn cảnh lịch sử về chính trị và xã hội của
một nước nhỏ, một hoàn cảnh đã vượt ra khỏi vòng kiểm soát của quốc gia
chúng ta, vì các cường quốc đã dùng cường quyền thắng công lý để can
thiệp vào chuyện nội bộ của nước ta, và bỏ đi tâm cảnh “mách bu”, trông
ngóng ở sự can thiệp của nước ngoài vào chủ quyền Việt Nam.. Những bài
tường trình về các chuyến về quê của nhiều tác giả, đặc biệt là của Lý
Thái Xuân, Nguyễn Mạnh Quang gần đây, cho thấy đất nước đã khác xưa và
mở mang tiến bộ rất nhiều về mọi mặt, kể cả về mặt tình người, trái hẳn
với những hình ảnh đen tối mà nhiều báo chí hay diễn đàn truyền thông ở
hải ngoại thường mô tả. Những người về thăm quê, mấy trăm ngàn người
một năm, tất nhiên phải thấy rõ tình trạng đất nước ngày nay ra sao. Ai
có thể lừa dối họ bằng những luận điệu xuyên tạc bịa đặt vô căn cứ.
31 năm qua rồi, ngày nay, hơn 60%
người dân Việt Nam sinh sau 1975, tại sao chúng ta cứ còn đầu độc lớp
trẻ bằng những hận thù của lớp trước. Ra công xuyên tạc, mạ lỵ những
người lãnh đạo đảng Cộng Sản bằng những ngôn từ hạ cấp không làm thay
đổi được một sự kiện lịch sử là chính người Cộng Sản đã thành công huy
động được dân chúng đánh đuổi thực dân Pháp và rồi thực hiện được thống
nhất đất nước, phù hợp với sự mong ước của tuyệt đại đa số người dân
Việt. Ai không muốn cho đất nước thống nhất, Trung Nam Bắc là một, xin
hãy lên tiếng. Hay là chỉ có thể thống nhất dưới bóng đen của cây thánh
giá? Có chăng chỉ là bọn người vẫn cho rằng “Việt Cộng cưỡng chiếm
miền Nam” hay sống trong tâm cảnh “Cha đã tiên phong góp phần
giải phóng quê hương Cha, và tiếp đến sẽ là quê hương chúng con”.
Thật là tội nghiệp cho những loại đầu óc như vậy của họ.
Các bài thời sự cùng tác giả
▪
22 Năm Giao Điểm: Trừ Tà - Hiển Chánh và Độ Sinh -
Trần Chung Ngọc
▪
Chủ Nghĩa Khủng Bố và Diệt Chủng -
Trần Chung Ngọc
▪
Cuốn Triumph Forsaken của Mark Moyar -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Người Máy Chống Cộng -
Trần Chung Ngọc
▪
Tại Sao Những Người Tin Chúa Lại Thù Ghét Những Người Vô Th -
Trần Chung Ngọc
▪
Tản Mạn về Chống Cộng -
Trần Chung Ngọc
▪
Ăn Cơm Quốc Gia Thờ Ma Cộng Sản - Một Câu Chữ Của Những Kẻ U Mê -
Trần Chung Ngọc
▪
ĐĐ Thích Nhật Từ và Các Xóm Đạo Washington D.C. -
Trần Chung Ngọc
▪
Đọc "Món Hàng Xuất Cảng Làm Chết Người Nhất Của Mỹ: DÂN CHỦ" -
Trần Chung Ngọc
▪
Avro Manhattan: Cơn Ác Mộng Của Một Quốc Gia -
Trần Chung Ngọc
▪
BA MƯƠI THÁNG TƯ VÀ TÔI TỪ KIẾN THỨC ĐẾN LẬP TRƯỜNG -
Trần Chung Ngọc
▪
Bang Giao "Bắc Kinh-Vatican" (?) Một Kinh Nghiệm Quý Giá Cho Việt Nam -
Trần Chung Ngọc
▪
Bang Giao Với Vatican? Bang Giao Như Thế Nào ?? -
Trần Chung Ngọc
▪
Công Nghiệp Cuối Cùng -
Vài Suy Tư Xung Quanh Sự Ra Đi Của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp -
Trần Chung Ngọc
▪
Cựu Tổng Thống Mỹ Jimmy Carter & Liên Hiệp Quốc Lên Án Mỹ Vi Phạm Quốc Tế Nhân Quyền -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Phịa Thời Sự: Tin Vịt Truyền Thông -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Thời Sự Về Bức Thư “Chê Chúa” Của Einstein -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Thời Sự - Về Bức Thư “Chê Chúa” Của Einstein -
Trần Chung Ngọc
▪
Kiến Thức 30/4 Qua Các Danh Nhân - Tại Sao Chúng Ta Thua ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Kiến Thức 30/4 Qua Các Danh Nhân - Tại Sao Chúng Ta Thua ? -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 ▪
>>>