Tại Sao Những Người Tin Chúa Lại Thù Ghét Những Người Vô Thần? Trần Chung Ngọc | ||
Vài Lời Đầu: Trên thế giới ngày nay có khoảng 6.3 tỷ người, trong đó có hơn 2/3 hoặc không biết đến Chúa hoặc không tin Chúa của Ki Tô Giáo. Nhưng Ki Tô Giáo, nhất là Ca-tô Rô-MaGiáo [Công giáo] lại đặc biệt thù ghét một lớp người nhỏ trong số người “không tin Chúa” mà họ gọi là “vô thần”. Đọc trên Internet những bài viết của tín đồ Ca-tô Việt Nam chúng ta thấy họ luôn luôn lên án vô thần, coi vô thần như là một điều không thể tha thứ trước Chúa của họ. Họ luôn luôn coi Ca-tô Rô-MaGiáo của họ là thánh thiện, còn vô thần là ma quỉ, là hiện thân của Satan [vốn là một sản phẩm tưởng tượng của Ki Tô Giáo bày đặt ra để tự bảo vệ sự thánh thiện của Ki Tô Giáo, và thuận tiện đổ lên đầu Satan tất cả những hành động vô luân, tàn bạo, ác ôn của chính Ki Tô Giáo], nhất là khi họ kết hợp một cách vô cùng lếu láo vô thần với Cộng sản. Đám con chiên này, kể cả các bậc được gọi là trí thức Ca-tô, quả thực không biết gì về lịch sử, bản chất thực của Ca-tô Rô-MaGiáo cũng như lịch sử của vô thần. Trước khi tìm hiểu tại sao những người tin Chúa của Ki Tô Giáo, nhất là những người Ca-tô Rô-MaGiáo Việt Nam, lại ghét những người vô thần, chúng ta cần kể đến hai tài liệu: · Tờ Newsweek số ngày 7 tháng 5, 2007 có viết về chuyện một Mục sư tuyên úy phục vụ ở Iraq và nay trở về phục vụ trong Quân Y Viện Walter Reed. Bài báo viết về cuốn Nhật Ký của Mục sư tuyên úy Roger Benimoff. Những dòng cuối cùng trong Nhật Ký viết: “Tôi không muốn dính dáng gì đến Thiên Chúa. Tôi thật chán ngấy tôn giáo. Đó là cặp nạng cho những kẻ yếu kém.. Chúng ta tạo ra Thiên Chúa cho những gì chúng ta cần đến trong một lúc. Tôi thậm ghét Thiên Chúa. Tôi thậm ghét tất cả những kẻ nào toan tính giảng giải về Thiên Chúa trong khi họ thực sự không hiểu gì về Thiên Chúa” [1]
· Cựu Thống Đốc Jesse Ventura của Bang Minnesota cũng đã từng phát biểu: “KiTô giáo là một sự giả dối trống rỗng và là một cặp nạng cho những người có đầu óc yếu kém cần đến sức mạnh của số đông” (Christianity is a sham and a crutch for weak-minded people who need strength in numbers) Thật là rõ ràng, Thiên Chúa của Ki Tô Giáo chính là cặp nạng cho những người đầu óc yếu kém. Tâm lý người đời thường là ganh ghét vì mặc cảm thua kém. Người nghèo ganh ghét người giầu. Người thất bại ganh ghét người thành công. Người suốt đời phải cúi đầu theo “đức vâng lời” ganh ghét người tự do tư tưởng, tự do suy tư v…v…. Tất nhiên người phải cần đến cặp nạng để lê lết trên cuộc đời ganh ghét những người có thể tự mình bước đi những bước chân vững vàng trên mặt đất. Đó có lẽ là lý do tâm lý mặc cảm, một trong nhiều lý do mà người tin Chúa ghét người vô thần, trong khi thực ra người vô thần chỉ muốn giúp những người tin Chúa vứt bỏ đi cặp nạng của mình như trong câu chuyện sau đây của Robert G. Ingersoll: Có một ông bác sĩ giải phẫu đến thăm một người tàn tật đáng thương và đề nghị giúp anh ta trong khả năng của ông ta. Ông bác sĩ bắt đầu phân tích về bản chất và nguồn gốc chứng tật của người kia, về những loại thuốc có thể giúp anh ta, về sự lợi ích của tập luyện, của không khí trong lành và ánh sáng, và nhiều điều khác có thể giúp chữa lành được chứng tật của người kia. Tất cả những hành động này đều do thiện ý của một bác sĩ có những kiến thức chính xác. Nhưng người kia hoảng sợ và kêu lên, “Tôi xin ông, đừng lấy đi cặp nạng của tôi. Đó là cái tôi phải tựa vào, nếu không thì tôi sẽ khốn khổ.” Ông bác sĩ giải phẫu nói: “Tôi không có lấy đi cặp nạng của anh, tôi sẽ chữa lành cho anh, và rồi tự anh sẽ vứt bỏ cái cặp nạng ấy đi.” Câu van xin đừng lấy đi cái cặp nạng Thiên Chúa của những người tin Chúa ở trên cũng là tâm cảnh của ông Thiện Ý trong bài: “NHẬN THỨC: TÔN GIÁO LÀ MỘT PHẠM TRÙ ĐỨC TIN VÀ LÀ MỘT DÂN QUYỀN HIẾN ĐỊNH CẦN ĐƯỢC PHÁP LUẬT BẢO VỆ” (đăng ở http://sachhiem.net/EMAILS/emailN/NguyethiThanh.php) mà nội dung chủ trương tôn giáo là một phạm trù đức tin cho nên không ai có quyền xâm phạm, và quốc gia cần phải có Pháp Luật để bảo vệ cái quyền mang cặp nạng Thiên Chúa của Ki Tô Giáo nói chung. Nhưng trong mọi xã hội, đức tin tôn giáo không chỉ thuần túy là đức tin trong cộng đồng những người có cùng một đức tin, mà nó còn có ảnh hưởng đến mọi hình thái sinh hoạt của người dân và sự ổn định trong xã hội. Do đó, trong những xã hội văn minh tiến bộ Âu Mỹ, tôn giáo được coi như là một thành phần của xã hội, phải theo những quy luật của xã hội, do đó chúng ta thấy tràn ngập những tác phẩm phê bình tôn giáo, phê bình từ đức tin cho đến những hành động của tôn giáo bắt nguồn từ đức tin đó. Đấu Tố Giao Điểm - Không Một Chứng Minh Mở đầu, ông Thiện Ý mở một màn đấu tố Giao Điểm kiểu chụp mũ xuyên tạc để gây thù hận mà không đưa ra bất cứ một luận cứ nào để phản bác bất cứ bài nào của Giao Điểm, nhất là không đưa ra bất cứ đoạn nào trong các bài trên Giao Điểm để chứng minh cho những điều ông ta viết như sau mà mục đích chỉ là vu khống để gây thù hận: Không phải chỉ mới đây mà đã từ lâu nhóm Giao Điểm, một nhóm qui tụ những người vô thần đội lốt tôn giáo cực đoan, đã viết báo, viết sách và các phương tiện truyền thông khác để phê bình chỉ trích, bài bác, đánh phá Giáo hội Công Giáo nói riêng, Thiên Chúa Giáo nói chung, trên hai bình diện giáo lý tín điều và lịch sử hình thành, phát triển giáo hội. Bằng những nhận thức và suy luận chủ quan dựa trên những căn cứ giả chân lẫn lộn để ngụy biện, xuyên tạc sự thật, xử dụng những ngôn từ thiếu văn hóa lăng mạ Thượng Đế và các Thần Thánh mà hàng tỷ con người có chung niềm tin yêu tôn thờ, xúc phạm thô bạo niềm tin tôn giáo cá nhân cũng như tập thể. Đồng thời, bằng mọi cách gian trá, thậm từ mạ lỵ và phủ nhận công trạng [sic] các nhân vật lịch sử Việt Nam gốc Công giáo như Nguyễn Trường Tộ, Ngô Đình Diệm (*) v.v… (*) Về “Thực chất Nguyễn trường Tộ là Việt gian” xin đọc Bùi Kha. Về “Ngô Đình Diệm thuộc giòng họ ba đời làm Việt gian” xin đọc Nguyễn Mạnh Quang. Vì ông Thiện Ý chỉ viết vu vơ như trên, không cho độc giả biết những ai trong nhóm Giao Điểm là vô thần đội lốt tôn giáo cực đoan, và tôn giáo nào là tôn giáo cực đoan, cho nên những gì ông Thiện Ý viết vu vơ ở trên đều vô giá trị. Chuyện rõ như ban ngày, cả thế giới đều biết, từ xưa tới nay, hai tôn giáo cực đoan nhất chính là Ca-tô Rô-MaGiáo [Công giáo] và Hồi Giáo, và các tín đồ tôn giáo mê tín và cuồng tín nhất cũng là tín đồ Ca-tô và tín đồ Hồi giáo. Vô Thần và Cộng Sản Không Phải Là Một Đọc bài trên và bài “Quyết định sai lầm của người đứng đầu nhà nước Vatican đã gây hậu quả gì ?” (xem link http://sachhiem.net/TONGIAO/tgTH/ThienY01.php) của ông Thiện Ý về vụ việc ông “Tổng Kiệt nhục nhã” ra đi, tôi thấy ông ta đúng là một tín đồ Ca-tô mê tín và cuồng tín nhất hạng, cộng với một kiến thức có thể nói là đặc thù Ca-tô, nếu có thể gọi đó là kiến thức, một kiến thức không đội trời chung với sự tiến hóa của nhân loại cũng như với sự hiểu biết lịch sử. Thời buổi này mà ông ta còn cho rằng Giáo hội Ca-tô là do chính Chúa Giê-su thành lập và Giáo hoàng là đại diện của Chúa trên trần. Ông ta không bao giờ viết về Cộng sản không mà bao giờ cũng kèm theo từ vô thần. Trong bài Quyết định sai lầm của người đứng đầu nhà nước Vatican đã gây hậu quả gì ? dài độ hai trang, tôi đếm được ông ta dùng 16 lần cụm từ “nhà nước cộng sản vô thần Việt Nam” chứng tỏ ông ta không biết thế nào là vô thần, và kém đến độ không biết rằng viết như vậy thực sự là vinh danh, ca tụng Cộng sản. Người Ca-tô, trí thức hay không, đều chống Cộng một cách mù quáng như vậy cả. Họ nhắm mắt theo sách lược chống Cộng vô thần của Giáo hội ngày nay, đúng như nhận định của John Remsburg trong cuốn False Claims, trang 24: Ngày nay Giáo hội không còn giết được nữa vì không còn quyền lực để mà giết. Bó củi (để thiêu sống người) và thanh gươm (để chém giết người) đã bị tước khỏi những bàn tay đẫm máu của giáo hội, và ngày nay giáo hội chỉ còn lại hai vũ khí: gây thù hận và vu khống. [2] Khích động thù hận những người không tin Thiên Chúa Gây thù hận là khích động con chiên thù hận và chống những người không tin Thiên Chúa tuy rằng Thiên Chúa của Ca-tô Rô-Ma Giáo là một nhân vật mà Kinh Thánh đã viết rõ, đúng như nhận định của Richard Dawkins như sau trong cuốn “The God Delusion”, trang 51: Không cần phải bàn cãi gì nữa, Thiên Chúa trong Cựu Ước là nhân vật xấu xa đáng ghét nhất trong mọi chuyện giả tưởng: ghen tuông đố kỵ và hãnh diện vì thế; một kẻ nhỏ nhen lặt vặt, bất công, có tính đồng bóng tự cho là có quyền năng và bất khoan dung; một kẻ hay trả thù; một kẻ khát máu diệt dân tộc khác; một kẻ ghét phái nữ, sợ đồng giống luyến ái, kỳ thị chủng tộc, giết hại trẻ con, chủ trương diệt chủng, dạy cha mẹ giết con cái, độc hại như bệnh dịch, có bệnh tâm thần hoang tưởng về quyền lực, của cải, và toàn năng [megalomaniacal], thích thú trong sự đau đớn và những trò tàn ác, bạo dâm [sadomasochistic], là kẻ hiếp đáp ác ôn thất thường. [3] Trong bài “Về Ba Ngôi Thiên Chúa - Một Khảo Luận Trong Ánh Sáng Của Thánh Kinh Và Giáo Lý Công Giáo” (http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/3NGOI/TCN72.php ) tôi đã trích dẫn những đoạn trong Cựu Ước để chứng minh nhận định của Richard Dawkins như trên là không sai.
Quyền tin vào một Thiên Chúa như trên là quyền của bất cứ ai, nhưng dựa vào niềm tin đó để mà chống những người không tin Thiên Chúa, đó là chuyện trong thời Trung Cổ. Còn vu khống là kết hợp Cộng sản với vô thần, một kết hợp rất quái đản mà tôi sẽ chứng minh trong một phần sau. Bảo vệ lịch sử đẫm máu và tàn ác của Giáo hội Ca-tô Rô-MaGiáo Để bảo vệ cái lịch sử ô nhục, đẫm máu, tàn ác, bất nhân của Giáo hội Ca-tô Rô-MaGiáo, ông Thiện Ý đưa ra một luận điệu phi trí thức, phản văn hóa như sau: Phạm trù “Đức tin tôn giáo” là không thể và không nên tranh luận: Chính sự khác biệt giữ hai phạm trù “Tri thức” của khoa học và “Đức tin” của tôn giáo, nên không thể và không nên có các cuộc tranh luận (về giáo lý, tín điều…), dưới bất cứ hình thức nào (miệng hay bút chiến…) giữa những người khác tôn giáo hay giữa những người hữu thần với vô thần… Tại sao lại không thể và không nên? Nếu không thể và không nên thì thế giới làm gì có tiến bộ. Nếu không thể và không nên thì nhân loại vẫn còn chìm đắm trong thời Trung Cổ, một thời đại mà các học giả đã gọi là “thời đại của sự man rợ và đen tối trí thức” (The ages of barbarous and intellectual darkness) của Ca-tô Rô-MaGiáo, thời đại mà Ca-tô Rô-MaGiáo nắm quyền sinh sát trong tay cho nên đã gây ra bao nhiêu thảm họa cho nhân loại qua các cuộc Thập Tự Chinh, các Tòa Hình Án Xử Dị Giáo, các cuộc săn lùng, tra tấn và thiêu sống phù thủy v…v… trong vô số các tội ác khác, những tội ác kéo dài từ đầu lịch sử Ca-tô Rô-MaGiáo cho tới ngày nay, thế kỷ 21.. Ông Thiện Ý cũng không biết rằng, vì “có thể” và “rất nên” nên những người vô thần trong những thời đại khai sáng, thời đại phân tích v…v…, đã văn minh hóa Ca-tô Rô-MaGiáo, tước đi quyền lực của cái tôn giáo đã một thời nắm quyền sinh sát trong tay. Kỳ lạ thay, chính Chúa Giê-su đã phán: “Sự thật sẽ cởi trói cho các ngươi” [The truth will set you free], nhưng các tín đồ Ca-tô lại cứ luôn luôn sợ sự thật, cứ bám vào những xiềng xích đang trói buộc mình, và cố gắng hết sức để giữ lại cái cặp nạng Thiên Chúa. Thiện ý của Giao Điểm và Sách Hiếm là giải hoặc Ki Tô Giáo qua những bài nghiên cứu nghiêm cẩn về Ki Tô Giáo, dựa trên những kiến thức chính xác về Ki Tô Giáo của chính nhiều bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo cũng như của hàng trăm học giả, chuyên gia nghiên cứu về Ki Tô Giáo, những kiến thức không ai có thể phủ bác hay cho đó là sai lầm, những kiến thức mà tuyệt đa số tín đồ Ki Tô Giáo hoặc không đủ trình độ để biết, hoặc bị giới chăn chiên che dấu kỹ hay đe dọa không cho tiếp cận.. Nhưng đối với ông Thiện Ý thì những kiến thức này chỉ là “ngụy biện, xuyên tạc sự thật, xử dụng những ngôn từ thiếu văn hóa lăng mạ Thượng Đế” hay “mạ lỵ và phủ nhận công trạng [sic] các nhân vật lịch sử Việt Nam gốc Công giáo như Nguyễn Trường Tộ, Ngô Đình Diệm v.v…” Vì khoảng cách kiến thức về tôn giáo và lịch sử quá sai biệt giữa những người Ca-tô và người trí thức ngoại đạo, nhất là giữa những người tin Chúa và người vô thần, cho nên tranh luận đối thoại với những người tin Chúa như ông Thiện Ý là chuyện mất thì giờ, vô ích. Trong bài này tôi chỉ tìm hiểu tại sao những người tin Chúa lại thù ghét những người vô thần.
-- ooOoo --- Tại sao những người tin Chúa lại thù ghét những người vô thần ? Đầu óc của những người tin Chúa đã bị điều kiện hoá và thuần hóa để hăng say chống Cộng vì họ được nhồi sọ Cộng sản là vô thần trong khi họ hoàn toàn không hiểu thế nào là vô thần. Người Cộng sản có thể là vô thần, nhưng người vô thần thì không nhất thiết phải là Cộng sản. Nước Mỹ ngày nay có tới 12% – 14% tự coi là vô thần, chẳng ai có thể bảo số người Mỹ này là vô thần Cộng sản ! Kết hợp Vô Thần với Cộng Sản là một thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc xảo quyệt mà Ki Tô Giáo nói chung, đặc biệt là Ca-tô Rô-MaGiáo, dùng để gây hận thù tôn giáo, mê hoặc đám tín đồ thấp kém mê tín và cuồng tín, trong sách lược chống Cộng trước đây.
Sự khai thác lòng sùng tín đượm màu mê tín của giáo dân chúng ta có thể thấy rõ trong sách lược của Giáo hội ngụy tạo ra những màn hiện thân của bà Maria mà điển hình là vụ “Đức mẹ Maria” hiện ra ở Fatima để trao cho 3 đứa trẻ mù chữ những thông điệp chống Cộng gồm 3 điều bí mật: 1) Cảnh tượng của hỏa ngục; 2) tiên đoán Nga Sô sẽ cải đạo theo Ca-tô Rô-MaGiáo; và 3) một bí mật không được tiết lộ cho đến năm 1960, nhưng tòa Thánh đã dấu kín cho đến cuối thế kỷ 20, và khi John Paul II tiết lộ thì không ai biết đó có đúng là điều giáo hội đã ngụy tạo ra trước hay là mới ngụy tạo ra, nhưng điều chắc là, theo một số chuyên gia về Ca-tô giáo, thì điều “bí mật” sau cùng này là điều giáo hội mới phịa ra để đánh bóng vai trò của John Paul II trước tình trạng suy thoái hiện thời của giáo hội.
Sợ đen hơn đỏ.
Nhưng thực tế lịch sử thì sao? Chúng ta biết, đã có thời hầu hết các nước theo Ki Tô Giáo “hữu thần” ở Âu Châu đã chịu ảnh hưởng không ít thì nhiều của “Cộng Sản”: Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi, Ý, Nam Tư , Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Bỉ, Đan Mạch, một phần nước Đức, và ngay cả trưởng nữ của giáo hội Ca-tô Rô-Ma: nước Pháp. Điển hình là ở Ba Lan, sau khi chế độ Cộng sản sụp đổ, Ba Lan vẫn “sợ đen hơn đỏ”. Điều này chứng tỏ những người theo Cộng Sản ở Âu Châu cũng như ở khắp nơi trên thế giới không hẳn là Vô Thần.
Chúng ta cũng biết, giáo hoàng John Paul II đã tuyên bố chẳng làm gì có hỏa ngục, hỏa ngục không phải là một nơi chốn trong lòng đất. Sự kiện này đã chứng tỏ những lời mô tả hỏa ngục của Đức Mẹ ở Fatima là do giáo hội bày đặt ra qua hoạt cảnh Fatima do giáo hội dàn dựng trước đây. Và chúng ta cũng đã biết, chính quyền Nga đã ra đạo luật đặt Ca-tô Rô-MaGiáo ra ngoài vòng pháp luật, cấm Ca-tô Rô-MaGiáo không cho truyền đạo trong nước, nên không làm gì có chuyện Nga Sô cải đạo theo Ca-tô Rô-MaGiáo..
Phù thủy chế tạo những “phép lạ”
Những sự kiện lịch sử trên đã chứng tỏ rằng “Phép lạ Fatima” hay “phép lạ Ca-tô” ở bất cứ đâu, như ở “La Vang” tại Việt Nam, chẳng hạn, chẳng qua chỉ là những màn lừa bịp những người nhẹ dạ cả tin qua những trò bày đặt của giáo hội hoặc để chống Cộng, hoặc để nuôi dưỡng lòng sùng tín Maria của giáo dân, và nhất là để mang lại những lợi nhuận kinh tế. Thật vậy, những điều bí mật và tiên đoán mà bà Maria tiết lộ cho 3 em bé mù chữ ở Fatima rút cuộc đều sai bét.. Chúng bắt buộc phải sai vì chuyện đức mẹ hiện ra ở Fatima hay bất cứ ở đâu đều là chuyện hoang đường, và những lời giáo hội đặt vào miệng đức mẹ chỉ là những lời lừa bịp tín đồ vì ngày nay chúng đã chứng tỏ là không có điều nào đúng.
Chúng ta cũng còn nhớ chuyện bức tượng của đức mẹ khóc chảy máu mắt vì thương sót nhân loại (Đức mẹ quyền phép vô cùng nhưng chỉ biết khóc đến chảy máu mắt). Chỉ phiền có một điều là người ta đã mang máu mắt của Đức Mẹ đi phân tích DNA và chứng minh được rằng đó là máu của ...đàn ông. Giáo hội mẹ cũng như các giáo hội con không hề quan tâm đến sự kiện khoa học này, chỉ cần làm sao cho tín đồ tin, đổ xô đến lễ bái và … thu tiền là được rồi. Bởi vậy cho nên ngày nay tượng Chúa Giê-su chảy máu, hay tượng Đức Mẹ khóc, Giáo hội chỉ có thể cho xảy ra trong những kém phát triển về kinh tế, người dân còn sống trong khó khăn vật chất, dân trí chưa mở mang đúng mức, chứ không dám cho xảy ra trong những nước văn minh tiến bộ trong đó người dân có mức sống thoải mái và có tinh thần độc lập như Anh, Mỹ, Pháp, Nhật Bản, và nhất là, những màn ngụy tạo phép lạ không thể qua mắt được những khoa học gia đương đại.
Thật vậy, ở Úc trước đây, vụ một linh mục Việt Nam dàn dựng ra cảnh tượng Đức Mẹ chảy dầu đã bị chính giáo hội Ca-tô Rô-Ma Úc điều tra và phủ bác, coi là ngụy tạo dàn dựng. Thật không biết xấu hổ, thời buổi này mà chúng ta còn thấy những tên bất lương vẫn còn tiếp tục khai thác sự yếu kém tinh thần của đám con chiên một cách bất chính. Nhưng đó hầu như là bản chất của một tôn giáo “mạc khải”, “tông truyền”, “thánh thiện”, là “thân thể của Chúa”, là “hiền thê của Chúa”, một tôn giáo thường tự nhận là “văn minh tiến bộ” nhất thế giới.
Kết hợp “Cộng sản” với “Vô thần”: một ná, bốn năm chim Tại sao Ca-tô Rô-MaGiáo lại kết hợp Cộng sản với vô thần rồi chống đối một cách điên cuồng bất kể thủ đoạn như vậy? Thật là dễ hiểu, vì lý thuyết của Marx, không hẳn là vô thần, chủ trương bác bỏ một Thiên Chúa của Ki Tô Giáo, một Thiên Chúa có những thuộc tính không xứng đáng với một Thiên Chúa nếu thực sự là Thiên Chúa. Marx muốn loại bỏ một Thiên Chúa bất xứng như vậy ra khỏi đầu óc con người, vì một Thiên Chúa như vậy chỉ có tác dụng làm tê liệt đầu óc con người như thuốc phiện. Chúng ta nên nhớ, khi Marx nói “tôn giáo là thuốc phiện” thì tôn giáo đây là Ki Tô Giáo mà Marx biết rõ chứ không phải nói về mọi tôn giáo, thí dụ như Phật Giáo hay Lão Giáo mà Marx không hề biết gì về những tôn giáo này. Kết quả lý thuyết Marx đã làm cho người dân Âu Châu thức tỉnh phần nào, vứt đi cặp nạng Thiên Chúa, và đưa Ki Tô Giáo vào con đường suy thoái không có cách nào cứu vãn. Hiện tượng này thật là rõ rệt, không những chỉ ở Âu Châu, cái nôi của Ki Tô Giáo, mà còn ở khắp nơi trên thế giới, kể cả Bắc Mỹ. Học giả Ca-tô Joseph L. Daleiden đã viết trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng (The Final Superstition, Prometheus Books, New York, 1994): “Căn nguyên sự thù ghét của giáo hội Ca-tô đối với Cộng Sản là giáo hội ý thức được rằng Cộng Sản, về ảnh hưởng, là một địch thủ tôn giáo.” (The root of the (Catholic) Church’s antipathy toward Communism is its realization that Communism is, in effect, a rival religion). Cũng vì vậy mà Ki Tô Giáo, nhất là Ca-tô Rô-MaGiáo, đã dùng mọi thủ đoạn, khai thác sự cuồng tín và mê muội của tín đồ, gây căm thù trong đầu óc họ đối với Cộng sản mà Ki Tô giáo gán cho hai chữ Vô Thần, hàm ý Cộng sản chống Thần của Ki Tô Giáo. Thật ra thì Ki Tô Giáo đã mượn Cộng sản để chống vô thần.
Vì không có một căn bản triết lý nào để chống vô thần nên Ca-tô Rô-MaGiáo đã kết hợp vô thần với Cộng sản, thổi phồng mặt tiêu cực của Cộng sản để chống vô thần, và lờ đi cái lịch sử ô nhục tàn bạo của mình. Cùng một sách lược, trước sự phát triển của Phật Giáo ở Tây phương, giáo hoàng John Paul II đã viết cuốn Bước Qua ngưỡng Cửa Hi Vọng trong đó ông ta phê bình: “Phật giáo đại để là một hệ thống “vô thần”” (Buddhism is in large measure an “atheistic” system). Câu viết đần độn lắt léo này chỉ có mục đích đồng nhất hóa “vô thần” của Cộng Sản với “vô thần” của Phật Giáo để giữ đám tín đồ đừng đi theo Phật Giáo. Giáo hội cũng tận dụng mọi phương tiện truyền thông tuyên truyền để tẩy não đám tín đồ có đầu mà không có óc, cấy vào đầu óc họ một ý niệm là “Vô thần tất nhiên phải xấu, chỉ có tôn giáo “hữu thần” mới là tốt” trong khi lịch sử đã chứng tỏ là trái ngược hẳn lại. Những người vô thần nổi tiếng từ xưa tới nay đều là những bậc thông thái, có đạo đức, chứ không tàn bạo, ngu đần, vô đạo đức như một số giáo hoàng thờ thần trong cái tôn giáo thờ thần là Ca-tô Rô-MaGiáo như lịch sử đã chứng minh. Và trong những xã hội Ki Tô Giáo “hữu thần”, tỷ lệ những tội ác như giết người, cướp của, loạn luân, con giết cha mẹ, cha mẹ giết con, ma túy v..v.. đã vượt trội những xã hội “vô thần”. Theo định nghĩa, Vô thần có nghĩa là không tin, từ chối, không chấp nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa (Atheism = Disbelief in or denial of the existence of God). Thiên Chúa ở đây phải hiểu là Thiên Chúa của Ki Tô Giáo. Vô thần không có nghĩa là chống Thiên Chúa, vì chống một cái không hiện hữu là một chuyện vô ích. Nói cho đúng ra, Vô Thần, nếu có chống, là chống sự mê tín của con người vào một Thiên Chúa do chính con người bày đặt ra, một Thiên Chúa không đáng để cho ai thờ phụng như Giám mục John Shelby Spong đã nhận định trong cuốn Rescuing The Bible From Fundamentalism, pp. 21,24: Cuốn Thánh Kinh đã làm cho tôi đối diện với quá nhiều vấn đề hơn là giá trị. Nó đưa đến cho tôi một Thiên Chúa mà tôi không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng… Có những đoạn trong bốn Phúc Âm mô tả Giê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả. [4]
Bất cứ người nào có đôi chút kiến thức cũng phải hiểu rằng: Cọng sản là một hệ thống chính trị xã hội – kinh tế (Communism is a socio-economic political system) trong khi Vô Thần là một lập trường của các cá nhân đối với các tôn giáo (thần giáo), đặc biệt là Ki Tô Giáo (Atheism is a position taken in respect to religion, especially Western religion.), và Vô Thần đã có từ trên 2000 năm nay, với những Socrates, Plato, Aristotle, Epicure v..v.., chứ không chỉ mới có trong lý thuyết của Marx. Thực tế thì Cộng sản mới chỉ thực sự ra đời cách đây chưa đầy 100 năm, từ 1917 ở Nga.
Người Ca-tô, trí thức hay không, đều chống Cộng một cách mù quáng khi kết hợp Cộng sản với vô thần. Để mở mang đầu óc của họ, để giúp cho họ có thể vứt bỏ được những cặp nạng không cần thiết để có thể tự mình hai chân bước vững chãi trên đường đời, và để cho họ thấy họ chống “Cộng sản vô thần” thì chỉ chứng tỏ họ là những tín đồ cuồng tín, vô kiến thức. Sau đây tôi sẽ giới thiệu vài tài liệu để cho họ hiểu rõ hơn về “vô thần” và từ đó có thể thoát ra khỏi cảnh ngu ngơ với từ “cộng sản vô thần”. Giữa thế kỷ 18, nhà Đại Văn Hào Pháp Voltaire đã nhận định: “vô thần là thói xấu của một số ít những người thông minh” (Atheism is the vice of a few intelligent people) để đối chiếu với số đông những người “hữu thần” ngu dốt tin nhảm tin nhí vào một thần trong thời đó ở Âu Châu, tuyệt đại đa số là tín đồ Ki-Tô Giáo. Chúng ta hãy nhớ đến cuộc cách mạng của Pháp vào năm 1789, trong đó người dân Pháp đã nhìn Ca-tô Rô-MaGiáo như thế nào và đã có những biện pháp nào đối với Giáo hội Ca-tô ở Pháp. Pháp, Trưởng Nữ của Giáo Hội Ca-tô Rô-ma, trong cuộc Cách Mạng 1789, đã chính thức đưa Lý Trí lên bàn thờ Chúa, đã tàn sát trên 17000 Linh Mục, 30000 Nữ Tu và 47 Giám Mục, và đã dẹp mọi Trường Dòng, Trường Học Công Giáo, những Dòng Tu, đốt phá nhà thờ, thư viện của Giáo hội v..v.. [Xin đọc The Decline and Fall of The Roman Church của Linh mục Dòng Tên Malachi Martin, Giáo sư tại Viện Nghiên Cứu Thánh Kinh Của Giáo Hoàng, và đã phục vụ trong Vatican dưới triều Giáo hoàng John XXIII, trang 196: “France, “eldest daughter of the Church”, enthroned Reason officially as supreme deity, massacred over 17,000 priests and 30,000 nuns as well as 47 bishops, abolished all seminaries, Catholic schools, religious orders, burned churches and libraries...”] Ca-tô Giáo là một hiểm họa của quốc gia Người đọc sử không thể không tự đặt cho mình một câu hỏi: Nước Pháp vào thế cuối thế kỷ 18 có thể gọi là toàn tòng Ca-tô. Nền giáo dục quốc gia nằm trong tay giới giáo sĩ. Nếu Ca-tô Giáo thực sự là một lực lượng tinh thần của dân chúng, nếu Ca-tô Giáo là một “hội thánh” được chỉ đạo về luân lý đạo đức bởi các giới giáo sĩ và nữ tu, nếu Ca-tô Giáo thực sự mang phúc lợi đến cho quốc gia v..v.. , thì tại sao lại lại có thể xảy ra những vụ tàn sát như trên trong cuộc cách mạng 1789? Câu trả lời thật là đơn giản. Vì Ca-tô Giáo là một hiểm họa của quốc gia. Chúng ta có thể nhận rõ hiểm họa này qua vài hành động của giới trí thức Pháp vào thời đó. Nhà đại văn hào Victor Hugo đã đưa ra nhận định: “Nền văn minh, ánh sáng này, có thể bị tắt đi bởi hai cách nhận chìm nó, hai sự xâm lăng nguy hiểm đối với nó: sự xâm lăng của các quân lính và sự xâm lăng của các linh mục. Sự xâm lăng của các quân lính đe dọa mẹ chúng ta: tổ quốc; sự xâm lăng của các linh mục đe dọa con chúng ta: tương lai.” [5] Các trí thức Pháp đã nhận thức được sự quan trọng của một nền giáo dục khai phóng, tiến bộ, yêu nước, cho nên họ đã cương quyết chống lại nền giáo dục của giáo hội Ca-tô mà họ cho là có mục đích “dạy dỗ những đứa trẻ để chống lại tổ quốc của chúng và cản sự tiến bộ của chúng” (Élever les enfants contre leur pays et contre leur temps); và họ đã thành công trong việc “Giật con em ra khỏi bàn tay giáo dục của những linh mục, vạch trần những sự đạo đức giả của Giáo hội.” (Arracher l’enfant au moine, dévoiler les hypocrisies de l’Église). Nhưng có vẻ như đám người cuồng tín thấp kém, tin nhảm tin nhí,, không chỉ giới hạn ở Âu Châu trong thế kỷ 18, mà ngày nay, đã trải qua vài thế kỷ mà đầu óc của một số không nhỏ tín đồ Việt Nam vẫn không theo kịp được đà tiến hóa của nhân loại, cho nên chúng ta vẫn thấy họ dùng những từ như “Cộng sản vô thần” tràn ngập trên Internet, hàm ý “vô thần” là một cái gì xấu xa, vì không chịu tin nhảm tin nhí vào vào thần của họ. Thật là tội nghiệp, họ có biết đâu “vô thần” là biểu hiện của tự hào, của danh dự, của sự tiến bộ trí thức. Vì họ đã bị những tôn giáo độc thần làm tê liệt đầu óc, khiến cho họ suốt đời phải bám víu vào một vị thần tưởng tượng do tôn giáo đó bày đặt ra, như bám víu vào một cặp nạng để lê lết trên trường đời. Họ được dạy vô thần là chống thần của họ, cho nên với bất cứ giá nào, họ phải chống những người “vô thần” để duy trì cặp nạng của họ. Tiến bộ trí thức: từ “tin Chúa” đến “không tin Chúa” Frank E. Tate đã tuyên bố như sau về sự tiến bộ trí thức từ “tin Chúa” đến “không tin Chúa”: “Trong đời tôi, tôi đã tiến bộ từ một người sùng tín đến một người theo thuyết “bất khả tri” và bây giờ là một người vô thần. Tôi dùng từ “tiến bộ” vì tôi tin rằng đó thực sự là một sự tiến bộ, tiến từ sự chấp nhận mù quáng vào một huyền thoại phi lý đã lỗi thời đến sự nghi ngờ và sau cùng đến sự từ bỏ và không còn tin nữa. Chính cái huyền thoại đó – cuốn Thánh kinh Do Thái – Ki Tô – là một cuốn ghi chép kinh hoàng về những cuộc đổ máu, dâm dật, và cuồng tín không đếm xỉa gì đến đời sống và sự an sinh của những người nào không bày tỏ niềm tin mù quáng của mình vào những giới luật được trình bày qua những lời lẽ mâu thuẫn và không thể nào xảy ra được” [6] Và James A. Haught cũng viết trong cuốn “2000 Years of Disbelief: Famous people with the Courage to Doubt”, trang 11-14, về lịch trình phát triển “vô thần” ở Tây phương: “Những người thông minh, có học thức, thường không tin là có đấng siêu nhiên. Cho nên chẳng lấy gì làm ngạc nhiên nếu chúng ta thấy một tỷ lệ cao những người nghi ngờ tôn giáo (Tây phương) trong số những tư tưởng gia, khoa học gia, văn gia, những nhà cải cách, học giả, tiền phong trong dân chủ, và những nhà thay đổi thế giới – những người thường được gọi là danh nhân. Sự tiến triển của nền văn minh Tây phương đã là một phần của câu chuyện chiến thắng từ từ trên sự đàn áp của tôn giáo (Ki Tô giáo). Sự nổi giậy của thuyết nhân bản đã chuyển trọng tâm của xã hội ra khỏi sự tuân phục các giám mục và vua chúa để đi tới những quyền của cá nhân và điều kiện sinh sống của con người. Phần lớn sự tiến bộ này đã được thúc đẩy bởi những con người, nam cũng như nữ, không cầu nguyện (Thiên chúa), không quỳ trước bàn thờ (trong những nhà thờ), không đi hành hương (các thánh địa của Ki Tô Giáo), không đọc những Kinh Tin Kính. Nền văn hóa Tây phương đã đi theo một hành trình thất thường. Hi Lạp và La Mã cổ xưa đã đồng hành với sự tìm hiểu trí thức giữa quan niệm tôn giáo đa thần. Thế rồi Thời Đại Đức Tin của Ki Tô Giáo đã mang lại sự tối tăm trong nhiều thế kỷ. Thời đại Phục Sinh đã làm sống lại chủ thuyết cá nhân và quyền suy tư tự do, bay bổng lên trong Thời Đại Lý Trí và Thời Đại Khai Sáng. Với sự nở rộ của khoa học trong thế kỷ 19, nhiều tư tưởng gia đã cho rằng tôn giáo huyền bí (tức Ki Tô Giáo) sẽ phải tan biến, và đại cương thì điều này đã xảy ra trong giới trí thức. Dần dần, lối suy nghĩ khoa học tiến triển, và tôn giáo thoái lui, quyền tự do không tin đã nhô lên ở Tây phương.. Cuối cùng, quyền không tin đã được thiết lập. Tự do suy tư nở rộ trong giới trí thức Âu Châu và Mỹ, đạt tới thời vàng son vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Những người không tin như Robert Ingersoll đã thực hiện những chuyến du thuyết thách đố chủ thuyết siêu nhiên (Ki Tô Giáo). Những nhà báo như H. L. Mencken công khai tấn công “sự mê tín” (của Ki Tô Giáo). Thật là một điều mâu thuẫn lạ lùng: một phần đáng kể dân chúng khắp thế giới vẫn còn thờ phụng những thiên chúa không ai nhìn thấy, đôi khi còn giết người cho những thiên chúa này – trong khi hầu hết những tư tưởng gia, khoa học gia, văn gia, và những giới trí thức khác thường là đã loại bỏ đấng siêu nhiên. Đối với bất cứ ai duyệt qua quá khứ và quan sát thế giới ngày nay, hầu như không thể nào tìm ra được một người có tiếng tăm – ngoại trừ đối với các giáo hoàng, tổng giám mục, vua chúa và các nhà cầm quyền đi kiếm hậu thuẫn của quần chúng - lại có thể nói rằng mục đích của đời sống con người là được “cứu rỗi” bởi một Giê-su vô hình và lên một thiên đường vô hình. Nhưng thật là dễ dàng tìm được rất nhiều người không tin cái tín lý căn bản này trong số những danh nhân.” [7]
Nhưng đặc sắc và chính xác hơn cả là bài thuyết trình của Emmett F. Fields. Trong bài thuyết trình này, tác giả chủ yếu nói về Ki Tô Giáo nhưng khi thì dùng từ “tôn giáo” (religion) khi thì dùng từ Ki Tô Giáo (Christianity). Đọc phần tiếng Anh chúng ta thấy rõ như vậy. Cho nên tôi đã thay một số từ “tôn giáo” bằng Ki Tô Giáo để cho dễ hiểu. Sau đây là phần trích dẫn một vài đoạn trong bài thuyết trình, đọc đoạn này chúng ta có thể thấy rõ sự khác biệt giữa những người tin Chúa và những người không tin Chúa (vô thần). Và từ những hiểu biết này chúng ta cũng có thể thấy những người Ki Tô Giáo không có tư cách để chống những người vô thần, bản chất của họ là những con chiên thấp kém, ít hiểu biết, cuồng tín, chống vô thần theo tiếng chuông “kích thích điều kiện hóa” [conditioned stimulus] của Pavlov, chứ thực sự họ không hề biết gì về vô thần. Bước đầu tiên trong việc tìm hiểu vô thần là phải loại bỏ những lời nói láo và tuyên truyền mà Ki Tô giáo truyền bá để chống vô thần. Vô thần không chỉ là kiến thức về sự không hiện hữu của các thần mà còn hơn nữa, là kiến thức về sự sai lầm hay gian xảo của Ki Tô giáo. Vô thần là một thái độ, một khung trí tuệ nhìn thế giới một cách khách quan, không sợ hãi, luôn luôn tìm hiểu mọi sự việc như là một phần của thiên nhiên. Có thể nói rằng vô thần có một giáo lý là phải đặt nghi vấn và một tín lý là phải nghi ngờ. Đó là trí tuệ con người trong môi trường thiên nhiên, không có gì là quá thánh thiện để không được tìm hiểu, không có gì là quá thiêng liêng để không được đặt nghi vấn. Cuốn Thánh Kinh của người vô thần, có thể nói như vậy, chỉ có một từ: “HÃY SUY NGHĨ”. Vô thần là sự giải thoát hoàn toàn của đầu óc con người khỏi những xiềng xích của sợ hãi và mê tín. Vô thần tuyệt đối không có gì tiêu cực; sự thật không bao giờ có thể là tiêu cực. Vô thần đòi hỏi chứng minh, hay ít nhất là những bắng chứng hợp lý, và chỉ bác bỏ những gì không đáp ứng được sự đòi hỏi của sự hiểu biết thông thường. Trong suốt lịch sử, mọi tiến bộ trong xã hội có được là từ sự nghi ngờ và loại bỏ những ý tưởng, những tập quán, và những niềm tin cũ kỹ [vì không còn đúng]. Cái cây kiến thức nhân loại chết khi nó đang mọc lớn, với những cành lá mới mọc từ những phần đang chết, và thay thế những phần này với những niềm tin chân thật và tốt đẹp hơn. Nhà Thần học là một con cú, đậu trên một cành cây đã chết của cái cây kiến thức nhân loại, và rúc lên cùng những tiếng rúc cũ kỹ đã từng rúc lên trong nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhưng hắn chưa bao giờ phát ra một tiếng kêu rúc nào cho sự tiến bộ. Về đạo đức, Vô thần ở ghế thượng phong trên Ki Tô giáo. Sự thất bại lớn của đạo đức Ki Tô giáo bắt nguồn từ ảo tưởng của họ về một đạo đức đứng trên đúng hay sai [vì là đạo đức của Thiên Chúa]. Đầu óc của người theo Ki Tô giáo đã biết là tra tấn và giết người là sai lầm, bạo hành và thù hận là sai lầm, cưỡng bức người khác vào đạo là sai lầm. Ki Tô giáo đã biết những điều đó là sai lầm, nhưng đầu óc của những người theo Ki Tô giáo trở nên tồi tệ vì cái ảo tưởng về một nền “đạo đức cao hơn”, và vì cái ảo tưởng này mà lịch sử nhân loại ngập máu những người vô tội. Nhân danh “thiên chúa” và một nền “đạo đức cao hơn” của họ, những người Ki Tô Giáo đã tiến hành những cuộc thánh chiến để tiêu diệt, đã cướp bóc, tra tấn và tàn sát những người không thể đồng ý với họ, hoặc chưa tùng nghe đến tôn giáo của họ. Nhân danh nền “đạo đức cao hơn” này, những người Ki Tô Giáo đã thù hận, săn lùng, bạo hành, và thiêu sống người “lạc đạo”, người “vô tín”, và người “vô thần”. Và ngày nay, như đã từ bao giờ, khi tín đồ Ki Tô giáo làm những việc mà ngay hắn cũng biết là sai lầm và vô luân, nhưng cái ảo tưởng của hắn về một “quyền năng cao hơn” [của Thiên chúa] và một nền “đạo đức cao hơn” [của Ki Tô giáo] cho phép hắn trình diễn vài lễ tiết, xưng tội, hay cầu nguyện thì kỳ lạ thay, ngay lập tức, “tất cả tội lỗi của hắn đều được xóa bỏ”, và hắn lại không còn có thắc mắc gì về lương tâm hay hối hận. Những ảo tưởng điên rồ như vậy không làm cho đầu óc người vô thần thoải mái. Người vô thần biết rằng không có đạo đức nào đứng trên đúng và sai, và con người không thoát ra khỏi được sự cắn rứt của lương tâm và hối hận. Giết người là giết người, ăn cướp là ăn cướp, thù hận và bạo hành là những tội ác chống nhân loại. Về đạo đức, lịch sử cho chúng ta thấy, làm người vô thần thì tốt hơn là làm người Ki-Tô. Ki Tô giáo cho rằng sự vô đạo đức nẩy ra là vì thiếu vắng Ki Tô giáo, nhưng những sự kiện đã chứng tỏ ngược lại. Ki Tô Giáo chưa bao giờ mạnh như bây giờ, họ có nhà thờ trong mọi cộng đồng, độc quyền chiếm giờ trên đài phát thanh và đài truyền hình để tuyên truyền cho Ki Tô giáo, và họ đã cưỡng nhét Ki Tô giáo của họ vào chính quyền, luật pháp và trường học của chúng ta. Họ đã làm những việc chống với Hiến Pháp của Mỹ, và chống những quyền căn bản và thiêng liêng nhất của mọi người Mỹ khác. Họ đã len lỏi vào những nơi họ không được vào, những nơi không có việc của họ, bịt miệng mọi chống đối, mọi quan điểm khác, bỏ thuốc độc vào cái giếng hiểu biết của chúng ta và làm nguy hại đến những gốc rễ của quốc gia chúng ta. Ki Tô giáo ngày nay mạnh như vậy, nhưng chúng ta không đạt được một mức đạo đức nào đáng kể trong quốc gia này. Không ở đâu khác cho thấy sự thất bại về đạo đức Ki-tô giáo rõ rệt như ở Mỹ. Trong cùng một thời gian mà Ki Tô giáo trở nên mạnh hơn và giầu có hơn, trong 30 năm qua, vấn nạn dùng các loại ma túy đã trở thành một vấn nạn xấu xa của quốc gia, số tội ác tăng gia nhanh chóng, tỷ lệ ly dị tăng vọt, và trong thời gian này quốc gia của chúng ta bị lôi cuốn vào nhiều cuộc chiến tranh và xung đột thế giới hơn bao giờ hết trong lịch sử. Ngay bây giờ chúng ta có những tỷ lệ dùng ma túy, phạm tội ác, ly dị cao nhất cùng với “tỷ lệ theo Ki Tô giáo” cao nhất chưa từng có trong lịch sử quốc gia này. Ki Tô Giáo có thể nói gì về những sự kiện này và làm sao để chữa chạy chúng. Họ bảo chúng ta là chúng ta cần nhiều đến Ki Tô giáo hơn và cương quyết áp đặt Ki Tô giáo lên chúng ta. Ki Tô Giáo cảm thấy quá mạnh ngày nay và họ đang đi vào chính trị để cưỡng đặt nền đạo đức thất bại của họ trên mọi người Mỹ qua sự Độc Tài của Ki Tô Giáo và một Thời Đại Tăm Tối mới. Một khi thái độ vô thần đã đạt được, và đầu óc đã thoát khỏi những sự sợ hãi và niềm tin trong Ki Tô giáo đã được cấy vào chúng ta từ khi còn nhỏ; và một khi chúng ta có thể nhìn vào tôn giáo một cách khách quan không thiên vị, thật hiển nhiên là Ki Tô giáo có tất cả những đặc tính của một dạng tâm linh điên rồ. Tùy theo mức độ, người sùng tín Ki Tô giáo phải chấp nhận, và tin, vào một thế giới khác; một thế giới siêu nhiên hay khác thường, một thế giới có đầy những nhân vật tưởng tượng gọi là thiên chúa, quỷ, thánh v..v.. Người ta nói với những tạo vật tưởng tượng này, xin xỏ ân huệ, sự hướng dẫn, những “dấu hiệu”, hoặc phép lạ, và rồi hoặc quy trách hoặc tạ ơn những biến cố thiên nhiên sau đó xảy ra. Nếu không phải là khoác bộ áo tôn giáo thì những niềm tin và những hành động như vậy phải coi là của một người điên, cần phải vào nhà thương điên để chữa trị. Sự nghiên cứu lịch sử sẽ biện minh thêm cho thuyết Ki Tô giáo là một dạng tâm linh điên rồ. Không có một đầu óc lành mạnh nào lại có thể gây ra những cuộc chiến tranh tôn giáo đẫm máu, những cuộc thập ác chinh mà những người bị chinh phục, đàn ông, đàn bà, trẻ con, và ngay cả con nít đều bị giết chỉ vì họ là những người “không tin” hay “lạc đạo”. Những tù ngục tối tăm và những phòng tra tấn của những tòa án thánh xử dị giáo không thể nào bị cai quản bởi những đầu óc lành mạnh. Và phải là loại đầu óc điên rồ, đầu óc Ki Tô giáo, mới trói người phụ nữ vào cột, rồi chất củi thiêu sống vì cái tội không thể nào có là phù thủy. Không có người nào tỉnh táo có thể đọc những chuyện khủng khiếp, hiếp dâm và giết người trong một cuốn sách man rợ mà người ta gọi cuốn sách đó là “Lời của Thiên Chúa”. Và huyền thoại về Giê-su, về một thiên chúa phải xuống làm người và bị giết trước khi có thể tha thứ tội lỗi cho nhân loại, là chuyện điên rồ nhất trong những chuyện điên rồ. Ngày nay, Ki Tô Giáo cố tình không biết đến, hay giấu kín và phủ nhận cái lịch sử đẫm máu của mình và tự tôn là nền tảng đạo đức của chúng ta, và là nền tảng ngay cả nền văn minh của chúng ta. Ki Tô Giáo tự cho rằng là nguồn hi vọng duy nhất của chúng ta trong tương lai. Nhìn vào lịch sử Ki Tô Giáo, những điều tự nhận như vậy, bản chất chỉ là những lời nói điên dại.[8]
Những người Vô thần tiếng tăm trên thế giới Để hiểu rõ hơn những người vô thần là những người như thế nào, sau đây là tên của một số nhỏ những nhân vật có tên tuổi trên thế giới mà tôi cho là quen thuộc nhất đối với chúng ta, trong số 600 nhân vật (lẽ dĩ nhiên vẫn chưa đầy đủ) trong cuốn 2000 Years of Disbelief: Famous People With The Courage To Doubt của James A. Haught, Prometheus Books, 1996, những nhân vật có thể xếp vào trong đoàn thể của những người “vô thần”, theo thứ tự A, B, C: Lord Acton, John Adams, Ethan Allen, Steve Allen, Aristotle, Isaac Asimov, Sir Francis Bacon, Honoré de Balzac, Charles Baudelaire, Simone de Beauvoir, Ludwig van Beethoven, Hector Berlioz, Georges Bizet, Charles Bradlaugh, Johannes Brahms, Benjamin Britten, Giordano Bruno, Pearl Buck, Albert Camus, Andrew Carnegie, Marcus Tullius Cicero, Auguste Comte, Confucius, Nicolaus Copernicus, Clarence Darrow, Charles Darwin, Claude Debussy, Daniel Defoe, Demosthenes , Charles Dickens, Denis Diderot, Diogenes, Alexandre Dumas , Will Durant, Thomas Eddison, Albert Einstein, George Eliot, Albert Ellis, Empedocles, Euripides, William Faulkner, Richard P. Feynman, Gustave Flaubert, Antony Flew, George William Foote, Anatole France, Benjamin Franklin, Sigmund Freud, Galileli Galileo, Indira Gandhi, Mohandas Gandhi, Giuseppe Garibaldi, Edward Gibbon, André Gide, Johann Wolfang von Geothe, Thomas Hardy, Stephen Hawking, Joseph Haydn, George W. F. Hegel, Martin Heidegger, Fred Hoyle, Victor Hugo, David Hume, Aldous Huxley, Robert G. Ingersoll, Thomas Jefferson, James Joyce, Franz Kafka, Immanuel Kant, Johannes Kepler, Jean de la Bruyère, Pierre Simon de Laplace, William E. H. Lecky, Abraham Lincoln, John Locke, James Madison, Karl Marx, Jules Massenet, Somerset Maugham, Guy de Maupassant, Henry Louis Mencken, Michel de Montaigne, Baron de Montesquieu, Wolfang Amadeus Mozart, Jawaharlal Nehru, Friedrich Nietzsche, Madalyn Murray O’Hair, Thomas Paine, Blaise Pascal, Pablo Picasso, Max Planck, Marcel Proust, Jules Renard, Eleanor Roosevelt, Theodore Roosevelt, Jean-Jacques Rousseau, Carl Sagan, George Sand, George Santayana, Jean Paul Sartre, Arthur Schlesinger, William Shakespeare, Adam Smith, Socrates, Baruch Spinoza, Richard Strauss, Leo Tolstoy, Mark Twain, Voltaire, George Washington, Daniel Webster, H. G. Wells, Zeno, Émile Zola. Xin hỏi trong số 113 người vô thần trên, có người nào là Cộng sản không? Và hiện nay, ở bên Anh, hai nhà vô thần nổi tiếng là Richard Dawkins (tác giả The God Delusion) và Christopher Hitchens (tác giả God Is Not Great) đang vận động để truy tố theo pháp lý Giáo hoàng Benedict XVI về tội bảo vệ, bao che các giám mục, linh mục loạn dâm lan tràn trong giáo hội. Hai nhà vô thần nổi tiếng nầy, tuyệt đối không tin có Thần/Chúa của Công giáo, cũng không là Cộng sản. Riêng về Việt Nam thì những ai là “vô thần” theo nghĩa không biết đến, không tin, không công nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa của Ki Tô Giáo? Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Quốc sư Vạn Hạnh, Lý Thường Kiệt, Trần Bình Trọng, Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Hồ Chí Minh v...v... Những bậc tiền nhân này đã làm gì cho nước Việt nếu không phải là có công đánh đuổi xâm lăng, bảo toàn chủ quyền, nền độc lập quốc gia, hoặc làm rạng danh nền văn hóa Việt Nam? Còn những kẻ “tin Chúa” một cách rất hữu thần là ai? Pétrus Ký, Nguyễn Trường Tộ, Paulus Của, Trần Bá Lộc, Nguyễn Thân, Trần Lục, Ngô Đình Khả, Nguyễn Bá Tòng, Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi, Hoàng Quỳnh v..v.. Họ là ai? Toàn là Việt gian bán nước, theo giặc chống lại tổ quốc, hoặc cuồng tín, nô lệ Vatican như Ngô Đình Diệm? Ai có thể phủ nhận hay biện minh cho sự kiện bán nước của Ca-tô Rô-MaGiáo Việt Nam qua văn kiện có tính cách khẳng định sau đây của chính Giám mục Puginier, được trích dẫn trong cuốn Catholicisme et Sociétes Asiatiques của Alain Forrest và Yoshiharu Tsuboi: "Giám Mục Puginier viết rằng: "Không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo thì người Pháp cũng giống như những con cua đã bị bẻ gẫy hết càng. Thí dụ như vậy, tuy tầm thường mộc mạc nhưng không kém phần chính xác và mạnh mẽ. Thật vậy, không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo, người Pháp sẽ bị bao vây bởi toàn là kẻ thù; họ sẽ không thể tin cậy vào một ai; họ sẽ chỉ nhận được những tin tức tình báo sai lầm, cung cấp với ác ý để phá hoại tình thế của họ; họ sẽ bị đẩy vào tình trạng không thể hoạt động được gì và sẽ phải hứng chịu những thảm họa thực sự một cách nhanh chóng. Địa vị của họ ở đây sẽ không giữ nổi được nữa, và họ sẽ bị buộc phải rời khỏi xứ, nơi đây quyền lợi và ngay cả sự hiện diện của họ sẽ bị nguy hại." [9]
Ai có thể phủ nhận hay biện minh cho hành động bán nước của linh mục Trần Lục, người dẫn 5000 giáo dân đi tiếp tay, hỗ trợ quân đội Pháp để hạ trung tâm kháng chiến Ba Đình của Đinh Công Tráng?
Ai có thể phủ nhận hay biện minh cho sự kiện là giám mục Lê Hữu Từ đã theo lệnh chống Cộng của giáo hoàng Pius XII, nhận vũ khí của Pháp khi Pháp trở lại Việt Nam, tổ chức những “khu tự trị” (sic) Phát Diệm, Bùi Chu để giết dân ngoại đạo vô tội, đi cướp phá các làng “lương”” dưới chiêu bài chống Cộng sản Vô Thần. Ai có thể phủ nhận là chính quyền Ngô Đình Diệm đã mượn chiêu bài “tố Cộng” để giết hại hoặc cưỡng bách người ngoại đạo vào đạo trong sách lược Ca-tô hóa miền Nam?
Vậy thì giữa “không tin Chúa” nhưng cứu nước và làm rạng danh nước, và “tin Chúa” nhưng nô lệ ngoại bang, phản bội quốc gia, người dân Việt nên chọn thứ nào? 93% dân Việt đã chọn “không tin Chúa”, còn 7% chọn “tin Chúa”. Viết như trên không có nghĩa là tất cả 7% người dân Việt theo Ca-tô giáo đều là những người bán nước, phản bội quốc gia. Phần lớn họ là nạn nhân của một nền thần học ru ngủ xảo quyệt, không đủ trí tuệ để nhận ra bộ mặt thật của tôn giáo họ, ham hố một sự “cứu rỗi” không tưởng, tin theo luận điệu bịp bợm của giáo hội như giáo hoàng là đại diện của Chúa trên trần, “Cha cũng như Chúa” có quyền tha tội hay cầm giữ tội của họ v..v.., cho nên đã nhắm mắt theo lệnh của những linh mục đầy tớ của Vatican mà không ý thức được những hành động phản quốc của mình. Họ đáng thương hơn là đáng trách. Nhưng chính điều này đã chứng tỏ rằng những người “tin Chúa” hoàn toàn không có gì có thể gọi là đạo đức hơn hay tốt đẹp hơn những người “không tin Chúa” nếu không muốn nói là còn kém xa. Cho nên, khi ông Thiện Ý viết về “nhóm Giao Điểm, một nhóm qui tụ những người vô thần..” thì thật ra ông ta đã đề cao và vinh danh nhóm Giao Điểm rồi. Và những người chống Cộng ngu ngơ cũng không biết rằng khi họ kết hợp Cộng sản với vô thần là họ đã vinh danh Cộng sản. Một khi chúng ta hiểu được Cộng sản là một hệ thống chính trị xã hội – kinh tế, còn vô thần là lập trường của những cá nhân đối với Thiên Chúa của Ki Tô Giáo thì sẽ không còn phạm phải lỗi lầm sơ đẳng là chống “Cộng sản vô thần” nữa. Người vô thần đơn giản chỉ là những người không tin Chúa của những người tin Chúa. Họ chỉ không thể tin vào một Chúa mà họ biết rõ là rất ác ôn như được viết trong cuốn Thánh Kinh, và nhất là không có bất cứ một bằng chứng nào chứng tỏ là có sự hiện hữu của một Thiên Chúa. Nếu ngày nào đó người ta có thể chứng minh được rằng Thiên Chúa trong Kinh Thánh của Ki Tô Giáo thực sự rất mực nhân từ như giáo hội thường nhồi vào đầu óc của các tín đồ để cho họ tin mà không suy nghĩ, và Thiên Chúa đó thực sự hiện hữu với đầy đủ bằng chứng, thì người vô thần sẽ sẵn sàng tin một Thiên Chúa như vậy. Cho đến ngày đó thì sự hiện hữu của một Thiên Chúa không phải là vấn đề đáng để cho người vô thần phải quan tâm. Mặt khác, người vô thần, tuy rằng không tin Chúa nhưng đâu có lập thành phe đảng để sát hại lẫn nhau hay sát hại người tin Chúa, như người tin Chúa đã sát hại người không tin Chúa và sát hại lẫn nhau như lịch sử tàn bạo đẫm máu của Ca-tô Rô-MaGiáo đã viết rõ? Những cuộc tàn sát giữa những người Ki Tô Giáo Ki Tô Giáo có ba hệ phái chính là Ca-tô Rô-MaGiáo, Tin Lành và Chính thống giáo. Ba hệ phái này cùng thờ một Chúa nhưng lại thù địch lẫn nhau, và nếu có dịp thì tàn sát nhau không hề nương tay, như lịch sử đã chứng minh. Sau đây là vài trường hợp điển hình: 1. Trong cuộc tàn sát ngày Thánh Bartholomew ở Pháp, ngày 24 tháng 8, 1572. Lịch sử kể rằng (http://www.reformation.org/bart.html): “Đột nhiên – không cảnh báo – tác phẩm của quỷ bắt đầu. Bắt đầu ở Paris, lính Pháp và giới chăn chiên Ca-tô La mã tàn sát những người dân không có vũ khí trong tay, và máu đổ thành sông trên khắp đất nước. Thây đàn ông, đàn bà, trẻ con chất thành đống trước bọn du thử du thực và quân lính khát máu. Trong một tuần lễ, trên 100000 người Tin Lành bị Ca-tô giáo giết. Các dòng sông trên nước Pháp có đầy thây trôi đến độ trong nhiều tháng người dân không dám ăn cá. Trong thung lũng sông Loire, những con chó sói từ những đồi cao nhào xuống ăn thây những người Pháp đã rũa nát. Khi tin tức về cuộc tàn sát tới Vatican, Vatican hân hoan ăn mừng! Súng thần công bắn, chuông nhà thờ rung – và một loại huy chương được đúc bởi Giáo hoàng Gregory XIII (1572-85) – để kỷ niệm cuộc tàn sát đó! Giáo hoàng ủy thác nhiệm vụ cho nghệ thuật gia Ý, Varsi, sơn vẽ cảnh tàn sát trên một bức tường – ngày nay còn thấy ở Vatican.” [1]
Đồng tiền do Giáo Hoàng Gregory XIII (1572-85) đúc
2. Ca-tô Rô-MaGiáo và Tin Lành tàn sát lẫn nhau ở Âu Châu trong cuộc chiến 30 năm, 1618-1648, nguyên nhân chính là Hoàng đế Fernidand II muốn áp đặt Ca-tô Rô-MaGiáo trên toàn lãnh thổ và Tin Lành chống lại [Emperor Ferdinand II tried to impose Roman Catholicism on his domains and the Protestant nobles rebelled]; 3. Trong đệ nhị thế Chiến, chính quyền Ca-tô Rô-MaGiáo ở Croatia đã giết trên 700000 người Chính thống [Xin đọc The Vatican’s Holocaust, Chương 4, của Baron Avro Manhattan]. Và ngày nay ở Bắc Ái Nhĩ Lan vẫn còn xảy ra những vụ Công giáo và Tin Lành giết lẫn nhau. Cùng thờ một Chúa mà họ còn chém giết nhau như vậy, huống chi là đối với những người không tin Chúa. Trong thời cận đại, các Giáo hội Ki-tô theo đuổi chính sách nhồi sọ đàn chiên thấp kém của mình, liên kết vô thần với Cộng sản để khuyến khích tín đồ thù hận Cộng sản, coi Cộng sản như là một thù địch tôn giáo, và các tín đồ, vốn có đầu óc của các con chiên, nên cứ nhắm mắt chống Cộng một cách điên cuồng, không biết rằng lịch sử đã chứng tỏ Ca-tô Rô-MaGiáo còn tệ hại gấp bao nhiêu lần Cộng sản. Ca-tô Rô-MaGiáo còn tệ hại gấp bao nhiêu lần Cộng sản Thật ra thì Cộng sản đã học từ Ca-tô Rô-Ma Giáo nhưng học không đến nơi đến chốn. Nếu đối chiếu thì những hành động của Cộng sản chẳng thấm vào đâu so với những hành động của Ca-tô Rô-MaGiáo. Để che dấu sự kiện này, người Ki Tô Giáo, nhất là Ca-tô Rô-MaGiáo, sử dụng mọi phương tiện truyền thông, từ sách vở, phim ảnh, cho đến những nghị quyết vô giá trị, để thổi phồng cái mặt tiêu cực của Cộng sản, nhưng không bao giờ nhắc đến cái lịch sử ô nhục đẫm máu của Ki Tô Giáo, hi vọng biến cái lịch sử này đơn giản chỉ là một lời ghi chú (a footnote) trong những cuốn sử thế giới. Nhưng thế giới đâu có phải tất cả đều là những con chiên. Cho nên, trên Internet cũng như ngoài xã hội, chúng ta thấy tràn ngập những tác phẩm, tài liệu viết về lịch sử của Ki Tô Giáo nói chung, Ca-tô Rô-MaGiáo nói riêng. Nếu không có những tài liệu này thì Giao Điểm và Sách Hiếm cũng chẳng xuất hiện trên diễn đàn truyền thông hải ngoại.
John Cornwell, một tín đồ Công giáo và cũng là một chuyên gia về Công Giáo và Vatican, tác giả 2 cuốn sách nổi tiếng về Vatican: A Thief in the Night và Hitler’s Pope, đã viết thêm một tác phẩm về Công giáo nhan đề Từ Bỏ Đức Tin: Giáo Hoàng, Giáo Dân, và Số Phận của Công Giáo (Breaking Faith: The Pope, The People, and The Fate of Catholicism), xuất bản năm 2001, trong đó chương đầu viết về Một Thời Đại Đen Tối Của Công Giáo (A Catholic Dark Age). Trong chương này, tác giả John Cornwell đưa ra tình trạng suy thoái trầm trọng của Công giáo ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Anh, Mỹ, và Pháp. Số tín đồ mang con đi làm lễ rửa tội giảm sút, vì ngày nay người ta nhận thức được rằng chẳng làm gì có tội ở đâu mà phải đi rửa; đám cưới tổ chức không cần đến linh mục, vì hôn phối có thể hợp thức hóa ngoài nhà thờ và bí tích hôn phối đã mất hết ý nghĩa; giới trẻ không buồn đến nhà thờ, vì chẳng thấy gì hấp dẫn trong những lời giảng đi ngược thời gian của các linh mục; số từ bỏ đức tin gia tăng, vì người ta không còn chịu chấp nhận một đức tin mù quáng; từ 1958 đến nay, số vào nghề linh mục giảm đi 2/3 v..v.. Tình trạng ở Châu Âu, trước đây là cái nôi của Công giáo, thật là thê thảm. Ở Tây Âu (Western Europe), từ 30 đến 50% các giáo xứ không có linh mục. Ở Ý, 90% theo Công giáo nhưng chỉ có 25% đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, giảm 10% kể từ đầu thập niên 1980, số người vào học trường Dòng giảm một nửa. Ở Ái Nhĩ Lan (Ireland), xứ Công giáo, số người cảm thấy mình được ơn kêu gọi tụt xuống từ 750 năm 1970 còn 91 năm 1999, số linh mục được tấn phong từ 259 xuống 43 trong cùng thời gian. Trong một hội nghị đặc biệt vào năm 1999, các giám mục Âu Châu tuyên bố rằng các dân tộc trong toàn thể lục địa Âu Châu đã quyết định sống “như là Thiên Chúa không hề hiện hữu” (At a special synod in 1999, the bishops of Europe declared that the peoples of the entire continent had decided to live “as though God did not exist”.), nghĩa là, vô thần. Ở Nam Mỹ, tình trạng cũng không khá hơn. 7000 tín đồ mới có một linh mục. Chỉ có 15% giáo dân đi xem lễ ngày chủ nhật. Theo một hội nghị quốc gia của các giám mục Ba Tây thì mỗi năm có khoảng sáu trăm ngàn tín đồ bỏ đạo (according to the National Conference of Brazilian Bishops, some 600000 Catholics leave the Church each year.) Âu Châu và nhiều nơi khác trên thế giới đã trở thành “vô thần”. Cho nên, ngày nay từ “Cộng sản vô thần” chẳng nói lên được điều gì ngoài phản ánh sự đần độn của đám người cuồng tín, không theo kịp đà tiến hóa và sự tiến bộ trí thức của nhân loại. Để kết thúc, tôi xin trích dẫn vài đoạn trên Internet về đề tài “Tại sao những hữu thần lại ghét những người vô thần” Nguồn: http://www.freethoughtpedia.com/wiki/Why_theists_hate_atheists#column-one Đó là vì sự không tin của những người vô thần làm cho họ (những người tin Chúa) khó chịu. Những người này đã có một đức tin cấy sâu vào đời sống của họ cho nên thấy người nào không tin cũng là một sự đe dọa đối với họ. Đơn giản, họ không thể quan niệm nổi là lại có người không tin vào thần thánh. Ý tưởng này hoàn toàn xa lạ đối với họ, và do đó có tính cách đe dọa họ. Nó bắt buộc họ phải đánh giá lại những niềm tin của họ. Họ trở thành những người phải tự vệ và tấn công vì những điều mà họ tin chắc không nghi vấn là thiêng liêng thì đang bị thách thức chỉ bởi lập trường triết lý của người khác. Họ lên án những người vô thần là ích kỷ, đồi bại, và sống vô đạo đức vì không e sợ những hậu quả. Họ lên án người vô thần thiếu sót những qui tắc đạo đức. Lẽ dĩ nhiên, điều này thật là phi lý, bắt nguồn từ một sự sợ hãi thần thánh vô nghĩa. Theo một thống kê năm 1997, chỉ có 0.20%. [2 phần ngàn] tù nhân ở Mỹ là vô thần. Vì vô thần chiếm khoảng 14% dân số Mỹ, đó là một dấu hiệu về đạo đức của người vô thần hiện đại. Những người tin Chúa cuồng tín điên dại này tranh cãi với những người vô thần, biết rất rõ là họ không có hi vọng thay đổi những nhận thức lý tưởng của kẻ thù. Vậy tại sao họ lại chọn việc lao đầu vào sự tranh luận căm thù này. Vì họ giận dữ và sợ hãi. Họ giận dữ vì chúng ta có can đảm thách thức những niềm tin bắt nguồn từ sự bất an của họ bằng sự tiếp tục hiện hữu của chúng ta. Họ sợ hãi vì họ sợ mất đi vị trí an toàn của mình trên sự độc tôn thần trị của nước Mỹ (cầu nguyện trong trường học, làm luật theo tinh thần Ki-tô v..v…)… một quốc gia chính thức thế tục. Đưa ra những lời vu khống và xuyên tạc, và coi kẻ thù như ma quỷ là phản ứng tự nhiên của sự chống đối; bất kể là chúng trái ngược với những lời dạy của Chúa và đấng cứu rỗi của họ như thế nào. Tất cả những luận điệu chống vô thần mà các bạn thấy đơn giản không gì hơn là kết quả phản ứng của tinh thần hèn hạ. Xuyên tạc, đưa ra thông tin sai lầm là dấu hiệu của thất vọng. [10] Đôi lời kết: Trong thời đại ngày nay, tôi nghĩ các bậc lãnh đạo trong Ca-tô Rô-MaGiáo phải có bổn phận mở mang trí óc của con chiên, không nên cứ để cho họ chìm đắm trong sự mù mờ trí thức, trong sự mê tín thần học đã lỗi thời và đã không còn mấy giá trị trong thế giới văn minh tiến bộ ngày nay. Tôi tin chắc rằng cũng có nhiều người trong số quý vị không còn tin nữa những lý thuyết thần học hoang đường mà khi xưa đã tạo nên niềm tin trong thế giới Ki Tô Giáo. Về các trí thức Ca-tô, tôi cũng thành thực khuyên họ trước khi viết về một vấn đề gì hãy nghiên cứu cho kỹ, đừng có viết theo cảm tính, nhất là đừng có viết ra những tín điều tín lý trong Ca-tô Rô-MaGiáo mà ngày nay đã không còn giá trị trước thế giới ở thế kỷ 21. Nếu muốn, quý vị cứ tự nhiên tin với nhau và không ai cấm đoán đức tin của quý vị. Nhưng một khi quý vị viết ra những niềm tin của quý vị dựa vào cuốn Kinh Thánh, vào những tín điều của Ca-tô Giáo thì quý vị đã thách thức sự hiểu biết hiện đại của quần chúng. Và quý vị phải chấp nhận tinh thần đối thoại phản biện trí thức. Quý vị hãy chịu khó tìm hiểu kỹ về lịch sử Ca-tô Rô-MaGiáo, lịch sử các giáo hoàng, lịch sử chính trị của Vatican, lịch sử nhân loại, và nhất là hãy đọc kỹ cuốn Kinh Thánh từ đầu đến cuối, Cựu Ước cũng như Tân Ước, để khỏi vấp phải những sai lầm nghiêm trọng mà quý vị thường viết lên như “Giáo hội Ca-tô là do Chúa thiết lập”, “Giáo hoàng là đại diện của Chúa trên trần”, “Linh mục là các Chúa thứ hai”, “Tiên tri của Đức Mẹ ở Fatima” v..v.. và những sai lầm rất kém cỏi như chống “Cộng sản vô thần”. Với những kiến thức đương đại, cập nhật, hi vọng quý vị có thể tự cởi trói, vứt bỏ được cặp nạng thiên chúa, hay nói theo Mục sư Harry Wilson, cất bỏ được gánh nặng thiên chúa trên vai. Khi đó, quý vị có thể trở thành một con người tự do như Robert G. Ingersoll, một tư tưởng gia vĩ đại nhất của nước Mỹ: “Khi tôi tin chắc rằng vũ trụ là thiên nhiên - và rằng những thánh ma, thiên chúa chỉ là những huyền thoại, thì những cảm nghĩ, nhận thức, và niềm hân hoan về sự tự do, giải thoát đã xâm nhập vào đầu óc tôi, vào linh hồn tôi, và vào từng giọt máu trong người tôi. Những bức tường của cái nhà tù của tôi đã sụp đổ, ngục tù tăm tối đã được tràn ngập ánh sáng, và tất cả những then cửa, chấn song, gông cùm đã trở thành cát bụi. Tôi không còn là một tôi tớ hèn mọn, một người hầu, hay một nô lệ nữa (Xin đọc trang nhà Mucsu.net: Người Ki Tô Giáo vẫn thường tự nhận là tôi tớ hèn hạ, là người hầu việc Chúa v..v.. ) Tôi đã tự do: - tự do suy tư, phát biểu tư tưởng - tự do sống theo ý tưởng của tôi - tự do tận dụng mọi khả năng, mọi giác quan của tôi - tự do tìm hiểu - tự do vứt bỏ mọi tín điều ngu đần và độc ác, mọi sách “mạc khải” mà những người dã man đã tạo ra chúng và mọi truyền thuyết man rợ của quá khứ - tự do thoát khỏi những giáo hoàng và linh mục - tự do thoát khỏi những sai lầm được thánh hóa và những lời nói láo mang tính thánh - tự do thoát khỏi sự sợ hãi về một sự đau đớn vĩnh hằng (đày hỏa ngục) - tự do thoát khỏi những ma, quỉ và thiên chúa.” [11]
Chú thích: [1] Newsweek, p.33: The last lines read: I do not want anything to do with God. I am sick of religion. It is a crutch for the weak.. We make God into what we need for the moment. I hate God. I hate all those who try to explain God when they really don’t know. [2] The church does not kill now because it does not have the power to kill. The fagot and the sword have been wrested from her bloody hands, and hatred and slander are the oly weapons left her. [3] The God of the Old Testament is arguably the most unpleasant character in all fiction: jealous and proud of it; a petty, unjust, unforgiving control-freak; a vindictive, bloodthirsty ethnic cleanser; a misogynistic, homophobic, racist, infanticidal, genocidal, filicidal, pestilential, megalomaniacal, sadomasochistic, capriciously malevolent bully. [4] A literal Bible presents me with far more problems than assets. It offers me a God I cannot respect, much less worship. There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrow-minded, vindictive, and even hypocritical. [5] La civilisation, cette lumière, peut être éteinte par deux modes de submersion, deux invasions lui sont dangereuses, l’invasion des soldats et l’invasion des prêtres. L’une menace notre mère: la patrie; l’autre menace nos enfants: l’avenir. [6] During my lifetime I have progressed from being a “believer,” to being an agnostic and now an atheist. I use the word “progress” because I believe it to be true progress to go from blind acceptance of an outdated illogical mythology to doubt and finally to denial and disbelief... The myth itself – the Judeo-Christian Bible – is a shocking account of bloodshed, lust, and bigoted disregard for the lives and well-being of all peoples who do not profess a blind belief in the precepts presented in such impossible and contradictory terms. [7] Intelligent, educated people tend to doubt the supernatural. So it is hardly surprising to find a high ratio of religious skeptics among major thinkers, scientists, writers, reformers, scholars, champions of democracy, and other world changers – people usually called great. The advance of Western civilization has been partly a story of gradual victory over oppressive religion. The rise of humanism slowly shifted society’s focus away from obedience to bishops and kings, onto individual rights and improved living conditions. Much of the progress was impelled by men and women who didn’t pray (to God), didn’t kneel at altars (in churches), didn’t make pilgrimages (to holy places), didn’t recite creeds. Western culture has traveled an erratic journey. Ancient Greece and Rome teamed with intellectual inquiry, amid polytheism. Then the Christian Age of Faith brought darkness for centuries. The Renaissance revived individualism and free thingking, which soared in the Age of Reason and the Enlightenment. With the flowering of science in the nineteenth century, many thinkers assumed that mystical religion would vanish. Among intellectuals, it largely has done so.. Slowly, as scientific thinking grew and religion retreated, freedom of doubt emerged in the West.. Eventually, the right to disbelieve was established. Freethought blossomed among intellectuals in Europe and America, reaching a heyday at the end of the nineteenth century and the beginning of the twentieth. Doubters such as Robert Ingersoll conducted speaking tours to challenge supernaturalism. Newspaper writer such as H. L. Mencken openly assailed “superstition”... It is a strange contradiction: A good part of people around the globe still still worship unseen gods, and sometimes even kill for them – yet most Western thinkers, scientists, witers, and other intellectuals generally reject the supernatural. For anyone scanning the past and surveying the current world scene, it is nearly impossible to find any oustanding person – except for popes, archbishops, kings and other rulers seeking popular support – who says the purpose of life is to be saved by an invisible Jesus and to enter an invisible heaven. But ist is easy to find many among the great who doubt this basic dogma... [8] The first step, then, in understanding Atheism is to disregard all the lies and propaganda that religion has spread against it. Atheism is more than just the knowledge that gods do not exist, and that religion is either a mistake or a fraud. Atheism is an attitude, a frame of mind that looks at the world objectively, fearlessly, always trying to understand all things as a part of nature. It could be said that Atheism has a doctrine to question and a dogma to doubt. It is the human mind in its natural environment, nothing is too holy to be investigated, nor too sacred to be questioned. The Atheist Bible, it could be said, has but one word: "THINK." Atheism is the complete emancipation of the human mind from the chains and fears of superstition. There is absolutely nothing negative about Atheism; truth can never be negative. The Atheist demands proof, or at least reasonable evidence, and simply rejects whatever does not meet the basic requirements of common sense. Throughout history all progress in society has come from doubting and rejecting old ideas, old customs, and old beliefs. The tree of human knowledge dies as it grows, with new growth growing out of the dead and dying parts, and replacing it with better and truer beliefs. The Theologian is an owl, sitting on an old dead branch in the tree of human knowledge, and hooting the same old hoots that have been hooted for hundreds and thousands of years, but he has never given a hoot for progress. Morally speaking, Atheism has a great advantage over religion. The great failure of religious morality comes from their illusion of a morality above right and wrong. The religious mind has always known it is wrong to murder and torture, wrong to persecute and hate, wrong to force its beliefs upon others. Religion has always known these things are wrong, but the religious mind suffers from the illusion of a "higher morality," and because of that illusion all history runs deep with innocent blood. In the name of their "god" and a "higher morality," Christians have waged holy wars of extermination, have plundered, tortured and murdered those who could not agree with their religion, or who had never even heard of it. In the name of this "higher morality" Christians have hated, hunted, persecuted, and burned alive the "heretic," the "infidel" and the "atheist." And today, as always, when the religious person does a thing that even he recognizes as being wrong and immoral, his illusion of a "higher power" and a "greater morality" allows him to perform some ritual, confession, or prayer, and presto, miraculously, "all his sins are taken away", and he is free again from all pains of conscience and regret. Such foolish illusions do not comfort the Atheist mind. The Atheist knows there is no morality above right and wrong, and no escape from the pains of conscience and remorse. Murder is murder, and robbery, hate and persecution are all crimes against humanity. Morally speaking, then, history tells us it is better to be an Atheist than to be a Christian. Religion claims that immorality always springs from a lack of religion, but the facts prove just the opposite. Christianity has never been stronger than it is today, Christians have churches in every community, they monopolize radio and television time with religious propaganda, they have forced their religion into our government, our laws, and into our schools. They have done these things against the Constitution of the United States, and against the most basic and sacred rights of all other Americans, rushed in where it was not supposed to be, where it has no business to be, silencing all opposition, all opposing views, poisoning the wells of our knowledge, and endangering the very roots of our nation. Christianity is that strong today, and yet we have not achieved any respectable amount of morality in this country. Nowhere is the failure of Christian morality more evident than in America. During the same time that Christianity has been growing ever stronger and ever richer, over the past thirty years or so, the use of harmful drugs has became a national scandal, the crime rate has been climbing ever higher and ever faster, the divorce rate has skyrocketed, and during that time our nation has been embroiled in more wars and international conflicts than in any other similar time period in its history. Right to-day we have the highest narcotics abuse rate, the highest crime rate, the highest divorce rate, and the highest 'religion rate' that we have ever had in the history of this nation. What does Christianity say about these facts and how to cure them? They tell us we need more religion and they are determined to force it upon us. Christianity feels so strong today that it is moving into politics to try to force its failing morality upon every American through a Christian Dictatorship and a new Dark Age. Once Atheism is achieved, and the mind has escaped entirely from the religious fears and beliefs that are put upon us from earliest childhood; and once we can look at religion objectively and impartially, it becomes entirely obvious that religion has all the characteristics of a form of insanity. To one degree or another the religious mind must accept, and believe in, another world; a supernatural or unnatural world, a world filled with all sorts of imaginary beings called gods, devils, angels, saints, demons, etc. These imaginary creatures are talked to, asked for favors, guidance, "signs," or miracles, and then blamed or thanked for natural events that follow. Except for the cloak of religion, such beliefs and actions would otherwise cause an individual to be judged insane, and committed to an institution for treatment. The study of history will further justify the theory that religion is a form of insanity. No sane and healthy minds could have waged the bloody religious wars and crusades where the conquered were slaughtered, men, women, and children, even infants, all were put to the sword simply because they were "infidels" or "heretics." The dungeons and torture chambers of the Holy Inquisition could not have been run by sane and healthy minds. And it had to be the insane mind, the religious mind, that would tie a woman to a stake, pile wood and fagots around her and burn her alive for the impossible crime of being a witch. No sane person could read of the horrors, rape and slaughter in a savage book and call that book "the word of God." And the Jesus myth, about a god who must become a man and be murdered before he can forgive mankind, is the most insane of all. Today, Christianity chooses to ignore, or to hide and deny, its own bloody history and to claim that it is the very foundation of our morals, and even of our civilization. Religion also claims to be our only hope and guide for the future. In view of Christian history these claims are, in themselves, sheer insanity. [9] Sans les missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr. Puginier, les Francais seraient comme les crabes auxquels on aurait cassé toutes les pattes. La comparaison, pour être triviale, ne manque pas de justesse et de force. En effet, sans les missionnnaires et les chrétiens, les Francais se verraient entourés d'ennemis; ils ne pouraient se fier à personne; ils ne recevraient que de faux renseignements, méchamment donnés pour compromettre leur situation; ils se trouveraient donc réduits à l'impossibilité d'agir et seraient rapidement exposés à des vrais désastres. Leur position ici ne serait plus tenable, et ils ne verraient forcés de quitter un pays où leurs intérêts et leur existence même serait compromis. [10] It is the non-belief of atheists that bothers them. These people have faith so thoroughly ingrained in their lives that to see somebody without a trace threatens them. They simply cannot conceive of somebody not believing in a deity of some sort. The idea is completely foreign to them, and therefore menacing. It forces them to evaluate their own beliefs. They become defensive and attack because the things they hold intrinsically and unquestionably sacred are being challenged by the mere philosophical position of another. They accuse atheists of leading selfish, corrupt, and immoral lives without fear of consequences. They accuse atheists of lacking moral codes. This is, of course, irrational, fear-mongering nonsense. According to a 1997 statistic, only 0.20% of prisoners incarcerated in the United States identify as atheists. Since atheists currently represent roughly 14% of the overall U.S. population, this is a significant indicator of the "morality" of the modern atheist. These rabid believers clash with atheists knowing perfectly well that they are helpless to alter the ideological perceptions of their perceived foe. Why then, do they choose to partake of this exchange of bad blood? Because they're angry and they're frightened. They're angry because we have the nerve to indirectly challenge their insecurely-held beliefs with our continued existence. They're frightened because they fear that they're losing their foothold on the theocratic monopolization of America (school prayer, Christian-oriented legislature, etc.)... an officially secular country, mind you. Lashing out, spreading lies and misconceptions, and demonizing the enemy is a natural way to react to opposition; however contrary to the teachings of their professed lord and savior. Any anti-atheist backlash you're witnessing here is simply the result of reactionary mean-spiritedness, and nothing more. The misinformation is a sign of desperation. [11] When I became convinced that the Universe is natural – that all the holy ghosts and gods are myths, there entered into my brain, into my soul, into every drop of my blood, the sense, the feeling, the joy of freedom. The walls of my prison crumbled and fell, the dungeon was flooded with light and all the bolts, and bars, and manacles became dust. I was no longer a servant, a serf, or a slave...I was free - free to think, to express my thoughts - free to live to my own ideal - free to use all my faculties, all my senses - free to investigate - free to reject all ignorant and cruel creeds, all the “inspired” books that savages have produced, and all the barbarous legends of the past - free from popes and priests - free from sanctified mistakes and holy lies - free from the fear of eternal pain - free from devils, ghosts and gods
Bài cùng đề tài: - TÔI ĐỌC BÀI “NHẬN THỨC…” Của THIỆN Ý
NGUYỄN VĂN THẮNG
|