KHỔ THÂN CỦ KHOAI TÔI

Sắp Sửa Phải Ra Tòa Vì Bị 1.5 Tỷ Người Ki-Tô Kiện

Trần Chung Ngọc

http://sachhiem.net/TCN/TCNdt/TCNdt031.php

26 tháng 5, 2009

 

Dẫn:

Thư vận động 1.5 tỷ người Thiên Chúa Giáo kiện Nhóm Giao Điểm (Bác sĩ Nguyễn thị Thanh)

Tâm Thư Gửi Ki-Tô Hữu Thế Giới (GS Nguyễn Văn Thắng)

 

Tuần vừa qua tôi đi chơi xa nên đôi khi chỉ mượn computer của đứa cháu để check E-mail xem có thư từ gì mới của bạn bè chứ không có thì giờ đọc Internet. Hôm nay, trở về nhà, vào đọc trong sachhiem.net mới biết là có bà đốc-tờ Nguyễn Thị Thanh nào đó cùng với Giáo sư Thiện Ý Nguyễn Văn Thắng đang cổ động 1.5 tỷ tín đồ Ki Tô Giáo gồm các hệ phái Ki-tô trong đó có Công giáo hãy khởi kiện củ khoai Trần Chung Ngọc về tội đứng đầu Giao Điểm [sic] và cùng Giao Điểm trong nhiều năm đã, nguyên văn của bà Đốc Nguyễn Thị Thanh:

Hàng chục năm nay nhóm Giao Điểm mà đứng đầu là Trần Chung Ngọc [sic] đã có một chủ trương phản con người, phản dân tộc, phản nhân quyền, dân quyền hiến định bằng cách cố tình tìm mọi cách xuyên tạc, “vạch lá tìm sâu bươi lông tìm vết” để đánh phá đạo Thiên Chúa Giáo nói chung và đạo Công Giáo nói riêng, làm tổn thương nặng nề đến các Đại cộng đồng TCG và GHCG La Mã thế giới cũng như tổn thương đến từng tinh thần, tâm can đời sống của mổi một tín hữu TCG và CG Việt Nam và thế giới…..

Hoặc, nguyên văn của Gs Thiện Ý Nguyễn Văn Thắng:

….Những hành động của nhóm Giao Điểm chống phá Công Giáo nói riêng, Thiên Chúa giáo nói chung, về các hành vi chống phá, về tính xuyên tạc giáo lý, tín điều và lịch sử Giáo Hội Công Giáo; bổ báng, lăng mạ thậm từ Thiên Chúa, Đấng đã và đang được hàng tỷ con người tôn thờ, vi phạm thô bạo, trắng trợn niềm tin tôn giáo. Những hành động này không chỉ xẩy ra trong vài ba năm mà tiếp diễn trong nhiều năm qua, với tính khiêu khích cao độ (1), đã gây sự phẫn nộ trong các giáo dân Công Giáo cũng như các giáo hội có chung niềm tin yêu tôn thờ Thiên Chúa.

Two priests demand a heretic to repent as he is tortured.- Ảnh http://en.wikipedia.org/wiki/Spanish_Inquisition

Trong tòa án Dị Giáo của Giáo Hội Công Giáo La Mã (thời Trung cổ, GH còn hùng mạnh), hai giáo sĩ vừa tra tấn người vô thần, vừa bắt người ấy "ăn năn", hình  http://en.wikipedia.org/wiki/Spanish_ Inquisition.

Đọc các án lệnh của bà Đốc Nguyễn Thị Thanh và của Gs Thiện Ý, mà không đưa ra bất cứ một dẫn chứng nào từ những bài viết trong Giao Điểm để chứng minh là Giao Điểm hay TCN thực sự xuyên tạc giáo lý, tín điều và lịch sử Giáo hội v…v…, tôi thấy những lời lên án đó thật là vô giá trị. Mặt khác, dựa trên những lời vu vơ này và toan tính khởi kiện Giao Điểm và TCN, tôi không thể tin là bà Đốc Thanh đang sống ở Montréal, Canada, và Gs Thiện Ý đang sống ơ Houston, USA, mà tôi có cảm tưởng là hai vị này đang sống ở trong những ốc đảo Bùi Chu, Phát Diệm dưới thời đô hộ của thực dân Pháp, hay ở trong những ốc đảo Hố Nai, Gia Kiệm trong thời của ông Tổng Thống Công Giáo thuộc dòng họ tam đại Việt Gian Ngô Đình, hoặc ở Âu Châu trong thời đại mà Công Giáo nắm toàn quyền sinh sát với những tòa án xử dị giáo, những cuộc săn lùng và thiêu sống phù thủy v..v.., một thời đại mà các học giả Tây phương gọi là thời đại hắc ám hay thời đại của sự man rợ và đen tối trí thức (The ages of barbarous and intellectual darkness).

Điều rõ ràng là vì sống trong các ốc đảo Công giáo thuộc các thời đại như trên cho nên bà Đốc Thanh và Gs Thiện Ý không hề biết đến những gì đã xảy ra trong thế giới bên ngoài. Bài viết này nhằm mục đích khai sáng cho bà Đốc Thanh và Gs Thiện Ý Nguyễn Văn Thắng để họ có thể biết chút ít về thế giới bên ngoài.

Trước khi đi vào thế giới bên ngoài, chúng ta cần biết về thế giới bên trong các ốc đảo Ki Tô Giáo nói chung, Công giáo nói riêng. Đại cương thì người Ki Tô Giáo tin vào sự không thể sai lầm của một cuốn sách mà họ gọi là Thánh Kinh (Holy Bible); tin vào một Thiên Chúa của họ đã sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài trong 6 ngày, cách đây khoảng 6000 năm; tin vào một người Do Thái tên là Giê-su mà họ được dạy là Chúa con duy nhất của Thiên Chúa sáng tạo, được gửi xuống trần để chuộc cái tội gọi là “tội tổ tông” của nhân loại. Họ cũng được dạy là ai tin Giê-su thì sau khi chết sẽ được lên thiên đường sống cuộc sống đời đời cùng Chúa của họ, còn ai không tin thì sẽ bị Chúa của họ đày xuống hỏa ngục để cho ngọn lửa vĩnh hằng thiêu đốt.

Riêng về các tín đồ Công giáo thì ngoài ra họ còn phải tin Giáo hoàng của họ chính là “đại diện của Chúa trên trần” (Vicar of Christ), và các Linh mục chính là các “Chúa thứ hai” (Alter Christus). Cho nên để làm đẹp lòng Chúa các tín đồ phải tuyệt đối vâng lời Giáo hoàng mà họ thường gọi là “Đức Thánh Cha”, và tuyệt đối vâng lời các “Chúa thứ hai” của họ, trong một tín điều được gọi là “đức vâng lời”. Nhưng cũng vì chính cái “đức vâng lời” này mà các “Chúa thứ hai” có thể làm bậy với các trẻ phụ tế, với nữ tín đồ, và có thể làm bậy cả với các chị em tâm linh của họ, các “sơ”, trên 24 quốc gia, trong nhiều năm và được giáo hội thánh thiện bao che cho đến khi không thể bao che được nữa vì thế giới ngày nay không phải là thời đại hắc ám, và các tín đồ trong các nước Âu Mỹ đã tiến bộ đến mức không còn tin vào các giáo lý đã không còn giá trị trong thế giới văn minh tiến bộ nữa, và không còn nhắm mắt “vâng lời” nữa, cho nên đã mạnh dạn tố cáo phanh phui trước thế giới những chuyện bậy bạ của một số không nhỏ “Chúa thứ hai” và thẳng thắn phê bình Giáo hoàng về những giáo lý đi ngược thời gian.

Nhưng cũng vì chính những niềm tin trong Ki Tô Giáo ở trên mà ngày nay, các học giả trong thế giới bên ngoài, và cả bên trong, đã coi đó là một vấn nạn Ki-Tô. Vậy thì thế giới bên ngoài là thế giới như thế nào trước vấn nạn Ki Tô Giáo? Đó là thế giới đặt trọng tâm trên sự lương thiện trí thức trong những công cuộc nghiên cứu về mọi mặt của Ki Tô Giáo. Sau đây chúng ta hãy duyệt qua vài điểm qua những công cuộc nghiên cứu về Ki Tô Giáo của các học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô, kể cả Công giáo.

 

1. Về Cuốn Thánh Kinh Của Ki Tô Giáo.

Tín đồ Ki Tô Giáo tin rằng cuốn Thánh Kinh của họ chính là những lời mạc khải của Thiên Chúa của họ nên không thể sai lầm. Vậy thì thế giới bên ngoài đã có những công cuộc nghiên cứu gì về cuốn Thánh Kinh? Hiển nhiên là trong một bài viết như thế này, tôi không thể đưa ra chi tiết về các công cuộc nghiên cứu trên trong vòng 200 năm nay. Do đó tôi chỉ có thể giới thiệu với bà Đốc Thanh và Gs Thiện Ý vài cuốn sách nghiên cứu về Thánh Kinh điển hình, tên cuốn sách hi vọng có thể nói lên phần nào nội dung:

- “The Bad News Bible: The New Testament” của Giáo sư David Voas, cuốn sách chứng minh

Tân Ước mang tin xấu đến cho nhân loại chứ không phải là tin mừng.

- “Cuốn Thánh Kinh Thuộc Loại Dâm Ô: Một Nghiên Cứu Bất Kính Về Tình Dục Trong Thánh Kinh” [The X-Rated Bible: An Irreverent Survey of Sex in the Scripture, AA Press, Austin, Texas, 1989] của Ben Edward Akerley: cuốn sách dày hơn 400 trang, liệt kê những chuyện tình dục dâm ô, loạn luân trong Thánh Kinh.

- “Tất Cả Những Chuyện Tục Tĩu Trong Thánh Kinh” [All The Obscenities in the Bible, Kas-mark Pub., MN, 1995] của Kasmar Gene: cuốn sách dày hơn 500 trang, liệt kê tất cả những chuyện tục tĩu, tàn bạo, giết người, loạn luân v..v.. (Human sacrifice, murder and violence, hatred, sex, incest, child cruelty etc..) trong Thánh Kinh.

- “Sách Chỉ Nam Về Thánh Kinh” [The Bible Handbook, AA Press, Ausrin, Texas, 1986] của W. P. Ball, G.W.Foote, John Bowden, Richard M. Smith …: Liệt kê những mâu thuẫn (contradictions), vô nghĩa (absurdities), bạo tàn (atrocities) v..v.. trong Thánh Kinh.

- “Sách Hướng Dẫn Đọc Thánh Kinh Của Người Tái Sinh Nhưng Hoài Nghi” [The Born Again Skeptic’s Guide To The Bible, Freedom From Religion Foundation, Wisconsin, 1979] của Bà Ruth Hurmence Green: Bình luận những chuyện tàn bạo, dâm ô, kỳ thị phái nữ trong Thánh Kinh.

- “Một Trăm Điều Mâu Thuẫn Trong Thánh Kinh” [One Hundred Contradictions in the Bible, The Truth Seeker Company, New York, 1922] của Marshall J. Gauvin: Liệt kê 100 điều mâu thuẫn trong Thánh Kinh.

- “Lột mặt nạ Thánh Kinh” [The Bible Unmasked, The Frethought Press Association, New York, 1941] của Joseph Lewis: đưa ra những sai lầm trong Thánh Kinh.

- “Thẩm Vấn Ki Tô Giáo” [Christianity Cross-Examined, Arbitrator Press, New York, 1941] của William Floyd: Phân tích từng quyển một trong Thánh Kinh.

- “Ki Tô Giáo Và Loạn Luân” [Christianity and Incest, Fortress Press, MN, 1992] của Annie Imbens & Ineke Jonker: Viết về Ki Tô Giáo và vấn đề loạn luân, những sự kiện về loạn luân và kỳ thị phái nữ bắt nguồn từ Thánh Kinh.

- “The Dark Bible” trên http://www.nobeliefs.com/DarkBible/DarkBibleContents.htm

Xin bà Đốc Nguyễn Thị Thanh và Gs Thiện Ý nhớ rằng, những cuốn sách khảo cứu về Thánh Kinh như trên mà tác giả đều là những người sống trong quốc gia phần lớn theo Ki Tô Giáo, đã được phổ biến rộng rãi trên đất Mỹ, và Công Giáo cũng như Tin Lành, dù có nhiều quyền thế và tiền bạc, cũng không có cách nào dẹp bỏ những cuốn sách trên, hay đối thoại để phản bác, hay đưa các tác giả ra Tòa, vì tất cả đều là sự thật. Vì thế nên Khoa học gia Ira Cardiff đã đưa ra một nhận xét rất chính xác như sau:

Hầu như không có ai thực sự đọc cuốn Thánh kinh. Cá nhân mà tôi nói đến ở trên (một tín đồ thông thường) chắc chắn là có một cuốn Thánh kinh, có thể là cuốn sách duy nhất mà họ có, nhưng họ không bao giờ đọc nó – đừng nói là đọc cả cuốn.

Nếu một người thông minh đọc cả cuốn Thánh kinh với một óc phê phán thì chắc chắn họ sẽ vứt bỏ nó đi.” 1

Nhưng rõ ràng hơn cả là những đoạn sau đây của Jack Bays viết trong cuốn Hình Bóng Của Quỷ (The Shadow Of The Demon), trg. 6-7, về những điều độc ác phi lý trong Thánh Kinh, những điều đã làm nguồn cảm hứng cho những hành động của Giáo hội Công giáo sau này:

“Theo Thánh Kinh, hơn 99% những sự trừng phạt của Thiên Chúa là đổ lên đầu những người vô tội – những người không hề dính líu gì tới những trường hợp để Thiên Chúa phải trừng phạt.

Vì Adam ăn một trái táo mà cả nhân loại bị đày đọa: “Vì sự xúc phạm của một người, cả nhân loại bị kết án và luận phạt” (Rom: 5:18). Những tư tưởng như vậy là từ đầu óc của một người man rợ không hề có một mảy may ý niệm nào về công lý.

Chúng ta được biết Thiên Chúa mang 10 tai họa đến cho dân Ai Cập vì tim của Vua Ai Cập (Pharaoh) trai cứng (nghĩa là tàn nhẫn. TCN). Những người dân này không liên quan gì tới việc Pharaoh có trái tim trai cứng. Tuy vậy, gia súc của họ bị chết hết, mùa màng hư hại, vườn tược suy sụp, nhà cửa đổ nát, và tất cả những đứa con sinh đầu lòng đều bị giết. Nếu là lỗi của Pharaoh thì chỉ mình Pharaoh phải gánh chịu tai họa mà thôi. Và chúng ta cũng biết, chính Thiên Chúa đã làm cho trái tim của Pharaoh trai cứng.

Theo Thánh Kinh, Thiên Chúa đã dạy dân mà Ngài đặc biệt chọn (Do Thái) làm tội ác và giúp dân này thực hiện những tội ác. Thiên Chúa giúp Jacob lừa dối cậu của hắn ta (Gen: 30: 27-43), và Thiên Chúa dạy dân ngài chọn (Do Thái) đi lừa dối dân Ai Cập trong một cuộc lừa đảo lớn nhất trong lịch sử (Exo: 11: 2-4). Dân Ai Cập không trả công đủ cho dân Do Thái (đang làm nô lệ ở Ai Cập. TCN), cho nên, bài học luân lý vĩ đại của Thiên Chúa là: nếu chủ ngươi không trả công xứng đáng cho ngươi thì ngươi hãy ăn cắp của chủ để bù vào sự thiệt hại này.

Những chuyện này trong Thánh Kinh chứng tỏ những người viết Thánh Kinh có đầu óc của những dân man rợ, không có một ý niệm nào về công bằng và bác ái. Trong những cuộc chiến tranh chiếm đất phát động bởi “dân được Thiên Chúa chọn”, lệnh truyền ra là phải giết sạch mọi người, già hay trẻ. Ít ra là trẻ thơ không có tội tình gì và tội lỗi duy nhất của những người lớn tuổi là họ có đất đai và con gái mà những kẻ man dại, liều lĩnh, muốn chiếm hữu. Những nạn nhân này cũng là người có tín ngưỡng khác, và sự khoan nhượng tín ngưỡng của người khác là điều mà Thiên Chúa quyết định cấm, theo như Thánh Kinh. Dân “thánh Chúa” được lệnh phải tiêu diệt tất cả những ai không cùng tín ngưỡng. Thánh Kinh dạy chúng ta là phải giết ngay cả con trai, con gái, cha, mẹ chúng ta nếu những người này không theo tôn giáo của chúng ta. (Phục Truyền 13: 6-10).” 2

Với nội dung cuốn Thánh Kinh như trên, chúng ta không lấy gì làm lạ khi gần đây, ở Hồng Kông đang có phong trào đòi Ủy Ban Đạo Đức Hồng Kông phải xếp lại Kinh Thánh của Ki Tô Giáo vào loại sách tục tĩu, khiêu dâm, tàn bạo, loạn luân, và Kinh Thánh phải bọc kỹ và bên ngoài phải khuyến cáo độc giả về nội dung, và không được bán cho trẻ em dưới 18 tuổi. [http://news.yahoo.com: More than 800 Hong Kong residents have called on authorities to reclassify the Bible as “indecent” due to its sexual and violent content.. The complaints said the holy book “made one tremble” given its sexual and violent content, including rape and incest. If the Bible is similarly classified as “indecent” by authorities, only those over 18 could buy the holy book and it would need to be sealed in a wrapper with a statutory warning notice.]

Có một bài nhận định đầy đủ nhất về cuốn Thánh Kinh là bài “Những Lời Châu Ngọc về Thánh Kinh” (Gems Concerning the Holy Bible) của Robert G. Ingersoll trong cuốn “Ingersoll: Con Người Kỳ Diệu” (Ingersoll, the Magnificient), biên tập bởi Joseph Lewis, trg. 59-85. Qua bài này, nếu bà Đốc Thanh và Gs Thiện Ý có can đảm đọc thì họ sẽ thấy thực chất cuốn Thánh Kinh của Ki Tô Giáo là như thế nào, và sẽ nhận thức được “chân giá trị” của một cuốn sách mà họ tin đó là những lời mạc khải không thể sai lầm của Thiên Chúa, và nhất là ảnh hưởng tác hại của cuốn Thánh Kinh trên nhân loại.

Tất cả những gì Ingersoll viết đều dựa trên nội dung Thánh Kinh và lịch sử Ki Tô Giáo. Robert G. Ingersoll là một danh nhân của Hoa Kỳ, ông vừa là một Đại Tá, vừa là chính trị gia, luật sư, diễn giả, nhà hùng biện, và nhất là, một nhà tư tưởng tự do (Freethinker) lỗi lạc của Mỹ vào cuối thế kỷ 19. Ông có tên trong lịch sử Hoa Kỳ, trong Tự Điển, trong Bách Khoa Tự Điển, trong Tự Điển điện tử (CD-ROM, Grolier Electronic Publishing, 1997) và những tác phẩm của ông có trong mọi thư viện ở Hoa Kỳ. Tượng đài ghi công ông hiện nay còn ở Periora, tiểu bang Illinois. Bài này khá dài, quý vị có thể đọc nguyên văn bài đó trên http://www.positiveatheism.org/hist/lewis/lewing03.htm và tôi đã lược dịch bài này và đăng trên trang nhà Giao Điểm trước đây. Sau đây chỉ là và đoạn tiêu biểu trong bài dịch đó:

“Một người nào đó phải nói lên sự thực về cuốn Thánh Kinh. Những nhà giảng đạo [trong nước Mỹ. TCN] không dám vì họ sẽ bị đuổi khỏi các bục giảng. Những giáo sư đại học không dám, vì họ sẽ mất đi đồng lương. Các chính trị gia không dám. Họ sẽ bị đánh bại. Các chủ biên không dám. Họ sẽ mất độc giả. Các thương gia không dám, vì họ có thể mất khách hàng. Ngay cả những công chức thường cũng không dám, vì họ có thể bị đuổi. Vậy thì tôi nghĩ chính tôi sẽ phải làm việc này. [Ingersoll viết bài này vào cuối thế kỷ 19, khi mà Ki Tô Giáo còn ngự trị trên nước Mỹ]

Có nhiều triệu người tin rằng Thánh Kinh là lời mặc khải của Thiên Chúa – nhiều triệu người nghĩ rằng cuốn sách này là cây gậy dẫn đường, là nguồn cố vấn và an ủi; rằng nó chứa đầy hòa bình trong hiện tại, hi vọng trong tương lai – nhiều triệu người tin rằng đó là suối nguồn của luật pháp, công lý và tình thương, và nhờ có những giáo lý thông thái và lành tốt mà thế giới có được tự do, thịnh vượng, và văn minh – nhiều triệu người tưởng tượng rằng cuốn sách này là sự mặc khải từ trí tuệ và lòng thương yêu của Thiên Chúa đến với tâm thức con người – nhiều triệu người coi cuốn sách này như là ngọn đuốc chinh phục được sự tối tăm của chết chóc, và tỏa ánh sáng trên một thế giới khác – một thế giới không có nước mắt.

Họ quên đi cái sự ngu tối và man rợ, sự thù ghét tự do, sự tàn sát tôn giáo ở trong Thánh Kinh; họ nhớ tới Thiên đường, nhưng quên đi những ngục tù tăm tối và sự đau khổ vĩnh viễn ở dưới hỏa ngục.

Họ quên rằng cuốn sách này giam hãm đầu óc con người và làm cho lòng người đồi bại. Họ quên rằng cuốn sách này là kẻ thù của tự do trí thức.

Các linh mục, mục sư phân vân là làm sao tôi lại có thể tồi tệ đến độ công kích cuốn Thánh kinh.

Tôi sẽ nói cho họ biết:

Cuốn sách này, cuốn Thánh Kinh, đã truy tố cho đến chết những người thông thái nhất và tốt nhất. Cuốn sách này đã chặn đứng sự tiến bộ của loài người. Cuốn sách này đã đầu độc những nguồn kiến thức và lạc dẫn năng lực của con người.

Cuốn sách này là kẻ thù của tự do, là cột chống của chế độ nô lệ. Cuốn sách này đã gieo những hạt giống thù hận trong gia đình và quốc gia, nhúm ngọn lửa chiến tranh, và làm cho thế giới nghèo khổ. Cuốn sách này là công sự của hôn quân bạo chúa – là chủ nhân của các nô lệ phụ nữ và trẻ em. Cuốn sách này đã làm đồi bại nghị viện và triều chính. Cuốn sách này đã biến các trường đại học [Ki Tô Giáo] thành thầy dạy của sự sai trái và kẻ thù ghét khoa học. Cuốn sách này chất đầy những nước theo KiTô giáo với những tông phái thù hận, độc ác, ngu tối, chém giết lẫn nhau. Cuốn sách này dạy con người giết đồng loại vì tôn giáo. Cuốn sách này đã lập nên Tòa Hình Án xử dị giáo, phát minh ra những hình cụ tra tấn, thiết lập những ngục tù tối tăm trong đó người lương thiện và nhân từ mai một dần; rèn những chuỗi xích trở thành rỉ xét trong da thịt họ, dựng lên những đoạn đầu đài để chặt đầu họ. Cuốn sách này đã xếp những đống củi dưới chân của người lành. Cuốn sách này đã trục lý trí ra khỏi đầu óc của nhiều triệu người và đưa những kẻ khùng vào đầy nhà thương điên.

Cuốn sách này đã gây nên cảnh cha mẹ làm đổ máu những trẻ sơ sinh. Cuốn sách này đã là trường bán đấu giá trên đó người mẹ nô lệ đứng nhìn đứa con nhỏ phải bị chia lìa khi bà được bán đi. Cuốn sách này chứa đầy thuyền kẻ buôn nô lệ và làm da thịt con người thành món hàng hóa. Cuốn sách này đã nhúm lửa thiêu sống những “mụ phù thủy” và những “thầy pháp”. Cuốn sách này chứa đầy tối tăm với những quỷ và ma [Satan và Holy Ghost], và thân thể con người với những ác quỷ [demons]. Cuốn sách này đã làm ô nhiễm đầu óc con người với giáo điều ô nhục về hình phạt đầy đọa vĩnh viễn [của Giê-su]. Cuốn sách này coi đức tin như là đức tính cao nhất, và sự tìm tòi hiểu biết như là tội ác lớn nhất. Cuốn sách này đã đặt kẻ ngu dốt và những vị Thánh nhơ bẩn lên trên triết gia và người nhân đức. Cuốn sách này dạy con người coi thường những niềm vui của đời sống này, để có thể sung sướng ở đời sau – bỏ phí thế giới này vì thế giới sau.

Tôi công kích cuốn sách này vì nó là kẻ thù của sự tự do của con người – là sự cản trở lớn nhất của sự tiến bộ của con người.

Tôi xin hỏi các linh mục, mục sư một câu: làm sao mà các ông có thể tồi tệ đến mức bào chữa cho cuốn sách này.

Cuốn Thánh Kinh đã là thành trì chống đỡ của hầu hết các tội ác.

Ngang qua cuốn Thánh kinh mở là thanh gươm (để giết người) và bó củi (để thiêu sống người).

Chúng ta hãy thoát ra khỏi sự tàn bạo của một cuốn sách, ra khỏi sự nô lệ của sự ngu tối cùng cực, của cái không khí quý tộc thống trị [của các giáo sĩ].

Cuốn Thánh Kinh không phải là cuốn sách để cho già cũng như trẻ đáng đọc. Nó chứa những trang sách mà không một ông mục sư nào ở Mỹ dám đọc trước cộng đồng dân Chúa bất kể là phần thưởng dành cho ông ta là cái gì. Có những chương mà không một người cha nào muốn đọc cho con nghe. Có những câu chuyện không thể kể; và sẽ có ngày cả nhân loại sẽ phân vân là sao mà một cuốn sách như vậy lại có thể gọi là được Thiên Chúa mạc khải.

Có phải tốt hơn là hãy coi Thánh Kinh như là được viết bởi những người man rợ trong một thời đại man rợ, thô thiển không? Có phải đúng hơn là có những tên Do Thái ngu đần nào đó đã viết lên những lời tầm thường đó. Những Ki Tô hữu bảo tôi rằng chính Thiên Chúa là tác giả của những điều đê tiện và ngu xuẩn (vile and stupid) này.

Có một người thông minh nào trên thế giới ngày nay còn có thể tin được câu chuyện vườn Eden? Nếu bạn thấy người nào còn tin như vậy, hãy gõ lên trán anh ta, bạn sẽ nghe thấy một tiếng vang [vì đầu óc hắn ta rỗng tuếch. TCN]. Có một người thông minh nào mà ngày nay còn có thể tin là Thiên Chúa đã tạo ra người đàn ông từ đất sét, và người đàn bà từ một cái xương sườn, rồi đặt hai người vào trong một cái vườn, và đặt một cái cây ở giữa vườn? Không có chỗ nào ngoài cái vườn để đặt cái cây đó hay sao, nếu ông ta không muốn cho họ ăn trái cây trên cây đó? Có còn người nào ngày nay còn có thể tin vào chuyện con rắn (xúi Adam và Eve ăn trái cấm)? Tôi thật thương hại bất cứ ai, trong thế kỷ 19 này, còn tin vào những chuyện trẻ con như vậy.

Tại sao Adam và Eve bất tuân điều cấm của Thiên Chúa? Tại sao họ bị cám dỗ? Bởi ai? Bởi quỷ (hiện thân thành con rắn). Ai tạo ra quỷ? Thiên Chúa. Ông ta tạo ra quỷ để làm gì? Tại sao ông ta không nói cho Adam và Eve biết về con rắn? Tại sao ông ta không canh chừng con quỷ mà lại đi canh chừng Adam và Eve? Tại sao ông ta không gây ra nạn hồng thủy trước, và dìm chết con quỷ, trước khi ông ta tạo ra Adam và Eve?

Vậy mà, những người tự cho là mình thông minh – giáo sư đại học và viện trưởng các học viện [Ki Tô ở Mỹ trong thế kỷ 19] danh tiếng – đã dạy trẻ con và lớp trẻ rằng chuyện vườn Eden là một sự kiện lịch sử tuyệt đối. Cái ông Thiên Chúa này của họ, đứng chờ xung quanh cái vườn Eden – biết rằng cái gì sẽ xảy ra – đã tạo nên Adam và Eve với mục đích duy nhất là điều xảy ra sẽ phải xảy ra, rồi sao nữa? Bắt tất cả chúng ta phải chịu trách nhiệm, và chúng ta không hề có mặt ở đó. Adam và Eve là đại diện của những người chưa được sinh ra. Trước khi tôi bị ràng buộc vào một đại diện, tôi muốn có cơ hội để bỏ phiếu chọn anh ta hay không? Và nếu tôi ở đó (vườn Eden), và biết mọi trường hợp đã xảy ra, tôi đã bỏ phiếu “không chấp nhận”. Tuy vậy, trách nhiệm vẫn về phần tôi.

Chúng ta được Thánh Kinh và Giáo hội dạy, vì sự “sa ngã” này của Adam và Eve, “tội lỗi và cái chết đã đi vào nhân loại”. Theo như vậy thì, ngay sau khi Adam và Eve ăn trái cấm, Thiên Chúa bắt đầu bày đặt ra những phương pháp để tiêu diệt sự sống của các con cái của ông ta. Ông ta đã “sáng tạo” ra mọi bệnh tật – nóng sốt, ho hắng và cảm cúm – tất cả những sự đau đớn cho thể xác và sự truyền nhiễm của bệnh dịch hạch, bệnh sốt rét và những vi khuẩn, để cho khi thở chúng ta hít vào những tên sát nhân mà chúng ta không thể nhìn thấy; và, sợ rằng có người sống thọ, Thiên Chúa phát minh ra động đất và núi lửa, bão tố và sấm sét; và các vi sinh vật tràn ngập vào tim óc, quá nhỏ đến nỗi mắt không nhìn thấy được.. Tất cả chỉ vì Adam và Eve không nghe lời ông ta.

Với lòng tốt vô tận (infinite goodness), Thiên Chúa phát minh ra bệnh nhức xương và đau khớp xương, chứng khó tiêu (dyspepsia), ung thư và chứng đau thần kinh, và vẫn còn tiếp tục phát minh ra những chứng bệnh mới. Như vậy cũng chưa đủ, ông ta còn làm cho các bà mẹ phải đau đớn (khi sinh đẻ), và qua lòng thương yêu của ông ta, sự chết sẽ đến với mọi người. Ông ta nguyền rủa cả thế giớ. (He cursed the world). Nhưng tất cả những cái này chỉ là bước mở đầu cho sự trả thù của một ông Thiên Chúa chí thiện (Good God). Quý vị có thể nói đến một cách không rõ ràng, nhưng không bao giờ có thể quan niệm nổi những sự khủng khiếp vô cùng tận của cái giáo lý gọi là “Sự sa ngã của con người”. (the infinite horrors of the doctrine called “The fall of man”).

Đọc Ngũ Kinh, tôi cảm thấy vô cùng phẫn nộ, ghê sợ và đầy sự thương hại. Không có gì đáng buồn thảm hơn là lịch sử của một dân tộc du mục thiếu ăn, lang thang trong sa mạc, làm mồi cho đói khát, bệnh tật. Cực kỳ ngu đần và mê tín, bị thống trị bởi sự lừa dối, đạo đức giả, họ là trò chơi của giới giáo sĩ. Thiên Chúa là kẻ thù lớn nhất của họ, và họ chỉ có một người bạn, đó là cái chết. Chúng ta không thể nào quan niệm nổi một sinh vật nào quá chừng đê tiện, đáng ghét, và kiêu căng hơn là Thiên Chúa của người Do Thái. (It is impossible to conceive a more thoroughly despicable, hateful, and arrogant being, than the Jewish God) [Thảm thay, đây cũng lại là chính Thiên Chúa mà những người Ki Tô Giáo Việt Nam, Ca Tô cũng như Tin Lành thờ phụng. TCN] Trong những huyền thoại của dân gian, không có Thần nào như hắn ta. Chỉ có hắn là chưa từng bị đau khổ cùng cực về thể xác cũng như tinh thần, chưa từng chảy nước mắt. Hắn chỉ thích thú với máu đổ và sự đau đớn của con người. Tình cảm con người không nghĩa lý gì đối với hắn. Hắn ta không biết gì là tình yêu thương, ca nhạc, hạnh phúc. Là một người bạn giả dối, một quan tòa bất công, một kẻ khoác lác (a braggart), đạo đức giả, độc đoán, hận thù, ghen tuông, ưa trả thù, hứa hão, ưa nguyền rủa, ngu đần, đồng bóng, đồi bại và ghê tởm (infamous and hideous) – đó là Thiên Chúa trong Ngũ Kinh. [Chúng ta không nên lấy làm lạ khi thấy trong Tân Ước, Thiên Chúa Con, alias Giê-su, cũng có không ít cùng những đặc tính được mô tả ở trên. Cũng giả dối, khoác lác, đạo đức giả, độc đoán, ác độc, hận thù, ưa trả thù, hứa hão, ưa nguyền rủa, ngu đần v..v.. Việc chứng minh rất dễ dàng. Chỉ cần mở cuốn Tân Ước ra là thấy ngay. Tôi sẽ trình bày chi tiết dẫn chứng từ Tân Ước trong một bài khác. TCN]

Người ta thường bảo với tôi rằng, nếu không có cuốn Thánh Kinh thì không làm gì có nền văn minh nào. Người Do Thái có một Thánh Kinh. Người La Mã không có. Nhưng dân nào có một chính quyền tốt hơn? Chúng ta hãy lương thiện. La Mã không có Thánh Kinh, Thiên Chúa không quan tâm đến đế quốc La Mã. Ông ta không có thì giờ. Tất cả thì giờ ông ta để cho người Do Thái. Nhưng La Mã đã chinh phục thế giới, kể cả dân Thiên Chúa lựa chọn. Dân tộc có Thánh Kinh bị dân tộc không có Thánh Kinh đánh bại. [Điều này cũng đúng trong thời hiện đại. Mỹ và Pháp đều có Thánh Kinh, Việt Nam không có Thánh Kinh, nhưng đã đánh bại cả hai]. Và chúng ta có thể nói gì về Hi Lạp? Không Thánh Kinh. Hãy so sánh Athens với Jerusalem. Athens là trung tâm nghệ thuật và trí thức của thế giới. [Có lẽ tác giả chỉ biết đến lịch sử Trung Đông và Tây Phương]. Hãy so sánh những huyền thoại của Hi Lạp với những huyền thoại của Do Thái. Huyền thoại Hi Lạp đẹp đẽ biết bao, còn huyền thoại Do Thái thì đầy những hận thù và bất công.

Chúng ta được bảo rằng, trong Ngũ Kinh, Thiên Chúa, vị Cha chung của chúng ta, đã trao hàng ngàn thiếu nữ còn trinh, sau khi đã giết cha mẹ anh em họ, để cho những con người man rợ thỏa mãn lòng dục của họ [Ingersoll quên rằng chính Thiên Chúa cũng có phần].

Đó là sự “tự do tôn giáo” (religious freedom) của Thiên Chúa; lòng khoan nhượng của Thần Gia-vê (Jehovah). Nếu tôi sống ở Palestine vào thời đại đó, và vợ tôi, mẹ của những con tôi, nói với tôi rằng: “Tôi chán cái ông thần Gia-vê này quá đi; ông ta luôn luôn đòi nợ máu; không bao giờ chán ghét sự giết chóc; luôn luôn nói về quyền năng của ông ta; luôn luôn khoe những việc ông ta làm cho người Do Thái; luôn luôn đòi hỏi sự hi sinh tế thần – chim cu và chiên non – máu, không có gì ngoài máu. Chúng ta hãy thờ Thần Mặt Trời. Thần Gia-vê đầy lòng hận thù, xảo quyệt và quá đòi hỏi. Chúng ta hãy thờ Thần Mặt Trời. Mặt trời soi sáng những vẻ đẹp của trái đất, giúp cho hoa tươi nở; nhờ có ánh sáng mặt trời mà em được thấy anh, thấy các con của chúng ta..”

Nếu tôi theo đúng lệnh của Thiên Chúa, tôi sẽ phải giết vợ tôi. Bàn tay của tôi là người đầu tiên, và rồi bàn tay của bao nhiêu người khác, sẽ phải ném đá vợ tôi cho đến chết. Về phần tôi, tôi không bao giờ giết vợ, ngay cả khi một ông Thiên Chúa thực sự của vũ trụ này ra lệnh.

Nếu Thần Gia-vê sống như những thần dân mà ông ta cai trị, và nếu ông ta theo đúng những luật mà ông ta đặt ra, thì ông ta sẽ là người nuôi nô lệ, là kẻ buôn bán trẻ con, đánh đập phụ nữ. Ông ta sẽ phát động những cuộc chiến tranh diệt chủng. Ông ta sẽ là người đa thê, và sẽ phanh thây (butchered) vợ ông ta nếu bà ta theo một tôn giáo khác với ông ta.

Sự thật là, trong thời đó, con người vì đã nghiên cứu kỹ Thánh Kinh nên đã giết vợ, giết con. Họ đọc Thánh Kinh rồi dùng những kìm cặp nung đỏ để hành hạ xác thịt con người. Họ đặt Thánh Kinh xuống để có thì giờ đổ chì nóng vào tai đồng loại. Họ ngưng đọc cuốn Thánh Kinh thiêng liêng đó để có thì giờ xâu xé đồng loại, trói chặt họ trong xiềng xíxh, và rồi lại trở lại để đọc Thánh Kinh, để mặc cho nạn nhân của họ chết rục trong ngục tù tối tăm với sự thất vọng. Họ ngưng đọc Cựu Ước để có thì giờ đóng cọc xuống đất, đi kiếm những bó củi và thiêu sống người lành và người lương thiện. Ngay cả những linh mục cũng đã ngưng đọc Thánh Kinh đủ lâu để nói lên những lời giả dối xuyên tạc về đồng bào của họ. Không có một tội ác nào mà những người đọc Thánh Kinh, tin Thánh Kinh, thờ phụng Thánh Kinh không làm. Không có một điều ác ôn nào mà một số người đọc Thánh Kinh, tin Thánh Kinh, và bảo vệ Thánh Kinh không làm. Những người tin Thánh Kinh và bảo vệ Thánh Kinh đã chất đầy thế giới này với những sự vu khống (calumnies and slanders).

Hàng ngàn, hàng ngàn các bà mẹ đã đưa Thánh Kinh cho con cái mà không hề biết trong đó có những gì. Họ chỉ theo truyền thống, và như là một quy luật, con cái họ tiếp tục tôn kính cuốn Thánh Kinh, không phải là họ biết gì về cuốn đó nhưng vì đó là món quà của người mẹ.

Đối với tôi, muốn thuyết phục những người có đầu óc là cuốn Thánh Kinh chỉ là sản phẩm của con người – những con người man rợ – là bảo họ hãy đọc nó. Hãy đọc nó như mọi cuốn sách khác, nghĩ tới nó như mọi cuốn sách khác, bỏ đi cái băng kính ngưỡng Thánh Kinh đang che mắt, dẹp bỏ mọi sự sợ hãi trong lòng, loại ra khỏi đầu óc sự mê tín, rồi hãy đọc cuốn Thánh Kinh, và các bạn sẽ cảm thấy ngỡ ngàng là tại sao có một thời mình đã cho rằng một đấng siêu nhiên với trí tuệ siêu việt, lòng thiện vô tận, lại là tác giả của những điều ngu xuẩn và bạo tàn như vậy (the author of such ignorance and of such atrocity)? [Ingersoll đã nhận định rất đúng. Lẽ dĩ nhiên, theo đúng những tiêu chuẩn đọc Thánh Kinh của Ingersoll không phải là dễ vì trước hết phải tẩy hết các độc tố Ki Tô ra khỏi đầu óc như Ingersoll đã đề nghị. TCN]

Thiên Chúa, theo Thánh Kinh, đã nhận chìm cả thế giới trừ tám người. Già, trẻ, lớn, bé đều bị sóng nước vô bờ nuốt chửng. Cái thảm họa đáng sợ này, trong sự tưởng tượng của đám linh mục ngu đần (ignorant priests), là tác phẩm không phải của quỷ, mà là của cái mà người ta gọi là Thiên Chúa, và tiếp tục thờ phụng một cách ngu đần cho đến ngày nay. (ignorantly worship unto this day).

Không có một người thông minh nào, không có một người nào mà đầu óc chưa bị nhiễm độc bởi mê tín, tê liệt bởi sợ hãi, có thể đọc Cựu Ước mà không bắt buộc phải đi đến kết luận: Thiên Chúa của chúng ta là một con thú hoang dại (that our God was a wild beast).

Cho tới bao giờ, than ôi! Cho tới bao giờ con người còn thờ phụng một cuốn sách? Cho tới bao giờ con người còn quỳ phục xuống đất trước những truyền thuyết ngu đần của cái quá khứ man rợ? (How long will they grovel in the dust before the ignorant legends of the barbaric past). Cho tới bao giờ họ còn theo đuổi những hồn ma trong sự tăm tối sâu thẳm hơn là cái chết.

Cho tới bao giờ, than ôi! cho tới bao giờ con người còn nghe lời đe dọa của Thiên Chúa, nhắm mắt lại trước thiên nhiên huy hoàng ngoạn mục? Cho tới bao giờ con người còn là nô lệ, bám víu vào một giáo thuyết sai lầm và độc ác? (a false and cruel creed).

Có thể bà Đốc Thanh hay Gs Thiện Ý hoặc các tín đồ Ki Tô Mít, không tin những điều Ingersoll viết là đúng. Tôi khuyên họ hãy mở cuốn Thánh Kinh ra đọc từ dòng đầu tới dòng cuối, rồi đọc lại lịch sử Ca-tô Rô-ma giáo trên hoàn cầu, họ sẽ thấy ngay sự tương quan giữa những điều dạy trong Thánh Kinh và hành động của giáo hội CaTô. Họ sẽ thấy ngay là những hành động của giáo hội CaTô trong suốt 20 thế kỷ nay là bắt nguồn từ những giáo lý trong Thánh kinh chứ không phải là do một vài giáo hoàng, như lời biện hộ gần đây của một đại trí thức CaTô Việt Nam, bị cái “chước cám dỗ làm điều thiện”. Bản chất các giáo lý đã không thiện rồi và chính những giáo lý không thiện này đã đưa đến những hành động bất thiện. Khi đó họ có thể phối kiểm những điều mà những tác giả kể trên đã viết về Thánh kinh và sẽ thấy họ không viết sai sự thực, dù bản Thánh Kinh bằng tiếng Việt đã được lược bớt một số mâu thuẫn và những đoạn “không thể đọc được” so với bản tiếng Anh, King James.. Tôi cũng cần phải ghi ở đây là những tài liệu dẫn chứng trong bài viết này chẳng qua chỉ là một phần rất nhỏ của toàn bộ những tài liệu đã được xuất bản về lịch sử Ca-tô Rô-ma giáo và Thánh kinh CaTô.

 

2. Về Thiên Chúa Sáng Tạo Của Ki Tô Giáo.

Người Ki Tô Giáo được dạy rằng Thiên Chúa Sáng Tạo của họ là một Thiên Chúa rất mực nhân từ, và câu họ thường lấy từ trong Tân Ước ra để quảng cáo là “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian..”. Chính Giáo hoàng John Paul II cũng đã viện dẫn câu này trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng” để trả lời mà không phải là trả lời trước câu hỏi “Tại sao nhân loại lại cần đến cứu rỗi"? Vậy thì thế giới bên ngoài đã có những nhận định gì về Thiên Chúa Sáng Tạo của Ki Tô Giáo? Ở đây tôi lại xin giới thiệu với bà Đốc Thanh và Gs Thiện Ý vài cuốn sách nghiên cứu về Thiên Chúa Sáng Tạo trong Cựu Ước của quý vị:

- “The Existence of God”, The Macmillan Company, New York 1972, do chủ biên Paul Edwards biên tập.

- “The Case Against God”, Prometheus Books, New York, 1989, của George H. Smith.

- “Critiques of God: Making The Case Against Belief In God”, Prometheus Books, New York, 1997, do Chủ Biên Peter A. Angeles biên tập.

- The Dark Side of God, Element Books, Boston, USA, 1999, của Douglas Lockhart

- “The Impossibility of God”, Prometheus Books, New York, 2003, do chủ biên Michael Martin và Ricki Monnier biên tập.

- “Atheist Universe: The Thinking Person’s Answer To Christian Fundamentalism”, Ulysses Press, Berkeley, 2006, của David Mills [Sử dụng lô-gíc giản dị, thẳng thắn, cuốn sách này bác bỏ mọi lý luận dùng để “chứng minh” là có God (This book rebuts every argument that claims to “prove” God’s existence)]

- “God Is Not Great: How Religion Poisons Everything”, Twelve Hachette Book, New York, 2007, của Christopher Hitchens [God không sáng tạo ra chúng ta. Chúng ta sáng tạo ra God. Chúng ta làm hại con cháu chúng ta – và làm nguy hại đến thế giới – bằng cách nhồi sọ chúng (God did not make us. We made God. We damage our children – and endanger our world – by indoctinating them)]

- “God’s Problem: How The Bible Fail To Answer Our Most Important Question – Why We Suffer?”, HarperOne, New York, 2008, của Bart D. Ehrman

- “The God Delusion”, First Mariner Books, New York, 2008, của Richard Dawkins.

Ngoài ra chúng ta cũng nên biết vài nhận định điển hình của vài người có tên tuổi trong lịch sử thế giới về Thiên Chúa của Ki Tô Giáo mà các tín đồ Ki Tô Giáo thường ca tụng là “Thiên Chúa lòng lành” (Le bon Dieu), là “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian” v..v…

1) Tổng Thống Thomas Jefferson của Mỹ, sau khi đọc cuốn “Thánh Kinh”, đã nhận định về Thiên Chúa của Ki Tô Giáo là “một nhân vật có tính tình khủng khiếp – độc ác, ưa trả thù, đồng bóng, và bất công” [Thomas Jefferson describes The God of Moses as “a being of terrific character – cruel, vindictive, capricious and unjust].

2) James A. Haught: Qua luận lý, chúng ta có thể thấy quan niệm của giáo hội về một Thiên Chúa ở trên trời với lòng “quá thương yêu thế gian” không đứng vững. Nếu có một đấng thần linh sáng tạo ra mọi thứ hiện hữu thì ông ta đã làm ra ung thư vú cho phái nữ, bệnh hoại huyết cho trẻ con, bệnh cùi, bệnh AIDS, bệnh mất trí nhớ (Alzheimer), và hội chứng Down (khuyết tật tinh thần). Ông ta ra lệnh cho những con cáo cắn xé nát những con thỏ ra từng mảnh, những con báo giết những hươu nai. Không có một con người nào độc ác đến độ hoạch định những sự khủng khiếp như vậy. Nếu một đấng siêu nhiên làm như vậy, ông ta là một con quỷ, không phải là một người cha nhất mực nhân từ. 3

3) Giám mục John Shelby Spong: Cuốn Thánh Kinh đã làm cho tôi đối diện với quá nhiều vấn đề hơn là giá trị. Nó đưa đến cho tôi một Thiên Chúa mà tôi không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng. [ John Shelby Spong, Rescuing The Bible From Fundamentalism, p. 24: A literal Bible presents me with far more problems than assets. It offers me a God I cannot respect, much less worship.]

4) Linh mục Công giáo James Kavanaugh viết về “Huyền Thoại Cứu Rỗi” trong cuốn Sự Sinh Ra Của Thiên Chúa (The Birth of God), xin đọc: http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN36.php :

Nhưng đối với con người hiện đại. chuyện hi sinh của Giê-su chẳng có ý nghĩa gì mấy, trừ khi hắn đã bị reo rắc sự sợ hãi và bị tẩy não từ khi mới sinh ra đời (But to modern man, it makes far less sense unless he has been suitably frightened and brainwashed from birth). Đối với tôi (Linh mục James Kavanaugh), đó là một huyền thoại “cứu rỗi” của thời bán khai, miêu tả một người cha giận dữ [Thiên Chúa], chỉ nguôi được cơn giận bằng cái chết đầy máu me của chính con mình. Đó là một chuyện độc ác không thể tưởng tượng được của thời bán khai (It is a primitive tale of unbelievable cruelty).

5) Nhưng đặc biệt hơn cả là khi đọc Richard Dawkins trong cuốn “The God Delusion”, ấn bản 2008, tôi thấy tác giả đưa ra tới 16 nhận định về Thiên Chúa của Ki Tô Giáo rất đáng để chúng ta nghiên cứu để tìm hiểu sự thật. Mở đầu Chương 2, trang 51, về “Giả Thuyết Về Thiên Chúa” [The God Hypothesis], tác giả Richard Dawkins viết:

Không cần phải bàn cãi gì nữa, Thiên Chúa trong Cựu Ước là nhân vật xấu xa đáng ghét nhất trong mọi chuyện giả tưởng: ghen tuông đố kỵ và hãnh diện vì thế; một kẻ nhỏ nhen lặt vặt, bất công, có tính đồng bóng tự cho là có quyền năng và bất khoan dung; một kẻ hay trả thù; một kẻ khát máu diệt dân tộc khác; một kẻ ghét phái nữ, sợ đồng giống luyến ái, kỳ thị chủng tộc, giết hại trẻ con, chủ trương diệt chủng, dạy cha mẹ giết con cái, độc hại như bệnh dịch, có bệnh tâm thần hoang tưởng về quyền lực, của cải, và toàn năng [megalomaniacal], thích thú trong sự đau đớn và những trò tàn ác, bạo dâm [sadomasochistic], là kẻ hiếp đáp ác ôn thất thường. 4

Tôi nghĩ rằng, tất cả những tác giả trên phải có lý do gì mới dám viết ra những điều như vậy, vì theo bà Đốc Thanh, có tới 1.5 tỷ người Ki Tô Giáo trên thế giới sẵn sàng theo lệnh bà Đốc Thanh và Gs Thiện Ý khởi kiện những tác giả trên về tội xuyên tạc chống phá Thiên Chúa. Nhưng lạ một điều là tất cả các giáo hội Ki Tô kể cả Ca-tô Rô-ma giáo đều không có phản ứng gì trước “chủ trương phản con người, phản dân tộc, phản nhân quyền, dân quyền hiến định bằng cách cố tình tìm mọi cách xuyên tạc, “vạch lá tìm sâu bươi lông tìm vết” để đánh phá đạo Thiên Chúa Giáo nói chung và đạo Công Giáo nói riêng” của giới học giả Âu Mỹ ở trong cũng như ở ngoài Ki Tô Giáo.

 

3. Về Chúa Giê-su Của Ki Tô Giáo.- Người Ki Tô Giáo được dạy rằng nếu họ tin Chúa Giê-su thì sau khi chết, đến ngày tận thế, Chúa sẽ làm cho phần hồn của họ nhập lại với phần xác, bất kể là chết đã bao lâu và chết như thế nào, và sẽ được bốc lên thiên đàng để sống đời đời bên Chúa của họ v..v.., còn nếu không tin sẽ bị Chúa đầy đọa xuống hỏa ngục để bị ngọn lửa vĩnh hằng thiêu đốt. Điều dạy này là một câu trong Tân Ước mà chính Giáo hoàng John Paul II cũng đã dùng để làm luận điểm giải thích, để trả lời câu hỏi “Tại sao nhân loại cần cứu rỗi?”, trong cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng, xuất bản năm 1995, trang 76: John 3:16: Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban Con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người [nghĩa là Giê-su] sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời.”. Câu trên không phải là lời giải thích cho câu hỏi “Tại sao nhân loại cần đến sự cứu rỗi?” mà là một khẳng định về đức tin Ca-Tô gồm có hai mặt: 1) huyễn hoặc những người nhẹ dạ cả tin, mê mẩn về một sự sống đời đời, sau khi chết, ở trên một thiên đường giả tưởng, bằng cách tin vào một nhân vật đầy tính chất huyền thoại do nền thần học Ki Tô Giáo tạo dựng lên; và 2) hù dọa những người đầu óc yếu kém về một sự luận phạt phi lý và hoang đường.

Nhưng chính cái câu mà Giáo hoàng John Paul II trích dẫn trong Tân Ước ở trên đã làm cho Giáo hoàng lộ bộ mặt lừa dối tín đồ bằng một điều huyễn hoặc được thêm thắt vào trong Tân ước về sau để khuyến dụ đám tín đồ đầu óc thấp kém, vì câu đó không có một giá trị thiết thực nào. Bình luận câu John 3:16 ở trên, học giả Lloyd Graham cho rằng “Chưa bao giờ có nhiều ngụy biện có tính cách dạy đời được buộc chung với nhau trong một câu ngắn ngủi như trên” (No greater number of didactic fallacies were ever strung together in one short sentence) vì Thiên Chúa không hề thương yêu thế gian, Thiên Chúa không ban cho thế gian bất cứ cái gì; ông ta không có “người Con duy nhất”, lòng tin không cứu được một ai, và không có cái gì gọi là cuộc sống đời đời. (God does not love the world; God does not give the world anything; he has no “only begotten Son”, belief will not save anyone, and there is no such thing as everlasting life)

Thật vậy, phân tích câu trong Phúc Âm John mà giáo hoàng John Paul II viện dẫn ở trên chúng ta thấy ngay câu đó hoàn toàn vô nghĩa và phi lý. Thật vậy, trừ phi chúng ta chỉ biết cầm cuốn Thánh Kinh, không hề đọc, và nhắm mắt cầu nguyện. Nếu chúng ta mở mắt ra nhìn những cảnh khổ, cảnh bất công, cảnh con nít mới sinh ra đã bị khuyết tật hay chỉ là một quái thai v..v.. ở khắp nơi trên thế gian, kể cả trong các nước mà đa số dân chúng là tín đồ Ki Tô Giáo, thí dụ ở bên Anh có một gia đình Ca-Tô sinh ra một quái thai, hai thân dính liền nhau nhưng chỉ có một trái tim, thì không có cách nào chúng ta có thể chấp nhận luận điệu thần học của Giáo hoàng John Paul II: “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian..” Chúng ta nên biết, theo niềm tin trong Ca-Tô giáo thì Thiên Chúa là bậc vô cùng nhân từ, và “toàn năng”, nghĩa là làm gì cũng được. Hơn nữa, một Chúa mà chỉ cứu những người tin mình thì thực chất chỉ là một ngụy Chúa, không xứng đáng để cho con người tin, đừng nói đến kính trọng và thờ phụng. Sự hiện hữu của những cảnh khổ, những chiến tranh tôn giáo, những sự xấu ác ở trên đời là một nghịch lý mà từ xưa đến nay các nhà thần học Ki Tô Giáo không sao giải thích nổi để biện minh cho một Thiên Chúa Toàn Năng “ quá thương yêu thế gian”. Lối giải thích nghe suôi tai đối với những tín đồ đầu óc mê muội nhưng lại có tính cách mạ lỵ đối với tư duy con người trong thế giới văn minh tiến bộ như ngày nay là: “đầu óc con người không hiểu được những ý định hay việc làm của Thiên Chúa”.

Câu John 3: 16 ở trên: “Thiên Chúa quá thương yêu thế gian đến nỗi ban Con duy nhất của Ngài, để những ai tin vào Người sẽ không bị luận phạt, nhưng được sống đời đời.”, và câu tiếp theo, John 3: 18: “Người nào không tin vào Giê-su thì đã bị đầy đọa rồi, vì người đó không tin vào đứa con duy nhất của Thượng đế” theo tôi, là những câu vô nghĩa và bậy bạ nhất trong Tân Ước vì những câu này chỉ có thể áp dụng cho những người sinh sau Giê-su mà thôi. Lẽ dĩ nhiên chỉ có những người sinh sau Giê-su mới có thể biết đến Giê-su và tin Giê-su để không bị luận phạt và có cuộc sống đời đời, lẽ dĩ nhiên sau khi chết. Như được viết rõ trong Tân Ước, ngay cả bố mẹ Giê-su là Joseph và Maria, cùng các em trai em gái Giê-su cũng không tin Giê-su là đấng cứu thế, trái lại còn cho là Giê-su đầu óc bất bình thường (out of his mind), cho nên chắc chắn là họ đều bị Giê-su luận phạt và đày đọa xuống hỏa ngục vĩnh viễn? Lịch sử loài người đâu chỉ bắt đầu từ khi Giê-su 30 tuổi. Ấy thế mà vẫn có vô số người tin vào những cái câu nhảm nhí này.

Điều hiển nhiên là, trước khi Giê-su sinh ra đời thì nhân loại đã trải qua bao nhiêu thế hệ trong nhiều ngàn năm, trong đó có các thế hệ của tổ tiên, ông bà Giê-su. Ai biết đến Giê-su? Ai tin Giê-su? Vậy tất cả cũng đều bị Giê-su luận phạt hay sao? Trước năm 1533, người Việt Nam không ai nghe và biết đến tên Giê-su, hiển nhiên không ai có thể tin Giê-su, vậy tất cả dân tộc Việt Nam trong mấy ngàn năm trước năm 1533 cũng bị luận phạt hay sao? Những người Ca Tô Việt Nam có nghĩ đến các điều hoàn toàn vô nghĩa như trên hay không? Cái tín điều phi thực tế, phi nhân tính, phi lôgic như vậy mà giáo hoàng nêu lên được trong thời đại này thì kể cũng lạ. Điều lạ hơn nữa là các tín đồ vẫn còn tin theo cái tín lý quái gở đó với một tâm cảnh vô cùng ích kỷ, chỉ nghĩ đến đời sống đời đời sau khi chết của riêng mình, mà không hề nghĩ đến bản chất ác độc, phi lý, phản khoa học, hoang đường, bất khả áp dụng, của sự luận phạt của Giê-su. Không những chỉ ích kỷ mà họ còn để lộ một tinh thần yếu kém, sợ sệt thần linh trong thời đại tiến bộ của khoa học kỹ thuật ngày nay mà quan niệm thần linh khi xưa đã không còn chỗ đứng. Trong thời đại mà các thần bình vôi, thần cây đa, thần hà bá v..v.. đã không còn ý nghĩa, tại sao họ vẫn còn có thể tin vào một “Chúa” của người Do Thái cách đây 2000 năm mà bản chất chẳng qua cũng chỉ là một người thường như các học giả ngày nay đã kết luận.

Về Chúa Giê-su chúng ta thường được nghe các tín đồ Ca-tô Việt Nam ca tụng là “Giê-su yêu bạn”, "Giê-su đến để mang một tin vui, tin vui tình thương, tin vui tự do...", “Giê-su mang đến Tin Mừng Phúc Âm”, Giê-su là “Chúa Trời”, là “Ông Hoàng Của Hòa Bình”, là “Ánh Sáng Của Nhân Loại” v..v…

Thế NHƯNG, một chữ NHƯNG rất đậm nét, trong thế giới bên ngoài chúng ta lại đọc được những nhận định về Giê-su như sau:

Giám mục John Shelby Spong, sau khi nghiên cứu Tân ước, đã đưa ra một nhận định về Giê-su như sau:

Có những đoạn trong bốn Phúc Âm mô tả Giê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả. 5

Và Jim Walker cũng viết trên Internet trong bài http://www.nobeliefs.com/jesus.htm: Chúng Ta Có Nên Kính Ngưỡng Giê-su Không? (Should We Admire Jesus?):

Nhiều tín đồ Ki-Tô-giáo không hề biết đến là nhiều đoạn trong các Phúc Âm trong Tân Ước, Giê-su được mô tả như là một con người đầy hận thù, xấu xa, bất khoan dung, và đạo đức giả. 6

Và Russell Shorto, một học giả Ki Tô Giáo, đã tổng hợp những tác phẩm nghiên cứu về Giê-su trong vòng 200 năm nay, trong kết luận như sau trong cuốn Sự Thật Của Phúc Âm (Gospel Truth):

Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng – họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường. 7

 

4. Về Vatican Và Các “Đức Thánh Cha”.

Mọi tín đồ Ca Tô Việt Nam đều được dạy rằng Vatican là Tổng Hành Dinh của “Giáo Hội Công Giáo, Thánh Thiện, Duy Nhất, Tông Truyền” ở đó có “Đức Thánh Cha” và Bộ Tham Mưu của ông chuyên lo việc ban phát các Tông Huấn cho các tín đồ và các tín đồ phải tuyệt đối tuân phục theo như Thánh Loyola, người sáng lập Dòng Tên, đã từng dạy: “Nếu chúng ta thấy một cái gì trắng mà Giáo hội bảo rằng đen thì cũng phải tin đó là đen”. Nhưng thế giới bên ngoài thì không tin như vậy, thấy Vatican như thế nào thì viết đúng như vậy, thấy các “Đức Thánh Cha” như thế nào thì viết đúng như vậy. Và sau đây là vài cuốn sách viết về Vatican.

- “Vatican Mis À Nu”, Traduit de l’Italien par Pierre-Émmanuel Dauzat, Edition Robert Laffont, Paris, 2000, .của Đức Ông Luigi Marinelli

Cuốn sách này là bản dịch sang tiếng Pháp của bản gốc tiếng Ý: VIA COL VENTO IN VATICANO. Bản dịch tiếng Anh có tên Gone With The Wind In The Vatican mà có người Việt Nam dịch là Cuốn Theo Chiều Gió Ở Vatican. Bản tiếng Anh không thấy bán trong các tiệm sách nhưng có thể đặt mua trên Internet. Tôi mua được bản tiếng Pháp ở Paris, hè 2002. Bản tiếng Pháp không dịch mà đặt tên khác: Lột Trần Vatican (Vatican Mis À Nu). Đúng là lột trần vì độc giả sẽ thấy một hình ảnh Vatican mục nát, không mũ mãng, quần áo lòe loẹt trang trí bên ngoài. Cuốn sách này là con dao mổ xẻ của tác giả đã đâm ngập vào một vết thương sâu (ce livre est un bistouri plongé dans une plaie profonde) với hi vọng có thể cắt bỏ những máu mủ độc hại trong đó. Tác giả đã vạch trần bộ mặt vô tín vô luật (sans foi ni loi) trong trung tâm chỉ đạo của Giáo hội Công giáo La Mã (Curie Romaine) gồm hầu hết những kẻ chạy chọt làm áp-phe, chạy theo chức tước, đồng giống luyến ái, tranh chấp phe đảng, và những công cụ để được thăng chức nhanh chóng... (Affairisme, carriérisme, homosexualité, la course aux postes, la lutte des clans, des instruments de promotion accélérée...)

- Những cuốn “The Vatican’s Mafia”; “Vatican Exposed: Money, Murder, and the Mafia”; “The Vatican’s Finances”; “The Antichrist in the Vatican” v..v.. của Đức Ông Rafael Rodríguez Guillén.

- “The Secret Archives of the Vatican” của Maria Luisa Ambrosini & Mary Willis

- “The Vatican and Zionism” của Sergio I. Minerbi.

- “The Love Affairs of the Vatican or The Favorites of the Popes” của Dr. Angelo S. Rappoport

- “In the Vatican: The Politics and Organization of the Roman Catholic Church” của Thomas Reese

- “Vicars of Christ: The Dark Side of the Papacy” của Giám mục dòng Tên Peter de Rosa

- “The Vatican’s Holocaust”“The Vatican Billions” của Baron Avro Manhattan

- “In the Vatican” của Peter Hebblethwaite

- “The Vatican Empire”“The Incredible Book of Vatican Facts and Papal Curiosities” của Nino Lo Bello

- “O Vatican: A slightly wicked view of the Holy See” của Paul Hofmann

- “The Vatican Connection” của Richard Hammer

Ngoài ra chúng ta cũng có thể đọc trên Internet những bài có những chủ đề sau đây: “The Vatican Assassins”, “Vatican and Fascism”, “Vatican and Nazism”, “Vatican Hides Pedophiles”, “Vatican told bishops to cover up sex abuses” v…v…

Riêng về các “Đức Thánh Cha” thì chúng ta có thể đọc về các “đại diện của Chúa Giê-su trên trần” như sau trong thế giới bên ngoài. Chúng ta biết rằng, lịch sử các giáo hoàng Ca Tô đã viết rõ: có những giáo hoàng do vua chúa chỉ định, có những giáo hoàng giết nhau để lên làm giáo hoàng, có những giáo hoàng do những cô gái điếm dựng lên, có những giáo hoàng là trẻ vị thành niên mới có 12 tuổi, có những giáo hoàng là con hoang của một giáo hoàng, hay là con của giáo hoàng loạn luân mà sinh ra v..v.. Những sự kiện này sẽ được chứng tỏ rõ ràng qua một số tài liệu sau đây.

Trước hết, tôi xin trích dẫn một đoạn trong cuốn Những Dối Trá và Huyền Thoại Của Thánh Kinh của Lloyd M. Graham. Đây chỉ là một đoạn tóm tắt một số sự kiện liên quan đến chế độ giáo hoàng. Chi tiết về những sự kiện này sẽ được bổ túc qua những tài liệu của các vị có thẩm quyền trong giáo hội Ca Tô.

Chúng tôi thừa nhận rằng điều mà chúng tôi trình bày ở đây là chủ ý đưa ra hình ảnh một mặt, mặt đen tối và ô nhục. Lý do để đưa ra mặt này là vì hàng triệu linh hồn bị lạc dẫn đang sơn phết mặt kia và đưa cao nó lên như là mặt duy nhất cho thế giới những kẻ nhẹ dạ, cả tin. Chúng tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải biết cả hai mặt, không chỉ vì lợi ích của sự thật mà còn là cho những người đang sống trong sự nô lệ tâm linh cho một quyền lực lừa đảo. Đối với những người này, một ngàn năm tội ác và đồi bại được làm nhẹ đi qua lời giải thích hời hợt là “chỉ có vài giáo hoàng xấu”. Nếu những người giải thích như vậy mà lương thiện, họ phải thừa nhận rằng thật ra chỉ có vài giáo hoàng tốt.

Chúng tôi đã nói về sự bất lương của học thuật Công giáo. Không ở đâu rõ ràng bằng luận điệu bào chữa, che đậy cho các giáo hoàng đồi trụy.

Những tội ác của các giáo hoàng là do những người khác làm và “không thể tránh được”, sự thiêu sống những kẻ dị giáo là một “điều cần thiết của thời đại”, những sự trụy lạc của giáo hoàng chỉ là “yêu thích sự vui vẻ lành mạnh”. Những hồ sơ ghi chép sự việc đương thời đã hoàn toàn phủ bác những luận điệu trên, và những điều ghi chép này không phải là do những kẻ thù của giáo hội viết, mà phần lớn là do những sử gia của chính giáo hội gồm có những giáo hoàng và hồng y: giáo hoàng Victor II, Pius II, hồng y Baronius, giám mục Liutprand, linh mục Salvianus, và các sử gia như Milman, Gerbert, Burchard, Guicciardini, Vacandard, Draper, và nhiều người khác. Đây chính là những người có đầy đủ thẩm quyền đưa ra cái mặt đen tối và ô nhục của giáo hội. Những gì mà chúng tôi trình bày ở đây chỉ là lượm lặt trong thời gian 1500 năm, nhưng chúng tôi nghĩ rằng cũng đủ để bác bỏ mọi điều tự nhận của giáo hội, cho rằng giáo hoàng đã được thánh linh tuyển chọn và hướng dẫn..

Trong “thời đại tăm tối” (the dark ages) những giáo hoàng được thánh linh hướng dẫn này đã giết nhau với nhịp độ 10 giáo hoàng bị giết trong vòng 12 năm (891-903) và 40 trong vòng hơn 100 năm. Giáo hoàng Sergius III là một kẻ giết nhiều người; theo hồng y Baronius và Vulgarius, ông ta đã giết hai vị giáo hoàng tiền nhiệm. Năm 708, Toto, một nhà quý tộc đứng đầu một đám thuộc hạ ô hợp, đã vận động để cho anh hắn được bầu làm giáo hoàng. Đó là giáo hoàng Constantine II, người sau đó bị Christopher, thủ tướng của ông ta, móc mắt ra. Rồi Christopher cùng con của hắn âm mưu chống giáo hoàng Gregory và cũng cho người móc mắt Gregory. Hai đứa cháu của giáo hoàng Leo III là Pascal và Campulus đều là linh mục. Chúng toa rập với nhau mưu đồ thay thế Leo III, thuê một đám giết mướn để giết Leo III khi ông ta đi dạo phố. Việc không thành, chúng đích thân ra tay, kéo Leo III vào một tu viện và giết ông ta tại đó. Chắc độc giả cho rằng đó là chuyện thuần túy giả tưởng, chỉ để phỉ báng. Nhưng không phải vậy, đó là dựa theo những hồ sơ ghi lại sự việc của nhà viết tiểu sử các giáo hoàng.

Đó chỉ là chuyện thường tình của thời đại. Giáo hoàng Leo V bị một người cũng tên là Christopher hạ bệ, rồi đến lượt tên này cũng bị hạ bệ và cái tên sát nhân giết mấy giáo hoàng tiền nhiệm đã nói ở trên, Sergius III, lên thay. Trong thời đại này, không phải là Thánh Linh tuyển chọn giáo hoàng mà là, theo Hồng y Baronius, những cô gái điếm (scortas). Đó là “luật lệ của những cô gái điếm hạng sang” (rule of the courtesans), đôi khi còn được gọi là “chế độ điếm trị” (Pornocracy), hay là triều đại của các cô gái điếm (reign of the whores). Trong số điếm này có một người mà Baronius gọi là “con điếm vô liêm sỉ”, Theodora, và đứa con gái vô liêm sỉ không kém là Marozia. Cả hai mẹ con đều có con với giáo hoàng Sergius III, và cả hai đều đưa những đứa con hoang của mình lên ngai giáo hoàng - John XI và John XII. John XI bị cầm tù và John XII đã “biến dinh Lateran (nơi giáo hoàng ở, trong Vatican. TCN) thành một ổ điếm”. Không có một tội ác nào mà John XII không làm - giết người, khai gian, thông dâm, loạn luân với hai em, đâm chém và thiến kẻ thù v..v.. Hắn ta chết trong tay của một người chồng bị xúc phạm (vì bị bắt quả tang đang thông dâm với vợ người này.)

Theo sử liệu, hồng y Francone cho người thắt cổ giáo hoàng Benedict VI, sau đó lên làm giáo hoàng Boniface VII, “một con quỷ khủng khiếp vượt mọi con người về tội ác”, theo sử gia Gerbert. Hắn ta cũng chẳng tệ hơn gì giáo hoàng Boniface VIII.. Thật vậy! Để chiếm được cái mũ tiara (mũ ba tầng của giáo hoàng. TCN) hắn đã thủ tiêu giáo hoàng dở hơi Celestine V. Nhưng hắn cũng chẳng hưởng được sự chiến thắng lâu dài vì ngay sau đó hắn bị những người La Mã truất phế. Trong triều đại của một giáo hoàng kế vị, Clement V, sau khi chết hắn còn bị mang ra xét xử và được xem là phạm mọi tội ác, kể cả tội hành dâm với đồng nam (pederasty) và giết người. Và khi Clement chết thì người kế vị hắn, John XXII, phanh phui ra rằng Clement đã quá nhân từ (Tác giả chơi chữ: “Clement had been so very clement” vì clement có nghĩa là nhân từ) nên đã cho người cháu một số tiền tương đương với 5 triệu dô-la, tiền của giáo hoàng. Vào thời gian này, triều đình của giáo hoàng được chuyển đến Avignon, và thánh Phê-rô nay cùng lúc có hai người kế thừa, một người ở Avignon và một người ở Rô-Ma. Nhưng vậy mà cũng chưa đủ vì có khi có tới ba giáo hoàng cùng một lúc - Gregory XII, Alexander V, và John XXIII. Về sau John XXIII bị từ khước, tên thánh bị hủy bỏ, và gần đây tên này (John XXIII) được giáo hoàng kế vị Pius XII lấy lại.

Sự đồi bại của John XXIII lên đến độ mà Sigmund ở Hung Gia Lợi phải triệu tập một hội đồng điều tra hắn ta. Kết quả của cuộc điều ta là đưa ra năm mươi bốn (54) khoản mô tả John XXIII là “độc ác, không tôn trọng những điều thiêng liêng, không trong trắng, nói láo, không tuân theo luật lệ và đầy những thói xấu.” Khi còn là hồng y, John XXIII đã là người “vô nhân đạo, bất công và tàn bạo.” Khi lên làm giáo hoàng, ông ta là “kẻ đàn áp người nghèo, khủng bố công lý; là cột trụ của tội ác, hình tượng của những kẻ buôn bán chức tước và thánh tích; ham mê trò quỷ thuật, cặn bã của thói xấu, đắm mình trong nhục dục; là tấm gương của sự ô nhục, một kẻ phát minh ra những tội ác.” Hắn giữ chắc ngôi vị giáo hoàng bằng “bạo lực và gian lận và bán chứng thư xá tội, chức vụ, bí tích và những đồ ăn cướp được.” Hắn “xúc phạm thánh thần, thông dâm, giết ngưòi, hiếp dâm và ăn cắp.”.. Một vài những giáo hoàng như vậy vô đạo đức, tục tĩu đến độ phải đi đày. Ít nhất là có hai giáo hoàng bị móc mắt và cắt lưỡi, rồi buộc vào đuôi lừa kéo lê ngoài đường phố. Một số khác bị khinh ghét đến độ người ta quật xác chúng lên và ném xuống sông Tiber. Sau một ngàn bốn trăm năm dưới quyền lực của Ki Tô Giáo, đạo đức xuống thấp đến độ giáo hoàng Pius II than rằng “hiếm mà có một ông hoàng ở Ý không phải là đứa con hoang.” Lời tuyên bố này cũng áp dụng cho những ông hoàng của giáo hội (the princes of the church: nghĩa là những giáo hoàng, hồng y, giám mục v..v..) như là của chính quyền dân sự.

Tệ hại như vậy nhưng sự tệ hại hơn còn chưa tới - với giòng họ Borgias, đặc biệt là Rodrigo. Trong những giáo hoàng xấu xa độc ác thì hắn xứng đáng đứng đầu. Bằng cách hối lộ 15 hồng y với số tiền tương đương với 3 triệu đô-la, hắn chiếm được sự tuyển lựa một con người tệ hại nhất trong lịch sử - chính hắn, lên làm giáo hoàng với tên Alexander VI. Sử gia Guicciardini mô tả hắn như sau: “..có những thói quen cực kỳ tục tĩu, vô liêm sỉ và không có một ý thức nào về sự thật, nuốt lời, không có tình cảm tôn giáo, tham lam vô độ, nhiệt tình tham vọng, độc ác quá sự độc ác của những giống người man rợ, tham muốn đưa con lên địa vị cao bằng mọi thủ đoạn: hắn có nhiều con, và một trong những đứa này - cũng đáng ghê tởm như cha của nó.” Đó là con người nổi tiếng, Cesare Borgia, người đã giết người anh rể là John, và hai hồng y khác để chiếm được cái áo hồng y..

Khi còn là hồng y, cái kẻ chơi bời phóng đãng và sát nhân này đã biến chỗ ở của mình trong Vatican thành một ổ điếm. Theo sử gia đương thời là Burchard, hắn đắm mình trong những cuộc hoan lạc trong những phòng của hắn, ngay trên phòng của giáo hoàng, và những cô gái điếm hạng sang “nhảy múa trần truồng trước những tôi tớ của Chúa [các hồng y, giám mục, linh mục] và vị đại diện của Chúa (giáo hoàng. TCN).”.. Đó là sự hoan lạc được giải thích như là “lòng yêu thích sự vui vẻ lành mạnh.”

Đó là những ông hoàng của giáo hội trong những ngày đó. Trong thời Trung Cổ, tập thể các hồng y cũng đồi bại như là một tập thể mà người ta có thể kiếm được trong suốt giòng lịch sử. Chiếm được một ngôi vị hồng y chỉ là vấn đề có tiền và ảnh hưởng quen thuộc. Đức tính, sự hiểu biết, và khả năng không dự phần nào trong đó. Thật vậy, những đứa trẻ mười bốn mười lăm tuổi đôi khi cũng được đưa lên ngôi vị hồng y. Giáo hoàng Paul III cho hai đứa cháu (gọi Paul III bằng ông) làm hồng y.. Paul IV cũng cho một đứa cháu gọi Paul IV bằng bác lên làm hồng y tuy chính ông ta nói “cánh tay của nó ngập máu đến tận khuỷu tay.”

Vậy mà đó là những người, với sự trợ giúp của Thánh Linh, tuyển chọn giáo hoàng..

Tại sao cái lịch sử ô nhục này không được tín đồ biết đến như là lịch sử các giáo hoàng mà họ cho là tốt? Tại sao các tín đồ Công giáo không được dạy rằng chính những con người như trên đã đưa đến sự cải cách chứ không phải là do “con quỷ Luther đó.”? Giáo phái Tin Lành nổi giậy không chỉ vì Luther mà vì sự phản đối tội ác và sự đồi bại của giáo hội Công giáo trong nhiều thế kỷ. Tên Sa-Tăng Phê-rô đã xúc phạm đến toàn thể Âu Châu 8.

Trên đây chỉ là sơ lược về những sự đồi bại cùng cực của một số không nhỏ “đức thánh cha”, những “đại diện của Chúa” trên trần, những người được Thánh Linh nhập vào tập đoàn hồng y trong sự tuyển chọn, trong lịch sử Ca Tô giáo Rô-ma. Tôi chưa hề nói đến những hoạt động lừa đảo, gian dối, thế tục, thực dân của “hội thánh” liên hệ đến những vấn đề chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa v..v.. trên khắp thế giới. Những vấn đề này cần riêng một cuốn sách mới có thể tạm gọi là đầy đủ.

Để bổ túc cho đoạn trên của Lloyd Graham, sau đây là vài đoạn điển hình trong chương nói về Các Triều Đại Giáo Hoàng Do Điếm Trị (Papal Pornocracy) mà Hoàng Thiên đã dịch với đầu đề không được sát nghĩa cho lắm: Triều Đại Dâm Loạn Của Các Giáo Hoàng, và đăng trong Tuyển Tập I: Tại Sao Không Theo Đạo Chúa, trang 134-173, cùng với nguyên bản tiếng Anh, do Ban Nghiên Cứu Đạo Giáo ở Texas xuất bản và phát hành năm 1994. Chương này lấy ở trong cuốn Những Đại Diện Của Ki-Tô: Cái mặt Đen Tối Của Cung Đình Giáo Hoàng (Vicars of Christ: The Dark Side of the Papacy) của nguyên Tổng Giám Mục Peter de Rosa, Giáo sư Siêu Hình Học và Đạo Đức Học tại Trường Dòng Westminster và Khoa Trưởng khoa Thần Học, đại học Corpus Christi, Luân Đôn.

 

Các Triều Đại Giáo Hoàng Do Điếm Trị: [Papal Pornocracy]

Cách La Mã 15 dặm, trên vùng đồi núi Alban, có nhóm Conti nổi tiếng trong thế kỷ 10, những Công Tước họ Alberic ở Tusculum. Những lãnh chúa này nắm toàn quyển kiểm soát những cuộc tuyển chọn giáo hoàng. Bảy giáo hoàng xuất thân từ dòng họ này, có ba vị kế tiếp nhau, và hầu như không có trường hợp ngoại lệ nào, họ đều cùng nhau hình thành “Một La Mã Ô Nhục” (A Rome of Shame).

Lịch sử đã làm nổ tung cái huyền thoại trong dân gian là chỉ có Borgia là một giáo hoàng xấu. Thực ra, không bao lâu sau thời Charlemagne, trong hơn một thế kỷ rưỡi, toàn thể tập đoàn giáo hoàng đều thối nát (the whole batch [of popes] was rotten). Họ là tông đồ của Quỷ Sứ, Ma Vương hơn là tông đồ của Đấng Ki Tô [They were less disciples of Christ than of Belial, the Prince of Darkness]. Rất nhiều giáo hoàng là những tên dâm ô trụy lạc, sát nhân, gian dâm, hiếu chiến, bạo chúa, mua bán chức tước và sẵn sàng bán cả thánh thần. Hầu hết bọn chúng đều mê tiền bạc và mưu đồ xấu xa hơn là đạo giáo [They were nearly all wrapped up in money and intrigue than in religion]..

Trước hết, chúng ta hãy xét đến danh sách những giáo hoàng từ năm 880. Trong 150 năm tiếp theo có 35 giáo hoàng, mỗi ông trị vì trung bình là 4 năm. Trong thời kỳ đầu, những cuộc chuyển nhiệm quyền hành đều như nhau: những giáo hoàng được chọn vì họ là những người già cả hay bệnh tật. Nhưng trong hai thế kỷ 9 và 10, nhiều giáo hoàng mới ngoài 20 tuổi, một số còn là vị thành niên. Một vài vị trong nhóm đó chỉ trị vì có 20 ngày, một tháng, hay 3 tháng. Sáu vị bị truất phế, một số bị sát hại [Six of them were dethroned, a number were murdered]..

Khi một giáo hoàng bỗng dưng biến mất, thế thì ông ta đã bị cắt cổ hay đã bị đạp xuống sông Tiber? Hay đã bị treo cổ trong ngục tù? Hay đang ngủ luôn trong nhà điếm? [Was he sleeping it off in a brothel?] Hay đã bị cắt tai và mũi như Stephen năm 930 mà sau đó – dĩ nhiên – không còn dám chường mặt ra trước công chúng nữa? Hay đã trốn mất, như Benedict V năm 964, sau khi cưỡng hiếp một bé gái, đã chạy trốn về Constantinople với tất cả tài sản trong thánh đường Peter? Sử gia sùng tín của giáo hội, Gerbert, đã gọi Benedict là “kẻ đồi bại nhất trong những quái vật vô Thượng đế” [the most iniquitous of all the monsters of ungodliness]. Giáo hoàng này sau cùng đã bị một người chồng ghen tuông đâm chết. Thân xác của y, với hàng trăm vết đâm, bị kéo lê qua những đường phố, trước khi bị đạp vào một hầm chứa phân.

Không còn nghi ngờ gì nữa, những giáo hoàng này đã tạo nên một tập đoàn lãnh đạo, tu sĩ hay giáo dân, đê tiện nhất trong lịch sử [Without question, these pontiffs constitue the most despicable body of leaders, clerical or lay, in history] Nói trắng ra, chúng là những tên man rợ.

Một giáo hoàng, Stephen VII, đã hoàn toàn điên khùng. Hằn cho đào mả một giáo hoàng tiền nhiệm, Formosus, đã chết được 9 tháng. Trong cái được gọi là Hội Nghị Tử Thi (cadaveric Synod), hắn cho cái thây ma đã thúi rữa mặc đủ lễ phục của giáo hoàng, đặt ngồi trên ngai ở điện Lateran và đích thân thẩm vấn xác chết. Formosus bị cáo buộc là đã lên làm giáo hoàng với những lý do ngụy tạo, đã làm giám mục ở một nơi khác, do đó không được làm giáo hoàng ở La Mã. Theo Stephen, điều này đã khiến cho những hành động của Formosus vô giá trị, đặc biệt là những cuộc tấn phong. Sau khi buộc tội, cái thây ma bị kết án là một ngụy giáo hoàng (antipope), bị lột hết quần áo, sau khi đã bị chặt đứt hai ngón tay mà khi còn sống đã dùng để ban phúc nhân danh tông đồ của Chúa, rồi bị ném xuống sông Tiber. Rồi cái thây được vớt lên bởi những kẻ ủng hộ Formosus và được chôn cất kín đáo. Sau cùng, cái thây ma được đưa về ngôi mộ của ông ta ở trong thánh đường Phê-rô. Còn Stephen thì bị treo cổ sau đó ít lâu.

Giáo hoàng làm tàn phế người rồi cũng bị người làm tàn phế lại, giết hại người rồi cũng bị người giết lại. Đời sống của họ không có gì giống như là trong các Phúc Âm. Họ có nhiều điểm giống như là các trẻ con nhà giàu hiện đại, thường trở thành du đãng, nghiện ngập, la cà những quán cà phê ven biển hay những hộp đêm, hơn là như các giáo hoàng. Một số lên làm giáo hoàng là nhờ cha mẹ có nhiều tham vọng, một số nhờ gươm giáo, một số nhờ ảnh hưởng của các cô nhân tình đẹp đẽ quý phái trong thời đại được biết là “triều đại của những gái điếm” (The Reign of the harlots).

Nổi bật trong đám gái điếm hạng sang (courtesans) là Marozia thuộc dòng họ Theophylact. Theo giám mục Liutprand ở Cremona, sống cùng thời với Marozia, thì Marozia đã được mẹ là Theodora huấn luyện kỹ (well coached). Theodora có một đứa con gái thứ hai với giáo hoàng John X (914-929), cũng tên là Theodora… [Theodora, who had a second daughter, also named Theodora, by pope John X] Trong vòng chưa đầy một thập niên, mấy mẹ con Theodora đã dựng lên – cũng như phế bỏ tùy hứng – không dưới 8 giáo hoàng. [In less than one decade, they created – and, when it suited them, destroyed – no less than eight popes]

Cô Gái Điếm Xinh Đẹp

Marozia đầu tiên dấn thân vào những quan hệ tình ái trong cung đình giáo hoàng là với giáo hoàng Sergius III (904-911). Trước đó, Sergius đã bị giáo hoàng Leo V ngăn chận con đường lên làm giáo hoàng. Giáo hoàng Leo V chỉ trị vì được có một tháng rồi bị bắt cầm tù bởi một kẻ thoán vị, Hồng y Christopher. Sergius giết tốt cả hai.

Sergius lại quật mồ của giáo hoàng Formosus, đã chết được 10 năm, và lại kết án cái thây ma một lần nữa. Sergius, trước đó được Formosus tấn phong, thực sự nên tự coi mình là bất hợp lệ, nhưng y không cần để ý đến những lý sự cùn thần học, xa lạ với bản chất của hắn. Hắn cho người chặt đầu cái thây ma của Formosus, chặt thêm 3 ngón tay của Formosus trước khi ném thây xuống sông Tiber. Khi cái thây ma không đầu bị vướng vào cái lưới đánh cá của một ngư phủ, một lần nữa cái thây ma đó lại được “sống một cuộc đời êm đẹp”, đem trở về ngôi mộ ở thánh đường Phê-rô.

Khi Marozia trở thành tình nhân của Sergius, lúc đó đã 45 tuổi, thì nàng mới có 15 tuổi. Nàng có một đứa con trai với Sergius mà nàng rất lo cho sự nghiệp của nó. Sergius chết sau đó 5 năm, sau một triều đại giáo hoàng kéo dài 7 năm đẫm máu, đầy những mưu đồ xấu xa và ái ân cuồng nhiệt. [Sergius was to die five years later after a seven-year pontificate crammed with blood, intrigue and passion.]

Marozia không bao giờ quên được mối tình khi còn trẻ. Ăn nằm với một giáo hoàng đã đưa nàng đến những dự tính và những khoái cảm mà ngay cả 3 cuộc hôn nhân sau, cùng vô số những cuộc lăng nhăng tình ái khác, cũng không xóa nhòa được. Lần đầu tiên giáo hoàng Sergius quyến rũ nàng là ở điện Lateran. [The first time Pope Sergius had seduced her was in the Lateran Palace]. Họ thường gặp nhau vì suốt thời thơ ấu nàng sống ở đó khi cha nàng là Nghị Viên Trưởng của thành La Mã. Rồi trong một lúc nào đó, Sergius bỗng chợt nhận ra rằng cô bé dễ thương ngày xưa đã nẩy nở thành một thiếu nữ kiều diễm. Về phần Marozia, không phải là nàng kiếm khoái lạc trong vòng tay của giáo hoàng, mà là quyền lực.

Mẹ nàng, Theodora, đã từng lập lên và phế bỏ 2 giáo hoàng, khi mụ ta bất chấp giáo luật, đã đưa gã nhân tình yêu chuộng lên từ giám mục đến tổng giám mục và sau cùng lên ghế của Phê-rô làm giáo hoàng John X…

Đúng vào thời điểm này, dòng họ Alberic ở Tuscany, xuất thân từ miền Bắc, nhập cuộc. Giáo hoàng John X đề nghị cùng vợ Theodora là một cuộc hôn nhân giữa Marozia và Alberic có thể có lợi cho mọi người. Marozia củng nhận thấy Alberic là một ngôi sao đang lên, và từ cuộc hôn nhân, Alberic Con ra đời. Alberic Cha, có lẽ do vợ giật dây, định cướp quyền ở La Mã nên bị giết. Giáo hoàng John bắt người góa phụ trẻ phải chứng kiến cái thây của chồng bị băm vằm cắt xẻo. Đây là một sai lầm tai hại. Một người đàn bà đã ăn nằm với giáo hoàng Sergius phải biết thế nào là trả thù.

Khi Theodora chết năm 928, Marozia cho người bắt giáo hoàng John cầm tù trước khi ra lệnh hành quyết hắn bằng cách làm cho ngạt thở [thường là úp đè một cái gối lên mặt]. Con trai đầu của Marozia nay đã 17 tuổi. Chẳng bao lâu nữa y sẽ có đủ kinh nghiệm để nắm lấy chức giáo hoàng. Y đã được huấn luyện cho chức vụ này bằng một cuộc sống trụy lạc và hoàn toàn đồi bại. [He had been groomed for it by a sensous and totally immoral life.] Một vài giáo hoàng sau John X, mỗi người chỉ trị vì trong một thời gian ngắn, và người nào cũng biến mất trong những trường hợp bí mật. [each of them disappearing in mysterious circumstances]. Bây giờ, con trai của Marozia và giáo hoàng Sergius lên làm giáo hoàng John XI.

Marozia lấy người chồng thứ hai là Guy. Sau khi Guy chết, Marozia lấy luôn người anh cùng cha khác mẹ của Guy là Vua Hugo ở Provence. Hugo đã có vợ nhưng vợ y đã bị dẹp bỏ dễ dàng. Thật may mắn cho Marozia có con làm giáo hoàng: vì hắn có quyền dẹp bỏ mọi điều gây trở ngại cho cặp Marozia-Hugo, như là loạn luân chẳng hạn. John XI đã đứng ra làm chủ lễ trong đám cưới của mẹ hắn ở La Mã vào mùa xuân năm 932.

Rồi thì tất cả đã tan vỡ vì đức con thứ hai của Marozia, đứa con đầy ghen tị của Alberic, nay đã 18 tuổi. Hắn đã cướp quyền kiểm soát La Mã để tự ý lựa chọn Giáo hoàng. Hugo phải bỏ vợ chạy trốn trong nhục nhã. Alberic bắt Giáo hoàng John XI, người anh cùng mẹ khác cha và con của Giáo hoàng Sergius, tống giam chung thân trong điện Lateran – nơi mà John XI chết sau đó 4 năm – và, tàn bạo hơn cả, hắn đã hạ ngục luôn cả mẹ hắn.

Dù đã quá tuổi xuân thì, Mazoria vẫn còn là một người đàn bà diễm lệ khi nàng bước bước chân đầu tiên vo ngục Hadrian’s Mausolem, thường được biết dưới tên Lâu Đài Sant’Angelo. Nàng sống trong cái nơi khủng khiếp đó bên bờ sông Tiber, hơn 50 năm, không một ngày được ân giảm.

Năm nàng 60 tuổi, ở trong ngục nàng nghe tin Alberic đã chết năm 40 tuổi và con hắn, tức cháu nội của nàng, tên là Octavian, đã tự phong là Giáo hoàng của giáo hội. Là Giáo hoàng đầu tiên đổi tên mình, tự đặt là John XII. Đó là vào mùa Đông năm 955.

Có lẽ tuổi trẻ của Giáo hoàng mới này có thể giải thích phần nào tác phong vô đạo đức tôn giáo của hắn, vì hắn lên làm Giáo hoàng khi mới có 16 tuổi. Tất cả các tu viện đều cầu nguyện ngày đêm cho hắn chết đi.

Người ta nói rằng, hắn đã phát minh ra những tội lỗi chưa từng có từ thời khai sinh lập địa, kể cả việc ăn nằm với chính mẹ hắn. [He had intented sins, they said, not known since the beginning of the world, including sleeping with his mother] Hắn có một hậu cung chứa gái ngay trong điện Lateran. Hắn dùng tiền cúng của người hành hương để cờ bạc. Hắn thưởng cho những người con gái ngủ với hắn ngay cả những ly đựng rượu lễ của thánh đường Phê-Rô. Đặc biệt là phụ nữ thường được khuyên là đừng có vào điện Lateran nếu coi trọng danh tiết. [Women in particular were warned not to enter St John Lateran if they prized their honour].

Chưa từng có một Giáo hoàng nào đã “về với Chúa” trong một vị thế xấu hổ hơn. Một đêm nọ, một người chồng ghen tuông, một trong số nhiều ông chồng, đã bắt được quả tang [in flagrante delicto] “Đức Thánh Cha” đang ăn nằm với vợ mình và đã tặng cho y một lễ nghi cuối cùng là giáng một búa vào gáy. [One night, a jealous husband, one of many, caught his Holiness with his wife in flagrante delicto and gave him the last rites with one hammer blow in the back of the head]. Y chết khi mới có 24 tuổi. Người dân La Mã, nổi tiếng về đầu óc tiếu lâm, nói đấy là cao điểm sự nghiệp của y. Ít nhất là y cũng may mắn được chết trên giường, dù đó là giường của người khác…

Chuyện về các giáo hoàng trong thời đại đó không kể sao cho đầy đủ. Vậy tôi xin cắt ngắn và chỉ nhắc đến một tài liệu của Hồng Y Baronius, viết trong cùng Chương này của Peter de Rosa]:

Thực là dễ hiểu nếu Hồng Y Baronius đã phải bối rối thế nào khi ông viết về những biến cố mà ông ta đã ghi lại với một sự thành thực đáng kể. Ông ta gọi những Giáo hoàng của thời kỳ này là “những kẻ xâm lăng Tòa Thánh, là những kẻ phản đạo hơn là những tông đồ [non apostolicos sed apostaticos]

Ông ta thú nhận là đã rất lo lắng và xúc động khi phải viết về những giáo hoàng này. Ngồi trên cái ngai của Thánh Phê-rô không phải là những con người mà là những con quỷ đội lốt người. [On the chair of St Peter sat not men but monsters in the shape of men]. Những tên khoác lác tự phụ trong những bộ áo láng của Giáo hoàng có đầy những dục vọng xác thịt và những xảo trá dưới mọi hình thức của ác ôn đã cai trị La Mã và biến cái ngai của Thánh Phê-rô thành ổ điếm cho những tì thiếp và nhân tình của chúng.”

5. Về Các Linh Mục alias “Chúa Thứ Hai”.

Các tín đồ Ca-tô Việt Nam được dạy Linh mục là “Chúa Thứ Hai” (Alter Christus), nên muốn làm đẹp lòng Chúa thứ nhất thì phải nghe lời, tuân phục “Chúa thứ hai”. Nhưng đối với thế giới bên ngoài thì giới linh mục là giới tồi tệ nhất trong Ca-tô Rô-ma giáo. Một số danh nhân trí thức Âu Mỹ đã có những nhận định về giới linh mục như sau:

Hugo Grotius (1583-1645), Học giả Hòa Lan: Người nào đọc lịch sử giới Linh mục không đọc gì khác ngoài sự gian xảo và điên rồ của các giám mục và linh mục. (He who reads eccleciastical history reads nothing but the roguery and folly of bishops and churhmen.)

John Milton (1608-1674), Thi sĩ Anh: Công Giáo La Mãlà một tôn giáo không gì hơn là sự chuyên chế của giới linh mục, những người trang bị với những bổng lộc của quyền lực dân sự, với chiêu bài tôn giáo, đã chiếm lấy quyền của Chúa (Romanism is less a religion than a priestly tyranny armed with the spoils of civil power which, on the pretext of religion, it hath seized against the command of Chist himself.)

Daniel Defoe (1660-1731), Tiểu thuyết gia Anh: Trong tất cả những tai họa mà nhân loại phải chịu đựng, sự độc đoán của giới Linh mục là tệ hại nhất (Of all the plagues with which mankind are cursed, Ecclesiastic tyranny’s the worst.)

Lady Mary Wortley Montagu (1689-1762), Văn sĩ Anh: Trên khắp thế giới, các linh mục có thể nói láo, và các tín đồ tin, (Priests can lie, and the mob believe, all over the world).

Đại Văn Hào Voltaire (1694-1778): Lời của Chúa là lời của các linh mục; sự vinh quang của Chúa là sự hãnh diện của các linh mục; ý của Chúa là ý của các linh mục; xúc phạm Chúa là xúc phạm các linh mục; tin vào Chúa là tin vào mọi điều linh mục nói (The word of God is the word of the priests; the glory of god is the pride of the priests; the will of god is the will of the priests; to offend god is to offend the priests; to believe in god is to believe in all that the priests tell us.)

Edward Gibbon (1737-1794), Sử gia Anh: Đối với cái nhìn triết lý, những thói xấu của các Linh Mục thì ít nguy hại hơn những đức tính của họ rất nhiều (To a philosophic eye, the vices of the clergy are far less dangerous than their virtues.)

Thomas Jefferson (1743-1826), Tổng Thống Mỹ: Trong mọi quốc gia và trong mọi thời đại, linh mục đều đã thù nghịch đối với tự do.(In every country and in every age, the priest has been hostile to liberty).

James Madison (1751-1836), Tổng Thống Mỹ: Trong gần 15 thế kỷ, cơ sở hợp pháp của Ki Tô giáo đã được phán xét. Hoa trái của Ki Tô giáo là gì? Ở khắp nơi, không nhiều thì ít, sự lười biếng và hãnh diện của giới Linh mục, sự ngu tối và quỵ lụy của giới tín đồ; sự mê tín, cố chấp và bạo hành trong cả hai giới (During almost 15 centuries has the legal establishment of Christianity been on trial.What has been its fruits?More or less in all places, pride and indolence in the clergy; ignorance and servility in the laity; in both, superstition, bigotry, and persecution.)

Napoleon Bonaparte (1769-1821), Hoàng đế Pháp: Ở mọi nơi và mọi thời, linh mục đã đưa vào sự gian dối và sai lầm (Priests have everywhen and everywhere introduced fraud and falsehood)

Arthur Schopenhauer (1788-1860), Triết gia Đức: Công giáo là tôn giáo lên thiên đường bằng cách cầu xin, vì nó quá phiền toái để tự mình đạt được. Linh mục là những kẻ buôn bán thiên đường (The Catholic religion is an order to obtain heaven by begging, because it would be too troublesome to earn it.The priest are the brokers for it)

Victor Hugo (1802-1885), Văn hào Pháp: Trong mỗi làng đều có một ngọn đuốc soi sáng: người thầy giáo - và một kẻ làm tắt bó đuốc đó: ông linh mục xứ (There is in every village a torch: the schoolmaster - and an extinguisher: the parson.)

Giuseppe Garibaldi (1807-1882),Nhà lãnh đạo Ý (Người đã tiến quân và thu hẹp lãnh thổ của Công Giáo, chỉ còn lại Vatican ngày nay): Linh mục là hiện thân của sự sai lầm (The priest is the personification of falsehood.)

Robert G. Ingersoll (1833-1899), Học giả Mỹ: Một thầy giáo giỏi có giá trị bằng 1000 linh mục (One good schoolmaster is worth a thousand priests.)

William E. H. Lecky (1838-1903), Sử gia Ai Nhĩ Lan: Bất cứ khi nào mà giới giáo sĩ, Linh mục Công Giáo hay Mục sư Tin Lành,đứng cạnh thế quyền dân sự, thì kết quả là sự bạo hành (Whenever the clergy were at the elbow of the civil arm, no matter whether they were Catholic or Protestant, persecution is the result.)

Émile Zola (1840-1902), Văn hào Pháp: Nền văn minh sẽ không đi đến tột đỉnh cho đến khi phiến đá cuối cùng từ cái nhà thờ cuối cùng rơi đè lên tên linh mục cuối cùng (Civilization will not attain to its perfection until the last stone from the last church falls on the last priest.)

Tôi không muốn nói đến những xì-căng-đan trong giới linh mục mà báo chí thế giới đã phanh phui ra: Hơn 5000 linh mục đã bị truy tố về tội cưỡng dâm trẻ phụ tế và nữ tín đồ, một số đang ngồi tù, và Giáo hội Ca-tô đã phải bỏ ra trên 2 tỷ đô la để bối thường cho những nạn nhân tìn dục của các “Chúa thứ hai”; Một số “Chúa thứ hai” đã can tội cưỡng dâm các nữ tu, sơ, chị em tâm linh của họ trong 24 quốc gia và bắt một số đi phá thai; Cũng có trường hợp linh mục can tội ăn cắp quỹ của nhà thờ v..v.. và v…v… Những thông tin về các vụ này đã được đăng trên trang nhà Giao Điểm và Sách Hiếm, nhưng vắng bóng trên các trang nhà của Công giáo thánh thiện.

 

Thay Lời Kết.-

Tôi nghĩ từng ấy tài liệu cũng đủ cho chúng ta thấy thực chất của Thiên Chúa Sáng Tạo, của Chúa Giê-su và thực chất cuốn Thánh Kinh, các “Đức Thánh Cha” và các Linh mục của Ca-tô Rô-ma giáo ra sao. Có bao giờ các “bề trên” trong giáo hội dạy cho tín đồ biết những sự kiện lịch sử thực sự về mọi mặt của Ca-tô Rô-ma giáo ? Tôi nghĩ không bao giờ. Vì dấu kín những chuyện nhơ bẩn của các vị chủ chăn và của hàng giáo phẩm cũng như lịch sử tàn bạo của Giáo hội là sách lược của Giáo hội, được duy trì bởi sự bất lương trí thức của các “bề trên”, những vị đáng lẽ ra phải có nhiệm vụ giáo dục mở mang đầu óc của các tín đồ.

Có thể có những tín đồ Ca Tô, tin theo lời chống đỡ của giáo hội, cho rằng đây chỉ là những chuyện dính líu đến một số giáo hoàng, hồng y xấu xa trong quá khứ, linh mục trong thời đại này, và đó là những chuyện đã qua. Không hẳn vậy, những chuyện đồi bại, ác độc không chỉ giới hạn trong giới giáo hoàng hay hồng y mà còn lan tràn trong mọi giới lãnh đạo Công giáo gồm cả các Tổng Giám Mục, Giám Mục và Linh mục, và kéo dài cho đến tận ngày nay. Độc giả có thể đọc những chuyện này trong nhiều tác phẩm đã xuất bản, đặc biệt là chương I trong cuốn Những Chuyện Tình Ái của Vatican hay Những Tình Nhân Yêu Chuộng của Các Giáo Hoàng [The Love Affairs of the Vatican or The Favorites of the Popes] của Dr. Angelo S. Rappoport.

Độc giả cũng có thể đọc những cuốn sau đây: Những Giáo Hoàng Xấu Xa (The Bad Popes) của E. R. Chamberlin; Vạch Trần Những Sự Thực về Các Giáo Hoàng: Một Nghiên Cứu Thẳng Thắn về Vấn Đề Nhục Dục và Đồi Bại trong cung đình Vatican (Unzipped: The Popes Bare All, A Frank Study of Sex and Corruption in the Vatican) của Dr. Arthur Frederick Ide.

Một luận điệu mà các giáo dân thường dùng để bảo vệ “Hội Thánh” của họ là: Những Giáo hoàng đồi bại cũng như những Linh mục loạn dâm cũng chỉ là những con người, không tránh được những cám dỗ thế tục. Không phải! Tuyệt đối không phải! Tại sao? Vì Giáo hoàng không phải là người như mọi người mà là “đại diện của Chúa” trên trần, nắm trong tay chìa khóa cửa thiên đường, có quyền tuyệt thông tín đồ, muốn cho ai lên thiên đường thì cho. Linh mục cũng vậy, họ không phải là người mà là “Chúa thứ hai”, có quyền tha tội cho ai thì người ấy được tha, cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ. Đó là giáo lý cốt tủy để tạo quyền lực cho Giáo hoàng và các linh mục. Bảo họ cũng chỉ là người như mọi người có nghĩa là phủ nhận tất cả những quyền lực thần thánh mà Giáo hội đã tạo ra cho họ. Cho nên luận điệu trên thực chất vô giá trị, chẳng qua chỉ là một luận điệu chống đỡ yếu ớt để vớt vát mặt mũi của cái gọi là “hội thánh Ca-Tô”.

Chúng ta thấy rằng, những tín đồ Ca Tô giáo quả là đáng thương. Đầu óc họ bị nhào nặn từ khi mới sinh ra đời nên họ hàng ngày cứ đọc lên những lời vô nghĩa, không biết rằng mình đã bị lừa dối bởi những lời nói láo vĩ đại. Chẳng trách là họ không thể tin được những gì không phù hợp với đức tin của họ, bất kể là những điều này đúng với sự thật như thế nào.

Như trên đã nói, bài viết này có mục đích khai sáng cho bà Đốc Thanh, Gs Thiện Ý và các tín đồ Ki-Tô Việt Nam nếu muốn, về thế giới bên ngoài nhìn Ki Tô Giáo như thế nào. Bài viết này cũng có thể nói là một tổng hợp sơ lược về Thiên Chúa Giáo nói chung, Công giáo nói riêng, gồm những tài liệu có thể giúp cho Bs Thanh và Gs Thiện Ý lập hồ sơ để chỉ có thể khởi tố GĐ và TCN trước Tòa án xử dị giáo của người Công Giáo Việt Nam chứ không thể trước bất cứ một tòa án nào khác. Xin quý vị nên để ý là tất cả những tài liệu trích dẫn ở trên là của các tác giả ờ trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô, tuyệt đối không có một tài liệu nào của người Việt hay của Cộng sản. Quý vị cũng nên để ý là, Vatican cũng như Giáo hoàng, với quyền lực của “đại diện Chúa Giê-su trên trần”, với bộ Tham Mưu gồm các Hồng Y, Tổng Giám Mục, Linh Mục đỉnh cao trí tuệ, với một đoàn luật sư xuất sắc nhất của Giáo hội, với nguồn tài chính vô tận, nhưng tuyệt đối không có phản ứng trước những tài liệu trên, và cũng không có biện pháp nào để khởi kiện các tác giả những tài liệu đó, những tài liệu mà bà Đốc Thanh và Gs Thiện Ý cho là tấn công thô bạo Thiên Chúa Giáo nói chung và Công giáo nói riêng. Tại sao vậy? Vì các tác giả đó không làm gì hơn là viết lên những sự thật, và vì Vatican, với sách lược cố hữu che dấu sự thật trước đám tín đồ, nên muốn các tín đồ càng biết ít đến những tác phẩm nghiên cứu trên bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. Càng phanh phui ra càng thêm xấu mặt.

Sau cùng là vài lời cùng bà Đốc Thanh và Gs Thiện Ý Nguyễn Văn Thắng.

Xin quý vị hãy văn minh lên một chút, đừng mang danh là những trí thức Công giáo mà vì cuồng tín nên đã đưa ra những ý kiến vô trí tuệ, vô ý thức, làm xấu hổ lây đấn cả cộng đồng Công giáo mà tôi tin chắc trong đó có nhiều người rất sáng suốt chứ không u mê cuồng tín như quý vị. Rất có thể mục đích của quý vị đưa ra ý kiến lập quỹ khởi kiện Giao Điểm và TCN chỉ để kiếm tiền của giáo dân vì thực sự họ chỉ nghe những lời vu khống của quý vị về Giao Điểm và TCN cũng đủ để cho họ hồ hởi đóng góp rồi. Họ đâu có biết là thời đại của Công giáo với quyền lực ngập trời ở Âu Châu trong thời Trung Cổ, của các chính thể như ở Croatia với Palevich, ở Tây Ban Nha với Franco, và ở Nam Việt Nam với Ngô Đình Diệm đã qua lâu rồi. Họ cũng đâu có biết rằng quý vị không có một căn bản pháp lý nào để có thể khởi kiện Giao Điểm và TCN.

Và như John Remsburg đã viết trong cuốn False Claims, trang 24:

Bây giờ Giáo hội không giết người được nữa vì không còn quyền lực để mà giết. Bó củi (để thiêu sống người) và thanh gươm (để giết người) đã bị tước khỏi những bàn tay đẫm máu của Giáo hội, và bây giờ Giáo hội chỉ còn lại hai vũ khí, gây thù hận và vu khống.

(The Church does not kill now because it does not have the power to kill. The fagot and the sword have been wrested from her bloody hands, and hatred and slander are the only weapons left her now).

Phải chăng Bs Thanh và Gs Thiện Ý đang dùng hai vũ khí còn lại của Giáo hội đối với Giao Điểm và TCN: vũ khí vu khống Giao Điểm và TCN là Cộng sản, và vũ khí gây thù hận là chụp lên đầu Giao Điểm và TCN cái mũ đánh phá đạo Thiên Chúa Giáo nói chung và đạo Công Giáo nói riêng, làm tổn thương nặng nề đến các Đại cộng đồng TCG và GHCG La Mã thế giới cũng như tổn thương đến từng tinh thần, tâm can đời sống của mổi một tín hữu TCG và CG Việt Nam và thế giới… trong khi Giao Điểm và TCN không làm gì hơn là phổ biến cho người dân Việt Nam ngoại đạo và cho tín đồ Ki Tô Giáo biết đến những tài liệu lịch sử đã thành văn về Thiên Chúa Giáo nói chung và Công Giáo nói riêng của các tác giả Âu Mỹ ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô, kể cả Công giáo.

 


Chú Thích:

1. Virtually no one really reads the Bible. The above mentioned individual doubtless has a Bible, perhaps the only book he owns, but he never reads it – much less reads all of it.

If an intelligent man should critically read it all, he would certainly reject it.)

2. More than 99% of all the punishment meted out by God, according to the Bible, was upon innocent people – people not even accused of having anything to do with the incidents that brought on the punishment.

Because Adam ate a certain apple all mankind is doomed: “By the offense of one, judment came upon all men to condemnation” (Rom: 5:18). Such thoughts came from the mind of a savage who never had the slightest conception of justice.

We are told that God brought the ten scourges upon the Egyptians because Pharaoh’s heart was hardened. These people had nothing to do with the hardening of Pharaoh’s heart. Yet their stock was killed, their crops ruined, their orchards destroyed, their buildings broken down, and their first born killed. If it was Pharaoh’s fault then he alone should have suffered. As the story goes it was God who hardened his heart..

According to the Bible, God taught his chosen people crime and aided them in it. He helped Jacob cheat his uncle (Gen: 30: 27-43), and he taught and helped his chosen people defraud the Egyptians in the largest con game in history (Exo: 11: 2-4). The Egyptians did not pay the Israelites enough, so the great moral lesson seems to be that if your boss does not pay you enough you are supposed to steal from him to make up for it.

These stories show that the Bible writers had the minds of barbarians with no conception of mercy or justice. In the wars of conquest waged by the “chosen people of God”, the command was for slaughter of old and young. At least the children were innocent of anything wrong and the only sin for which adults were being punished was that they had lands and young daughters that these wild, ruthless barbarians wanted. The victims had different religious ideas, too, and religious tolerance was positively forbidden by God according to the Bible. The “holy people” were to exterminate all who had a different religion. The Bible commands that son, daughter, father or mother be killed if they differ with us in religion. (Deut: 13: 6-10).

3. Haught, James A., 2000 Years of Disbelief: Famous People with the Courage to Doubt, p. 324: Through logic, you can see that the church concept of an all-loving heavenly creator doesn't hold water. If a divine Maker fashioned everything that exists, he designed breast cancer for women, childhood leukemia, leprosy, AIDs, Alzheimer's disease, and Down's syndrome. He madated foxes to rip rabbits apart and cheetahs to slaughter fawns. No human would be cruel enough to plan such horrors. If a supernatural being did so, he's a monster, not an all-merciful father.

4. The God of the Old Testament is arguably the most unpleasant character in all fiction: jealous and proud of it; a petty, unjust, unforgiving control-freak; a vindictive, bloodthirsty ethnic cleanser; a misogynistic, homophobic, racist, infanticidal, genocidal, filicidal, pestilential, megalomaniacal, sadomasochistic, capriciously malevolent bully.

5. John Shelby Spong, Rescuing The Bible From Fundamentalism, p. 21: There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrow-minded, vindictive, and even hypocritical.

6. Unbeknownst to many Christians, many times the Gospels of the New Testament portray Jesus as vengeful, demeaning, intolerant, and hypocritical.

7. Unbeknownst to many Christians, many times the Gospels of the New Testament portray Jesus as vengeful, demeaning, intolerant, and hypocritical.

8. Lloyd M. Graham, Deceptions and Myths of the Bible, pp. 463-468: What we offer here is admittedly and intentionally a one-sided picture, the dark and shameful side. Our reason for so presenting it is that millions of misguided souls are painting the other side and holding it up to a credulous world as the only side. We think both sides should be known, not only in the interest of truth but also for those who are living in spiritual bondage to a fraudulent authority. For these, a thousand years of crime and corruption are glossed over with the statement, “There were a few bad popes.” Were their informers honest they would admit there were a few good.

We have spoken of the dishonesty of Catholic scholarship. Nowhere it is more evident than in its whitewash of wicked popes. Their crimes were all done by others and “unavoidable,” their burning of heretics, a “necessity of the times,” their debaucheries, but “love of godd cheer.”. Contemporary records completely refute these claims, and the records were not written by the Church’s enemies, but mainly by its own historians, popes and cardinals: Victor II, Pius II, Cardinal Baronius, Bishop Liutprand, Father Salvianus, and historians, Milman, Gerbert, Burchard, Guicciardini, Vacandard, Draper, and others. These are the authority for the dark and shameful side. What we offer here is but a hop, skip and jump over some 1500 years, but sufficient, we think, to disprove any claim to divine selection and guidance.

During the Dark Ages these divinely guided popes murdered one another at such a rate there were ten in twelve years (891-903) and forty in little more than one hundred. Sergius III was a wholesaler; according to Cardinal Baronius and also Vulgarius, he murdered his two predecessors. In 708 Toto, a noble at the head of a rabble following, had his brother apointed pope. This was Constantine II whose eyes were put out by Christopher, his chief official. Then Christopher and his son plotted against Pope Gregory for they too had their eyes put out. The two nephews of Leo III, Pascal and Campulus, themselves clerics, conspired to replace Leo and set a band of paid assassins upon him as he rode through the streets. When the hirelings failed, the two nephews dragged the pope into a monastery and complete the work. Pure fiction, downright slander, you say. But no, it is from the record of the papal biographer.

This was the order of the day. Pope Leo the V was deposed by another Christopher, who was in turn deposed and succeeded by the aforesaid criminal Sergius III, who murdered his predecessors. At this time it was not the Holy Ghost that selected the popes but what cardinal Baronius called scortas, whores. This was the “rule of the courtesans,” sometimes called Pornocracy, or reign of the whores. Among them was one Baronius called the “shameless whore,” Theodora, and her equally shameless daughter Marozia. Both had sons by Sergius III, and both put their illegitimates on the papal throne - John XI and John XII. The first was imprisoned, the second “turned the Lateran Palace into a brothel.” There was no crime he didn’t commit - murder, perjury, adultery, incest with his two sisters, bleeding and castrating his enemies, etc. He died, we are told, at the hand of an outraged husband.

According to the record, Cardinal Francone had Benedict VI strangled, after which he became Boniface VII, “a horrid monster surpassing all other mortals in wickedness,” according to Gerbert. He was no worse however than Boniface VIII.. Yes indeed! To gain his tiara he had the halfwit Celestine V disposed of. He did not long enjoy his victory for soon he was driven out by the Romans. Under a successor, Clement V, he was tried posthumously and found guilty of every crime including pederasty and murder. And when Clement died, his successor, John XXII, revealed that Clement had been so very clement he had given his nephew the equivalent of five million dollars of papal money. It was at this time the papal court was moved to Avignon, and now St. Peter had two successors, one at Avignon and one at Rome. But even this was not enough; there were at one time three - Grogory XII, Alexander V, and John XXIII. Later, John XXIII was repudiated, the title was annulled and recently assumed by the successor of Pius XII.

So corrupt was the latter, Sigmund of Hungary called a council to investigate him. The result was fifty-four articles described him as “wicked, irreverend, unchaste, a liar, disobedient and infected with many vices.” As a cardinal he had been “inhuman, unjust and cruel.” As pope he was “an oppressor of the poor, persecutor of justice, pillar of the wicked, statue of the simoniacs, addicted to magic, the dregs of vice..wholly given to sleep and carnal desires, a mirror of infamy, a profound inventor of wickedness.” He secured the Papacy by “violence and fraud and sold indulgences, benefices, sacraments and bulls.” He practiced “sacrilege, adultery, murder, rape and theft.”.. Some of these popes so outraged decency they were exiled. At least two of them had their eyes and tongue cut out, then were dragged through the streets tied to the tail of an ass. Still others were so despised their corpses were exhumed and thrown into the Tiber. After fourteen hundred years of Christianity morals had sunk so low that Pius II tells us: “scarcely a prince in Italy had been born in wedlock.” A statement as applicable to the princes of the church as of the states.

Bad as all this was, the worst was yet to come - the Borgias, particularly Rodrigo. Of all the wicked popes he deserves the crown. By bribing fifteen cardinals with the equivalent of three million dollars he secured the election of one of the worst men in history - himself, Alexander VI. Guicciardini, the historian, describes him thus: “..private habits of the utmost obscenity, no shame or sense of truth, no fidelity to his engagements, no religious sentiments, insatiable avarice, unbridled ambition, cruelty beyond the cruelty of barbarous races, burning desire to elevate his sons by any means: of whom there were many, and among them one - not any less detestable than his father.” This was the notorious Cesare Borgia who to gain a cardinalate murdered his brother John, his sister’s husband, and two cardinals..

While still a cardinal this rake and murderer turned his quarters in the Vatican into a brothel. According to Burchard, the papal historian at the time, he indulged in nightly revels in his rooms above the pope’s, and courtesans “danced naked before the servants of the Lord and the Vicar of Christ.” And his sister, Lucrezia, distributed prized to those who “had a carnal intercourse with courtesans the largest number of times.” This is the gaiety explained as “love of good cheer.”

Such were the Princes of the Church in those days. During the Middle Ages the College of cardinals was as corrupt a body as could be found in all history. Securing a cardinalate was but a matter of money and influence. Neither character, learning nor aptitude played any part in it. Indeed boys of fouteen and fifteen were sometimes invested with the office. Paul III appointed two of his teen-age grand children to this high office.. Paul IV made his nephew a cardinal, though, as he said, “his arm is dyed in blood to the elbow.”

Yet these were the men who, with the help of the Holy Ghost, selected the popes..

Now why isn’t this disgraceful record known as well as that of the the good popes? Why aren’t Catholics told it was such men as these that caused the Reformation and not “that devil Luther?” Protestantism sprang not from Luther exclusively but from centuries of protestation against the crime and corruption of the Catholic Church. Satan Peter had outraged all Europe..

Bài liên quan:

Thư Đọc Giả Nhờ Tòa Soạn Chuyển Cho BS NgTThanh (tòa soạn)

Thư Tác Giả Trần Chung Ngọc Gửi Sachhiem.net

Khổ Thân Củ Khoai Tôi (Trần Chung Ngọc)

Tôi Đọc Bài "Nhận Thức..." của ông Nguyễn Văn Thắng (Trần Chung Ngọc)

Tôi Đọc BS Ngyễn Thị Thanh Trả Lời Câu Hỏi ... (Trần Chung Ngọc)

 

Hai lá thư khích động 1.5 tỷ người Thiên Chúa Giáo kiện Nhóm Giao Điểm:

Thư Bác sĩ Thanh giới thiệu bài "TÔN GIÁO LÀ MỘT PHẠM TRÙ ĐỨC TIN" của ông Thiện Ý Nguyễn văn Thắng

Tâm Thư Gửi Ki-Tô Hữu Thế Giới (GS Nguyễn Văn Thắng)

 

Bài đọc thêm:

Thư mục các phương tiện thông tin về các đạo Chúa (sưu tầm của đọc giả khắp nơi)