TÔI ĐỌC BÀI “NHẬN THỨC…” Của THIỆN Ý NGUYỄN VĂN THẮNG Trần Chung Ngọc http://sachhiem.net/TCN/TCNdt/TCNdt033.php ... Trước hết chúng ta cần phải hiểu rằng Pháp Luật bảo vệ đức tin của mọi cá nhân có nghĩa là mỗi người đều có quyền tự do tin vào điều mình muốn tin miễn là đức tin của mình không đưa đến những hành động có phương hại đến xã hội, và không ai có quyền cấm đoán đức tin của người khác. Nhưng mặt khác, vì tôn giáo có ảnh hưởng đến mọi mặt của xã hội, tốt có, xấu có, cho nên Pháp Luật cũng bảo vệ quyền của mọi người được tự do nghiên cứu trong lãnh vực học thuật về tôn giáo, và được tự do phát biểu ý kiến qua công cuộc nghiên cứu của mình. Vì vậy chúng ta mới thấy hàng trăm tác phẩm nghiên cứu về mọi mặt của Thiên Chúa Giáo, từ hai cha con Thiên Chúa đến cuốn Thánh Kinh, lịch sử Giáo hội Công Giáo, lịch sử các Giáo hoàng, cũng như về những giáo lý, tín điều trong Thiên Chúa Giáo v…v…(TCN)
Vào trang nhà sachhiem.net, tôi đọc được bức thư của bà đốc tờ Nguyễn Thị Thanh “Xin được phổ biến rộng rãi cho toàn thế giới” [sic] trong đó có đoạn mở đầu như sau: Hàng chục năm nay nhóm Giao Điểm mà đứng đầu là Trần Chung Ngọc [sic] đã có một chủ trương phản con người, phản dân tộc, phản nhân quyền, dân quyền hiến định bằng cách cố tình tìm mọi cách xuyên tạc, “vạch lá tìm sâu bươi lông tìm vết” để đánh phá đạo Thiên Chúa Giáo nói chung và đạo Công Giáo nói riêng, làm tổn thương nặng nề đến các Đại cộng đồng TCG và GHCG La Mã thế giới cũng như tổn thương đến từng tinh thần, tâm can đời sống của mổi một tín hữu TCG và CG Việt Nam và thế giới….. Một bài Nhận Thức có giá trị cao của GS. Thiện Ý đã vạch trần tội lổi mạ lỵ thô bỉ, bạo ngược Kitô giáo, xúc phạm nhân quyền, dân quyền hiến định, được mọi quốc gia trên thế giới bảo vệ theo hiến pháp quốc tế. Tác giả Thiện Ý đã lên án một cách vô cùng sáng suốt, tế nhị mà sâu sắc và chính xác nhóm Giao Điểm hàng chục năm nay đã xúc phạm thô bạo đến tôn giáo đã được hiến pháp bảo vệ, xúc phạm nhân quyền dân quyền, quyền tự do tín ngưỡng. Tác giả cũng có ý kiến đưa vấn đề khởi tố nhóm Giao Điểm mà đứng đầu là Trần Chung Ngọc. Theo bà đốc Thanh thì “xuyên tạc, vạch lá tìm sâu bươi lông tìm vết” để đánh phá đạo Thiên Chúa Giáo nói chung và đạo Công Giáo nói riêng” chính là “chủ trương phản con người, phản dân tộc, phản nhân quyền, dân quyền hiến định”. Một đốc tờ mà viết một câu văn chẳng ra văn, ý chẳng ra ý, thuộc loại “đao phủ văn chương” như vậy, thì thật là quái lạ. Chúng tôi thực tình không ngờ là chỉ có mấy bài viết mà đã “làm tổn thương nặng nề đến các Đại cộng đồng TCG và GHCG La Mã thế giới cũng như tổn thương đến từng tinh thần, tâm can đời sống của mổi một tín hữu TCG và CG Việt Nam và thế giới…”, tuy rằng mục đích của chúng tôi không phải là như vậy, vì chúng tôi đã nhiều lần khẳng định là chỉ muốn “giải hoặc Ki Tô Giáo”, nghĩa là đưa ra những sự thật về Ki Tô Giáo để mở mang kiến thức các tín đồ Ki Tô Giáo và người dân Việt Nam về Ki Tô Giáo, qua những tài liệu lịch sử đã thành văn của các học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô Giáo. Nếu quý vị cảm thấy bị tổn thương chính là vì quý vị đã đóng sập cửa vào mặt sự thật khi chính sự thật đến gõ cửa, do đó tự mình làm khổ mình đấy thôi, chứ chẳng phải là chúng tôi muốn làm khổ quý vị. Tôi cũng không nghĩ rằng bà đốc Thanh có thể đại diện cho “Đại cộng đồng TCG và GHCG La Mã thế giới” và cho “mổi một tín hữu TCG và CG Việt Nam và thế giới” để mà khẳng định là tất cả đều bị tổn thương nặng nề và bị tổn thương đến cả tinh thần, tâm can của 1.5 tỷ người Ki Tô trên thế giới, nhất là tinh thần và tâm can của hơn 70% người Công giáo hiện đang sống trong các nước chậm tiến ở Nam Mỹ và Phi Châu. Bà Đốc Thanh cũng không biết rằng, có một số người Ki Tô Giáo, không nhiều, nhưng đã lên tiếng cám ơn chúng tôi đã khai sáng cho họ về chính tôn giáo của họ. Nhưng bài viết này không phải là về bà đốc Thanh mà về bài của Gs Thiện Ý Nguyễn Văn Thắng mà bà cho là “Nhận Thức có giá trị cao” .
Sau đây tôi xin có vài ý kiến về bài “NHẬN THỨC: TÔN GIÁO LÀ MỘT PHẠM TRÙ ĐỨC TIN VÀ LÀ MỘT DÂN QUYỀN HIẾN ĐỊNH CẦN ĐƯỢC PHÁP LUẬT BẢO VỆ.” của Gs Thiện Ý Nguyễn Văn Thắng mà bà Đốc Nguyễn Thị Thanh đã hết lời ca tụng, quảng cáo, để xem bài Nhận Thức của ông ta có giá trị cao, “sáng suốt” và “sâu sắc” đến mức nào. Thực ra trong suốt bài Nhận Thức, Gs Thiện Ý không hề có chỗ nào có thể gọi là “vạch trần…”, mà tất cả chỉ là những lời chụp mũ vu vơ vô căn cứ, vì không đưa ra bất cứ một dẫn chứng nào để “vạch trần..” Phải chăng để giúp cho bà đốc Thanh, Gs Thiện Ý, và 1.5 tỷ người Ki Tô trên thế giới có đủ tài liệu để lập hồ sơ khởi tố nên giaodiemonline.com đã đưa lên kho tài liệu về Mặt Trái Của Thiên Chúa Giáo – Thư Mục Và Websites [http://giaodiemonline.com/2009/06/thumuc.htm] và trang nhà sachhiem cũng có ý muốn giúp như giaodiemonline nên đã đưa lên đống tài liệu về Sách Báo Ngoại Quốc Về Đạo Chúa [http://www.sachhiem.net/SACHNGOAI/SNGOAIdir.php.] Hi vọng bà Đốc Thanh, Gs Thiện Ý và những người Công giáo Việt Nam có thể lợi dụng được những thư mục này để đạt được mục đích bịt miệng tiếng nói của những người nghiên cứu về Thiên Chúa Giáo, Việt Nam cũng như ngoại quốc. Trước hết chúng ta cần phải hiểu rằng Pháp Luật bảo vệ đức tin của mọi cá nhân có nghĩa là mỗi người đều có quyền tự do tin vào điều mình muốn tin miễn là đức tin của mình không đưa đến những hành động có phương hại đến xã hội, và không ai có quyền cấm đoán đức tin của người khác. Nhưng mặt khác, vì tôn giáo có ảnh hưởng đến mọi mặt của xã hội, tốt có, xấu có, cho nên Pháp Luật cũng bảo vệ quyền của mọi người được tự do nghiên cứu trong lãnh vực học thuật về tôn giáo, và được tự do phát biểu ý kiến qua công cuộc nghiên cứu của mình. Vì vậy chúng ta mới thấy hàng trăm tác phẩm nghiên cứu về mọi mặt của Thiên Chúa Giáo, từ hai cha con Thiên Chúa đến cuốn Thánh Kinh, lịch sử Giáo hội Công Giáo, lịch sử các Giáo hoàng, cũng như về những giáo lý, tín điều trong Thiên Chúa Giáo v…v… Kho tài liệu do giaodiemonline và sachhiem đưa lên ở trên, hơn gì hết, đã chứng tỏ tính hợp pháp của các công cuộc nghiên cứu trên. Ngoài ra, Pháp Luật cũng còn có hiệu lực ngăn chận và trừng phạt những hoạt động tôn giáo có ảnh hưởng xấu trong xã hội, vi phạm luật pháp quốc gia. Nhưng hiển nhiên là Gs Thiện Ý sống trong ốc đảo Công giáo nên không biết đến điều trên, cho nên mở đầu Gs Thiện Ý đưa ra những khẳng định chụp mũ chẳng “thiện ý” chút nào đối với Giao Điểm, nhưng không hề đưa ra bất cứ một dẫn chứng nào từ những bài trên Giao Điểm để chứng minh những lời vu khống vô căn cứ và có ý gây thù hận của mình: 1. Thiện Ý: Không phải chỉ mới đây mà đã từ lâu nhóm Giao Điểm, một nhóm qui tụ những người vô thần đội lốt tôn giáo cực đoan, đã viết báo, viết sách và các phương tiện truyền thông khác dể phê bình chỉ trích, bài bác, đánh phá Giáo hội Công Giáo nói riêng, Thiên Chúa Giáo nói chung, trên hai bình diện giáo lý tín điều và lịch sử hình thành, phát triển giáo hội. Bằng những nhận thức và suy luận chủ quan dựa trên những căn cứ giả chân lẫn lộn để ngụy biện, xuyên tạc sự thật, xử dụng những ngôn từ thiếu văn hóa lăng mạ Thượng Đế và các Thần Thánh mà hàng tỷ con người có chung niềm tin yêu tôn thờ, xúc phạm thô bạo niềm tin tôn giáo cá nhân cũng như tập thể. Đồng thời, bằng mọi cách gian trá, thậm từ mạ lỵ và phủ nhận công trạng các nhân vật lịch sử Việt Nam gốc Công giáo như Nguyễn Trường Tộ, Ngô Đình Diệm v.v… Việc làm này của nhóm Giao Diểm có tính khiêu khích nhằm thành đạt ý đồ gì, có lẽ mọi người Việt nam lương hảo và trình độ nhận thức khách quan đều đã có câu trả lời. TCN: Đây là những lời vu khống chụp mũ vô trách nhiệm vì tất cả chỉ là những lời vô căn cứ, không hề đưa ra bất cứ một bằng chứng nào để làm hậu thuẫn cho những lời trên, do đó thực chất là vô giá trị. Những điều hoang tưởng trên chỉ phản ánh quan niệm cá nhân bắt nguồn từ sự cuồng tín tôn giáo và tự chứng tỏ sự hiểu biết rất kém cỏi và thiếu sót về chính tôn giáo của mình. Tôi thiết tưởng bài “Khổ Thân Củ Khoai Tôi” mới đưa lên sachhiem.net và giaodiemonline.com cũng đủ để phủ bác tất cả những lời vu khống Giao Điểm như trên của Gs Thiện Ý. Củ Khoai đây có nghĩa là “Củ Khoai bị đàn kiến kiện” nhưng hình như có người cố ý hiểu lầm thành ý khác. Còn về Nguyễn Trường Tộ và Ngô Đình Diệm thì Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang đã chứng minh Ngô Đình Diệm thuộc dòng họ Ngô Đình Tam Đại Việt Gian, và Bùi Kha và Trần Chung Ngọc cũng đã chứng minh Nguyễn Trường Tộ chỉ là một Việt gian, không hơn không kém, trong cuốn “Nguyễn Trường Tộ Yêu Nước”.. Cho tới nay chưa có ai có thể chứng minh ngược lại. Gs. Thiện Ý có thể đọc thêm bài “Vài Nét Về Cụ Diệm” của TCN trên sachhiem.net hoặc trên giaodiemonline.com. Người Công giáo muốn tôn vinh Nguyễn Trường Tộ và Ngô Đình Diệm như thế nào thì tôn vinh, nhưng trong lãnh vực học thuật với hàng núi tài liệu thì những sự thật về những khuôn mặt Việt gian của Nguyễn Trường Tộ và Ngô Đình Diệm đã là những sự kiện bất khả phủ bác. Bây giờ tôi xin sang phần những “Nhận Thức có giá trị cao của GS. Thiện Ý”. Có vẻ như Gs. Thiện Ý chỉ cốt gây thù hận cho người Công giáo đối với Giao Điểm nên đã nhiều chỗ viết lên cụm từ “nhóm vô thần Giao Điểm” vì Công giáo không đội trời chung với Cộng sản và luôn luôn cho rằng Cộng sản là vô thần, tuy rằng “vô thần” đã có từ cả mấy ngàn năm nay chứ không phải chỉ có từ khi có Cộng sản. Tôi cảm thấy thương hại cho các bậc trí thức Công giáo như Gs Thiện Ý, không viết thì thôi, càng viết càng bày cái dốt của mình ra, vì vậy cứ thích dùng từ “vô thần” làm như “vô thần” là một cái gì xấu xa, trong khi sự xấu xa phần lớn lại ở trong giới hữu thần, đặc biệt thần đó là thần Gia-vê của Ki Tô Giáo. Với mục đích giáo dục và giải hoặc, sau đây là một bài giáo khoa cũ về “vô thần” xin tặng Gs Thiện Ý và tất cả những người Công giáo nào hay dùng hai chữ “vô thần” trong cụm từ “Cộng sản vô thần” mà không hiểu vô thần là như thế nào. Những người Công Giáo thường được tẩy não, nhồi sọ từ nhỏ là những người không tin vào Thiên Chúa của họ là “vô thần”, và vô thần có nghĩa là vô đạo đức của Ki Tô Giáo, và do đó có thể làm tất cả những điều ác vì không còn sợ Thiên Chúa của họ. Nhưng nếu chúng ta đọc lịch sử giới hữu thần và so với giới vô thần, chúng ta sẽ thấy rằng đạo đức của giới hữu thần thực sự thua xa đạo đức của giới vô thần. Chính lịch sử Ki Tô Giáo đã chứng tỏ như vậy. Tại sao? Bởi vì Ki Tô Giáo tin vào cuốn Thánh Kinh của họ, và trong Thánh Kinh, Thiên Chúa đó là một nhân vật ác ôn bạo tàn không đáng để cho ai tôn thờ [Xin đọc The God Delusion của Richard Dawkins], và những điều luân lý đạo đức chỉ chiếm một phần nhỏ so với những phần vô đạo đức, phi luân.
Robert G. Ingersoll đã chứng minh rằng tất cả những điều ác ôn mà Ki Tô Giáo giáng lên đầu nhân loại là do sự mù lòa tin bướng tin càn vào cuốn Thánh Kinh của Ki Tô Giáo, Cựu Ước cũng như Tân Ước [Xin đọc bài Những Lời Châu Ngọc Về Ki Tô Giáo của Ingersoll trên trang nhà sachhiem: http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/ TCN72.php. ] Mỹ là một nước hữu thần hạng nhất trong thế giới ngày nay, vì có tới khoảng 60% Tin Lành, và khoảng 20% Công giáo, những người tin vào sự “thiết kế thông minh” của một ông Thiên Chúa để tạo lên nước Mỹ làm dân của Thiên Chúa (God’s people). Nhưng những tội ác như linh mục loạn dâm, đĩ điếm, cần sa, ma túy, gian manh lừa đảo, giết người, băng đảng xã hội đen v..v.. đều chiếm giải quán quân trên thế giới. Nói có sách, mách có chứng: sau đây là vài con số thống kê của Mỹ: - Thống kê năm 2000: 14 triệu người tuổi từ 12 trở lên dùng ma túy (6.3% dân số). - Năm 2001: 15.980 vụ giết người, 90.491 vụ hiếp dâm. Cứ 2 phút lại có một người bị hiếp (tài liệu của bộ Tư Pháp) - Trên 1 triệu gái mãi dâm hành nghề trên đường phố, nhà tắm hơi (sauna), phòng tẩm quất (massage parlor) và qua điện thoại, trong đó có 300.000 vị thành niên. Thành phố New York tốn $43 triệu mỗi năm để kiểm soát các vấn đề liên quan đến mãi dâm. - 14.000.000 người nghiện rượu. - Có 2.200.000 tù nhân Mỹ đang ngồi tù. Cả thế giới có 9.000.000 người đang ngồi tù, Mỹ chiếm 22% trong khi tỷ lệ dân số của Mỹ trên thế giới chỉ có 5%. - Ở Trung Quốc [xứ vô thần] thì cứ trong 100.000 người có 111 người ngồi tù, ở Mỹ [xứ hữu thần] là 686 người, gấp hơn 6 lần trong khi dân số Mỹ chỉ bằng 24% dân số Trung Quốc. - 50% các cặp vợ chồng do Chúa kết hợp đi đến ly dị. - Từ 4% đến 10% dân chúng đồng tính luyến ái. - Tới nay đã có hơn 5000 linh mục Công Giáo bị truy tố về tội cưỡng dâm trẻ em phụ tế và nữ tín đồ, chưa kể số Mục sư Tin Lành, và Giáo hội thánh thiện Công giáo đã phải bỏ ra trên 2 tỷ đô la để bồi thường cho các nạn nhân tình dục của các “Chúa thứ hai”.. - Số “Chúa thứ hai” bị bệnh AIDS nhiều hơn gấp 4 lần những người bị bệnh AIDS trong quần chúng. Đối với giới “Chống Cộng Cho Chúa” [CCCC] thì hai chữ “vô thần” hầu như bao giờ cũng đi liền với hai chữ “Cộng sản” trong những bản văn chống Cộng ở hải ngoại, và ngay cả ở trong nước. Không biết Cộng sản nghĩ sao chứ riêng tôi, mỗi khi tôi đọc đến bốn chữ “Cộng sản vô thần” tôi lại cảm thấy thương hại cho những người có đầu óc ngu ngơ cho nên đến thời buổi này còn viết ra những từ này. Bởi vì, Thần của người Âu Châu một thời là Thiên Chúa của nền thần học Do Thái – Ki Tô, nay cũng chỉ còn là “vang bóng một thời” vì chính Âu Châu cũng đang dần dần loại bỏ Thiên Chúa này. Những người viết lên nhóm chữ “Cộng Sản Vô thần” thực sự chỉ tỏ ra là mình kém hiểu biết, vì thực ra “vô thần” là biểu hiện của sự tự hào, của danh dự, của sự tiến bộ trí thức. Phần phân tích sau đây sẽ chứng minh luận cứ này. Thật vậy, trước khi Cộng Sản ra đời, Voltaire (1694-1778) đã châm biếm trước đa số những người Âu Châu không có đầu óc cho nên đã tin vào một vị Thần của Ki Tô Giáo: “Vô Thần là thói xấu của một số ít những người thông minh” (Atheism is the vice of a few intelligent people) và trên thực tế, Vô Thần là kết quả tiến bộ trí thức của con người, như Frank E. Tate đã tuyên bố như sau:
“Suốt cuộc đời tôi, tôi đã tiến bộ từ một người sùng tín đến một người theo thuyết “bất khả tri” và bây giờ là một người vô thần. Tôi dùng từ “tiến bộ” vì tôi tin rằng đó thực sự là một sự tiến bộ, tiến từ sự chấp nhận mù quáng vào một huyền thoại phi lý đã lỗi thời đến sự nghi ngờ và sau cùng đến sự từ bỏ và không còn tin nữa. Chính cái huyền thoại đó – cuốn Thánh kinh Do Thái-Ki Tô – là một cuốn ghi chép kinh hoàng về những cuộc đổ máu, dâm dật, và cuồng tín không đếm xỉa gì đến đời sống và sự an sinh của những người nào không bày tỏ niềm tin mù quáng của mình vào những giới luật được trình bày qua những lời lẽ mâu thuẫn và không thể nào xảy ra được” (1)
Có thể những người thờ thần, hay thờ Chúa cũng vậy, muốn biết là một người vô thần có những cảm nghĩ gì? Tôi xin mượn vài tư tưởng của Robert G. Ingersoll. Ingersoll là một nhà tư tưởng tự do nổi tiếng nhất của Mỹ. Tên ông ta có trong lịch sử, trong tự điển. Những tư tưởng của ông đều có trong các thư viện lớn. Tượng đài tưởng niệm ghi công ông khai phóng đầu óc giới trẻ được xây ở Peoria, bang Illinois. Ingersoll phát biểu như sau về cảm nghĩ của một người đã cất bỏ được cái gánh nặng Thiên Chúa trên vai. Tôi chỉ xin nêu ra vài tư tưởng trong đó:
“Khi tôi tin chắc rằng Vũ trụ là thiên nhiên – và rằng những thánh ma, thiên chúa chỉ là những huyền thoại, thì những cảm nghĩ, nhận thức, và niềm hân hoan về sự tự do, giải thoát đã xâm nhập vào đầu óc tôi, vào linh hồn tôi, và vào từng giọt máu trong người tôi. Những bức tường của cái nhà tù của tôi [Ki Tô Giáo] đã sụp đổ, ngục tù tăm tối đã được tràn ngập ánh sáng, và tất cả những then cửa, chấn song, gông cùm đã trở thành cát bụi. Tôi không còn là một tôi tớ hèn mọn, một người hầu, hay một nô lệ nữa (Xin đọc trang nhà Mucsu.net: Người Ki Tô Giáo vẫn thường tự nhận là tôi tớ hèn hạ, là người hầu việc Chúa v..v.. ) Tôi đã tự do: - tự do suy tư, phát biểu tư tưởng - tự do sống theo ý tưởng của tôi - tự do tận dụng mọi khả năng, mọi giác quan của tôi - tự do tìm hiểu - tự do vứt bỏ mọi tín điều ngu đần và độc ác, mọi sách “mạc khải” mà những người dã man đã tạo ra chúng và mọi truyền thuyết man rợ của quá khứ - tự do thoát khỏi những giáo hoàng và linh mục - tự do thoát khỏi những sai lầm được thánh hóa và những lời nói láo mang tính thánh - tự do thoát khỏi sự sợ hãi về một sự đau đớn vĩnh hằng (đày hỏa ngục) - tự do thoát khỏi những ma, quỉ và thiên chúa.” (2)
Nhìn vào thế giới ngày nay, ngoại trừ những ốc đảo tối tăm, hầu hết những nơi văn minh tiến bộ đều từ bỏ niềm tin vào sự hiện hữu của một Thiên Chúa sáng tạo ra muôn loài. Thiên Chúa trong các xã hội văn minh tiến bộ ngày nay chỉ có một giá trị ước lệ, truyền thống, và con người trong những xã hội này thực sự đang sống những cuộc sống như là không có Thiên Chúa, không sợ Thiên Chúa, không tin là Thiên Chúa có thể can dự vào bất cứ khía cạnh nào của đời sống con người, và điều hiển nhiên nhất là không có ai theo những luật của Thiên Chúa [của Ki Tô Giáo]. Chính Giáo hoàng Benedict XVI đã nhiều lần than phiền là lục địa Âu Châu ngày nay sống như là không có Thiên Chúa và cũng chẳng cần đến Chúa Giê-su nữa. Những người Công giáo như bà đốc Thanh và Gs Thiện Ý có biết đến những thông tin này không, hay vẫn sống trong bóng tối.
John Cornwell, một tín đồ Công giáo và cũng là một chuyên gia về Công Giáo và Vatican, tác giả 2 cuốn sách nổi tiếng về Vatican: A Thief in the Night và Hitler’s Pope, đã viết thêm một tác phẩm về Công giáo nhan đề Từ Bỏ Đức Tin: Giáo Hoàng, Giáo Dân, và Số Phận của Công Giáo (Breaking Faith: The Pope, The People, and The Fate of Catholicism), xuất bản năm 2001, trong đó chương đầu viết về Một Thời Đại Đen Tối Của Công Giáo (A Catholic Dark Age). Trong chương này, tác giả John Cornwell đưa ra tình trạng suy thoái trầm trọng của Công giáo ở khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Anh, Mỹ, và Pháp. Số tín đồ mang con đi làm lễ rửa tội giảm sút, vì ngày nay người ta nhận thức được rằng chẳng làm gì có tội ở đâu mà phải đi rửa; đám cưới tổ chức không cần đến linh mục, vì hôn phối có thể hợp thức hóa ở ngoài nhà thờ và bí tích hôn phối đã mất hết ý nghĩa; giới trẻ không buồn đến nhà thờ, vì chẳng thấy gì hấp dẫn trong những lời giảng đi ngược thời gian của các linh mục; số tín đồ từ bỏ đức tin gia tăng, vì người ta không còn chịu chấp nhận một đức tin mù quáng; từ 1958 đến nay, số vào nghề linh mục giảm đi 2/3 v..v.. Tình trạng ở Châu Âu, trước đây là cái nôi của Công giáo, thật là thê thảm. Ở Tây Âu (Western Europe), từ 30 đến 50% các giáo xứ không có linh mục. Ở Ý, 90% theo Công giáo nhưng chỉ có 25% đi lễ nhà thờ ngày chủ nhật, giảm 10% kể từ đầu thập niên 1980, số người vào học trường Dòng giảm một nửa. Ở Ái Nhĩ Lan (Ireland), xứ Công giáo, số người cảm thấy mình được ơn kêu gọi tụt xuống từ 750 năm 1970 còn 91 năm 1999, số linh mục được tấn phong từ 259 xuống 43 trong cùng thời gian. Trong một hội nghị đặc biệt vào năm 1999, các giám mục Âu Châu tuyên bố rằng các dân tộc trong toàn lục địa Âu Châu đã quyết định sống “như là Thiên Chúa không hề hiện hữu” [nghĩa là sống như là “vô thần”] (At a special synod in 1999, the bishops of Europe declared that the peoples of the entire continent had decided to live “as though God did not exist”.) Ở Nam Mỹ, tình trạng cũng không khá hơn. 7000 tín đồ mới có một linh mục. Chỉ có 15% giáo dân đi xem lễ ngày chủ nhật. Theo một hội nghị quốc gia của các giám mục Ba Tây thì mỗi năm có khoảng sáu trăm ngàn tín đồ bỏ đạo (according to the National Conference of Brazilian Bishops, some 600000 Catholics leave the Church each year.)
Âu Châu và nhiều nơi khác trên thế giới đã trở thành “vô thần”. Cho nên, “Thiên Chúa” chỉ còn hiện hữu trong đám người có cái “gen” của Thiên Chúa, cái “gen” này thuộc loại “gen” sáng tạo ra một trái đất có 4 góc, và một vòm trời cứng chắc có thể giữ nước ở trên, có những cánh của để cho các thiên thần mở ra khi muốn tưới mưa xuống. Vậy ngày nay từ “vô thần” chẳng nói lên được điều gì ngoài phản ánh sự kém hiểu biết của đám người cuồng tín, không theo kịp đà tiến hóa và sự tiến bộ trí thức của nhân loại. Và khi Gs Thiện Ý dùng cụm từ “nhóm vô thần Giao Điểm” ông ta không hiểu rằng như vậy, trong lãnh vực tôn giáo, là đã khen tặng trình độ trí thức cao của Giao Điểm so với trình độ của các con chiên, đặc biệt là con chiên Việt Nam.
Sau đây chúng ta hãy tìm hiểu thế nào là “vô thần”, vô thần có từ bao giờ và những người vô thần trên thế giới là ai? Chúng ta hãy đọc một đoạn đặc sắc trong bài thuyết trình của Emmett F. Fields. Trong bài thuyết trình này, tác giả chủ yếu nói về Ki Tô Giáo nhưng khi thì dùng từ “tôn giáo” (religion) khi thì dùng từ Ki Tô Giáo (Christianity). Đọc phần tiếng Anh chúng ta thấy rõ như vậy. Cho nên tôi đã thay một số từ “tôn giáo” bằng Ki Tô Giáo để cho dễ hiểu. Bước đầu tiên trong việc tìm hiểu vô thần là phải loại bỏ những lời nói láo và tuyên truyền mà Ki Tô giáo truyền bá để chống vô thần. Vô thần không chỉ là kiến thức về sự không hiện hữu của các thần mà còn hơn nữa, là kiến thức về sự sai lầm hay gian xảo của Ki Tô giáo. Vô thần là một thái độ, một khung trí tuệ nhìn thế giới một cách khách quan, không sợ hãi, luôn luôn tìm hiểu mọi sự việc như là một phần của thiên nhiên. Có thể nói rằng vô thần có một giáo lý là phải đặt nghi vấn và một tín lý là phải nghi ngờ. Đó là trí tuệ con người trong môi trường thiên nhiên, không có gì là quá thánh thiện để không được tìm hiểu, không có gì là quá thiêng liêng để không được đặt nghi vấn. Cuốn Thánh Kinh của người vô thần, có thể nói như vậy, chỉ có một từ: “HÃY SUY NGHĨ”. Vô thần là sự giải thoát hoàn toàn của đầu óc con người khỏi những xiềng xích của sợ hãi và mê tín. Vô thần tuyệt đối không có gì tiêu cực; sự thật không bao giờ có thể là tiêu cực. Vô thần đòi hỏi chứng minh, hay ít nhất là những bắng chứng hợp lý, và chỉ bác bỏ những gì không đáp ứng được sự đòi hỏi của sự hiểu biết thông thường. Trong suốt lịch sử, mọi tiến bộ trong xã hội có được là từ sự nghi ngờ và loại bỏ những ý tưởng, những tập quán, và những niềm tin cũ kỹ [vì không còn đúng]. Cái cây kiến thức nhân loại chết khi nó đang mọc lớn, với những cành lá mới mọc từ những phần đang chết, và thay thế những phần này với những niềm tin chân thật và tốt đẹp hơn. Nhà Thần học là một con cú, đậu trên một cành cây đã chết của cái cây kiến thức nhân loại, và rúc lên cùng những tiếng rúc cũ kỹ đã từng rúc lên trong nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhưng hắn chưa bao giờ phát ra một tiếng kêu rúc nào cho sự tiến bộ. Về đạo đức, Vô thần ở ghế thượng phong trên Ki Tô giáo. Sự thất bại lớn của đạo đức Ki Tô giáo bắt nguồn từ ảo tưởng của họ về một đạo đức đứng trên đúng hay sai [vì là đạo đức của Thiên Chúa]. Đầu óc của người theo Ki Tô giáo đã biết là tra tấn và giết người là sai lầm, bạo hành và thù hận là sai lầm, cưỡng bức người khác vào đạo là sai lầm. Ki Tô giáo đã biết những điều đó là sai lầm, nhưng đầu óc của những người theo Ki Tô giáo trở nên tồi tệ vì cái ảo tưởng về một nền “đạo đức cao hơn”, và vì cái ảo tưởng này mà lịch sử nhân loại ngập máu những người vô tội. Nhân danh “thiên chúa” và một nền “đạo đức cao hơn” của họ, những người Ki Tô Giáo đã tiến hành những cuộc thánh chiến để tiêu diệt, đã cướp bóc, tra tấn và tàn sát những người không thể đồng ý với họ, hoặc chưa tùng nghe đến tôn giáo của họ. Nhân danh nền “đạo đức cao hơn” này, những người Ki Tô Giáo đã thù hận, săn lùng, bạo hành, và thiêu sống người “lạc đạo”, người “vô tín”, và người “vô thần”. Và ngày nay, như đã từ bao giờ, khi tín đồ Ki Tô giáo làm những việc mà ngay hắn cũng biết là sai lầm và vô luân, nhưng cái ảo tưởng của hắn về một “quyền năng cao hơn” [của Thiên chúa] và một nền “đạo đức cao hơn” [của Ki Tô giáo] cho phép hắn trình diễn vài lễ tiết, xưng tội, hay cầu nguyện thì kỳ lạ thay, ngay lập tức, “tất cả tội lỗi của hắn đều được xóa bỏ”, và hắn lại không còn có thắc mắc gì về lương tâm hay hối hận. Những ảo tưởng điên rồ như vậy không làm cho đầu óc người vô thần thoải mái. Người vô thần biết rằng không có đạo đức nào đứng trên đúng và sai, và con người không thoát ra khỏi được sự cắn rứt của lương tâm và hối hận. Giết người là giết người, ăn cướp là ăn cướp, thù hận và bạo hành là những tội ác chống nhân loại. Về đạo đức, lịch sử cho chúng ta thấy, làm người vô thần thì tốt hơn là làm người Ki-Tô. Ki Tô giáo cho rằng sự vô đạo đức nẩy ra là vì thiếu vắng Ki Tô giáo, nhưng những sự kiện đã chứng tỏ ngược lại. Ki Tô Giáo chưa bao giờ mạnh như bây giờ, họ có nhà thờ trong mọi cộng đồng, độc quyền chiếm giờ trên đài phát thanh và đài truyền hình để tuyên truyền cho Ki Tô giáo, và họ đã cưỡng nhét Ki Tô giáo của họ vào chính quyền, luật pháp và trường học của chúng ta. Họ đã làm những việc chống với Hiến Pháp của Mỹ, và chống những quyền căn bản và thiêng liêng nhất của mọi người Mỹ khác. Họ đã len lỏi vào nhưng nơi họ không được vào, những nơi không có việc của họ, bịt miệng mọi chống đối, mọi quan điểm khác, bỏ thuốc độc vào cái giếng hiểu biết của chúng ta và làm nguy hại đến những gốc rễ của quốc gia chúng ta. Ki Tô giáo ngày nay mạnh như vậy, nhưng chúng ta không đạt được một mức đạo đức nào đáng kể trong quốc gia này. Không ở đâu khác cho thấy sự thất bại về đạo đức Ki-tô giáo rõ rệt như ở Mỹ. Trong cùng một thời gian mà Ki Tô giáo trở nên mạnh hơn và giầu có hơn, trong 30 năm qua, vấn nạn dùng các loại ma túy đã trở thành một vấn nạn xấu xa của quốc gia, số tội ác tăng gia nhanh chóng, tỷ lệ ly dị tăng vọt, và trong thời gian này quốc gia của chúng ta bị lôi cuốn vào nhiều cuộc chiến tranh và xung đột thế giới hơn bao giờ hết trong lịch sử. Ngay bây giờ chúng ta có những tỷ lệ dùng ma túy, phạm tội ác, ly dị cao nhất cùng với “tỷ lệ theo Ki Tô giáo” cao nhất chưa từng có trong lịch sử quốc gia này. Ki Tô Giáo có thể nói gì về những sự kiện này và làm sao để chữa chạy chúng. Họ bảo chúng ta là chúng ta cần nhiều đến Ki Tô giáo hơn và cương quyết áp đặt Ki Tô giáo lên chúng ta. Ki Tô Giáo cảm thấy quá mạnh ngày nay và họ đang đi vào chính trị để cưỡng đặt nền đạo đức thất bại của họ trên mọi người Mỹ qua sự Độc Tài của Ki Tô Giáo và một Thời Đại Tăm Tối mới. Một khi thái độ vô thần đã đạt được, và đầu óc đã thoát khỏi những sự sợ hãi và niềm tin trong Ki Tô giáo đã được cấy vào chúng ta từ khi còn nhỏ; và một khi chúng ta có thể nhìn vào tôn giáo một cách khách quan không thiên vị, thật hiển nhiên là Ki Tô giáo có tất cả những đặc tính của một dạng tâm linh điên rồ. Tùy theo mức độ, người sùng tín Ki Tô giáo phải chấp nhận, và tin, vào một thế giới khác; một thế giới siêu nhiên hay khác thường, một thế giới có đầy những nhân vật tưởng tượng gọi là thiên chúa, quỷ, thánh v..v.. Người ta nói với những tạo vật tưởng tượng này, xin xỏ ân huệ, sự hướng dẫn, những “dấu hiệu”, hoặc phép lạ, và rồi hoặc quy trách hoặc tạ ơn những biến cố thiên nhiên sau đó xảy ra. Nếu không phải là khoác bộ áo tôn giáo thì những niềm tin và những hành động như vậy phải coi là của một người điên, cần phải vào nhà thương điên để chữa trị. Sự nghiên cứu lịch sử sẽ biện minh thêm cho thuyết Ki Tô giáo là một dạng tâm linh điên rồ. Không có một đầu óc lành mạnh nào lại có thể gây ra những cuộc chiến tranh tôn giáo đẫm máu, những cuộc thập ác chinh mà những người bị chinh phục, đàn ông, đàn bà, trẻ con, và ngay cả con nít đều bị giết chỉ vì họ là những người “không tin” hay “lạc đạo”. Những tù ngục tối tăm và những phòng tra tấn của những tòa án thánh xử dị giáo không thể nào bị cai quản bởi những đầu óc lành mạnh. Và phải là loại đầu óc điên rồ, đầu óc Ki Tô giáo, mới trói người phụ nữ vào cột, rồi chất củi thiêu sống vì cái tội không thể nào có là phù thủy. Không có người nào tỉnh táo có thể đọc những chuyện khủng khiếp, hiếp dâm và giết người trong một cuốn sách man rợ mà người ta gọi cuốn sách đó là “Lời của Thiên Chúa”. Và huyền thoại về Giê-su, về một thiên chúa phải xuống làm người và bị giết trước khi có thể tha thứ tội lỗi cho nhân loại, là chuyện điên rồ nhất trong những chuyện điên rồ. Ngày nay, Ki Tô Giáo cố tình không biết đến, hay giấu kín và phủ nhận cái lịch sử đẫm máu của mình và tự tôn là nền tảng đạo đức của chúng ta, và là nền tảng ngay cả nền văn minh của chúng ta. Ki Tô Giáo tự cho rằng là nguồn hi vọng duy nhất của chúng ta trong tương lai. Nhìn vào lịch sử Ki Tô Giáo, những điều tự nhận như vậy, bản chất chỉ là những lời nói điên dại. (3)
Tôi nghĩ rằng vài tài liệu như trên cũng đủ để cho chúng ta phân biệt được thế nào là “vô thần” và thế nào là “hữu thần”. Sau đây chúng ta sẽ thử xem trong lịch sử thế giới những ai là “vô thần”.
Trước hết là Đức Phật, Đức Khổng Tử, Lão Tử ở Đông Phương trong thế kỷ 6 trước thường lịch. Cùng thời với 3 nhân vật vĩ đại của nhân loại trên, chúng ta thấy Simonides, một thi sĩ Hi Lạp. Rồi sau đó là Empedocles, Aristotle, triết gia Hi Lạp; Demosthenes, nhà hùng biện thành Athenes; Epicurus, triết gia Hi Lạp; Lucretius, triết gia La Mã; Statius, Thi sĩ La Mã. Tất cả những nhân vật có tên trong lịch sử trên đều sinh ra trước Giê-su, và do đó chẳng có ai biết đến một người Do Thái tên là Giê-su. Như vậy, câu trong Tân Ước, John 3:16, mà từ Giáo hoàng cho đến các con chiên thường hay trích dẫn: “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban Con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người [Giê-su] sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời.” thực chất chỉ là một câu bịp bợm vô nghĩa của Giáo hội, để vừa khuyến dụ vừa hù dọa những đầu óc cả tin, dễ mê tín và yếu ớt, vì trước khi Giê-su sinh ra đời thì con người đã xuất hiện trên trái đất ít ra là cả vài trăm ngàn năm, nhiều ra là cả triệu năm, trong đó có cả họ hàng tổ tiên của Giê-su, có ai biết đến Giê-su để mà tin, để không bị luận phạt, có nghĩa là bị Giê-su đầy xuống hỏa ngục để cho ngọn lửa vĩnh hằng thiêu đốt. Vậy 1.5 tỷ người mà tin vào một điều bịp bợm vô nghĩa như trên thì bản chất điều đó cũng chỉ là một điều bịp bợm vô nghĩa. Ai, kể cả bà đốc Thanh và Gs Thiện Ý, không đồng ý xin mời lên tiếng.
Bây giờ chúng ta hãy kể vài nhân vật “hữu thần” nổi danh trên thế giới. Hiển nhiên các giáo hoàng, hồng y, tổng giám mục, linh mục là những người “hữu thần” bậc nhất. Mở danh sách các giáo hoàng ra chúng ta thấy có bao nhiêu giáo hoàng nổi tiếng trên thế giới, thuộc loại “lưu danh muôn thuở” hay “lưu xú vạn niên”.? Lloyd M. Graham đã viết trong cuốn Những Dối Trá và Huyền Thoại Của Thánh Kinh (Deceptions and Myths of the Bible): “Đối với hàng triệu linh hồn bị lạc dẫn...một ngàn năm tội ác và đồi bại (của giáo hội Công giáo) được làm nhẹ đi qua lời giải thích hời hợt là “chỉ có vài giáo hoàng xấu”. Nếu những người giải thích như vậy mà lương thiện, họ phải thừa nhận rằng thật ra chỉ có vài giáo hoàng tốt” (For millions of misguided souls..., a thousand years of crime and corruption are glossed over with the statement, “There were a few bad popes.” Were their informers honest they would admid there were a few good). Sau đây là một thí dụ điển hình: Edward Gibbon (1737-1794), một Sử gia người Anh đã viết: “Những tội nghiêm trọng nhất đã bị dẹp bỏ, Người đại diện của Chúa Ki Tô (Giáo hoàng John XXIII, 1414) chỉ bị kết tội là ăn cướp, sát nhân, hãm hiếp, giao hợp đồng giống, và loạn luân (The most serious charges were suppressed; the Vicar of Christ (Pope John XXIII, 1414) was accused only of piracy, murder, rape, sodomy, and incest.) Một số chi tiết về các giáo hoàng đồi bại này đã được trình bày trong cuốn Đức Tin Công Giáo, chương II, tôi không nhắc lại ở đây nữa, độc giả có thể đọc trên http://giaodiemonline.com/ 2007/06/duccha.htm . Chỉ mới cách đây vài tháng thôi, đầu năm 2009, nhà xuất bản Metro Books ở New York đã phát hành cuốn “A Dark History: The Popes – Vice, Murder, and Corruption in the Vatican” (Một Lịch sử đen tối: Những Giáo hoàng - Tội ác, Giết người, và sự Thối nát tại Vatican) của nữ tác giả Brenda Ralph Lewis. Sách khổ lớn, in rất đẹp, dày 256 trang với nhiều hình chụp, tranh hoạ và tranh mộc bản được sưu tầm từ nhiều thế kỷ trước. Nội dung gồm 9 chương liệt kê và mô tả những điều khủng khiếp nhất của những vị gọi là “Thánh Cha” (rất … hữu thần !) của Công giáo như mộ của Giáo hoàng Formosus (891-896) bị đào và xác được mặc giáo bào để Giáo hoàng kế nhiệm xử tội rồi vất xuống sông Tiber tại La Mã 2 lần (The rotting corpse of Formosous was dug up, put on trial by his successor, and thrown into the Tiber river – twice); Giáo hoàng John XII (955-964) điều hành một nhà chứa gái điếm ngay tại Vatican, chọc thủng mắt một Hồng y và thiến một Hồng y khác (Not content with running a brothel at the Vatican, John XII blinded one cardinal and castrated another); Giáo hoàng Innocent III (1198-1216) phát động cuộc thánh chiến chống dân Cathar và chịu trách nhiệm về cái chết của gần một triệu người trong hơn 20 năm (responsible for the deaths of up to one million people over a twenty-year period); Giáo hoàng Alexander VI (1492-1503), là cha của 8 đứa trẻ do 3 hay 4 người tình sinh ra, hối lộ để được làm giáo hoàng, bổ nhiệm bà con làm Hồng y, và tích lủy thật nhiều tiền bạc (fathered 8 children by 3 or 4 mistresses. He bribed his way to the papacy, appointed his relatives as cardinals, and amassed a vast fortune); …
Ngoài ra chúng ta còn phải kể Hitler, Mussolini, Franco, Pétain, MacCarthy, Von Papen, Himmler, Goebbels, Palevich, Ngô Đình Diệm v..v.., tất cả đều là những người “hữu thần”. Nhưng tội ác của họ đối với nhân loại ra sao? Công Giáo “hữu thần”, nhưng Công Giáo đã gây nên bao nhiêu thảm trạng cho nhân loại?
Riêng về Việt Nam thì những ai là “vô thần” theo nghĩa không biết đến, không tin, không công nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa của Ki Tô Giáo? Sau nầy, trong thời cận đại, đó là cách hiểu được “công giáo hóa” kể từ khi các ông cố đạo vào nước ta và muốn tiêu diệt các “tà đạo” bản địa, rồi sau đó được “chính trị hoá” để chống lại Việt Minh và Việt Cọng đang chống nền đô hộ của Thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Đó là 93% người dân Việt Nam, trong đó có những anh hùng, danh nhân như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Quốc sư Vạn Hạnh, Lý Thường Kiệt, Trần Bình Trọng, Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Nguyễn Thái Học, Hồ Chí Minh v...v... Những bậc tiền nhân này đã làm gì cho nước Việt nếu không phải là có công đánh đuổi xâm lăng, bảo toàn chủ quyền, nền độc lập quốc gia, hoặc làm rạng danh nền văn hóa Việt Nam? Còn những kẻ “hữu thần” là ai? Pétrus Ký, Nguyễn Trường Tộ, Paulus Của, Trần Bá Lộc, Nguyễn Thân, Trần Lục, Ngô Đình Khả, Nguyễn Bá Tòng, Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi, Hoàng Quỳnh v..v.. Họ là ai? Toàn là Việt gian bán nước, theo giặc chống lại tổ quốc, hoặc cuồng tín, nô lệ Vatican như Ngô Đình Diệm? Ai có thể phủ nhận hay biện minh cho sự kiện bán nước của Công Giáo qua văn kiện có tính cách khẳng định sau đây của chính Giám mục Puginier, được trích dẫn trong cuốn Catholicisme et Sociétes Asiatiques của Alain Forrest và Yoshiharu Tsuboi:
"Giám Mục Puginier viết rằng: "Không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo thì người Pháp cũng giống như những con cua đã bị bẻ gẫy hết càng. Thí dụ như vậy, tuy tầm thường mộc mạc nhưng không kém phần chính xác và mạnh mẽ. Thật vậy, không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo, người Pháp sẽ bị bao vây bởi toàn là kẻ thù; họ sẽ không thể tin cậy vào một ai; họ sẽ chỉ nhận được những tin tức tình báo sai lầm, cung cấp với ác ý để phá hoại tình thế của họ; họ sẽ bị đẩy vào tình trạng không thể hoạt động được gì và sẽ phải hứng chịu những thảm họa thực sự một cách nhanh chóng. Địa vị của họ ở đây sẽ không giữ nổi được nữa, và họ sẽ bị buộc phải rời khỏi xứ, nơi đây quyền lợi và ngay cả sự hiện diện của họ sẽ bị nguy hại." (4)
Ai có thể phủ nhận hay biện minh cho hành động bán nước của linh mục Trần Lục, người dẫn 5000 giáo dân đi tiếp tay, hỗ trợ quân đội Pháp để hạ trung tâm kháng chiến Ba Đình của Đinh Công Tráng? [Xin đọc Thập Giá Và Lưỡi Gươm của LM Trần Tam Tĩnh] Ai có thể phủ nhận hay biện minh cho sự kiện là giám mục Lê Hữu Từ và Linh mục Hoàng Quỳnh đã theo lệnh chống Cộng của giáo hoàng Pius XII, nhận vũ khí của Pháp khi Pháp trở lại Việt Nam, tổ chức những “khu tự trị” (sic) Phát Diệm, Bùi Chu để lùng giết người kháng chiến cùng giết dân ngoại đạo vô tội, đi cướp phá các làng “lương”” dưới chiêu bài chống Cộng sản Vô Thần.
Vậy thì giữa “vô thần” cứu nước và làm rạng danh nước, và “hữu thần” nô lệ ngoại bang, phản bội quốc gia, người dân Việt nên chọn thứ nào? 93% dân Việt đã chọn “vô thần”, còn 7% chọn “hữu thần”. Viết như trên không có nghĩa là tất cả 7% người dân Việt theo Công giáo đều là những người bán nước, phản bội quốc gia. Phần lớn họ là nạn nhân của một nền thần học ru ngủ xảo quyệt, không đủ trí tuệ để nhận ra bộ mặt thật của tôn giáo họ, ham hố một sự “cứu rỗi” không tưởng, tin theo luận điệu bịp bợm của giáo hội như giáo hoàng là đại diện của Chúa trên trần, linh mục là “Chúa thứ hai” có quyền tha tội hay cầm giữ tội của họ v..v.., cho nên đã nhắm mắt theo lệnh của những linh mục đầy tớ của Vatican mà không ý thức được những hành động phản quốc của mình. Họ đáng thương hơn là đáng trách. Nhưng chính điều này đã chứng tỏ rằng “hữu thần” hoàn toàn không có gì có thể gọi là đạo đức hơn hay tốt đẹp hơn “vô thần” nếu không muốn nói là còn kém xa. Sau đây là vài đoạn của James A. Haught trong cuốn “2000 Years of Disbelief: Famous people with the Courage to Doubt”, trang 11-14, về lịch trình phát triển “vô thần” ở Tây phương: “Những người thông minh, có học thức, thường không tin là có đấng siêu nhiên. Cho nên chẳng lấy gì làm ngạc nhiên nếu chúng ta thấy một tỷ lệ cao những người nghi ngờ tôn giáo (Tây phương) trong số những tư tưởng gia, khoa học gia, văn gia, những nhà cải cách, học giả, tiền phong trong dân chủ, và những nhà thay đổi thế giới – những người thường được gọi là danh nhân. Sự tiến triển của nền văn minh Tây phương đã là một phần của câu chuyện chiến thắng từ từ trên tôn giáo đàn áp (Ki Tô giáo). Sự nổi giậy của thuyết nhân bản đã chuyển trọng tâm của xã hội ra khỏi sự tuân phục các giám mục và vua chúa để đi tới những quyền của cá nhân và điều kiện sinh sống của con người. Phần lớn sự tiến bộ này đã được thúc đẩy bởi những con người, nam cũng như nữ, không cầu nguyện (Thiên chúa), không quỳ trước bàn thờ (trong những nhà thờ), không đi hành hương (các thánh địa của Ki Tô Giáo), không đọc những Kinh Tin Kính. Nền văn hóa Tây phương đã đi theo một hành trình thất thường. Hi Lạp và La Mã cổ xưa đã đồng hành với sự tìm hiểu trí thức giữa quan niệm tôn giáo đa thần. Thế rồi Thời Đại Đức Tin của Ki Tô Giáo đã mang lại sự tối tăm trong nhiều thế kỷ. Thời đại Phục Sinh đã làm sống lại chủ thuyết cá nhân và quyền suy tư tự do, bay bổng lên trong Thời Đại Lý Trí và Thời Đại Khai Sáng. Với sự nở rộ của khoa học trong thế kỷ 19, nhiều tư tưởng gia đã cho rằng tôn giáo huyền bí (tức Ki Tô Giáo) sẽ phải tan biến, và đại để thì điều này đã xảy ra trong giới trí thức. Dần dần, lối suy nghĩ khoa học tiến triển, và tôn giáo thoái lui, quyền tự do không tin đã nhô lên ở Tây phương.. Cuối cùng, quyền không tin đã được thiết lập. Tự do suy tư nở rộ trong giới trí thức Âu Châu và Mỹ, đạt tới thời vàng son vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Những người không tin như Robert Ingersoll đã thực hiện những chuyến du thuyết thách đố chủ thuyết siêu nhiên (Ki Tô Giáo). Những nhà báo như H. L. Mencken công khai tấn công “sự mê tín” (của Ki Tô Giáo). Thật là một điều mâu thuẫn lạ lùng: một phần đáng kể dân chúng khắp thế giới vẫn còn thờ phụng những thiên chúa không ai nhìn thấy, đôi khi còn giết người cho những thiên chúa này – trong khi hầu hết những tư tưởng gia, khoa học gia, văn gia, và những giới trí thức khác, thường là đã loại bỏ đấng siêu nhiên. Đối với bất cứ ai duyệt qua quá khứ và quan sát thế giới ngày nay, hầu như không thể nào tìm ra được một người có tiếng tăm – ngoại trừ đối với các giáo hoàng, tổng giám mục, vua chúa và các nhà cầm quyền đi kiếm hậu thuẫn của quần chúng - lại có thể nói rằng mục đích của đời sống con người là được “cứu rỗi” bởi một Giê-su vô hình và lên một thiên đường vô hình. Nhưng thật là dễ dàng tìm được rất nhiều người không tin cái tín lý căn bản này trong số những danh nhân.” (5)
Phật Giáo là đạo của trí tuệ nên không mê tín đến độ có thể tin vào một Thiên Chúa sáng tạo ra muôn loài. Đức Phật đã khẳng định như vậy. Do đó Phật Giáo cũng vô thần. Phật Giáo rất hãnh diện là một tôn giáo vô thần (trong cái nghĩa vô-Thiên Chúa), vì vô thần phản ánh sự sáng suốt của trí tuệ. Những người ngày nay còn tiếp tục dùng từ “vô thần” để ám chỉ một điều xấu chỉ chứng tỏ một tâm cảnh cuồng tín của Ki Tô Giáo đã lỗi thời. Ngoài ra nó còn chứng tỏ một trình độ hiểu biết thấp kém, vì đối với các giới trí thức trong những xã hội tân tiến Âu Mỹ, “Vô Thần” là một biểu hiện của tự hào, của danh dự (A badge of honor). James A. Haught đã coi những người vô thần như thuộc đoàn thể của những vĩ nhân. (They are in the company of giants). Nhưng ai là những vĩ nhân? Ngoài một số danh nhân thế giới, chúng ta còn phải kể 6 vị Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ và vô số những khoa học gia cùng các trí thức trong mọi ngành. Sau đây, để chấm dứt bài giáo khoa về “vô thần” cho Gs Thiện Ý và những người Công giáo kỵ vô thần một cách ngu ngơ, tôi xin liệt kê tên của một số nhỏ những nhân vật có tên tuổi trên thế giới mà tôi cho là quen thuộc nhất đối với chúng ta, trong số 600 nhân vật (lẽ dĩ nhiên vẫn chưa đầy đủ) trong cuốn 2000 Years of Disbelief: Famous People With The Courage To Doubt của James A. Haught, Prometheus Books, 1996, những nhân vật có thể xếp vào trong đoàn thể của những người “vô thần”, theo thứ tự A, B, C:
Lord Acton, John Adams, Ethan Allen, Steve Allen, Aristotle Isaac, Asimov, Sir Francis Bacon, Honoré de Balzac, Charles Baudelaire, Simone de Beauvoir, Ludwig van Beethoven, Hector Berlioz, Georges Bizet, Charles Bradlaugh, Johannes Brahms, Benjamin Britten, Giordano Bruno, Pearl Buck, Albert Camus, Andrew Carnegie, Marcus Tullius Cicero, Auguste Comte, Confucius, Nicolaus Copernicus, Clarence Darrow, Charles Darwin, Claude Debussy, Daniel Defoe, Demosthenes, Charles Dickens, Denis Diderot, Diogenes, Alexandre Dumas, Will Durant, Thomas Edison, Albert Einstein, George Eliot, Albert Ellis, Empedocles, Euripides, William Faulkner, Richard P. Feynman, Gustave Flaubert, Antony Flew, George William Foote, Anatole France, Benjamin Franklin, Sigmund Freud, Galileli Galileo, Indira Gandhi, Mohandas Gandhi, Giuseppe Garibaldi, Edward Gibbon, André Gide, Johann Wolfang, von Geothe, Thomas Hardy, Stephen Hawking, Joseph Haydn, George W. F. Hegel, Martin Heidegger, Fred Hoyle, Victor Hugo, David Hume, Aldous Huxley, Robert G. Ingersoll, Thomas Jefferson, James Joyce, Franz Kafka, Immanuel Kant, Johannes Kepler, Jean de la Bruyère, Pierre Simon, de Laplace, William E. H. Lecky, Abraham Lincoln, John Locke, James Madison, Karl Marx, Jules Massenet, Somerset Maugham, Guy de Maupassant, Henry Louis, Mencken, Michel de Montaigne, Baron de Montesquieu, Wolfang Amadeus Mozart, Jawaharlal Nehru, Friedrich Nietzsche, Madalyn Murray O’Hair, Thomas Paine, Blaise Pascal, Pablo Picasso, Max Planck, Marcel Proust, Jules Renard, Eleanor Roosevelt, Theodore Roosevelt, Jean-Jacques Rousseau, Carl Sagan, George Sand, George Santayana, Jean Paul Sartre, Arthur Schlesinger, William Shakespeare, Adam Smith, Socrates, Baruch Spinoza, Richard Strauss, Leo Tolstoy, Mark Twain, Voltaire, George Washington, Daniel Webster, H. G. Wells, Zeno, Émile Zola. 2. Thiện Ý: Như chúng ta đều biết, từ khi con người xuất hiện trên trái đất, qua nhiều thời đại đến nay, vấn nạn muôn thuở của lòai người vẫn chưa được giải đáp là vũ trụ vạn vật trong đó có con người từ đâu hiện hữu, vận hành qua thời gian năm tháng, rồi sẽ đi về đâu. TCN: Vấn đề đã được giải đáp, chỉ có “chúng ta” của ông Gs không biết đó mà thôi. Giáo hoàng John Paul II đã công nhận thuyết Big Bang về nguồn gốc của vũ trụ, công nhận thuyết Tiến Hóa về nguồn gốc của con người. Còn con người sẽ đi về đâu thì có điều chắc chắn là không ai có thể tránh khỏi cái chết, từ Thượng đế của Ki Tô Giáo [God is dead] cho đến người dân thường. Còn sau khi chết đi về đâu thì tùy theo mơ ước của mỗi người. Có người muốn về với Bác. Có người muốn về với ông bà tổ tiên. Có người muốn về với 72 trinh nữ trên thiên đường. Có người muốn về với Chúa Giê-su để có cuộc sống đời đời. Có người tin rằng chết là hết chuyện. Có người tin vào thuyết luân hồi và thuyết này đã được kiểm chứng qua nhiều trường hợp. Vậy thì nhân tâm tùy thích, và tất cả các cái “thích” này đều có giá trị như nhau vì tất cả chỉ là những điều mong ước (wishful thinking) cá nhân. 3. Thiện Ý: Tuy nhiên, cho đến nay, dù tầm tri thức đã mở rộng, do khoa học kỹ thuật tiến bộ vượt bực, song con người vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng cho những vấn nạn vũ trụ, vạn vật trong đó có con người từ đâu tới và sẽ đi về đâu. Và vị vậy đã có hai cách trả lời tạm thời của hai loại con người: Hữu thần và vô thần. TCN: Ở trên tôi đã giải đáp thỏa đáng cho những điều mà Gs Thiện ý cho rằng chưa có câu trả lời thỏa đáng chỉ vì ông ta không biết đến mà thôi. Sự khác biệt giữa hữu thần và vô thần cũng đã được trình bày tạm gọi là đầy đủ. Tôi sẽ không nhắc lại ở đây nữa. Ngoài ra, về mặt phương pháp luận, nếu câu hỏi nằm trong nhiều phạm trù (“từ đâu tới và đi về đâu” thuộc phạm trù tôn giáo, khoa học, triết học, xã hội học, …) thì tại sao câu trả lời (“hữu thần và vô thần”), dù tạm thời, lại chỉ đóng khung trong phạm trù tôn giáo mà thôi ? 4. Thiện Ý: Người vô thần thì cho rằng vũ trụ vạn vật tự nhiên mà có và vận hành theo quy luật tự nhiên. Không có thế giới nào tồn tại ngòai thế giới vật chất. Con người cũng thế, sự sống hình thành theo quy luật truyền sinh và cuộc sống muôn mầu muốn vẻ, trong đó hạnh phúc và đau khổ, công, tội, hiền, ác, thưởng phạt… là các mặt đối lập của cuộc sống, tất cả chỉ phát sinh,tốn tại, phát triển, tiêu vong ngay trong thế giới này, không có gì tồn tại sau cái chết của con người. TCN: Khi nói đến người vô thần thì cần phải xác định người vô thần như thế nào. Trong thế giới Tây phương, theo quan điểm của những người Ki Tô Giáo bảo thủ thì người vô thần có nghĩa là người không tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa của Ki Tô Giáo. Người vô thần đưa ra những luận cứ để bảo vệ lập trường vô thần của họ (arguments for atheism), những luận cứ này là “những luận cứ về sự không hiện hữu của Thiên Chúa [của Ki Tô Giáo]” (arguments for the nonexistence of God.). Theo những luận cứ này thì luận cứ về sự hiện hữu của những sự xấu ác trên thế giới, đôi khi được biết là vấn nạn xấu ác (the problem of evil) đương nhiên bác bỏ quan niệm về một Thiên Chúa rất mực nhân từ và toàn năng của Ki Tô Giáo. Trong thập niên 1990, nhiều triết gia đã đưa luận cứ từ sự không tin hợp lý (argument from reasonable nonbelief), đôi khi còn biết dưới danh từ luận cứ về “sự trốn lui trốn lủi của Thiên Chúa” (argument from divine hiddenness). Theo Giáo hoàng John Paul II viết trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng” thì Phật Giáo là một hệ thống vô thần, vì Phật Giáo đã dứt khoát bác bỏ quan niệm về một Thiên Chúa Sáng Tạo. Nhưng Phật Giáo có thuyết nghiệp báo để giải thích những thiên sai vạn biệt giữa các con người, và thuyết luân hồi mà ngày nay đã được chứng minh qua nhiều trường hợp đã được kiểm chứng trên thế giới. Vậy bảo rằng vô thần quan niệm không có gì tồn tại sau cái chết của con người là hoàn toàn sai. Công giáo quan niệm con người chỉ có một đời sống, và sau cái chết thì con người chỉ có thể rơi vào hai trường hợp: nếu tin vào sự cứu rỗi của một người Do Thái mới sinh ra cách đây có 2000 năm, bị đóng đinh trên cây thập giá trên mình chỉ còn cái khố cùng với hai tên ăn trộm, thì được lên thiên đường sống cuộc sống đời đời với ông ta, còn nếu không tin thì sẽ bị ông Do Thái này đầy xuống hỏa ngục để cho ngọn lửa vĩnh hằng như Chúa vĩnh hằng thiêu đốt. Nhưng cái tín điều này của Công Giáo là một tín điều bịp bợm ngu xuẩn nhất thiên hạ. Tại sao? Vì Giê-su mới sinh ra cách đây khoảng 2000 năm trong khi lịch sử loài người đã có từ nhiều trăm ngàn năm hay cả triệu năm. Vậy Giáo hội tính sao với những người sinh ra trước Giê-su trong bao nhiêu thế hệ, trong đó tất nhiên có cả tổ tiên những bậc lãnh đạo trong Giáo hội. Hay tính sao với những người trong năm 2009 nầy, nhưng vì cách trở thông tin (như dân du mục Mông cổ hẻo lánh hay ngay tại Rome nhưng bị bệnh tâm thần từ nhỏ) nên không biết đến Giê-su để được “cứu rỗi” ? Vậy thực ra, những người tin vào tín điều “Tin Giê-su thì được cứu rỗi” chẳng qua chỉ là tin vào một điều nhảm nhí của Giáo Hội. Ai không đồng ý xin mời lên tiếng. Nhưng điều mà tuyệt đại đa số các tín đồ Công giáo không biết, có thể kể cả bà Đốc Thanh và Gs Thiện Ý, là chính Giáo hoàng John Paul II đã phủ nhận sự hiện hữu của một thiên đường ở trên các tầng mây, và một hỏa ngục ở dưới lòng đất. Như vậy, Giáo hoàng đã bác bỏ đức tin quan trọng nhất trong Ki-tô giáo: Quyền năng “cứu chuộc”, “cứu rỗi” , “luận phạt” của Giê-su, do đó hi vọng của các tín đồ Ki-tô về một cuộc sống đời đời trên thiên đường cùng Giê-su chẳng qua chỉ là một ảo vọng. Nhưng mà các tín đồ Công giáo, nhất là Công giáo Việt Nam, vẫn mơ tưởng về một cái bánh vẽ trên trời (Từ của Mục sư Ernie Bringas: A-Pie-In-The-Sky) và có thể làm mọi điều ác rồi trước khi chết tin Chúa là được ăn cái bánh này. Thật là tội nghiệp. 5. Thiện Ý: Trái lại, những con người hữu thần, tiêu biểu như những tín đồ và các giáo hội Thiên Chúa Giáo, bằng cặp mắt Đức tin tôn giáo đã xác tín rằng từ khởi thủy, vũ trụ vạn vật trong đó có con người là do Thiên Chúa tạo dựng và cho chúng vận hành theo quy luật chung cũng như riêng. Cuộc sống trong thế giới này với các mặt đối lập: hạnh phúc và đau khổ, tội lỗi và công phúc, thiện và ác…tất cả chỉ là tạm thời, cuộc sống bất hòan, là tiền đề cho con người tạo dựng một cuộc sống viễn mãn, hạnh phúc vĩnh cửu, hay đưa con người đến một cuộc sống cùng khổ đời đời sau cái chết. Tất cả tùy thuộc vào công phúc hay tội lỗi mà con người đã làm trong suốt cuộc đời sống trên trần thế. TCN: Cặp mắt “Đức Tin” của Công giáo là cặp mắt mù lòa tin bướng tin càn cho nên không thể xác tín bất cứ điều gì. Tại sao? Theo định nghĩa của H. L. Mencken thì Faith hay Đức Tin là "một kiểu tin phi-lôgic vào sự xảy ra của những gì không chắc có thực" (an illogical belief in the occurrence of the improbable). Theo định nghĩa trong tự điển thì Faith hay Đức Tin là "sự tin chắc vào một cái gì đó mà không chứng minh được cái đó có thực" (Firm belief in something for which there is no proof.), vậy thì “Đức Tin” có thể xác tín được cái gì? Trái với Đức Tin là Lý Trí. Định nghĩa của Reason hay Lý Trí trong tự điển là "khả năng có những tư tưởng hợp lý, suy lý, hoặc phân biệt" (The capacity of rational thought, inference, or discrimination) hay "suy xét đúng, phán đoán hợp lý" (good judgment, sound sense). Theo những định nghĩa trên thì hiển nhiên là Đức Tin Công giáo và Lý Trí là hai từ có nghĩa loại trừ hỗ tương (mutual exclusive), có cái này thì không có cái kia. Thật vậy, khi chúng ta dùng lý trí để xác định và chấp nhận một điều gì thì chúng ta không cần đến đức tin, và khi chúng ta tin vào điều gì mà không cần biết, không cần hiểu, thì lý trí trở nên thừa thãi. Giáo Hoàng John Paul II, vị “đại diện của Chúa trên trần” đã công nhận thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ, và thuyết Tiến Hóa về nguồn gốc con người. Sự hiểu biết của Ngài khác với sự hiểu biết của các con chiên như bà Đốc Thanh hay Gs Thiện Ý Nguyễn Văn Thắng. Khác ở chỗ nào? Khác ở chỗ, trước những bằng chứng bất khả phủ bác của khoa học về nguồn gốc vũ trụ và nguồn gốc con người, Ngài đã bắt buộc phải phủ nhận thuyết Sáng Tạo trong Cựu Ước, một huyền thoại của dân tộc Do Thái. Ngài nói: “Thân xác con người có thể không phải là một sự sáng tạo tức thời của Thượng đế, mà là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần”. Ngài nói: “những kiến thức mới nhất dẫn đến việc phải chấp nhận thuyết tiến hóa hơn là một giả thuyết”. (Pope John Paul II has put the teaching authority of the Roman Catholic Church firmly behind the view that “the human body may not have been the immediate creation of God, but is the product of a gradual process of evolution.. The pope said that “fresh knowledge leads to recognition of the theory of evolution as more than just a hypothesis”).
Thế mà các con chiên như Gs Thiện Ý vẫn “xác tín rằng từ khởi thủy, vũ trụ vạn vật trong đó có con người là do Thiên Chúa tạo dựng..” và không chút ngượng ngùng về sự cuồng tín và trình độ hiểu biết quá thấp kém của mình. Đúng như Russell Shorto đã viết trong cuốn Gospel Truth: “Những người Ki Tô còn sống trong bóng tối là những tín đồ bình thường”. 6. Thiện Ý: Tôn giáo là phạm trù “Đức tin” của mỗi con người, tiếp nối phạm trù “tri thức”, do mỗi con người tùy theo hòan cảnh sống, đã được chọn lựa cho ngay khi chào đời do gia đình và tiếp tục giữ Đức tin sau này khôn lớn; hay khi có đủ ý thức tự nguyên, tự giác lựa chọn một niềm tin tôn giáo riêng… Tất cả đều để tự giải đáp cho những vấn nạn muôn thuở của lòai người và thể hiện Đức tin trong cuộc sống để đạt cùng đích của cuộc đời. Đức tin tôn giáo không thể chứng minh bằng luận lý và thực nghiệm, vì nó vượt khỏi “tầm tri thức” con người. Những gì mà ánh sáng khoa học (phạm trù tri thức) chưa soi rọi tới, thì ánh sáng tôn giáo (phạm trù Đức tin) sẽ soi rọi. TCN: Như trên chúng ta đã biết Đức Tin là "một kiểu tin phi-lôgic vào sự xảy ra của những gì không chắc có thực" (an illogical belief in the occurrence of the improbable), hoặc là "sự tin chắc vào một cái gì đó mà không chứng minh được cái đó có thực" (Firm belief in something for which there is no proof.), vậy làm sao đức tin (cái không biết) có thể tiếp nối phạm trù “tri thức” (cái biết). Thiện Ý chỉ viết bậy. Làm sao mà phạm trù đức tin (cái không biết) có thể soi rọi được phạm trù khoa học (cái biết). Tất cả đức tin về một cái không chứng minh được có thực căn bản đều giống nhau. Đức tin về một thiên chúa của Ki Tô Giáo cũng như đức tin của các thần trong các tôn giáo khác, hoặc đức tin về thần cây đa, thần bình vôi của người Việt Nam, căn bản đều có giá trị như nhau. Nếu tôi tin rằng chú Cuội trên cung Hằng đã sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài cách đây 13.7 tỷ năm thì niềm tin đó cũng chẳng khác gì Gs Thiện Ý tin vào sự sáng tạo của Thiên Chúa của Ki Tô Giáo cách đây 6000 năm. Nhưng mà niềm tin của tôi dù sao cũng phù hợp với kết quả về tuổi của vũ trụ hơn là niềm tin nhảm nhí của Gs Thiện Ý về sự sáng tạo của Thiên Chúa chỉ trong 6 ngày của ông ấy cách đây 6000 năm. Khoa học tượng trưng cho sự sáng suốt của lý trí, đức tin tượng trưng cho sự mù lòa tin bướng tin càn vào những thứ mà chính Giáo hoàng John Paul II đã bác bỏ. Lý luận như ông Gs Thiện Ý thì người mù có thể soi sáng cho người sáng. Điều này chỉ có trong nền thần học Ki Tô Giáo mà thôi. 7. Thiện Ý: Chính sự khác biệt giữ hai phạm trù “Tri thức” của khoa học và “Đức tin” của tôn giáo, nên không thể và không nên có các cuộc tranh luận (về giáo lý, tín điều…), dưới bất cứ hình thức nào (miệng hay bút chiến…) giữa những người khác tôn giáo hay giữa những người hữu thần với vô thần, chỉ với mục đích tranh thắng hơn thua, phải trái, chân lý, phi chân lý, khoa học hay phản khoa học liên quan đến giáo lý, các tín điều. TCN: Tại sao không thể và không nên? Trong thế giới hiện đại, đây chính là điều rất có thể và rất nên. Nếu không thì tại sao hàng trăm nhà lãnh đạo Ki Tô Giáo cũng như các học giả trong thế giới Tây phương đã nghiên cứu tranh luận về giáo lý, tín điều của Ki Tô Giáo nói chung, Công giáo nói riêng, và đã xuất bản hàng trăm cuốn sách thuộc loại nghiên cứu này. Phải chăng họ đều có mục đích tranh thắng hơn thua, phải trái, chân lý, phi chân lý, khoa học hay phản khoa học liên quan đến giáo lý, các tín điều.? Nếu giới trí thức trong thế giới Tây Phương đã như vậy, thì có lý do gì để người Việt Nam không thể và không nên tranh luận về giáo lý, tín điều của Ki Tô Giáo, khi mà chính những giáo lý tín điều này đã biến Giáo hội Công giáo Việt Nam thành một tổ chức lệ thuộc Vatican, do đó có bản chất là phi dân tộc với thành tích phản dân tộc trong quá khứ và cho đến ngày nay. Ngoài ra, có phải khi Giáo hoàng “xử tội”, và gần 400 năm sau “tha tội”, cho nhà bác học Galileo, có phải là vì/nhờ đã có những cuộc “tranh luận” “liên quan đến các giáo lý, các tín điều” của rất nhiều giới không ? Khi cho rằng những công cuộc nghiên cứu về Ki Tô Giáo với mục đích tranh thằng hơn thua, phải trái v..v… giữa những người vô thần và hữu thần, hay giữa những người tôn giáo khác nhau là Gs Thiện Ý không biết gì về nền học thuật trong thế giới Tây phương, vì hầu hết ngững công cuộc nghiên cứu về Ki Tô Giáo là do những tác giả Ki Tô Giáo hay học giả trong những xã hôi Ki Tô ở Âu Mỹ. Và đối với người Việt Nam thì những tác phẩm của Charlie Nguyễn là của một người đạo gốc, cũng như của Phạm Hữu Tạo, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Tiến Đạt v…v… đều là người ở trong đạo. 8. Thiện Ý: Những người tranh luận về tôn giáo cũng vậy, làm sao có thể đồng ý được với nhau khi mỗi người do hòan cảnh sinh ra trong các gia đình có tôn giáo khác nhau, thường theo tôn giáo của cha mẹ. Hậu quả sẽ rất tai hại trong quan hệ tình cảm cá nhân, gây chia rẽ hận thù giữa con người với con người, phân hóa dân tộc. Trừ khi hậu quả này là ý đồ thực sự của chính những kẻ gây ra tranh luận, điển hình như việc làm các thành viên nhóm Giao Điểm từ bao lâu nay. TCN: Từ trước tới nay, hai trang nhà giaodiemonline và sachhiem đã đăng hàng trăm tài liệu nghiên cứu về Ki Tô Giáo nói chung, Công giáo nói riêng, nhưng có cuộc tranh luận nào đâu. Người Ki Tô Giáo lấy gì để mà tranh luận trong khi tất cả những tài liệu phổ biến đều là những sự thật về Ki Tô Giáo do các học giả Tây phương, ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô, nghiên cứu. Mặt khác, trình độ hiểu biết của các tín đồ Ki Tô Giáo về cuốn Thánh Kinh, về lịch sử Ki Tô Giáo, về bản chất Ki Tô Giáo v..v.. quá kém cỏi nên làm sao có thể tranh luận. Ngay cả cuốn “Đối Thoại Với Giáo Hoàng JP II” mà Giao Điểm xuất bản năm 1995 và có gửi đến Vatican và Vatican ghi nhận là đã nhận được, cũng đâu có mấy người lên tiếng tranh luận. Điểm mặt chúng ta chỉ thấy có Đỗ Mạnh Tri, Nguyễn Văn Chức, Trần Phong Vũ và Dương Ngọc Dũng lý luận tầm bậy để phản bác, và sau khi Giao Điểm xuất bản mấy cuốn sách phản bác Đỗ Mạnh Tri và Dương Ngọc Dũng, và có vài bài viết thêm về John Paul II thì tất cả đều có thái độ “im lặng là vàng”. Thời buổi này mà Tiến sĩ Kinh Tế Công giáo Nguyễn Phúc Liên cũng như nhiều bậc trí thức Công giáo khác còn tin nhảm tin nhí vào những chuyện bịp bợm như: Thiên Chúa là Tình Yêu. Chúa Giêsu nhập thể, chịu hy sinh để cứu Nhân Lọai tội lỗi, nghĩa là qua Thập Tự Giá, Chúa Giêsu can thiệp với Thiên Chúa Cha để tha tội cho mọi người. Chính trên Thập Tự Giá, Chúa Giêsu còn xin Thiên Chúa Cha tha tội cho nhưng kẻ giết mình vì chúng lầm không biết, vậy làm sao mà mấy người Công giáo Mít có thể lấy cái gì để mà tranh luận với Charlie Nguyễn, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Mạnh Quang, Trần Chung Ngọc, Thiên Lôi v..v…. khoan nói là có thể tranh luận với Peter de Rosa, với các Linh mục Joseph McCabe, James Kavanaugh, Emmett McLoughlin, Giám mục Tin Lành John Shelby Spong, Mục sư Ernie Bringas, với các học giả như Robert G. Ingersoll, Sam Harris, Christopher Hitchens, Richard Dawkins và hàng trăm học giả khác. Người Ki Tô chỉ “tranh luận” với nhiều nhất là lý luận “đọc Thánh Kinh mà không hiểu” nhưng không hề bày tỏ là phải hiểu Thánh Kinh như thế nào, hoặc viết vu vơ chụp mũ vô căn cứ như Thiện Ý ở trên, chứ đâu có ai thấy bất cứ một luận cứ nào dựa trên các tài liệu để mà tranh luận.
9. Thiện Ý: Đức tin tôn giáo hay vô thần là sự tự do lựa chọn của mỗi con người, là nhu cầu tinh thần của mỗi cá nhân. Anh tin thì theo, không tin thì không theo tôn giáo, nhưng phải tôn trọng niềm tin của người khác, dù niềm tin ấyanh cho là phi lý, là mê tín dị đoan, là phản khoa học, anh vẫn không có quyền bài bác, nhất là phỉ báng mạ lỵ ngay cả đấng Thần Linh mà họ tôn thờ, xúc phạm nặng nề đến niềm tin tôn giáo, gây phẫn nộ cho các tín đồ có chung niềm tin, như việc làm có chủ đích bao lâu nay của nhóm Giao Điểm. TCN: Nếu thế giới cứ tôn trọng và không có thái dộ gì trước những niềm tin tôn giáo phi lý, mê tín dị đoan, phản khoa học của Công giáo thì Tây phương không bao giờ ra khỏi thời đại đen tối (The Dark Ages) của Công Giáo ở Âu Châu, trong đó Giáo hội đã sáng chế ra những dụng cụ tra tấn khủng khiếp nhất để tra tấn nhửng kẻ ngoại giáo, đã lập lên những Tòa Hình Án để tra tấn và xử nhưng người mà Giáo hội cho là “lạc đạo”, nghĩa là những người có niềm tin khác với những niềm tin trong Công giáo mà Giáo hội không tôn trọng, và săn lùng và thiêu sống những người mà Giáo hội Công giáo cho là phù thủy. Vậy thì tại sao chúng ta phải tôn trọng và không thể bài bác những niềm tin đã gây tác hại không ít cho nhân loại. Cái mà ông Thiện Ý gọi là “bài bác, phỉ báng mạ lỵ” thật ra chỉ là những sự thật, kết quả nghiên cứu của các học giả trong lãnh vực học thuật, một lãnh vực mà thế giới Tây phương tuyệt đối tôn trọng và là quyền tuyệt đối của người dân. Nếu Richard Dawkins, trong cuốn “The God Delusion”, đưa ra 16 thuộc tính ác ôn côn đồ của Thiên Chúa trong Cựu Ước và đã được chứng minh bởi Steve Wells, hoàn toàn dựa trên những gì viết trong Cựu Ước, thì đó không phải là mạ lỵ Thiên Chúa, mà chỉ đưa ra những sự thật về Thiên Chúa. Vì không biết đến những sự thật này mà những người Công Giáo cho rằng người ta đã “mạ lỵ” đấng Thần Linh mà họ tôn thờ, và đó là xúc phạm niềm tin tôn giáo của họ. Những tác giả như Richard Dawkins chỉ muốn giúp các tín đồ Ki Tô mở mắt ra để mà thấy bản chất thực sự của Thiên Chúa mà họ tôn thờ và hi vọng có thể tỉnh ngộ. Giao Điểm cũng có một chủ trương và mục đích như vậy. Nhưng nếu có ai không muốn để cho những người như Dawkins hay Giao Điểm giúp thì chúng tôi cũng đành chịu thôi, và sự phẫn nộ của các tín đồ tuyệt đối không phải là lỗi của Dawkins hay Giao Điểm, mà nó bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết của tín đồ. Mà hình như chỉ có tín đồ Ki Tô Việt Nam là phẫn nộ chứ đâu có thấy mấy người phẫn nộ trong thế giới Tây phương trước hàng trăm cuốn sách nghiên cứu về đủ mọi khía cạnh của Ki Tô Giáo nói chung, Công giáo nói riêng. 10. Thiện Ý: Một cách cụ thể là tại sao đời tư một cá nhân khi bị kẻ khác xuyên tạc, vu cáo, nhục mạ bằng lời nói hay hành động làm mất danh dự, gây thiệt hại tinh thần hay vật chất cho mình, đều có thể khởi kiện trước tòa đòi bồi thường danh dự và những thiệt hại tinh thần cũng như vật chất do sự xuyên tạc, vu cáo, mạ lỵ gây ra. Trong khi, những kẻ như nhóm Giao Điểm đã dùng sách báo và phương tiện truyền thông xuyên tạc giáo lý, tín điều, lịch sử các giáo hội Thiên Chúa Giáo, nhục mạ thậm từ Thiên Chúa và các thánh thần được hàng tỷ tín đồ thờ kính, xúc phạm thô bạo niềm tín tôn giáo của các tín đồ, xâm phạm đời tư cá nhân các tín đồ, nội bộ các giáo hội, gây thiệt hại nghiêm trong về tinh thần cũng như vật chất của thể nhân (Tín đô )và pháp nhân (Các giáo hội)…thì tại sao các tín đồ và các giáo hội lại không thể đứng dân sự nguyên cáo để đưa các bị cáo ra trước pháp luật? Phải chăng vì chưa có luật bảo vệ tôn giáo chống lại sự xâm hại, nên những kẻ thù của tôn giáo nói chung, của Thiên Chúa Giáo nói riêng đã ngang nhiên xuyên tạc, vu khống, mạ lỵ tôn giáo, như nhóm Giao Điểm vẫn ngang nhiên hành động, bất chấp sự phẫn nộ của những tín đồ?
TCN: Nếu Giao Điểm hay hàng trăm học giả Tây phương thực sự xuyên tạc giáo lý, tín điều, lịch sử các giáo hội Thiên Chúa Giáo, nhục mạ thậm từ Thiên Chúa và các thánh thần được hàng tỷ tín đồ thờ kính, xúc phạm thô bạo niềm tín tôn giáo của các tín đồ, xâm phạm đời tư cá nhân các tín đồ, nội bộ các giáo hội, vu khống, mạ lỵ Thiên Chúa Giáo thì tất cả đã bị truy tố trước các Tòa án Tây phương từ lâu rồi, chẳng phải chờ đến ông Thiện Ý. Vấn đề là những gì mà giới trí thức Tây phương đưa ra đều là những sự thực về giáo lý, tín điều, lịch sử các giáo hội Thiên Chúa Giáo, và ngay cả về Thiên Chúa, Chúa Cha cũng như Chúa Con, cho nên từ Tòa Thánh Vatican cho đến các Giáo hội Ki Tô nhiều quyền thế trong thế giới Âu Mỹ cũng đành ngậm đắng nuốt cay, không dám tỏ thái độ gì, khoan nói là truy tố trước Tòa, vì càng làm to chuyện thì cái “hũ mắm” Thiên Chúa Giáo càng bị phơi bày và càng được nhiều người biết đến. Đây chính là điều mà các Giáo hội Thiên Chúa Giáo muốn tránh, tránh được chừng nào hay chừng ấy, với mục đích suy trì sách lược “dân ngu dễ trị” của các Giáo hội. Có bao giờ chúng ta thấy các ông linh mục, mục sư giảng cho tín đồ nghe những chuyện tàn bạo, dâm ô loạn luân v..v.. trong Thánh Kinh đâu. Ở nhà thờ, có bao giờ chúng ta thấy họ giảng cho tín đồ về những cuộc Thánh chiến, những Tòa án xừ dị giáo, hay những cuộc săn lùng phù thủy rồi mang họ đi thiêu sống trong lịch sử giáo hội Công giáo đâu. Có bao giờ chúng ta thấy các ông linh mục Việt Nam thú nhận với tín đồ là không có sự hỗ trợ của giáo dân Công giáo thì Pháp không thể thiết lập được nền đô hộ ở Việt Nam như chính Giám mục Tây Puginier, sống vào chính giai đoạn đó, đã thú nhận đâu ?. Để kết luận, trước đề nghị của Gs Thiện Ý là vận động quốc hội các nước làm luật bảo vệ niềm tin tôn giáo, nhằm bịt miệng những tiếng nói trung thực về tôn giáo, vi phạm quyền tự do nghiên cứu, phát biểu ý kiến về tôn giáo, tôi xin phép giaodiemonline được đăng lại một đoạn trong Lời Nói Đầu của bài Mặt Trái Của Thiên Chúa Giáo – Thư Mục Và Websites: Phê phán tôn giáo là động thái phản biện của xã hội. Động thái nầy nằm trong quyền tự do phát biểu (freedom of expression) là quyền hiến định trong các quốc gia văn minh. Và quyền nầy càng lúc càng phổ quát và càng mạnh mẽ vì (i) Mâu thuẫn tôn giáo, và từ đó, chiến tranh có nguyên ủy là tôn giáo, đang là một trong những nét đặc thù của thời đại chúng ta, cho nên tôn giáo phải được mổ xẻ, thử thách và chấp nhận đối thoại; (ii) Sinh hoạt dân chủ, mà phần thể hiện sinh động nhất là quyền được biết và được phê phán, càng ngày càng được nhiều quốc gia tôn trọng và áp dụng; (iii) Những tiến bộ vũ bảo trong công nghệ thông tin làm cho tri thức không còn là độc quyền của một giới nào nữa, làm cho sự thật khó có thể bị che dấu như xưa nữa, và làm kích thích nhu cầu tìm hiểu của một số lượng quần chúng càng lúc càng đông. Trước những sự thật về Ki Tô Giáo đã được phanh phui trong nền học thuật của Tây phương, trước những sự kiện lịch sử về Công giáo hoàn vũ cũng như Công giáo Việt Nam, những người Công giáo Việt Nam mang danh trí thức như Nguyễn Thị Thanh và Nguyễn Văn Thắng v…v…, nghĩa là những người có sự hiểu biết trên mức của người dân thường và có khả năng truy cập vào kho thông tin khổng lồ của Internet và các nguồn tài liệu khác trên thế giới, đáng lẽ phải cảm thấy xấu hổ vì mình ở trong một tôn giáo có thành tích đẫm máu như Công giáo, và đã ở trong một giáo hội phi dân tộc và phản dân tộc, nhưng không hiểu vì lẽ gì mà họ vẫn còn huênh hoang bảo vệ cho đức tin của họ, một đức tin mù quáng như không biết bao nhiêu bậc trí thức trên thế giới đã chứng minh. Nhận định chung của đa số người Việt ngoại đạo: “Người Công giáo Việt Nam là lớp người cuồng tín nhất và lạc hậu nhất trên thế giới” quả thật không sai.
Chú Thích: (1) During my lifetime I have progressed from being a “believer,” to being an agnostic and now an atheist. I use the word “progress” because I believe it to be true progress to go from blind acceptance of an outdated illogical mythology to doubt and finally to denial and disbelief... The myth itself – the Judeo-Christian Bible – is a shocking account of bloodshed, lust, and bigoted disregard for the lives and well-being of all peoples who do not profess a blind belief in the precepts presented in such impossible and contradictory terms. (2) When I became convinced that the Universe is natural – that all the ghosts and gods are myths, there entered into my brain, into my soul, into every drop of my blood, the sense, the feeling, the joy of freedom. The walls of my prison crumbled and fell, the dungeon was flooded with light and all the bolts, and bars, and manacles became dust. I was no longer a servant, a serf, or a slave...I was free - free to think, to express my thoughts - free to live to my own ideal - free to use all my faculties, all my senses - free to investigate - free to reject all ignorant and cruel creeds, all the “inspired” books that savages have produced, and all the barbarous legends of the past - free from popes and priests - free from sanctified mistakes and holy lies - free from the fear of eternal pain - free from devils, ghosts and gods (3) (The first step, then, in understanding Atheism is to disregard all the lies and propaganda that religion has spread against it. Atheism is more than just the knowledge that gods do not exist, and that religion is either a mistake or a fraud. Atheism is an attitude, a frame of mind that looks at the world objectively, fearlessly, always trying to understand all things as a part of nature. It could be said that Atheism has a doctrine to question and a dogma to doubt. It is the human mind in its natural environment, nothing is too holy to be investigated, nor too sacred to be questioned. The Atheist Bible, it could be said, has but one word: "THINK." Atheism is the complete emancipation of the human mind from the chains and fears of superstition. There is absolutely nothing negative about Atheism; truth can never be negative. The Atheist demands proof, or at least reasonable evidence, and simply rejects whatever does not meet the basic requirements of common sense. Throughout history all progress in society has come from doubting and rejecting old ideas, old customs, and old beliefs. The tree of human knowledge dies as it grows, with new growth growing out of the dead and dying parts, and replacing it with better and truer beliefs. The Theologian is an owl, sitting on an old dead branch in the tree of human knowledge, and hooting the same old hoots that have been hooted for hundreds and thousands of years, but he has never given a hoot for progress. Morally speaking, Atheism has a great advantage over religion. The great failure of religious morality comes from their illusion of a morality above right and wrong. The religious mind has always known it is wrong to murder and torture, wrong to persecute and hate, wrong to force its beliefs upon others. Religion has always known these things are wrong, but the religious mind suffers from the illusion of a "higher morality," and because of that illusion all history runs deep with innocent blood. In the name of their "god" and a "higher morality," Christians have waged holy wars of extermination, have plundered, tortured and murdered those who could not agree with their religion, or who had never even heard of it. In the name of this "higher morality" Christians have hated, hunted, persecuted, and burned alive the "heretic," the "infidel" and the "atheist." And today, as always, when the religious person does a thing that even he recognizes as being wrong and immoral, his illusion of a "higher power" and a "greater morality" allows him to perform some ritual, confession, or prayer, and presto, miraculously, "all his sins are taken away", and he is free again from all pains of conscience and regret. Such foolish illusions do not comfort the Atheist mind. The Atheist knows there is no morality above right and wrong, and no escape from the pains of conscience and remorse. Murder is murder, and robbery, hate and persecution are all crimes against humanity. Morally speaking, then, history tells us it is better to be an Atheist than to be a Christian. Religion claims that immorality always springs from a lack of religion, but the facts prove just the opposite. Christianity has never been stronger than it is today, Christians have churches in every community, they monopolize radio and television time with religious propaganda, they have forced their religion into our government, our laws, and into our schools. They have done these things against the Constitution of the United States, and against the most basic and sacred rights of all other Americans, rushed in where it was not supposed to be, where it has no business to be, silencing all opposition, all opposing views, poisoning the wells of our knowledge, and endangering the very roots of our nation. Christianity is that strong today, and yet we have not achieved any respectable amount of morality in this country. Nowhere is the failure of Christian morality more evident than in America. During the same time that Christianity has been growing ever stronger and ever richer, over the past thirty years or so, the use of harmful drugs has became a national scandal, the crime rate has been climbing ever higher and ever faster, the divorce rate has skyrocketed, and during that time our nation has been embroiled in more wars and international conflicts than in any other similar time period in its history. Right to-day we have the highest narcotics abuse rate, the highest crime rate, the highest divorce rate, and the highest 'religion rate' that we have ever had in the history of this nation. What does Christianity say about these facts and how to cure them? They tell us we need more religion and they are determined to force it upon us. Christianity feels so strong today that it is moving into politics to try to force its failing morality upon every American through a Christian Dictatorship and a new Dark Age. Once Atheism is achieved, and the mind has escaped entirely from the religious fears and beliefs that are put upon us from earliest childhood; and once we can look at religion objectively and impartially, it becomes entirely obvious that religion has all the characteristics of a form of insanity. To one degree or another the religious mind must accept, and believe in, another world; a supernatural or unnatural world, a world filled with all sorts of imaginary beings called gods, devils, angels, saints, demons, etc. These imaginary creatures are talked to, asked for favors, guidance, "signs," or miracles, and then blamed or thanked for natural events that follow. Except for the cloak of religion, such beliefs and actions would otherwise cause an individual to be judged insane, and committed to an institution for treatment. The study of history will further justify the theory that religion is a form of insanity. No sane and healthy minds could have waged the bloody religious wars and crusades where the conquered were slaughtered, men, women, and children, even infants, all were put to the sword simply because they were "infidels" or "heretics." The dungeons and torture chambers of the Holy Inquisition could not have been run by sane and healthy minds. And it had to be the insane mind, the religious mind, that would tie a woman to a stake, pile wood and fagots around her and burn her alive for the impossible crime of being a witch. No sane person could read of the horrors, rape and slaughter in a savage book and call that book "the word of God." And the Jesus myth, about a god who must become a man and be murdered before he can forgive mankind, is the most insane of all. Today, Christianity chooses to ignore, or to hide and deny, its own bloody history and to claim that it is the very foundation of our morals, and even of our civilization. Religion also claims to be our only hope and guide for the future. In view of Christian history these claims are, in themselves, sheer insanity. (4) Sans les missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr. Puginier, les Francais seraient comme les crabes auxquels on aurait cassé toutes les pattes. La comparaison, pour être triviale, ne manque pas de justesse et de force. En effet, sans les missionnnaires et les chrétiens, les Francais se verraient entourés d'ennemis; ils ne pouraient se fier à personne; ils ne recevraient que de faux renseignements, méchamment donnés pour compromettre leur situation; ils se trouveraient donc réduits à l'impossibilité d'agir et seraient rapidement exposés à des vrais désastres. Leur position ici ne serait plus tenable, et ils ne verraient forcés de quitter un pays où leurs intérêts et leur existence même serait compromis. (5) Intelligent, educated people tend to doubt the supernatural. So it is hardly surprising to find a high ratio of religious skeptics among major thinkers, scientists, writers, reformers, scholars, champions of democracy, and other world changers – people usually called great. The advance of Western civilization has been partly a story of gradual victory over oppressive religion. The rise of humanism slowly shifted society’s focus away from obedience to bishops and kings, onto individual rights and improved living conditions. Much of the progress was impelled by men and women who didn’t pray (to God), didn’t kneel at altars (in churches), didn’t make pilgrimages (to holy places), didn’t recite creeds. Western culture has traveled an erratic journey. Ancient Greece and Rome teamed with intellectual inquiry, amid polytheism. Then the Christian Age of Faith brought darkness for centuries. The Renaissance revived individualism and free thingking, which soared in the Age of Reason and the Enlightenment. With the flowering of science in the nineteenth century, many thinkers assumed that mystical religion would vanish. Among intellectuals, it largely has done so.. Slowly, as scientific thinking grew and religion retreated, freedom of doubt emerged in the West.. Eventually, the right to disbelieve was established. Freethought blossomed among intellectuals in Europe and America, reaching a heyday at the end of the nineteenth century and the beginning of the twentieth. Doubters such as Robert Ingersoll conducted speaking tours to challenge supernaturalism. Newspaper writer such as H. L. Mencken openly assailed “superstition”... It is a strange contradiction: A good part of people around the globe still still worship unseen gods, and sometimes even kill for them – yet most Western thinkers, scientists, witers, and other intellectuals generally reject the supernatural. For anyone scanning the past and surveying the current world scene, it is nearly impossible to find any oustanding person – except for popes, archbishops, kings and other rulers seeking popular support – who says the purpose of life is to be saved by an invisible Jesus and to enter an invisible heaven. But ist is easy to find many among the great who doubt this basic dogma...)
Bài liên quan: ► Thư Đọc Giả Nhờ Tòa Soạn Chuyển Cho BS NgTThanh (tòa soạn) ► Thư Tác Giả Trần Chung Ngọc Gửi Sachhiem.net ► Khổ Thân Củ Khoai Tôi (Trần Chung Ngọc) ► Tôi Đọc Bài "Nhận Thức..." của ông Nguyễn Văn Thắng (Trần Chung Ngọc) ► Tôi Đọc BS Ngyễn Thị Thanh Trả Lời Câu Hỏi ... (Trần Chung Ngọc)
Hai lá thư khích động 1.5 tỷ người Thiên Chúa Giáo kiện Nhóm Giao Điểm: ► Thư Bác sĩ Thanh giới thiệu bài "TÔN GIÁO LÀ MỘT PHẠM TRÙ ĐỨC TIN" của ông Thiện Ý Nguyễn văn Thắng ► Tâm Thư Gửi Ki-Tô Hữu Thế Giới (GS Nguyễn Văn Thắng)
|