|
06 tháng 6, 2010 |
Vài Lời
Đầu:
Trên thế giới
ngày nay có khoảng 6.3 tỷ người, trong đó có hơn 2/3 hoặc không biết đến
Chúa hoặc không tin Chúa của Ki Tô Giáo. Nhưng Ki Tô Giáo, nhất là Ca-tô
Rô-MaGiáo [Công giáo] lại đặc biệt thù ghét một lớp người nhỏ trong số người
“không tin Chúa” mà họ gọi là “vô thần”.
Đọc trên
Internet những bài viết của tín đồ Ca-tô Việt Nam chúng ta thấy họ luôn luôn
lên án vô thần, coi vô thần như là một điều không thể tha thứ trước Chúa của
họ. Họ luôn luôn coi Ca-tô Rô-MaGiáo của họ là thánh thiện, còn vô thần là
ma quỉ, là hiện thân của Satan [vốn là một sản phẩm tưởng tượng
của Ki Tô Giáo bày đặt ra để tự bảo vệ sự thánh thiện của Ki Tô Giáo, và
thuận tiện đổ lên đầu Satan tất cả những hành động vô luân, tàn bạo, ác ôn
của chính Ki Tô Giáo], nhất là khi họ kết hợp một cách vô cùng lếu láo
vô thần với Cộng sản. Đám con chiên này, kể cả các bậc được gọi là trí thức
Ca-tô, quả thực không biết gì về lịch sử, bản chất thực của Ca-tô
Rô-MaGiáo cũng như lịch sử của vô thần.
Trước khi
tìm hiểu tại sao những người tin Chúa của Ki Tô Giáo, nhất là những người
Ca-tô Rô-MaGiáo Việt Nam, lại ghét những người vô thần, chúng ta cần kể đến
hai tài liệu:
·
Tờ Newsweek số ngày 7 tháng 5, 2007 có viết về chuyện một Mục sư
tuyên úy phục vụ ở Iraq và nay trở về phục vụ trong Quân Y Viện Walter
Reed. Bài báo viết về cuốn Nhật Ký của Mục sư tuyên úy Roger Benimoff.
Những dòng cuối cùng trong Nhật Ký viết:
“Tôi
không muốn dính dáng gì đến Thiên Chúa. Tôi thật chán ngấy tôn giáo.
Đó là cặp nạng cho những kẻ yếu kém.. Chúng ta tạo ra Thiên Chúa cho những
gì chúng ta cần đến trong một lúc. Tôi thậm ghét Thiên Chúa. Tôi thậm ghét
tất cả những kẻ nào toan tính giảng giải về Thiên Chúa trong khi họ thực sự
không hiểu gì về Thiên Chúa” [1]
·
Cựu Thống Đốc Jesse Ventura của Bang Minnesota cũng đã từng phát biểu:
“KiTô giáo là một sự giả dối trống rỗng và
là một cặp nạng cho những người có đầu óc yếu kém cần đến sức mạnh của
số đông”
(Christianity
is a sham and a crutch for weak-minded people who need strength in numbers)
Thật là rõ ràng, Thiên Chúa của Ki Tô Giáo chính là cặp nạng cho những
người đầu óc yếu kém. Tâm lý người đời thường là ganh ghét vì mặc cảm
thua kém. Người nghèo ganh ghét người giầu. Người thất bại ganh ghét người
thành công. Người suốt đời phải cúi đầu theo “đức vâng lời” ganh ghét người
tự do tư tưởng, tự do suy tư v…v…. Tất nhiên người phải cần đến cặp nạng để
lê lết trên cuộc đời ganh ghét những người có thể tự mình bước đi những
bước chân vững vàng trên mặt đất. Đó có lẽ là lý do tâm lý mặc cảm, một
trong nhiều lý do mà người tin Chúa ghét người vô thần, trong khi thực ra
người vô thần chỉ muốn giúp những người tin Chúa vứt bỏ đi cặp nạng của mình
như trong câu chuyện sau đây của Robert G. Ingersoll:
Có một ông bác sĩ giải phẫu đến thăm một người tàn tật đáng thương
và đề nghị giúp anh ta trong khả năng của ông ta. Ông bác sĩ bắt đầu phân
tích về bản chất và nguồn gốc chứng tật của người kia, về những loại thuốc
có thể giúp anh ta, về sự lợi ích của tập luyện, của không khí trong lành và
ánh sáng, và nhiều điều khác có thể giúp chữa lành được chứng tật của người
kia. Tất cả những hành động này đều do thiện ý của một bác sĩ có những kiến
thức chính xác. Nhưng người kia hoảng sợ và kêu lên, “Tôi xin ông, đừng
lấy đi cặp nạng của tôi. Đó là cái tôi phải tựa vào, nếu không thì tôi sẽ
khốn khổ.” Ông bác sĩ giải phẫu nói: “Tôi không có lấy đi cặp
nạng của anh, tôi sẽ chữa lành cho anh, và rồi tự anh sẽ vứt bỏ cái cặp nạng
ấy đi.”
Câu van xin đừng lấy đi cái cặp nạng Thiên Chúa của
những người tin Chúa ở trên cũng là tâm cảnh của ông Thiện Ý trong bài:
“NHẬN
THỨC: TÔN GIÁO LÀ MỘT PHẠM TRÙ ĐỨC TIN VÀ LÀ MỘT DÂN QUYỀN HIẾN ĐỊNH CẦN
ĐƯỢC PHÁP LUẬT BẢO VỆ” (đăng ở
http://sachhiem.net/EMAILS/emailN/NguyethiThanh.php) mà nội dung chủ
trương tôn giáo là một phạm trù đức tin cho nên không ai có quyền xâm phạm,
và quốc gia cần phải có Pháp Luật để bảo vệ cái quyền mang cặp nạng Thiên
Chúa của Ki Tô Giáo nói chung. Nhưng trong mọi xã hội, đức tin tôn giáo
không chỉ thuần túy là đức tin trong cộng đồng những người có cùng một đức
tin, mà nó còn có ảnh hưởng đến mọi hình thái sinh hoạt của người dân và sự
ổn định trong xã hội. Do đó, trong những xã hội văn minh tiến bộ Âu Mỹ,
tôn giáo được coi như là một thành phần của xã hội, phải theo những quy luật
của xã hội, do đó chúng ta thấy tràn ngập những tác phẩm phê bình tôn
giáo, phê bình từ đức tin cho đến những hành động của tôn giáo bắt nguồn từ
đức tin đó.
Đấu Tố Giao Điểm - Không Một Chứng Minh
Mở đầu, ông Thiện Ý mở một màn đấu tố Giao Điểm kiểu chụp mũ xuyên tạc để
gây thù hận mà không đưa ra bất cứ một luận cứ nào để phản bác bất cứ bài
nào của Giao Điểm, nhất là không đưa ra bất cứ đoạn nào trong các bài trên
Giao Điểm để chứng minh cho những điều ông ta viết như sau mà mục đích
chỉ là vu khống để gây thù hận:
Không phải chỉ
mới đây mà đã từ lâu nhóm Giao Điểm, một nhóm qui tụ những người vô thần
đội lốt tôn giáo cực đoan, đã viết báo, viết sách và các phương tiện
truyền thông khác để phê bình chỉ trích, bài bác, đánh phá Giáo hội Công
Giáo nói riêng, Thiên Chúa Giáo nói chung, trên hai bình diện giáo lý tín
điều và lịch sử hình thành, phát triển giáo hội. Bằng những nhận thức và
suy luận chủ quan dựa trên những căn cứ giả chân lẫn lộn để ngụy biện, xuyên
tạc sự thật, xử dụng những ngôn từ thiếu văn hóa lăng mạ Thượng Đế và các
Thần Thánh mà hàng tỷ con người có chung niềm tin yêu tôn thờ, xúc phạm thô
bạo niềm tin tôn giáo cá nhân cũng như tập thể. Đồng thời, bằng mọi cách
gian trá, thậm từ mạ lỵ và phủ nhận công trạng
[sic] các
nhân vật lịch sử Việt Nam gốc Công giáo như Nguyễn Trường Tộ, Ngô Đình Diệm
(*) v.v…
(*) Về “Thực chất Nguyễn trường Tộ là Việt gian” xin đọc Bùi Kha.
Về “Ngô Đình Diệm thuộc giòng họ ba đời làm Việt gian” xin đọc Nguyễn Mạnh
Quang.
Vì ông
Thiện Ý chỉ viết vu vơ như trên, không cho độc giả biết những ai trong nhóm
Giao Điểm là vô thần đội lốt tôn giáo cực đoan, và tôn giáo
nào là tôn giáo cực đoan, cho nên những gì ông Thiện Ý viết vu vơ ở trên
đều vô giá trị. Chuyện rõ như ban ngày, cả thế giới đều biết, từ xưa tới
nay, hai tôn giáo cực đoan nhất chính là Ca-tô Rô-MaGiáo [Công giáo] và
Hồi Giáo, và các tín đồ tôn giáo mê tín và cuồng tín nhất cũng là tín đồ
Ca-tô và tín đồ Hồi giáo.
Vô Thần và Cộng Sản Không Phải Là Một
Đọc bài trên
và bài “Quyết định sai lầm của người đứng đầu nhà nước
Vatican đã gây hậu quả gì ?” (xem link
http://sachhiem.net/TONGIAO/tgTH/ThienY01.php) của ông Thiện Ý
về vụ việc ông “Tổng Kiệt nhục nhã” ra đi, tôi thấy ông
ta đúng là một
tín đồ Ca-tô mê tín và cuồng tín nhất hạng, cộng với một kiến thức có thể
nói là đặc thù Ca-tô, nếu có thể gọi đó là kiến thức, một kiến thức không
đội trời chung với sự tiến hóa của nhân loại cũng như với sự hiểu biết lịch
sử. Thời buổi này mà ông ta còn cho rằng Giáo hội Ca-tô là do chính Chúa
Giê-su thành lập và Giáo hoàng là đại diện của Chúa trên trần.
Ông ta không
bao giờ viết về Cộng sản không mà bao giờ cũng kèm theo từ vô thần. Trong
bài
Quyết
định sai lầm của người đứng đầu nhà nước Vatican đã gây hậu quả gì ?
dài độ hai trang, tôi đếm được ông ta dùng 16 lần cụm từ “nhà nước cộng
sản vô thần Việt Nam” chứng tỏ ông ta không biết thế nào là vô thần, và
kém đến độ không biết rằng viết như vậy thực sự là vinh danh, ca tụng Cộng
sản. Người Ca-tô, trí thức hay không, đều chống Cộng một cách mù quáng như
vậy cả. Họ nhắm mắt theo sách lược chống Cộng vô thần của Giáo hội ngày
nay,
đúng như nhận định của John Remsburg trong cuốn False Claims, trang
24:
Ngày nay
Giáo hội không còn giết được nữa vì không còn quyền lực để mà giết. Bó củi
(để thiêu sống người) và thanh gươm (để chém giết người) đã bị tước khỏi
những bàn tay đẫm máu của giáo hội, và ngày nay giáo hội chỉ còn lại hai
vũ khí: gây thù hận và vu khống. [2]
Khích động thù hận những người không tin Thiên Chúa
Gây thù hận là khích động con chiên thù hận và chống những người không tin
Thiên Chúa tuy rằng Thiên Chúa của Ca-tô Rô-Ma Giáo là một nhân vật mà Kinh
Thánh đã viết rõ, đúng như nhận định của Richard Dawkins như sau trong cuốn
“The God Delusion”, trang 51:
Không cần phải bàn cãi gì nữa, Thiên Chúa trong Cựu Ước là nhân vật xấu
xa đáng ghét nhất trong mọi chuyện giả tưởng: ghen tuông đố kỵ và
hãnh diện vì thế; một kẻ nhỏ nhen lặt vặt, bất công, có tính
đồng bóng tự cho là có quyền năng và bất khoan dung; một kẻ hay
trả thù; một kẻ khát máu diệt dân tộc khác; một kẻ ghét phái
nữ, sợ đồng giống luyến ái, kỳ thị chủng tộc, giết hại
trẻ con, chủ trương diệt chủng, dạy cha mẹ giết con cái,
độc hại như bệnh dịch, có bệnh tâm thần hoang tưởng về quyền lực,
của cải, và toàn năng [megalomaniacal], thích thú trong sự đau
đớn và những trò tàn ác, bạo dâm [sadomasochistic], là kẻ hiếp
đáp ác ôn thất thường. [3]
Trong bài
“Về Ba Ngôi Thiên Chúa - Một Khảo Luận Trong Ánh Sáng Của Thánh
Kinh Và Giáo Lý Công Giáo”
(http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/3NGOI/TCN72.php ) tôi đã trích dẫn
những đoạn trong Cựu Ước để chứng minh nhận định của Richard Dawkins như
trên là không sai.
Quyền tin vào một Thiên Chúa như trên là quyền của bất cứ ai, nhưng dựa vào
niềm tin đó để mà chống những người không tin Thiên Chúa, đó là chuyện trong
thời Trung Cổ. Còn vu khống là kết hợp Cộng sản với vô thần, một kết hợp
rất quái đản mà tôi sẽ chứng minh trong một phần sau.
Bảo vệ lịch sử đẫm máu và tàn ác của Giáo hội Ca-tô Rô-MaGiáo
Để bảo vệ cái lịch sử ô nhục, đẫm máu, tàn ác, bất nhân của Giáo hội
Ca-tô Rô-MaGiáo, ông Thiện Ý đưa ra một luận điệu phi trí thức, phản văn
hóa như sau:
Phạm
trù “Đức tin tôn giáo” là không thể và không nên tranh luận:
Chính
sự khác biệt giữ hai phạm trù “Tri thức” của khoa học và “Đức tin” của tôn
giáo, nên không thể và không nên có các cuộc tranh luận (về giáo lý, tín
điều…), dưới bất cứ hình thức nào (miệng hay bút chiến…) giữa những người
khác tôn giáo hay giữa những người hữu thần với vô thần…
Tại sao lại
không thể và không nên? Nếu không thể
và không nên thì thế giới làm gì có tiến bộ. Nếu không thể và không nên thì
nhân loại vẫn còn chìm đắm trong thời Trung Cổ, một thời đại mà các học giả
đã gọi là “thời đại của sự man rợ và đen tối trí thức” (The
ages of barbarous and intellectual darkness) của Ca-tô Rô-MaGiáo,
thời đại mà Ca-tô Rô-MaGiáo nắm quyền sinh sát trong tay cho nên đã gây ra
bao nhiêu thảm họa cho nhân loại qua các cuộc Thập Tự Chinh, các Tòa Hình Án
Xử Dị Giáo, các cuộc săn lùng, tra tấn và thiêu sống phù thủy v…v… trong vô
số các tội ác khác, những tội ác kéo dài từ đầu lịch sử Ca-tô Rô-MaGiáo cho
tới ngày nay, thế kỷ 21.. Ông Thiện Ý cũng không biết rằng, vì “có thể” và
“rất nên” nên những người vô thần trong những thời đại khai sáng, thời đại
phân tích v…v…, đã văn minh hóa Ca-tô Rô-MaGiáo, tước đi quyền lực của cái
tôn giáo đã một thời nắm quyền sinh sát trong tay.
Kỳ lạ thay,
chính Chúa Giê-su đã phán: “Sự thật sẽ cởi trói cho các ngươi” [The
truth will set you free], nhưng các tín đồ Ca-tô lại cứ luôn luôn sợ sự
thật, cứ bám vào những xiềng xích đang trói buộc mình, và cố gắng hết sức để
giữ lại cái cặp nạng Thiên Chúa.
Thiện ý
của Giao Điểm và Sách Hiếm là giải hoặc Ki Tô Giáo qua những
bài nghiên cứu nghiêm cẩn về Ki Tô Giáo, dựa trên những kiến thức chính xác
về Ki Tô Giáo của chính nhiều bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo cũng như của
hàng trăm học giả, chuyên gia nghiên cứu về Ki Tô Giáo, những kiến thức
không ai có thể phủ bác hay cho đó là sai lầm, những kiến thức mà tuyệt đa
số tín đồ Ki Tô Giáo hoặc không đủ trình độ để biết, hoặc bị giới chăn chiên
che dấu kỹ hay đe dọa không cho tiếp cận..
Nhưng đối với ông Thiện Ý thì những kiến thức này chỉ là “ngụy
biện, xuyên tạc sự thật, xử dụng những ngôn từ thiếu văn hóa lăng mạ Thượng
Đế”
hay “mạ lỵ
và phủ nhận công trạng [sic] các nhân vật lịch sử Việt Nam gốc Công
giáo như Nguyễn Trường Tộ, Ngô Đình Diệm v.v…”
Vì khoảng cách kiến thức về tôn giáo và lịch sử quá
sai biệt giữa những người Ca-tô và người trí thức ngoại đạo, nhất là giữa
những người tin Chúa và người vô thần, cho nên tranh luận đối thoại với
những người tin Chúa như ông Thiện Ý là chuyện mất thì giờ, vô ích. Trong
bài này tôi chỉ tìm hiểu tại sao những người tin Chúa lại thù ghét những
người vô thần.
-- ooOoo ---
Tại sao những người
tin Chúa lại thù ghét những người vô thần ?
Đầu óc của những người tin Chúa đã bị
điều kiện hoá và thuần hóa để hăng say chống Cộng vì họ được nhồi sọ Cộng
sản là vô thần trong khi họ hoàn toàn không hiểu thế nào là vô thần.
Người Cộng sản có thể là vô thần, nhưng người vô thần thì không nhất thiết
phải là Cộng sản. Nước Mỹ ngày nay có tới 12% – 14% tự coi là vô thần,
chẳng ai có thể bảo số người Mỹ này là vô thần Cộng sản !
Kết hợp Vô Thần với Cộng Sản là một thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc xảo
quyệt mà Ki Tô Giáo nói chung, đặc biệt là Ca-tô Rô-MaGiáo, dùng để gây hận
thù tôn giáo, mê hoặc đám tín đồ thấp kém mê tín và cuồng tín, trong sách
lược chống Cộng trước đây.
Sự
khai thác lòng sùng tín đượm màu mê tín của giáo dân chúng ta có thể thấy rõ
trong sách lược của Giáo hội ngụy tạo ra những màn hiện thân của bà Maria mà
điển hình là vụ “Đức mẹ Maria” hiện ra ở Fatima để trao cho 3 đứa trẻ mù chữ
những thông điệp chống Cộng gồm 3 điều bí mật: 1) Cảnh tượng của hỏa ngục;
2) tiên đoán Nga Sô sẽ cải đạo theo Ca-tô Rô-MaGiáo; và 3) một bí
mật không được tiết lộ cho đến năm 1960, nhưng tòa Thánh đã dấu kín cho
đến cuối thế kỷ 20, và khi John Paul II tiết lộ thì không ai biết đó có đúng
là điều giáo hội đã ngụy tạo ra trước hay là mới ngụy tạo ra, nhưng điều
chắc là, theo một số chuyên gia về Ca-tô giáo, thì điều “bí mật” sau cùng
này là điều giáo hội mới phịa ra để đánh bóng vai trò của John Paul II trước
tình trạng suy thoái hiện thời của giáo hội.
Sợ đen hơn đỏ.
Nhưng thực tế lịch sử thì sao? Chúng ta biết, đã có thời hầu hết các nước
theo Ki Tô Giáo “hữu thần” ở Âu Châu đã chịu ảnh hưởng không ít thì nhiều
của “Cộng Sản”: Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi, Ý, Nam Tư , Bồ Đào Nha, Tây
Ban Nha, Thụy Điển, Bỉ, Đan Mạch, một phần nước Đức, và ngay cả trưởng nữ
của giáo hội Ca-tô Rô-Ma: nước Pháp. Điển hình là ở Ba Lan, sau khi chế độ
Cộng sản sụp đổ, Ba Lan vẫn “sợ đen hơn đỏ”. Điều này chứng tỏ những
người theo Cộng Sản ở Âu Châu cũng như ở khắp nơi trên thế giới không hẳn là
Vô Thần.
Chúng ta cũng biết, giáo hoàng John Paul II đã tuyên bố chẳng làm gì có hỏa
ngục, hỏa ngục không phải là một nơi chốn trong lòng đất. Sự kiện này đã
chứng tỏ những lời mô tả hỏa ngục của Đức Mẹ ở Fatima là do giáo hội bày đặt
ra qua hoạt cảnh Fatima do giáo hội dàn dựng trước đây. Và chúng ta cũng đã
biết, chính quyền Nga đã ra đạo luật đặt Ca-tô Rô-MaGiáo ra ngoài vòng pháp
luật, cấm Ca-tô Rô-MaGiáo không cho truyền đạo trong nước, nên không làm gì
có chuyện Nga Sô cải đạo theo Ca-tô Rô-MaGiáo..
Phù thủy chế tạo những “phép lạ”
Những sự kiện lịch sử trên đã chứng tỏ rằng “Phép lạ Fatima” hay “phép lạ
Ca-tô” ở bất cứ đâu, như ở “La Vang” tại Việt Nam, chẳng hạn, chẳng qua
chỉ là những màn lừa bịp những người nhẹ dạ cả tin qua những trò bày đặt của
giáo hội hoặc để chống Cộng, hoặc để nuôi dưỡng lòng sùng tín Maria của giáo
dân, và nhất là để mang lại những lợi nhuận kinh tế. Thật vậy, những
điều bí mật và tiên đoán mà bà Maria tiết lộ cho 3 em bé mù chữ ở Fatima rút
cuộc đều sai bét.. Chúng bắt buộc phải sai vì chuyện đức mẹ hiện ra ở
Fatima hay bất cứ ở đâu đều là chuyện hoang đường, và những lời giáo hội đặt
vào miệng đức mẹ chỉ là những lời lừa bịp tín đồ vì ngày nay chúng đã chứng
tỏ là không có điều nào đúng.
Chúng
ta cũng còn nhớ chuyện bức tượng của đức mẹ khóc chảy máu mắt vì thương sót
nhân loại (Đức mẹ quyền phép vô cùng nhưng chỉ biết khóc đến chảy máu mắt).
Chỉ phiền có một điều là người ta đã mang máu mắt của Đức Mẹ đi phân tích
DNA và chứng minh được rằng đó là máu của ...đàn ông. Giáo hội mẹ
cũng như các giáo hội con không hề quan tâm đến sự kiện khoa học này, chỉ
cần làm sao cho tín đồ tin, đổ xô đến lễ bái và … thu tiền là được rồi.
Bởi vậy cho nên ngày nay tượng Chúa Giê-su chảy máu, hay tượng Đức Mẹ khóc,
Giáo hội chỉ có thể cho xảy ra trong những kém phát triển về kinh tế, người
dân còn sống trong khó khăn vật chất, dân trí chưa mở mang đúng mức, chứ
không dám cho xảy ra trong những nước văn minh tiến bộ trong đó người dân có
mức sống thoải mái và có tinh thần độc lập như Anh, Mỹ, Pháp, Nhật Bản, và
nhất là, những màn ngụy tạo phép lạ không thể qua mắt được những khoa học
gia đương đại.
Thật vậy, ở Úc
trước đây, vụ một linh mục Việt Nam dàn dựng ra cảnh tượng Đức Mẹ chảy dầu
đã bị chính giáo hội Ca-tô
Rô-Ma Úc điều tra và phủ bác, coi là ngụy tạo dàn dựng. Thật không biết xấu
hổ, thời buổi này mà chúng ta còn thấy những tên bất lương vẫn còn tiếp tục
khai thác sự yếu kém tinh thần của đám con chiên một cách bất chính.
Nhưng đó hầu như là bản chất của một tôn giáo “mạc khải”, “tông truyền”,
“thánh thiện”, là “thân thể của Chúa”, là “hiền thê của Chúa”, một tôn giáo
thường tự nhận là “văn minh tiến bộ” nhất thế giới.
Kết hợp “Cộng sản” với “Vô thần”: một ná, bốn năm chim
Tại
sao Ca-tô Rô-MaGiáo lại kết hợp Cộng sản với vô thần rồi chống đối một cách
điên cuồng bất kể thủ đoạn như vậy?
Thật
là dễ hiểu, vì lý thuyết của Marx, không hẳn là vô thần, chủ trương bác
bỏ một Thiên Chúa của Ki Tô Giáo, một Thiên Chúa có những thuộc tính
không xứng đáng với một Thiên Chúa nếu thực sự là Thiên Chúa. Marx muốn
loại bỏ một Thiên Chúa bất xứng như vậy ra khỏi đầu óc con người, vì một
Thiên Chúa như vậy chỉ có tác dụng làm tê liệt đầu óc con người như thuốc
phiện. Chúng ta nên nhớ, khi Marx nói “tôn
giáo là thuốc phiện” thì tôn giáo đây là Ki Tô Giáo mà Marx biết rõ chứ
không phải nói về mọi tôn giáo, thí dụ như Phật Giáo hay Lão Giáo mà
Marx không hề biết gì về những tôn giáo này. Kết quả lý thuyết Marx đã làm
cho người dân Âu Châu thức tỉnh phần nào, vứt đi cặp nạng Thiên Chúa, và đưa
Ki Tô Giáo vào con đường suy thoái không có cách nào cứu vãn. Hiện tượng
này thật là rõ rệt, không những chỉ ở Âu Châu, cái nôi của Ki Tô Giáo, mà
còn ở khắp nơi trên thế giới, kể cả Bắc Mỹ. Học giả Ca-tô Joseph L.
Daleiden đã viết trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng (The Final
Superstition, Prometheus Books, New York, 1994): “Căn nguyên sự thù ghét
của giáo hội Ca-tô đối với Cộng Sản là giáo hội ý thức được rằng Cộng Sản,
về ảnh hưởng, là một địch thủ tôn giáo.” (The root of the
(Catholic) Church’s antipathy toward Communism is its realization that
Communism is, in effect, a rival religion).
Cũng vì vậy mà Ki Tô Giáo, nhất là Ca-tô Rô-MaGiáo, đã dùng mọi thủ đoạn,
khai thác sự cuồng tín và mê muội của tín đồ, gây căm thù trong đầu óc họ
đối với Cộng sản mà Ki Tô giáo gán cho hai chữ Vô Thần, hàm ý Cộng sản chống
Thần của Ki Tô Giáo. Thật ra thì Ki Tô Giáo đã mượn Cộng sản để chống vô
thần.
Vì
không có một căn bản triết lý nào để chống vô thần nên Ca-tô Rô-MaGiáo đã
kết hợp vô thần với Cộng sản, thổi phồng mặt tiêu cực của Cộng sản để chống
vô thần, và lờ đi cái lịch sử ô nhục tàn bạo của mình. Cùng một sách lược,
trước sự phát triển của Phật Giáo ở Tây phương, giáo hoàng John Paul II đã
viết cuốn Bước Qua ngưỡng Cửa Hi Vọng trong đó ông ta phê bình:
“Phật giáo đại để là một hệ thống “vô thần”” (Buddhism is in large
measure an “atheistic” system). Câu viết đần độn lắt léo này chỉ có mục
đích đồng nhất hóa “vô thần” của Cộng Sản với “vô thần” của Phật Giáo để giữ
đám tín đồ đừng đi theo Phật Giáo. Giáo hội cũng tận dụng mọi phương
tiện truyền thông tuyên truyền để tẩy não đám tín đồ có đầu mà không có óc,
cấy vào đầu óc họ một ý niệm là “Vô thần tất nhiên phải xấu, chỉ có tôn giáo
“hữu thần” mới là tốt” trong khi lịch sử đã chứng tỏ là trái ngược hẳn lại.
Những người vô thần nổi tiếng từ xưa tới nay đều là những bậc thông thái, có
đạo đức, chứ không tàn bạo, ngu đần, vô đạo đức như một số giáo hoàng thờ
thần trong cái tôn giáo thờ thần là Ca-tô Rô-MaGiáo như lịch sử đã chứng
minh. Và trong những xã hội Ki Tô Giáo “hữu thần”, tỷ lệ những tội ác như
giết người, cướp của, loạn luân, con giết cha mẹ, cha mẹ giết con, ma túy
v..v.. đã vượt trội những xã hội “vô thần”.
Theo định nghĩa, Vô thần có nghĩa là không tin, từ chối, không chấp nhận
sự hiện hữu của Thiên Chúa (Atheism = Disbelief in or denial of the
existence of God). Thiên Chúa ở đây phải hiểu là Thiên Chúa của Ki Tô Giáo.
Vô thần không có nghĩa là chống Thiên Chúa, vì chống một cái không hiện hữu
là một chuyện vô ích. Nói cho đúng ra, Vô Thần, nếu có chống, là chống
sự mê tín của con người vào một Thiên Chúa do chính con người bày đặt ra,
một Thiên Chúa không đáng để cho ai thờ phụng như Giám mục John Shelby Spong
đã nhận định trong cuốn Rescuing The Bible From
Fundamentalism, pp. 21,24:
Cuốn Thánh Kinh đã làm cho tôi đối diện với quá nhiều vấn đề hơn là giá
trị. Nó đưa đến cho tôi một Thiên Chúa mà tôi không thể kính trọng,
đừng nói đến thờ phụng…
Có những đoạn trong bốn Phúc Âm mô tả Giê-su
ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức
giả. [4]
Bất cứ người nào có đôi chút kiến thức cũng phải hiểu rằng: Cọng sản là
một hệ thống chính trị xã hội – kinh tế (Communism
is a socio-economic political system) trong khi Vô Thần là một lập
trường của các cá nhân đối với các tôn giáo (thần giáo), đặc biệt là
Ki Tô Giáo (Atheism
is a position taken in respect to religion, especially Western religion.),
và Vô Thần đã có từ trên 2000 năm nay, với những Socrates, Plato, Aristotle,
Epicure v..v.., chứ không chỉ mới có trong lý thuyết của Marx. Thực tế thì
Cộng sản mới chỉ thực sự ra đời cách đây chưa đầy 100 năm, từ 1917 ở Nga.
Người Ca-tô, trí thức hay không, đều chống Cộng một cách mù quáng khi kết
hợp Cộng sản với vô thần. Để mở mang đầu óc của họ, để giúp cho họ có thể
vứt bỏ được những cặp nạng không cần thiết để có thể tự mình hai chân bước
vững chãi trên đường đời, và để cho họ thấy họ chống “Cộng sản vô thần” thì
chỉ chứng tỏ họ là những tín đồ cuồng tín, vô kiến thức. Sau đây tôi sẽ
giới thiệu vài tài liệu để cho họ hiểu rõ hơn về “vô thần” và từ đó có thể
thoát ra khỏi cảnh ngu ngơ với từ “cộng sản vô thần”.
Giữa thế kỷ 18, nhà Đại Văn
Hào Pháp Voltaire đã nhận định: “vô thần là thói xấu của
một số ít những người thông minh” (Atheism
is the vice of a few intelligent people) để đối chiếu với số đông
những người “hữu thần” ngu dốt tin nhảm tin nhí vào một thần trong thời đó ở
Âu Châu, tuyệt đại đa số là tín đồ Ki-Tô Giáo. Chúng ta hãy nhớ đến cuộc
cách mạng của Pháp vào năm 1789, trong đó người dân Pháp đã nhìn Ca-tô
Rô-MaGiáo như thế nào và đã có những biện pháp nào đối với Giáo hội Ca-tô ở
Pháp. Pháp, Trưởng Nữ của Giáo Hội Ca-tô Rô-ma, trong cuộc Cách Mạng 1789,
đã chính thức đưa Lý Trí lên bàn thờ Chúa, đã tàn sát trên 17000 Linh
Mục, 30000 Nữ Tu và 47 Giám Mục, và đã dẹp mọi Trường Dòng, Trường Học Công
Giáo, những Dòng Tu, đốt phá nhà thờ, thư viện của Giáo hội v..v.. [Xin
đọc The Decline and Fall of The Roman Church của Linh mục Dòng Tên
Malachi Martin, Giáo sư tại Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh Của Giáo Hoàng, và đã
phục vụ trong Vatican dưới triều Giáo hoàng John XXIII, trang 196: “France,
“eldest daughter of the Church”, enthroned Reason officially as supreme
deity, massacred over 17,000 priests and 30,000 nuns as well as 47 bishops,
abolished all seminaries, Catholic schools, religious orders, burned
churches and libraries...”]
Ca-tô Giáo là một hiểm họa của quốc gia
Người đọc sử không thể không tự đặt cho mình một câu hỏi: Nước Pháp vào thế
cuối thế kỷ 18 có thể gọi là toàn tòng Ca-tô. Nền giáo dục quốc gia nằm
trong tay giới giáo sĩ. Nếu Ca-tô Giáo thực sự là một lực lượng tinh thần
của dân chúng, nếu Ca-tô Giáo là một “hội thánh” được chỉ đạo về luân lý đạo
đức bởi các giới giáo sĩ và nữ tu, nếu Ca-tô Giáo thực sự mang phúc lợi đến
cho quốc gia v..v.. , thì tại sao lại lại có thể xảy ra những vụ tàn sát như
trên trong cuộc cách mạng 1789? Câu trả lời thật là đơn giản. Vì Ca-tô
Giáo là một hiểm họa của quốc gia. Chúng ta có thể nhận rõ hiểm họa này qua
vài hành động của giới trí thức Pháp vào thời đó.
Nhà đại văn hào Victor Hugo đã đưa ra nhận định: “Nền văn minh, ánh sáng
này, có thể bị tắt đi bởi hai cách nhận chìm nó, hai sự xâm lăng nguy hiểm
đối với nó: sự xâm lăng của các quân lính và sự xâm lăng của các linh mục.
Sự xâm lăng của các quân lính đe dọa mẹ chúng ta: tổ quốc; sự xâm lăng của
các linh mục đe dọa con chúng ta: tương lai.” [5]
Các trí thức Pháp đã nhận thức được sự quan trọng của một nền giáo dục khai
phóng, tiến bộ, yêu nước, cho nên họ đã cương quyết chống lại nền giáo dục
của giáo hội Ca-tô mà họ cho là có mục đích “dạy dỗ những đứa trẻ để
chống lại tổ quốc của chúng và cản sự tiến bộ của chúng” (Élever
les enfants contre leur pays et contre leur temps); và họ đã thành
công trong việc “Giật con em ra khỏi bàn tay giáo dục của những linh mục,
vạch trần những sự đạo đức giả của Giáo hội.” (Arracher
l’enfant au moine, dévoiler les hypocrisies de l’Église).
Nhưng có vẻ như đám người cuồng tín thấp kém, tin nhảm tin nhí,, không chỉ
giới hạn ở Âu Châu trong thế kỷ 18, mà ngày nay, đã trải qua vài thế kỷ mà
đầu óc của một số không nhỏ tín đồ Việt Nam vẫn không theo kịp được đà tiến
hóa của nhân loại, cho nên chúng ta vẫn thấy họ dùng những từ như “Cộng sản
vô thần” tràn ngập trên Internet, hàm ý “vô thần” là một cái gì xấu xa, vì
không chịu tin nhảm tin nhí vào vào thần của họ. Thật là tội nghiệp, họ
có biết đâu “vô thần” là biểu hiện của tự hào, của danh dự, của sự tiến bộ
trí thức. Vì họ đã bị những tôn giáo độc thần làm tê liệt đầu óc, khiến
cho họ suốt đời phải bám víu vào một vị thần tưởng tượng do tôn giáo đó bày
đặt ra, như bám víu vào một cặp nạng để lê lết trên trường đời. Họ được dạy
vô thần là chống thần của họ, cho nên với bất cứ giá nào, họ phải chống
những người “vô thần” để duy trì cặp nạng của họ.
Tiến bộ trí thức: từ “tin Chúa” đến “không tin Chúa”
Frank E. Tate đã tuyên
bố như sau về sự tiến bộ trí thức từ “tin Chúa” đến “không tin Chúa”:
“Trong đời tôi, tôi
đã tiến bộ từ một người sùng tín đến một người theo thuyết “bất khả tri” và
bây giờ là một người vô thần. Tôi dùng từ “tiến bộ” vì tôi tin rằng đó
thực sự là một sự tiến bộ, tiến từ sự chấp nhận mù quáng vào một huyền thoại
phi lý đã lỗi thời đến sự nghi ngờ và sau cùng đến sự từ bỏ và không còn tin
nữa.
Chính cái huyền
thoại đó – cuốn Thánh kinh Do Thái – Ki Tô – là một cuốn ghi chép kinh hoàng
về những cuộc đổ máu, dâm dật, và cuồng tín không đếm xỉa gì đến đời sống và
sự an sinh của những người nào không bày tỏ niềm tin mù quáng của mình vào
những giới luật được trình bày qua những lời lẽ mâu thuẫn và không thể nào
xảy ra được”
[6]
Và
James A. Haught cũng viết trong cuốn “2000 Years of Disbelief: Famous
people with the Courage to Doubt”, trang 11-14, về lịch trình phát triển
“vô thần” ở Tây phương:
“Những người thông minh, có học thức, thường không tin là có đấng siêu
nhiên. Cho nên chẳng lấy gì làm ngạc nhiên nếu chúng ta thấy một tỷ lệ cao
những người nghi ngờ tôn giáo
(Tây phương)
trong số những tư tưởng gia, khoa học gia, văn gia, những nhà cải cách, học
giả, tiền phong trong dân chủ, và những nhà thay đổi thế giới – những người
thường được gọi là danh nhân.
Sự
tiến triển của nền văn minh Tây phương đã là một phần của câu chuyện chiến
thắng từ từ trên sự đàn áp của tôn giáo
(Ki Tô giáo).
Sự nổi giậy của thuyết nhân bản đã chuyển trọng tâm của xã hội ra khỏi sự
tuân phục các giám mục và vua chúa để đi tới những quyền của cá nhân và
điều kiện sinh sống của con người. Phần lớn sự tiến bộ này đã được thúc
đẩy bởi những con người, nam cũng như nữ, không cầu nguyện (Thiên
chúa), không quỳ trước bàn thờ (trong những nhà thờ),
không đi hành hương (các thánh địa của Ki Tô Giáo), không đọc
những Kinh Tin Kính.
Nền văn hóa Tây phương đã đi theo một hành trình thất thường. Hi Lạp và La
Mã cổ xưa đã đồng hành với sự tìm hiểu trí thức giữa quan niệm tôn giáo đa
thần. Thế rồi Thời Đại Đức Tin của Ki Tô Giáo đã mang lại sự tối tăm
trong nhiều thế kỷ. Thời đại Phục Sinh đã làm sống lại chủ thuyết cá
nhân và quyền suy tư tự do, bay bổng lên trong Thời Đại Lý Trí và Thời Đại
Khai Sáng. Với sự nở rộ của khoa học trong thế kỷ 19, nhiều tư tưởng gia đã
cho rằng tôn giáo huyền bí
(tức Ki Tô
Giáo) sẽ phải tan biến, và đại cương thì điều này đã xảy ra trong giới
trí thức.
Dần dần, lối suy nghĩ khoa học tiến triển, và tôn giáo thoái lui, quyền tự
do không tin đã nhô lên ở Tây phương..
Cuối cùng, quyền không tin đã được thiết lập. Tự do suy tư nở rộ trong giới
trí thức Âu Châu và Mỹ, đạt tới thời vàng son vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế
kỷ 20. Những người không tin như Robert Ingersoll đã thực hiện những chuyến
du thuyết thách đố chủ thuyết siêu nhiên
(Ki Tô Giáo).
Những nhà báo như H. L. Mencken công khai tấn công “sự mê tín” (của Ki
Tô Giáo).
Thật là một điều mâu thuẫn lạ lùng: một phần đáng kể dân chúng khắp thế
giới vẫn còn thờ phụng những thiên chúa không ai nhìn thấy, đôi khi còn
giết người cho những thiên chúa này – trong khi hầu hết những tư tưởng gia,
khoa học gia, văn gia, và những giới trí thức khác thường là đã loại bỏ đấng
siêu nhiên.
Đối với
bất cứ ai duyệt qua quá khứ và quan sát thế giới ngày nay, hầu như không thể
nào tìm ra được một người có tiếng tăm – ngoại trừ đối với các giáo
hoàng, tổng giám mục, vua chúa và các nhà cầm quyền đi kiếm hậu thuẫn của
quần chúng - lại có thể nói rằng mục đích của đời sống con người là được
“cứu rỗi” bởi một Giê-su vô hình và lên một thiên đường vô hình. Nhưng
thật là dễ dàng tìm được rất nhiều người không tin cái tín lý căn bản này
trong số những danh nhân.” [7]
Nhưng đặc sắc và chính xác hơn cả là bài thuyết trình của Emmett F.
Fields. Trong bài thuyết trình này, tác giả chủ yếu nói về Ki Tô Giáo nhưng
khi thì dùng từ “tôn giáo” (religion) khi thì dùng từ Ki Tô Giáo
(Christianity). Đọc phần tiếng Anh chúng ta thấy rõ như vậy. Cho nên tôi
đã thay một số từ “tôn giáo” bằng Ki Tô Giáo để cho dễ hiểu.
Sau
đây là phần trích dẫn một vài đoạn trong bài thuyết trình, đọc đoạn này
chúng ta có thể thấy rõ sự khác biệt giữa những người tin Chúa và những
người không tin Chúa (vô thần). Và từ những hiểu biết này chúng ta cũng có
thể thấy những người Ki Tô Giáo không có tư cách để chống những người vô
thần, bản chất của họ là những con chiên thấp kém, ít hiểu biết, cuồng tín,
chống vô thần theo tiếng chuông “kích thích điều kiện hóa” [conditioned
stimulus] của
Pavlov, chứ thực sự họ không hề biết gì về vô thần.
Bước
đầu tiên trong việc tìm hiểu vô thần là phải loại bỏ những lời nói láo và
tuyên truyền mà Ki Tô giáo truyền bá để chống vô thần.
Vô thần không chỉ là kiến thức về sự không hiện hữu của các thần mà còn hơn
nữa, là kiến thức về sự sai lầm hay gian xảo của Ki Tô giáo. Vô thần là
một thái độ, một khung trí tuệ nhìn thế giới một cách khách quan, không sợ
hãi, luôn luôn tìm hiểu mọi sự việc như là một phần của thiên nhiên. Có
thể nói rằng vô thần có một giáo lý là phải đặt nghi vấn và một tín lý là
phải nghi ngờ. Đó là trí tuệ con người trong môi trường thiên nhiên, không
có gì là quá thánh thiện để không được tìm hiểu, không có gì là quá thiêng
liêng để không được đặt nghi vấn. Cuốn Thánh Kinh của người vô thần, có thể
nói như vậy, chỉ có một từ: “HÃY SUY NGHĨ”. Vô thần là sự giải thoát
hoàn toàn của đầu óc con người khỏi những xiềng xích của sợ hãi và mê tín.
Vô thần tuyệt đối không
có gì tiêu cực; sự thật không bao giờ có thể là tiêu cực. Vô thần
đòi hỏi chứng minh, hay ít nhất là những bắng chứng hợp lý, và chỉ bác bỏ
những gì không đáp ứng được sự đòi hỏi của sự hiểu biết thông thường. Trong
suốt lịch sử, mọi tiến bộ trong xã hội có được là từ sự nghi ngờ và loại bỏ
những ý tưởng, những tập quán, và những niềm tin cũ kỹ
[vì không còn đúng]. Cái cây kiến thức nhân loại chết khi nó đang mọc
lớn, với những cành lá mới mọc từ những phần đang chết, và thay thế những
phần này với những niềm tin chân thật và tốt đẹp hơn. Nhà Thần
học là một con cú, đậu trên một cành cây đã chết của cái cây kiến thức nhân
loại, và rúc lên cùng những tiếng rúc cũ kỹ đã từng rúc lên trong nhiều
trăm năm, nhiều ngàn năm, nhưng hắn chưa bao giờ phát ra một tiếng kêu rúc
nào cho sự tiến bộ.
Về đạo đức, Vô thần ở
ghế thượng phong trên Ki Tô giáo. Sự thất bại lớn của đạo đức Ki
Tô giáo bắt nguồn từ ảo tưởng của họ về một đạo đức đứng trên đúng hay sai
[vì là đạo đức của Thiên
Chúa]. Đầu óc của người theo Ki Tô giáo đã biết là tra tấn và giết người
là sai lầm, bạo hành và thù hận là sai lầm, cưỡng bức người khác vào đạo là
sai lầm. Ki Tô giáo đã biết những điều đó là sai lầm, nhưng đầu óc
của những người theo Ki Tô giáo trở nên tồi tệ vì cái ảo tưởng về một nền
“đạo đức cao hơn”, và vì cái ảo tưởng này mà lịch sử nhân loại ngập máu
những người vô tội. Nhân danh “thiên chúa” và một nền “đạo đức cao hơn” của
họ, những người Ki Tô Giáo đã tiến hành những cuộc thánh chiến để tiêu diệt,
đã cướp bóc, tra tấn và tàn sát những người không thể đồng ý với họ, hoặc
chưa tùng nghe đến tôn giáo của họ. Nhân danh nền “đạo đức cao hơn” này,
những người Ki Tô Giáo đã thù hận, săn lùng, bạo hành, và thiêu sống người
“lạc đạo”, người “vô tín”, và người “vô thần”.
Và ngày nay, như đã từ
bao giờ, khi tín đồ Ki Tô giáo làm những việc mà ngay hắn cũng biết là sai
lầm và vô luân, nhưng cái ảo tưởng của hắn về một “quyền năng cao hơn”
[của Thiên chúa] và một nền “đạo đức cao hơn” [của Ki Tô
giáo] cho phép hắn trình diễn vài lễ tiết, xưng tội, hay cầu nguyện
thì kỳ lạ thay, ngay lập tức, “tất cả tội lỗi của hắn đều được xóa bỏ”, và
hắn lại không còn có thắc mắc gì về lương tâm hay hối hận.
Những ảo tưởng điên rồ
như vậy không làm cho đầu óc người vô thần thoải mái. Người vô thần biết
rằng không có đạo đức nào đứng trên đúng và sai, và con người không thoát ra
khỏi được sự cắn rứt của lương tâm và hối hận. Giết người là giết người, ăn
cướp là ăn cướp, thù hận và bạo hành là những tội ác chống nhân loại. Về
đạo đức, lịch sử cho chúng ta thấy, làm người vô thần thì tốt hơn là làm
người Ki-Tô.
Ki Tô giáo cho rằng sự
vô đạo đức nẩy ra là vì thiếu vắng Ki Tô giáo, nhưng những sự kiện đã chứng
tỏ ngược lại. Ki Tô Giáo chưa bao giờ mạnh như bây giờ, họ có nhà thờ trong
mọi cộng đồng, độc quyền chiếm giờ trên đài phát thanh và đài truyền hình để
tuyên truyền cho Ki Tô giáo, và họ đã cưỡng nhét Ki Tô giáo của họ vào chính
quyền, luật pháp và trường học của chúng ta. Họ đã làm những việc chống
với Hiến Pháp của Mỹ, và chống những quyền căn bản và thiêng liêng nhất của
mọi người Mỹ khác. Họ đã len lỏi vào những nơi họ không được vào, những nơi
không có việc của họ, bịt miệng mọi chống đối, mọi quan điểm khác, bỏ thuốc
độc vào cái giếng hiểu biết của chúng ta và làm nguy hại đến những gốc rễ
của quốc gia chúng ta.
Ki Tô giáo ngày nay mạnh
như vậy, nhưng chúng ta không đạt được một mức đạo đức nào đáng kể trong
quốc gia này. Không ở đâu khác cho thấy sự thất bại về đạo đức Ki-tô giáo
rõ rệt như ở Mỹ. Trong cùng một thời gian mà Ki Tô giáo trở nên mạnh hơn và
giầu có hơn, trong 30 năm qua, vấn nạn dùng các loại ma túy đã trở thành một
vấn nạn xấu xa của quốc gia, số tội ác tăng gia nhanh chóng, tỷ lệ ly dị
tăng vọt, và trong thời gian này quốc gia của chúng ta bị lôi cuốn vào nhiều
cuộc chiến tranh và xung đột thế giới hơn bao giờ hết trong lịch sử. Ngay
bây giờ chúng ta có những tỷ lệ dùng ma túy, phạm tội ác, ly dị cao nhất
cùng với “tỷ lệ theo Ki Tô giáo” cao nhất chưa từng có trong lịch sử quốc
gia này. Ki Tô Giáo có thể nói gì về những sự kiện này và làm sao để
chữa chạy chúng. Họ bảo chúng ta là chúng ta cần nhiều đến Ki Tô giáo hơn
và cương quyết áp đặt Ki Tô giáo lên chúng ta. Ki Tô Giáo cảm thấy quá mạnh
ngày nay và họ đang đi vào chính trị để cưỡng đặt nền đạo đức thất bại của
họ trên mọi người Mỹ qua sự Độc Tài của Ki Tô Giáo và một Thời Đại Tăm Tối
mới.
Một khi thái độ vô thần đã đạt được, và đầu óc đã thoát khỏi những sự sợ
hãi và niềm tin trong Ki Tô giáo đã được cấy vào chúng ta từ khi còn nhỏ; và
một khi chúng ta có thể nhìn vào tôn giáo một cách khách quan không thiên
vị, thật hiển nhiên là Ki Tô giáo có tất cả những đặc tính của một dạng tâm
linh điên rồ.
Tùy theo mức độ, người sùng tín Ki Tô giáo phải chấp nhận, và tin, vào một
thế giới khác; một thế giới siêu nhiên hay khác thường, một thế giới có đầy
những nhân vật tưởng tượng gọi là thiên chúa, quỷ, thánh v..v.. Người ta
nói với những tạo vật tưởng tượng này, xin xỏ ân huệ, sự hướng dẫn, những
“dấu hiệu”, hoặc phép lạ, và rồi hoặc quy trách hoặc tạ ơn những biến cố
thiên nhiên sau đó xảy ra. Nếu không phải là khoác bộ áo tôn giáo thì
những niềm tin và những hành động như vậy phải coi là của một người điên,
cần phải vào nhà thương điên để chữa trị.
Sự nghiên cứu lịch sử sẽ biện minh thêm cho thuyết Ki Tô giáo là
một dạng tâm linh điên rồ. Không có một đầu óc lành mạnh nào lại có thể gây
ra những cuộc chiến tranh tôn giáo đẫm máu, những cuộc thập ác chinh mà
những người bị chinh phục, đàn ông, đàn bà, trẻ con, và ngay cả con nít đều
bị giết chỉ vì họ là những người “không tin” hay “lạc đạo”. Những tù ngục
tối tăm và những phòng tra tấn của những tòa án thánh xử dị giáo không thể
nào bị cai quản bởi những đầu óc lành mạnh. Và phải là loại đầu óc điên
rồ, đầu óc Ki Tô giáo, mới trói người phụ nữ vào cột, rồi chất củi thiêu
sống vì cái tội không thể nào có là phù thủy. Không có người nào tỉnh
táo có thể đọc những chuyện khủng khiếp, hiếp dâm và giết người trong một
cuốn sách man rợ mà người ta gọi cuốn sách đó là “Lời của Thiên Chúa”.
Và huyền thoại về Giê-su, về một thiên chúa phải xuống làm người và bị giết
trước khi có thể tha thứ tội lỗi cho nhân loại, là chuyện điên rồ nhất trong
những chuyện điên rồ.
Ngày nay, Ki Tô Giáo cố tình không biết đến, hay giấu kín
và phủ nhận cái lịch sử đẫm máu của mình và tự tôn là nền tảng đạo đức của
chúng ta, và là nền tảng ngay cả nền văn minh của chúng ta. Ki Tô Giáo
tự cho rằng là nguồn hi vọng duy nhất của chúng ta trong tương lai. Nhìn
vào lịch sử Ki Tô Giáo, những điều tự nhận như vậy, bản chất chỉ là những
lời nói điên dại.[8]
Những người Vô thần tiếng tăm trên thế giới
Để hiểu rõ hơn những người vô thần là
những người như thế nào, sau đây là tên của một số nhỏ những nhân vật
có tên tuổi trên thế giới mà tôi cho là quen thuộc nhất đối với chúng ta,
trong số 600 nhân vật (lẽ dĩ nhiên vẫn chưa đầy đủ) trong cuốn 2000 Years
of Disbelief: Famous People With The Courage To Doubt của James A.
Haught, Prometheus Books, 1996, những nhân vật có thể xếp vào trong đoàn thể
của những người “vô thần”, theo thứ tự A, B, C:
Lord Acton,
John Adams, Ethan Allen, Steve Allen, Aristotle, Isaac Asimov, Sir Francis
Bacon, Honoré de Balzac, Charles Baudelaire, Simone de Beauvoir, Ludwig van
Beethoven, Hector Berlioz, Georges Bizet, Charles Bradlaugh, Johannes
Brahms, Benjamin Britten, Giordano Bruno, Pearl Buck, Albert Camus, Andrew
Carnegie, Marcus Tullius Cicero, Auguste Comte, Confucius, Nicolaus
Copernicus, Clarence Darrow, Charles Darwin, Claude Debussy, Daniel Defoe,
Demosthenes , Charles Dickens, Denis Diderot, Diogenes, Alexandre Dumas ,
Will Durant, Thomas Eddison, Albert Einstein, George Eliot, Albert Ellis,
Empedocles, Euripides, William Faulkner, Richard P. Feynman, Gustave
Flaubert, Antony Flew, George William Foote, Anatole France, Benjamin
Franklin, Sigmund Freud, Galileli Galileo, Indira Gandhi, Mohandas Gandhi,
Giuseppe Garibaldi, Edward Gibbon, André Gide, Johann Wolfang von Geothe,
Thomas Hardy, Stephen Hawking, Joseph Haydn, George W. F. Hegel, Martin
Heidegger, Fred Hoyle, Victor Hugo, David Hume, Aldous Huxley, Robert G.
Ingersoll, Thomas Jefferson, James Joyce, Franz Kafka, Immanuel Kant,
Johannes Kepler, Jean de la Bruyère, Pierre Simon de Laplace, William E. H.
Lecky, Abraham Lincoln, John Locke, James Madison, Karl Marx, Jules
Massenet, Somerset Maugham, Guy de Maupassant, Henry Louis Mencken, Michel
de Montaigne, Baron de Montesquieu, Wolfang Amadeus Mozart, Jawaharlal
Nehru, Friedrich Nietzsche, Madalyn Murray O’Hair, Thomas Paine, Blaise
Pascal, Pablo Picasso, Max Planck, Marcel Proust, Jules Renard, Eleanor
Roosevelt, Theodore Roosevelt, Jean-Jacques Rousseau, Carl Sagan, George
Sand, George Santayana, Jean Paul Sartre, Arthur Schlesinger, William
Shakespeare, Adam Smith, Socrates, Baruch Spinoza, Richard Strauss, Leo
Tolstoy, Mark Twain, Voltaire, George Washington, Daniel Webster, H. G.
Wells, Zeno, Émile Zola.
Xin hỏi
trong số 113 người vô thần trên, có người nào là Cộng sản không?
Và hiện
nay, ở bên Anh, hai nhà vô thần nổi tiếng là Richard Dawkins (tác giả The
God Delusion) và Christopher Hitchens (tác giả God Is Not Great)
đang vận động để truy tố theo pháp lý Giáo hoàng Benedict XVI về tội bảo vệ,
bao che các giám mục, linh mục loạn dâm lan tràn trong giáo hội. Hai nhà vô
thần nổi tiếng nầy, tuyệt đối không tin có Thần/Chúa của Công giáo, cũng
không là Cộng sản.
Riêng về Việt Nam thì những ai là
“vô thần” theo nghĩa không biết đến, không tin, không công nhận sự hiện
hữu của Thiên Chúa của Ki Tô Giáo? Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng
Đạo, Quốc sư Vạn Hạnh, Lý Thường Kiệt, Trần Bình Trọng, Lý Thái Tổ, Trần
Thái Tông, Trần Nhân Tông, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Chu Văn An, Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du, Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Hồ Chí Minh v...v... Những bậc
tiền nhân này đã làm gì cho nước Việt nếu không phải là có công đánh đuổi
xâm lăng, bảo toàn chủ quyền, nền độc lập quốc gia, hoặc làm rạng danh nền
văn hóa Việt Nam? Còn những kẻ “tin Chúa” một cách rất hữu thần là
ai? Pétrus Ký, Nguyễn Trường Tộ, Paulus Của, Trần Bá Lộc, Nguyễn Thân, Trần
Lục, Ngô Đình Khả, Nguyễn Bá Tòng, Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi, Hoàng Quỳnh
v..v.. Họ là ai? Toàn là Việt gian bán nước, theo giặc chống lại tổ quốc,
hoặc cuồng tín, nô lệ Vatican như Ngô Đình Diệm?
Ai
có thể phủ nhận hay biện minh cho sự
kiện bán nước của Ca-tô Rô-MaGiáo Việt Nam qua văn kiện có tính cách khẳng
định sau đây của chính Giám mục Puginier, được trích dẫn trong cuốn
Catholicisme et Sociétes Asiatiques của Alain Forrest và Yoshiharu
Tsuboi:
"Giám Mục Puginier viết rằng: "Không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo
thì người Pháp cũng giống như những con cua đã bị bẻ gẫy hết càng. Thí dụ
như vậy, tuy tầm thường mộc mạc nhưng không kém phần chính xác và mạnh mẽ.
Thật vậy, không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo, người Pháp sẽ bị bao
vây bởi toàn là kẻ thù; họ sẽ không thể tin cậy vào một ai; họ sẽ chỉ nhận
được những tin tức tình báo sai lầm, cung cấp với ác ý để phá hoại tình thế
của họ; họ sẽ bị đẩy vào tình trạng không thể hoạt động được gì và sẽ
phải hứng chịu những thảm họa thực sự một cách nhanh chóng. Địa vị của họ ở
đây sẽ không giữ nổi được nữa, và họ sẽ bị buộc phải rời khỏi xứ, nơi đây
quyền lợi và ngay cả sự hiện diện của họ sẽ bị nguy hại." [9]
Ai có thể phủ nhận hay biện minh cho hành động bán
nước của linh mục Trần Lục, người dẫn 5000 giáo dân đi tiếp tay, hỗ trợ quân
đội Pháp để hạ trung tâm kháng chiến Ba Đình của Đinh Công Tráng?
Ai có thể phủ nhận hay biện minh cho sự kiện là giám
mục Lê Hữu Từ đã theo lệnh chống Cộng của giáo hoàng Pius XII, nhận vũ khí
của Pháp khi Pháp trở lại Việt Nam, tổ chức những “khu tự trị” (sic) Phát
Diệm, Bùi Chu để giết dân ngoại đạo vô tội, đi cướp phá các làng “lương””
dưới chiêu bài chống Cộng sản Vô Thần.
Ai có thể phủ nhận là chính quyền
Ngô Đình Diệm đã mượn chiêu bài “tố Cộng” để giết hại hoặc cưỡng bách người
ngoại đạo vào đạo trong sách lược Ca-tô hóa miền Nam?
Vậy thì giữa “không tin Chúa” nhưng cứu nước và làm rạng danh nước, và “tin
Chúa” nhưng nô lệ ngoại bang, phản bội quốc gia, người dân Việt nên chọn
thứ nào? 93% dân Việt đã chọn “không tin Chúa”, còn 7% chọn “tin Chúa”.
Viết như trên không có nghĩa là tất cả 7% người dân Việt theo Ca-tô giáo đều
là những người bán nước, phản bội quốc gia. Phần lớn họ là nạn nhân của một
nền thần học ru ngủ xảo quyệt, không đủ trí tuệ để nhận ra bộ mặt thật của
tôn giáo họ, ham hố một sự “cứu rỗi” không tưởng, tin theo luận điệu bịp bợm
của giáo hội như giáo hoàng là đại diện của Chúa trên trần, “Cha cũng như
Chúa” có quyền tha tội hay cầm giữ tội của họ v..v.., cho nên đã nhắm mắt
theo lệnh của những linh mục đầy tớ của Vatican mà không ý thức được những
hành động phản quốc của mình. Họ đáng thương hơn là đáng trách. Nhưng
chính điều này đã chứng tỏ rằng những người “tin Chúa” hoàn toàn không có gì
có thể gọi là đạo đức hơn hay tốt đẹp hơn những người “không tin Chúa” nếu
không muốn nói là còn kém xa.
Cho nên,
khi ông Thiện Ý viết về “nhóm Giao Điểm, một nhóm qui tụ những người
vô thần..” thì thật ra ông ta đã đề cao và vinh danh nhóm Giao Điểm
rồi. Và những người chống Cộng ngu ngơ cũng không biết rằng khi họ kết hợp
Cộng sản với vô thần là họ đã vinh danh Cộng sản. Một khi chúng ta hiểu được
Cộng sản là một hệ thống chính trị xã hội – kinh tế, còn vô thần là lập
trường của những cá nhân đối với Thiên Chúa của Ki Tô Giáo thì sẽ không còn
phạm phải lỗi lầm sơ đẳng là chống “Cộng sản vô thần” nữa.
Người vô thần
đơn giản chỉ là những người không tin Chúa của những người tin Chúa. Họ chỉ
không thể tin vào một Chúa mà họ biết rõ là rất ác ôn như được viết trong
cuốn Thánh Kinh, và nhất là không có bất cứ một bằng chứng nào chứng tỏ là
có sự hiện hữu của một Thiên Chúa. Nếu ngày nào đó người ta có thể chứng
minh được rằng Thiên Chúa trong Kinh Thánh của Ki Tô Giáo thực sự rất mực
nhân từ như giáo hội thường nhồi vào đầu óc của các tín đồ để cho họ tin mà
không suy nghĩ, và Thiên Chúa đó thực sự hiện hữu với đầy đủ bằng chứng, thì
người vô thần sẽ sẵn sàng tin một Thiên Chúa như vậy. Cho đến ngày đó thì
sự hiện hữu của một Thiên Chúa không phải là vấn đề đáng để cho người vô
thần phải quan tâm.
Mặt khác,
người vô thần, tuy rằng không tin Chúa nhưng đâu có lập thành phe đảng để
sát hại lẫn nhau hay sát hại người tin Chúa, như người tin Chúa đã sát hại
người không tin Chúa và sát hại lẫn nhau như lịch sử tàn bạo đẫm máu của
Ca-tô
Rô-MaGiáo
đã viết rõ?
Những cuộc tàn sát giữa những người Ki Tô Giáo
Ki Tô Giáo có ba
hệ phái chính là Ca-tô
Rô-MaGiáo, Tin Lành và Chính thống giáo. Ba hệ phái này cùng thờ
một Chúa nhưng lại thù địch lẫn nhau, và nếu có dịp thì tàn sát nhau không
hề nương tay, như lịch sử đã chứng minh. Sau đây là vài trường hợp điển
hình:
1.
Trong cuộc tàn sát ngày Thánh Bartholomew ở Pháp, ngày 24 tháng 8, 1572.
Lịch sử kể rằng (http://www.reformation.org/bart.html):
“Đột nhiên –
không cảnh báo – tác phẩm của quỷ bắt đầu. Bắt đầu ở Paris, lính Pháp và
giới chăn chiên Ca-tô La mã tàn sát những người dân không có vũ khí trong
tay, và máu đổ thành sông trên khắp đất nước. Thây đàn ông, đàn bà, trẻ con
chất thành đống trước bọn du thử du thực và quân lính khát máu. Trong một
tuần lễ, trên 100000 người Tin Lành bị Ca-tô giáo giết. Các dòng sông trên
nước Pháp có đầy thây trôi đến độ trong nhiều tháng người dân không dám ăn
cá. Trong thung lũng sông Loire, những con chó sói từ những đồi cao nhào
xuống ăn thây những người Pháp đã rũa nát.
Khi tin tức về cuộc tàn sát tới Vatican, Vatican hân hoan ăn mừng!
Súng thần công bắn, chuông nhà thờ rung – và một loại huy chương được đúc
bởi Giáo hoàng Gregory XIII
(1572-85) – để kỷ niệm cuộc tàn sát đó! Giáo hoàng ủy thác nhiệm vụ cho nghệ thuật
gia Ý, Varsi, sơn vẽ cảnh tàn sát trên một bức tường – ngày nay còn thấy ở
Vatican.”
[1]
Đồng tiền do Giáo Hoàng Gregory XIII (1572-85) đúc
để ghi nhớ sự tàn sát 100,000 tín đồ Pháp
2.
Ca-tô
Rô-MaGiáo
và Tin Lành tàn sát lẫn nhau ở Âu Châu trong cuộc chiến 30 năm,
1618-1648, nguyên nhân chính là Hoàng đế
Fernidand II muốn áp đặt Ca-tô
Rô-MaGiáo trên toàn lãnh thổ và Tin Lành chống lại [Emperor
Ferdinand II tried to impose Roman
Catholicism on his domains and the Protestant nobles rebelled];
3.
Trong đệ nhị thế Chiến, chính quyền Ca-tô
Rô-MaGiáo ở Croatia
đã giết trên 700000 người Chính thống [Xin đọc The Vatican’s Holocaust,
Chương 4, của Baron Avro Manhattan]. Và ngày nay ở Bắc Ái Nhĩ Lan vẫn còn
xảy ra những vụ Công giáo và Tin Lành giết lẫn nhau.
Cùng thờ một Chúa mà họ còn chém giết nhau như vậy, huống chi là đối
với những người không tin Chúa. Trong thời cận đại, các Giáo hội Ki-tô theo
đuổi chính sách nhồi sọ đàn chiên thấp kém của mình, liên kết vô thần với
Cộng sản để khuyến khích tín đồ thù hận Cộng sản, coi Cộng sản như là một
thù địch tôn giáo, và các tín đồ, vốn có đầu óc của các con chiên, nên
cứ nhắm mắt chống Cộng một cách điên cuồng, không biết rằng lịch sử đã chứng
tỏ Ca-tô Rô-MaGiáo còn tệ hại gấp bao nhiêu lần Cộng sản.
Ca-tô Rô-MaGiáo còn tệ hại gấp bao nhiêu lần Cộng sản
Thật ra thì Cộng sản đã học từ Ca-tô Rô-Ma Giáo nhưng học không đến nơi
đến chốn. Nếu đối chiếu thì những hành động của Cộng sản chẳng thấm vào đâu
so với những hành động của Ca-tô Rô-MaGiáo. Để che dấu sự kiện này, người
Ki Tô Giáo, nhất là Ca-tô Rô-MaGiáo, sử dụng mọi phương tiện truyền thông,
từ sách vở, phim ảnh, cho đến những nghị quyết vô giá trị, để thổi phồng cái
mặt tiêu cực của Cộng sản, nhưng không bao giờ nhắc đến cái lịch sử ô nhục
đẫm máu của Ki Tô Giáo, hi vọng biến cái lịch sử này đơn giản chỉ là một lời
ghi chú (a footnote) trong những cuốn sử thế giới. Nhưng thế giới đâu
có phải tất cả đều là những con chiên. Cho nên, trên Internet cũng như
ngoài xã hội, chúng ta thấy tràn ngập những tác phẩm, tài liệu viết về lịch
sử của Ki Tô Giáo nói chung, Ca-tô Rô-MaGiáo nói riêng. Nếu không có những
tài liệu này thì Giao Điểm và Sách Hiếm cũng chẳng xuất hiện trên diễn đàn
truyền thông hải ngoại.
John Cornwell, một tín đồ Công giáo
và cũng là một chuyên gia về Công Giáo và Vatican, tác giả 2 cuốn sách nổi
tiếng về Vatican: A Thief in the Night và Hitler’s Pope, đã
viết thêm một tác phẩm về Công giáo nhan đề Từ Bỏ Đức Tin: Giáo Hoàng,
Giáo Dân, và Số Phận của Công Giáo (Breaking Faith: The Pope, The
People, and The Fate of Catholicism), xuất bản năm 2001, trong đó chương
đầu viết về Một Thời Đại Đen Tối Của Công Giáo (A Catholic
Dark Age). Trong chương này, tác giả John Cornwell đưa ra tình trạng suy
thoái trầm trọng của Công giáo ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Anh,
Mỹ, và Pháp. Số tín đồ mang con đi làm lễ rửa tội giảm sút, vì ngày nay
người ta nhận thức được rằng chẳng làm gì có tội ở đâu mà phải đi rửa;
đám cưới tổ chức không cần đến linh mục, vì hôn phối có thể hợp thức
hóa ngoài nhà thờ và bí tích hôn phối đã mất hết ý nghĩa; giới trẻ
không buồn đến nhà thờ, vì chẳng thấy gì hấp dẫn trong những lời giảng đi
ngược thời gian của các linh mục; số từ bỏ đức tin gia tăng, vì người ta
không còn chịu chấp nhận một đức tin mù quáng; từ 1958 đến nay, số vào nghề
linh mục giảm đi 2/3 v..v..
Tình trạng ở Châu Âu, trước đây là cái
nôi của Công giáo, thật là thê thảm. Ở Tây Âu (Western Europe), từ 30 đến
50% các giáo xứ không có linh mục. Ở Ý, 90% theo Công giáo nhưng chỉ có 25%
đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, giảm 10% kể từ đầu thập niên 1980, số người vào
học trường Dòng giảm một nửa. Ở Ái Nhĩ Lan (Ireland), xứ Công giáo, số
người cảm thấy mình được ơn kêu gọi tụt xuống từ 750 năm 1970 còn 91 năm
1999, số linh mục được tấn phong từ 259 xuống 43 trong cùng thời gian.
Trong một hội nghị đặc biệt vào năm 1999, các giám mục Âu Châu tuyên bố rằng
các dân tộc trong toàn thể lục địa Âu Châu đã quyết định sống “như là
Thiên Chúa không hề hiện hữu” (At a special synod in 1999, the bishops
of Europe declared that the peoples of the entire continent had decided to
live “as though God did not exist”.), nghĩa là, vô thần. Ở Nam Mỹ, tình
trạng cũng không khá hơn. 7000 tín đồ mới có một linh mục. Chỉ có 15% giáo
dân đi xem lễ ngày chủ nhật. Theo một hội nghị quốc gia của các giám mục Ba
Tây thì mỗi năm có khoảng sáu trăm ngàn tín đồ bỏ đạo (according to the
National Conference of Brazilian Bishops, some 600000 Catholics leave the
Church each year.)
Âu Châu và nhiều nơi khác trên
thế giới đã trở thành “vô thần”. Cho nên, ngày nay từ “Cộng sản vô
thần” chẳng nói lên được điều gì ngoài phản ánh sự đần độn của đám người
cuồng tín, không theo kịp đà tiến hóa và sự tiến bộ trí thức của nhân loại.
Để kết thúc, tôi xin trích dẫn vài đoạn trên Internet về đề tài “Tại
sao những hữu thần lại ghét những người vô thần”
Nguồn:
http://www.freethoughtpedia.com/wiki/Why_theists_hate_atheists#column-one
Đó là vì sự
không tin của những người vô thần làm cho họ (những người tin Chúa)
khó chịu. Những người này đã có một đức tin cấy sâu vào đời sống của họ cho
nên thấy người nào không tin cũng là một sự đe dọa đối với họ. Đơn giản, họ
không thể quan niệm nổi là lại có người không tin vào thần thánh. Ý tưởng
này hoàn toàn xa lạ đối với họ, và do đó có tính cách đe dọa họ. Nó bắt
buộc họ phải đánh giá lại những niềm tin của họ. Họ trở thành những
người phải tự vệ và tấn công vì những điều mà họ tin chắc không nghi vấn là
thiêng liêng thì đang bị thách thức chỉ bởi lập trường triết lý của người
khác. Họ lên án những người vô thần là ích kỷ, đồi bại, và sống vô đạo
đức vì không e sợ những hậu quả. Họ lên án người vô thần thiếu sót những
qui tắc đạo đức. Lẽ dĩ nhiên, điều này thật là phi lý, bắt nguồn từ một sự
sợ hãi thần thánh vô nghĩa.
Theo
một thống kê năm 1997, chỉ có 0.20%. [2 phần ngàn] tù nhân ở Mỹ là vô
thần. Vì vô thần chiếm khoảng 14% dân số Mỹ, đó là một dấu hiệu về đạo đức
của người vô thần hiện đại. Những người tin Chúa cuồng tín điên dại này
tranh cãi với những người vô thần, biết rất rõ là họ không có hi vọng thay
đổi những nhận thức lý tưởng của kẻ thù. Vậy tại sao họ lại chọn việc lao
đầu vào sự tranh luận căm thù này. Vì họ giận dữ và sợ hãi. Họ giận dữ vì
chúng ta có can đảm thách thức những niềm tin bắt nguồn từ sự bất an của họ
bằng sự tiếp tục hiện hữu của chúng ta. Họ sợ hãi vì họ sợ mất đi vị trí an
toàn của mình trên sự độc tôn thần trị của nước Mỹ (cầu nguyện trong trường
học, làm luật theo tinh thần Ki-tô v..v…)… một quốc gia chính thức thế tục.
Đưa ra những lời vu khống và xuyên tạc, và coi kẻ thù như ma quỷ là phản
ứng tự nhiên của sự chống đối; bất kể là chúng trái ngược với những lời dạy
của Chúa và đấng cứu rỗi của họ như thế nào. Tất cả những luận điệu chống
vô thần mà các bạn thấy đơn giản không gì hơn là kết quả phản ứng của tinh
thần hèn hạ. Xuyên tạc, đưa ra thông tin sai lầm là dấu hiệu của thất
vọng.
[10]
Đôi lời kết:
Trong thời đại ngày nay, tôi nghĩ các bậc lãnh đạo trong Ca-tô Rô-MaGiáo
phải có bổn phận mở mang trí óc của con chiên, không nên cứ để cho họ
chìm đắm trong sự mù mờ trí thức, trong sự mê tín thần học đã lỗi thời
và đã không còn mấy giá trị trong thế giới văn minh tiến bộ ngày nay.
Tôi tin chắc rằng cũng có nhiều người trong số quý vị không còn tin nữa
những lý thuyết thần học hoang đường mà khi xưa đã tạo nên niềm tin
trong thế giới Ki Tô Giáo. Về các trí thức Ca-tô, tôi cũng thành thực
khuyên họ trước khi viết về một vấn đề gì hãy nghiên cứu cho kỹ, đừng có
viết theo cảm tính, nhất là đừng có viết ra những tín điều tín lý trong
Ca-tô Rô-MaGiáo mà ngày nay đã không còn giá trị trước thế giới ở thế kỷ
21. Nếu muốn, quý vị cứ tự nhiên tin với nhau và không ai cấm đoán đức
tin của quý vị. Nhưng một khi quý vị viết ra những niềm tin của quý vị
dựa vào cuốn Kinh Thánh, vào những tín điều của Ca-tô Giáo thì quý vị đã
thách thức sự hiểu biết hiện đại của quần chúng. Và quý vị phải chấp
nhận tinh thần đối thoại phản biện trí thức. Quý vị hãy chịu khó tìm
hiểu kỹ về lịch sử Ca-tô Rô-MaGiáo, lịch sử các giáo hoàng, lịch sử
chính trị của Vatican, lịch sử nhân loại, và nhất là hãy đọc kỹ cuốn
Kinh Thánh từ đầu đến cuối, Cựu Ước cũng như Tân Ước, để khỏi vấp phải
những sai lầm nghiêm trọng mà quý vị thường viết lên như “Giáo hội
Ca-tô là do Chúa thiết lập”, “Giáo hoàng là đại diện của Chúa
trên trần”, “Linh mục là các Chúa thứ hai”, “Tiên tri của
Đức Mẹ ở Fatima” v..v.. và những sai lầm rất kém cỏi như chống “Cộng
sản vô thần”. Với những kiến thức đương đại, cập nhật, hi vọng quý
vị có thể tự cởi trói, vứt bỏ được cặp nạng thiên chúa, hay nói theo Mục
sư Harry Wilson, cất bỏ được gánh nặng thiên chúa trên vai. Khi đó, quý
vị có thể trở thành một con người tự do như Robert G. Ingersoll, một tư
tưởng gia vĩ đại nhất của nước Mỹ:
“Khi
tôi tin chắc rằng vũ trụ là thiên nhiên -
và rằng những thánh ma, thiên chúa chỉ là những huyền thoại, thì những cảm
nghĩ, nhận thức, và niềm hân hoan về sự tự do, giải thoát đã xâm nhập vào
đầu óc tôi, vào linh hồn tôi, và vào từng giọt máu trong người tôi. Những
bức tường của cái nhà tù của tôi đã sụp đổ, ngục tù tăm tối đã được tràn
ngập ánh sáng, và tất cả những then cửa, chấn song, gông cùm đã trở thành
cát bụi. Tôi không còn là một tôi tớ hèn mọn, một người hầu, hay một nô lệ
nữa
(Xin đọc trang nhà Mucsu.net: Người Ki Tô Giáo vẫn thường tự nhận là tôi tớ
hèn hạ, là người hầu việc Chúa v..v.. ) Tôi đã tự do:
-
tự do suy tư, phát biểu tư tưởng
-
tự do sống theo ý tưởng của tôi
-
tự do tận dụng mọi khả năng, mọi giác
quan của tôi
-
tự do tìm hiểu
-
tự do vứt bỏ mọi tín điều ngu đần và độc ác, mọi sách “mạc khải” mà những
người dã man đã tạo ra chúng và mọi truyền thuyết man rợ của quá khứ
-
tự do thoát khỏi những giáo hoàng và linh mục
-
tự do thoát khỏi những sai lầm được thánh hóa và những lời nói láo mang tính
thánh
-
tự do thoát khỏi sự sợ hãi về một sự
đau đớn vĩnh hằng
(đày hỏa ngục)
-
tự do thoát khỏi những ma, quỉ và thiên chúa.”
[11]
Chú thích:
[1]
Newsweek, p.33: The last lines read: I do not want anything to do with
God. I am sick of religion. It is a crutch for the weak.. We make God into
what we need for the moment. I hate God. I hate all those who try to
explain God when they really don’t know.
[2]
The church does not kill now because it does not have the power to kill.
The fagot and the sword have been wrested from her bloody hands, and hatred
and slander are the oly weapons left her.
[3]
The God of the Old Testament is arguably the most unpleasant character in
all fiction: jealous and proud of it; a petty, unjust, unforgiving
control-freak; a vindictive, bloodthirsty ethnic cleanser; a misogynistic,
homophobic, racist, infanticidal, genocidal, filicidal, pestilential,
megalomaniacal, sadomasochistic, capriciously malevolent bully.
[4] A literal Bible presents me with far
more problems than assets. It offers me a God I cannot respect, much less
worship.
There are passages in the Gospels that portray
Jesus of Nazareth as narrow-minded, vindictive, and even hypocritical.
[5]
La
civilisation, cette lumière, peut être éteinte par deux modes de submersion,
deux invasions lui sont dangereuses, l’invasion des soldats et l’invasion
des prêtres. L’une menace notre mère: la patrie; l’autre menace nos
enfants: l’avenir.
[6]
During my lifetime I have progressed from being a “believer,” to being an
agnostic and now an atheist. I use the word “progress” because I believe it
to be true progress to go from blind acceptance of an outdated illogical
mythology to doubt and finally to denial and disbelief...
The myth itself – the Judeo-Christian Bible – is a shocking account of
bloodshed, lust, and bigoted disregard for the lives and well-being of all
peoples who do not profess a blind belief in the precepts presented in such
impossible and contradictory terms.
[7]
Intelligent, educated people tend to doubt the supernatural. So it is
hardly surprising to find a high ratio of religious skeptics among major
thinkers, scientists, writers, reformers, scholars, champions of democracy,
and other world changers – people usually called great.
The advance of Western civilization has been partly a story of gradual
victory over oppressive religion. The rise of humanism slowly shifted
society’s focus away from obedience to bishops and kings, onto individual
rights and improved living conditions. Much of the progress was impelled by
men and women who didn’t pray (to God), didn’t kneel at altars (in
churches), didn’t make pilgrimages (to holy places), didn’t recite creeds.
Western culture has traveled an erratic journey. Ancient Greece and Rome
teamed with intellectual inquiry, amid polytheism. Then the Christian Age
of Faith brought darkness for centuries. The Renaissance revived
individualism and free thingking, which soared in the Age of Reason and the
Enlightenment. With the flowering of science in the nineteenth century,
many thinkers assumed that mystical religion would vanish. Among
intellectuals, it largely has done so..
Slowly, as scientific thinking grew and religion retreated, freedom of doubt
emerged in the West..
Eventually, the right to disbelieve was established. Freethought blossomed
among intellectuals in Europe and America, reaching a heyday at the end of
the nineteenth century and the beginning of the twentieth. Doubters such as
Robert Ingersoll conducted speaking tours to challenge supernaturalism.
Newspaper writer such as H. L. Mencken openly assailed “superstition”...
It
is a strange contradiction: A good part of people around the globe still
still worship unseen gods, and sometimes even kill for them – yet most
Western thinkers, scientists, witers, and other intellectuals generally
reject the supernatural.
For anyone scanning the past and surveying the current world scene, it is
nearly impossible to find any oustanding person – except for popes,
archbishops, kings and other rulers seeking popular support – who says the
purpose of life is to be saved by an invisible Jesus and to enter an
invisible heaven. But ist is easy to find many among the great who doubt
this basic dogma...
[8] The first step, then, in
understanding Atheism is to disregard all the lies and propaganda that
religion has spread against it. Atheism is more than just the knowledge that
gods do not exist, and that religion is either a mistake or a fraud. Atheism
is an attitude, a frame of mind that looks at the world objectively,
fearlessly, always trying to understand all things as a part of nature. It
could be said that Atheism has a doctrine to question and a dogma to doubt.
It is the human mind in its natural environment, nothing is too holy to be
investigated, nor too sacred to be questioned. The Atheist Bible, it could
be said, has but one word: "THINK." Atheism is the complete emancipation of
the human mind from the chains and fears of superstition.
There is absolutely nothing negative
about Atheism; truth can never be negative. The Atheist demands proof, or at
least reasonable evidence, and simply rejects whatever does not meet the
basic requirements of common sense. Throughout history all progress in
society has come from doubting and rejecting old ideas, old customs, and old
beliefs. The tree of human knowledge dies as it grows, with new growth
growing out of the dead and dying parts, and replacing it with better and
truer beliefs. The Theologian is an owl, sitting on an old dead branch in
the tree of human knowledge, and hooting the same old hoots that have been
hooted for hundreds and thousands of years, but he has never given a hoot
for progress.
Morally speaking, Atheism has a great advantage over religion. The great
failure of religious morality comes from their illusion of a morality above
right and wrong. The religious mind has always known it is wrong to murder
and torture, wrong to persecute and hate, wrong to force its beliefs upon
others. Religion has always known these things are wrong, but the religious
mind suffers from the illusion of a "higher morality," and because of that
illusion all history runs deep with innocent blood. In the name of their
"god" and a "higher morality," Christians have waged holy wars of
extermination, have plundered, tortured and murdered those who could not
agree with their religion, or who had never even heard of it. In the name of
this "higher morality" Christians have hated, hunted, persecuted, and
burned alive the "heretic," the "infidel" and the "atheist."
And today, as always, when the religious person does a thing that even he
recognizes as being wrong and immoral, his illusion of a "higher power" and
a "greater morality" allows him to perform some ritual, confession, or
prayer, and presto, miraculously, "all his sins are taken away", and he is
free again from all pains of conscience and regret.
Such foolish illusions do not comfort the Atheist mind. The Atheist knows
there is no morality above right and wrong, and no escape from the pains of
conscience and remorse. Murder is murder, and robbery, hate and persecution
are all crimes against humanity. Morally speaking, then, history tells us it
is better to be an Atheist than to be a Christian.
Religion claims that immorality always springs from a lack of religion, but
the facts prove just the opposite. Christianity has never been stronger than
it is today, Christians have churches in every community, they monopolize
radio and television time with religious propaganda, they have forced their
religion into our government, our laws, and into our schools. They have done
these things against the Constitution of the United States, and against the
most basic and sacred rights of all other Americans, rushed in where it was
not supposed to be, where it has no business to be, silencing all
opposition, all opposing views, poisoning the wells of our knowledge, and
endangering the very roots of our nation.
Christianity is that strong today, and yet we have not achieved any
respectable amount of morality in this country. Nowhere is the failure of
Christian morality more evident than in America. During the same time that
Christianity has been growing ever stronger and ever richer, over the past
thirty years or so, the use of harmful drugs has became a national scandal,
the crime rate has been climbing ever higher and ever faster, the divorce
rate has skyrocketed, and during that time our nation has been embroiled in
more wars and international conflicts than in any other similar time period
in its history. Right to-day we have the highest narcotics abuse rate, the
highest crime rate, the highest divorce rate, and the highest 'religion
rate' that we have ever had in the history of this nation. What does
Christianity say about these facts and how to cure them? They tell us we
need more religion and they are determined to force it upon us. Christianity
feels so strong today that it is moving into politics to try to force its
failing morality upon every American through a Christian Dictatorship and a
new Dark Age.
Once Atheism is achieved, and the mind has escaped entirely from the
religious fears and beliefs that are put upon us from earliest childhood;
and once we can look at religion objectively and impartially, it becomes
entirely obvious that religion has all the characteristics of a form of
insanity. To one degree or another the religious mind must accept, and
believe in, another world; a supernatural or unnatural world, a world filled
with all sorts of imaginary beings called gods, devils, angels, saints,
demons, etc. These imaginary creatures are talked to, asked for favors,
guidance, "signs," or miracles, and then blamed or thanked for natural
events that follow. Except for the cloak of religion, such beliefs and
actions would otherwise cause an individual to be judged insane, and
committed to an institution for treatment.
The study of history will further justify the theory that religion is a form
of insanity. No sane and healthy minds could have waged the bloody religious
wars and crusades where the conquered were slaughtered, men, women, and
children, even infants, all were put to the sword simply because they were
"infidels" or "heretics." The dungeons and torture chambers of the Holy
Inquisition could not have been run by sane and healthy minds. And it had to
be the insane mind, the religious mind, that would tie a woman to a stake,
pile wood and fagots around her and burn her alive for the impossible crime
of being a witch. No sane person could read of the horrors, rape and
slaughter in a savage book and call that book "the word of God." And the
Jesus myth, about a god who must become a man and be murdered before he can
forgive mankind, is the most insane of all.
Today,
Christianity chooses to ignore, or to hide and deny, its own bloody history
and to claim that it is the very foundation of our morals, and even of our
civilization. Religion also claims to be our only hope and guide for the
future. In view of Christian history these claims are, in themselves, sheer
insanity.
[9]
Sans les missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr. Puginier, les Francais
seraient comme les crabes auxquels on aurait cassé toutes les pattes. La
comparaison, pour être triviale, ne manque pas de justesse et de force. En
effet, sans les missionnnaires et les chrétiens, les Francais se verraient
entourés d'ennemis; ils ne pouraient se fier à personne; ils ne recevraient
que de faux renseignements, méchamment donnés pour compromettre leur
situation; ils se trouveraient donc réduits à l'impossibilité d'agir et
seraient rapidement exposés à des vrais désastres. Leur position ici ne
serait plus tenable, et ils ne verraient forcés de quitter un pays où leurs
intérêts et leur existence même serait compromis.
[10]
It is the non-belief of atheists that bothers them. These people have faith
so thoroughly ingrained in their lives that to see somebody without a trace
threatens them. They simply cannot conceive of somebody not believing in a
deity of some sort. The idea is completely foreign to them, and therefore
menacing. It forces them to evaluate their own beliefs. They become
defensive and attack because the things they hold intrinsically and
unquestionably sacred are being challenged by the mere philosophical
position of another.
They accuse
atheists of leading selfish, corrupt, and immoral lives without fear of
consequences. They accuse atheists of lacking moral codes. This is, of
course, irrational, fear-mongering nonsense. According to a 1997 statistic,
only 0.20% of prisoners incarcerated in the United States identify as
atheists. Since atheists currently represent roughly 14% of the overall U.S.
population, this is a significant indicator of the "morality" of the modern
atheist. These rabid believers clash with atheists knowing perfectly well
that they are helpless to alter the ideological perceptions of their
perceived foe. Why then, do they choose to partake of this exchange of
bad blood? Because they're angry and they're frightened. They're angry
because we have the nerve to indirectly challenge their insecurely-held
beliefs with our continued existence. They're frightened because they fear
that they're losing their foothold on the theocratic monopolization of
America (school prayer, Christian-oriented legislature, etc.)... an
officially secular country, mind you.
Lashing out, spreading lies and misconceptions, and demonizing the enemy is
a natural way to react to opposition; however contrary to the teachings
of their professed lord and savior. Any anti-atheist backlash you're
witnessing here is simply the result of reactionary mean-spiritedness, and
nothing more. The misinformation is a sign of desperation.
[11]
When I became convinced that the Universe is natural – that all the holy
ghosts and gods are myths, there entered into my brain, into my soul, into
every drop of my blood, the sense, the feeling, the joy of freedom. The
walls of my prison crumbled and fell, the dungeon was flooded with light and
all the bolts, and bars, and manacles became dust. I was no longer a
servant, a serf, or a slave...I was free
- free to think, to express my thoughts
- free to live to my own ideal
- free to use all my faculties, all my senses
- free to investigate
- free to reject all ignorant and cruel creeds, all the “inspired”
books that savages have produced, and all the barbarous legends of the past
- free from popes and priests
- free from sanctified mistakes and holy lies
- free from the fear of eternal pain
- free from devils, ghosts and gods
Bài cùng đề tài:
- TÔI ĐỌC BÀI “NHẬN THỨC…” Của THIỆN Ý
NGUYỄN VĂN THẮNG
http://sachhiem.net/TCN/TCNdt/TCNdt033.php
Các bài thời sự cùng tác giả
▪
22 Năm Giao Điểm: Trừ Tà - Hiển Chánh và Độ Sinh -
Trần Chung Ngọc
▪
Chủ Nghĩa Khủng Bố và Diệt Chủng -
Trần Chung Ngọc
▪
Cuốn Triumph Forsaken của Mark Moyar -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Người Máy Chống Cộng -
Trần Chung Ngọc
▪
Tại Sao Những Người Tin Chúa Lại Thù Ghét Những Người Vô Th -
Trần Chung Ngọc
▪
Tản Mạn về Chống Cộng -
Trần Chung Ngọc
▪
Ăn Cơm Quốc Gia Thờ Ma Cộng Sản - Một Câu Chữ Của Những Kẻ U Mê -
Trần Chung Ngọc
▪
ĐĐ Thích Nhật Từ và Các Xóm Đạo Washington D.C. -
Trần Chung Ngọc
▪
Đọc "Món Hàng Xuất Cảng Làm Chết Người Nhất Của Mỹ: DÂN CHỦ" -
Trần Chung Ngọc
▪
Avro Manhattan: Cơn Ác Mộng Của Một Quốc Gia -
Trần Chung Ngọc
▪
BA MƯƠI THÁNG TƯ VÀ TÔI TỪ KIẾN THỨC ĐẾN LẬP TRƯỜNG -
Trần Chung Ngọc
▪
Bang Giao "Bắc Kinh-Vatican" (?) Một Kinh Nghiệm Quý Giá Cho Việt Nam -
Trần Chung Ngọc
▪
Bang Giao Với Vatican? Bang Giao Như Thế Nào ?? -
Trần Chung Ngọc
▪
Công Nghiệp Cuối Cùng -
Vài Suy Tư Xung Quanh Sự Ra Đi Của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp -
Trần Chung Ngọc
▪
Cựu Tổng Thống Mỹ Jimmy Carter & Liên Hiệp Quốc Lên Án Mỹ Vi Phạm Quốc Tế Nhân Quyền -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Phịa Thời Sự: Tin Vịt Truyền Thông -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Thời Sự Về Bức Thư “Chê Chúa” Của Einstein -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Thời Sự - Về Bức Thư “Chê Chúa” Của Einstein -
Trần Chung Ngọc
▪
Kiến Thức 30/4 Qua Các Danh Nhân - Tại Sao Chúng Ta Thua ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Kiến Thức 30/4 Qua Các Danh Nhân - Tại Sao Chúng Ta Thua ? -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 ▪
>>>