BA MƯƠI THÁNG TƯ VÀ TÔI
TỪ KIẾN THỨC ĐẾN LẬP TRƯỜNG
Trần Chung Ngọc
http://sachhiem.net/TCN/TCNts/TCNts040.php
25 tháng 4, 2009
...Có người chất vấn tôi: tại sao ông không chống Cộng mà lại đi chống Công giáo?
Đây là một câu hỏi hàm ý muốn áp đặt khuynh hướng chính trị của mình lên người khác. Chống Cộng hay không và chống Công giáo hay không là quyền của tôi, không ai có quyền xía vào lập trường cá nhân của tôi. Tuy nhiên, tôi cũng có một câu trả lời rất đơn giản: “Việt Nam, qua dòng lịch sử, rất trân quý nền độc lập và chủ quyền của nước nhà, và không ngại hi sinh để gìn giữ đất nước như lịch sử đã chứng minh. Nhưng lịch sử cho thấy, Công giáo “có công“ đưa nước nhà vào vòng nô lệ của thực dân Pháp và đào tạo được nhiều Việt gian như Trần Bá Lộc, Nguyễn Trường Tộ, Pétrus Ký, Nguyễn Thân, Nguyễn Bá Tòng, Trần Lục, Lê Hữu Từ, Hoàng Quỳnh, dòng họ Ngô Đình v..v...., còn Cộng sản thì có công đánh đuổi được thực dân Pháp và thống nhất đất nước. Hai cái “công“ này rất khác nhau, một là công đối với tổ tiên, đất nước; còn một là công đối với ngoại bang để xâm chiếm đất nước của tổ tiên, phản bôi dân tộc. Vậy thì, chúng ta nên chống Cộng hay chống Công giáo?“ ...(TCN)
“Nếu một người vẫn không thể quên thù hận, há chẳng
ngu xuẩn lắm sao?”
[Cổ Long: Câu kết của truyện kiếm hiệp “Cửu Nguyệt Ưng
Phi”]
Từ Kiến Thức ...
Cho đến năm 2009, chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt 34 năm rồi, chiều dài
của hơn một thế hệ. Tôi đồng ý với ông Cổ Long rằng đến bây giờ mà chúng ta
không thể quên được thù hận thì quả thật là ngu xuẩn. Ở đây tôi muốn nói đến
mối thù hận bất kể từ phía nào. Không thể quên thù hận đã là ngu xuẩn lắm rồi,
nhưng ngu xuẩn hơn nữa nếu chúng ta lại truyền lại sự thù hận cho thế hệ sau để
chúng tiếp nối sự thù hận mà chúng ta không thể quên được. Tôi cảm thấy tội
nghiệp cho bậc cha mẹ của một em bé, nhân danh “Người Việt tỵ nạn”, cầm tấm bảng
chống “ca nhạc Trịnh Công Sơn”. Tại sao họ có thể làm ô nhiễm đầu óc con cái
của mình đến độ như vậy?
Trước hết tôi cần phải nói chút ít về tôi, dù cái tôi thật đáng ghét. Cá
nhân tôi là một sĩ quan, xuất thân từ Khóa I Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định, đã phục vụ
trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong hơn 8 năm, đã cầm súng chống Cộng ở tiền
tuyến, từ Quảng Bình (Tiểu đoàn 12) trước 1954, đến Qui Nhơn (Sư đoàn 22) và
Kontum (Biệt khu 24) sau 1954. Và sau khi giải ngũ tôi cũng đã phục vụ trong
ngành giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa cho đến ngày chót. Vậy vào những thời đó,
tất nhiên không ít thì nhiều tôi cũng đã chống Cộng, nhất là tôi đã đọc về những
tội ác của Cộng sản đối với người dân, về cuộc cải cách ruộng đất, về Tết Mậu
Thân v..v…trong những tài liệu của miền Nam và của Mỹ. Và tôi đã chạy
trốn Cộng sản sang Mỹ vào cuối tháng Tư năm 1975. Nhưng kết cục của cuộc chiến
đã đưa đến cho tôi một thắc mắc và ấm ức. Thắc mắc và ấm ức đó là:
“Miền Nam có hơn một triệu quân, một thời cộng với
hơn nửa triệu quân Mỹ, với đầy đủ vũ khí, đạn dược, và có ưu thế tuyệt đối về
máy bay chiến đấu, về B52 để trải thảm bom từ trên thượng tầng không khí, xe
tăng, tàu chiến, trọng pháo, truyền tin và cả thuốc khai quang Agent Orange để
cho Việt Cộng không còn chỗ ẩn núp v..v.. nhưng tại sao vẫn không thắng nổi đối
phương để rồi Mỹ phải tìm cách Việt Nam hóa cuộc chiến, rồi “tháo chạy” [từ
của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng], và cuối cùng, Việt Cộng vẫn “cưỡng chiếm”
[từ của báo chí chống Cọng hải ngoại] được miền Nam? Vậy ngoài yếu tố quân
sự, những yếu tố nào đã quyết định cuộc chiến? Phải chăng phe Quốc Gia của chúng
ta có vấn đề về chính nghĩa, về chủ quyền? Phải chăng quân dân miền Nam không
tích cực chống Cộng? Hay phải chăng yếu tố quyết định là truyền thống yêu nước
của người dân Việt Nam? Thực ra thì Quốc Gia và Cộng sản bên nào có Chính
Nghĩa? Bên nào hợp lòng dân và được dân ủng hộ? Ý chí và khả năng chiến đấu của
binh sĩ hai bên ra sao? Khả năng chỉ huy của các cấp lãnh đạo? Và còn những gì
gì nữa?”
Tại sao chúng ta lại thua? Đó là niềm ấm ức đã ám ảnh đầu óc tôi trong vài
năm đầu sống ở Mỹ sau 1975. Trong thời gian này, vì phải bắt đầu lại cuộc sống
từ số không nên không có thì giờ tìm hiểu, tôi vẫn không giải đáp được thắc mắc
trên. Nhưng thắc mắc trên cứ ám ảnh đầu óc tôi, cho nên khi đời sống kinh tế
gia đình đã ổn định, tôi đã để thì giờ tìm hiểu và đọc rất nhiều sách và tài
liệu viết về cuộc chiến ở Việt Nam, phần lớn là sách Mỹ, sách Pháp, và vài ba
cuốn sách Việt, thí dụ như “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi” của Đỗ Mậu;
“9 Năm Máu Lửa Dưới Chính Quyền Ngô Đình Diệm” của Nguyệt Đam và Thần
Phong; “Đảng Cần Lao” của Chu Bằng Lĩnh”; Luận Án Tiến Sĩ “Giáo Sĩ
Thừa Sai Và Chính Sách Thuộc Địa Của Pháp Tại Việt Nam (1857-1914)”
[Christianisme et Colonialisme au Viet Nam, 1857-1914], Đại Học Paris, 1969, của
Cao Huy Thuần; “Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam”
của Hồ Sĩ Khuê v…v…
Bài “Đầu Hàng” của Vân Xưa trong cuốn của Hồ Sĩ Khuê
là bài tôi thích nhất. Xin đừng hiểu lầm tôi thích là vì VNCH “đầu hàng”, mà vì
bài viết phân tích tình hình khá hay và đầy tình người. Lẽ dĩ nhiên tôi cũng có
những kinh nghiệm bản thân về Cộng sản cũng như Quốc Gia trong thời chiến, vì
tôi là Sĩ Quan “Tác Động Tinh Thần”, sau đổi thành “Chiến Tranh Tâm Lý”, của
Tiểu Đoàn 12. Tôi cũng đã chứng kiến cuộc đảo chính hụt của Nguyễn Chánh Thi,
Vương Văn Đông v..v… cũng như cuộc oanh tạc Dinh Độc Lập của hai phi công Phạm
Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử. Và sau cùng là cuộc đảo chánh năm 1963 của Dương Văn
Minh v… v… Tôi cũng đã nhìn thấy những khuôn mặt sáng sủa, trẻ trung, đầy tương
lai trong các lớp học tôi dạy, từ Trung Học đến Đại Học, nhưng khó mà có thể có
tương lai vì trước sau gì các em cũng bị lôi cuốn vào cuộc chiến tương tàn.
Ngày nay, lịch sử đã rõ ràng. Với những kiến thức mới về cuộc chiến thì
chúng ta đã rõ, cuộc chiến trước 1954 là cuộc chiến chống xâm lăng, xâm lăng
của thực dân Pháp toan tính tái lập nền đô hộ trên đầu dân Việt Nam, với sự
hỗ trợ về quân cụ, vũ khí rất đáng kể của đế quốc Mỹ. Ngày 14 tháng 8, 1945,
Tổng Thống Pháp De Gaulle bổ nhiệm Tướng Leclerc làm Tổng Chỉ Huy lực lượng ở
Đông Dương và chỉ định Thierry d’Argenlieu làm Cao Ủy để cắm lại lá cờ tam
tài của chúng ta ở đó (pour y replanter notre drapeau). Và Mỹ đã giúp
hơn 80% chiến phí cho Pháp trong mục đích thực dân này. Còn cuộc chiến hậu
Geneva là cuộc chiến chống xâm lăng của Mỹ. Đây là kết luận của các học giả
Tây phương, xét theo những sự kiện lịch sử chứ không xét theo cảm tính phe phái.
Thật vậy, Thứ Trưởng Ngoại Giao Mỹ, Walter Bedell Smith xác định trong bản
Tuyên Ngôn tại Washington D.C. về Hiệp Định Geneva như sau:
“Trong trường hợp những quốc gia nay bị chia đôi ngoài ý muốn,
chúng ta sẽ tiếp tục tìm kiếm giải pháp thống nhất qua bầu cử tự do, giám
sát bởi Liên Hiệp Quốc để bảo đảm là bầu cử được thi hành nghiêm chỉnh” và “Hoa
Kỳ sẽ tự kiềm chế, không đe dọa hay dùng võ lực để phá những sự Thỏa Hiệp”
(In the case of nations divided against their will, we shall continue to
seek to achieve unity through free elections, supervised by the United Nations
to ensure that they are conducted fairly... The US will refrain from the threat
or the use of force to disturb them)
Xác định như vậy nhưng Mỹ đã nuốt lời hứa và dùng võ lực để can thiệp
ngay vào nội bộ Việt Nam.., dùng tay sai Ngô Đình Diệm để phá sự thống nhất
của đất nước qua bầu cử tự do, rồi chỉ đạo cuộc chiến và phạm rất nhiều tội ác ở
Việt Nam. Trong cuốn The United States In Vietnam: An Analysis In Depth Of
The History Of America’s Involvement In Vietnam, hai Giáo sư đại học
Cornell, George McTurnan Kahin và John W. Lewis, viết ở trang 59:
“Tuy Hoa Kỳ nói rằng “sẽ tự kiềm chế, không đe dọa hay dùng võ lực để
phá những sự Thỏa Hiệp” nhưng điều hiển nhiên chúng ta thấy ngay sau đó là Hoa
Kỳ đã sửa soạn dùng mọi phương cách khác để ủng hộ chế độ Saigon [do Mỹ
dựng lên] trong việc không tôn trọng những điều khoản trong Thỏa Hiệp”
(Though the US said it would “refrain from the threat or the use of
force to disturb” the agreements, it soon become evident that it was prepared to
use every other means to back up the Saigon regime in its departure from their
central provisions).
Sự kiện là, Mỹ đã toa rập với Vatican đưa tam đại Việt gian Công giáo
Ngô Đình Diệm về để chống Cộng cho Mỹ ở Nam Việt Nam, và đơn phương từ chối
không thi hành khoản tổng tuyển cử tự do trên toàn đất nước vào năm 1956 trong
Hiệp Định. Tại sao? Vì Tổng Thống Eisenhower của Mỹ đã nhận định, nếu có
một cuộc tổng tuyển cử tự do vào năm 1956 thì ông Hồ Chí Minh sẽ được ít nhất là
80% số phiếu. Vào thời đó, với uy tín của ông Hồ và Việt Minh sau trận Điện
Biên Phủ, Việt Minh không cần phải tổ chức một cuộc bầu cử gian lận như Ngô Đình
Diệm đã làm ở miền Nam với số phiếu ở Saigon nhiều hơn số cử tri.
Tưởng chúng ta không nên quên là ngay từ sau Hiệp Định đình chiến 1954, Mỹ
đã gửi Lansdale ra ngoài Bắc để phá hoại, tuyên truyền, và cổ võ giáo dân Công
giáo di cư vào Nam với những khẩu hiệu như “Chúa đã vào Nam” và “Đức
Mẹ đã di cư vào Nam” v..v.. để dụ đám linh mục và giáo dân thấp kém. Vì vậy
khoảng 700 ngàn Giáo dân Công giáo đã cùng với các “Chúa thứ hai” của họ ào ào
kéo vào Nam, (không buồn để ý đến chuyện những khẩu hiệu lố bịch trên đã chứng
tỏ là Ông Mác (Karl Marx) đã đuổi hai mẹ con Chúa chạy từ Bắc vào Nam, tuy rằng Chúa và Mẹ
Chúa đều là những bậc toàn năng, toàn trí, quyền phép vô cùng, làm gì cũng được,
cùng lúc chứng minh trình độ và ý thức tôn giáo của giáo dân Công giáo Việt Nam.)
Còn nữa, trong cuốn Chiến Tranh Việt Nam Và Văn Hóa
Mỹ (The Vietnam War and American Culture, Columbia University Press, New
York, 1991), hai Giáo sư ở đại học Iowa, John Carlos Rowe và Rick Berg, viết,
trang 28-29:
Tưởng cũng nên nhớ lại vài sự kiện. Mỹ đã dính sâu
vào nỗ lực của Pháp để tái chiếm thuộc địa cũ của họ, biết rằng kẻ thù là phong
trào quốc gia của Việt Nam. Số tử vong vào khoảng nửa triệu. Khi Pháp rút
lui, Mỹ lập tức dấn thân vào việc phá hoại Hiệp Định Genève năm 1954, dựng lên ở
miền Nam một chế độ khủng bố, cho đến năm 1961, giết có lẽ khoảng 70,000 “Việt
Cộng”, gây nên phong trào kháng chiến mà từ 1959 được sự ủng hộ của nửa miền Bắc
tạm thời chia đôi bởi Hiệp Định Genève mà Mỹ phá ngầm. Trong những năm
1961-62, Tổng thống Kennedy phát động cuộc tấn công thẳng vào vùng quê Nam Việt
Nam với những cuộc thả bom trải rộng, thuốc khai quang trong một chương trình
được thiết kế để lùa hàng triệu người dân vào những trại (ấp chiến lược?)
nơi đây họ được bảo vệ bởi những lính gác, giây thép gai, khỏi quân du kích mà
Mỹ thừa nhận rằng được dân ủng hộ. Mỹ khẳng định là đã được mời đến, nhưng như
tờ London Economist đã nhận định chính xác, “một kẻ xâm lăng là một kẻ xâm lăng
trừ phi được mời bởi một chính phủ hợp pháp.” Mỹ chưa bao giờ coi những
chính phủ tay sai mình dựng lên là có quyền hợp pháp như vậy, và thật ra Mỹ
thường thay đổi những chính phủ này khi họ không có đủ thích thú trước sự tấn
công của Mỹ hay tìm kiếm một sự dàn xếp trung lập được mọi phía ủng hộ nhưng bị
coi là nguy hiểm cho những kẻ xâm lăng, vì như vậy là phá ngầm căn bản cuộc
chiến của Mỹ chống Nam Việt Nam. Nói ngắn gọn, Mỹ xâm lăng Nam Việt Nam, ở
đó Mỹ đã tiến tới việc làm ngơ tội ác xâm lăng với nhiều tội ác khủng khiếp
chống nhân loại trên khắp Đông Dương. (1)
Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt, vậy mà 27 năm sau, Daniel Ellsberg còn viết trong cuốn Secrets: A Memoir of Vietnam and the
Pentagon Papers, Viking, 2002, p.255:
“Theo tinh thần Hiến Chương Liên Hiệp
Quốc và theo những lý tưởng mà chúng ta công khai thừa nhận, đó là một cuộc
ngoại xâm, sự xâm lăng của Mỹ”.
(In terms of the UN Charter and our own avowed
ideals, it was a war of foreign agression, American aggression.)
Năm 2006, Bác Sĩ Allen Hassan, một
Bác sĩ đã phục vụ tại Việt Nam, đã viết cuốn “Failure To Atone” mà bản
dịch tiếng Việt của Nhà Xuất Bản Trẻ dịch là “Không Thể Chuộc Lỗi” (Đúng
ra, dịch đúng nghĩa phải là “tội”, tội ác, chứ không phải “lỗi”, lỗi lầm) nói về
những tội ác của quân đội Mỹ ở Việt Nam. Sau đây là vài lời giới thiệu trong
bản tiếng Việt của Nhà Xuất Bản Trẻ mà tôi mua được ở Việt Nam nhân chuyến cùng
con cháu về thăm quê hương năm 2007:
Tại hội trường 8 Hội chợ sách Quốc tế Frankfurt ở Đức
năm 2006, giữa các khu vự trưng bày sách rộng lớn và không khí giao dịch bản
quyền náo nhiệt của các tập đoàn xuất bản hàng đầu thế giới là một gian hàng nhỏ
với một điểm đặc biệt có một không hai: Gian hàng chỉ trưng bày và giao dịch bản
quyền duy nhất một cuốn sách có tựa đề Failure To Atone – Không Thể Chuộc Lỗi
(Tội) – với một poster lớn: “Nước Mỹ không thể chuộc lỗi về những gì đã gây ra
trong cuộc chiến tranh Việt Nam! Sự thật chưa từng được tiết lộ của một bác sĩ
tình nguyện người Mỹ tại Việt Nam”…
Khi chúng tôi hỏi tại sao lại lấy tên là Không Thể
Chuộc Lỗi đặt cho cuốn sách, đại diện bản quyền của bác sĩ Allen Hassan trả lời:
“Mục đích của bác sĩ Allen Hassan khi viết cuốn sách
này là muốn những người lính đã từng tham chiến tại Việt Nam và chính quyền Mỹ
thật sự hiểu rõ những gì mà nước Mỹ đã gây ra cho người dân Việt Nam và lớn hơn
rất nhiều những gì mà người Mỹ từng nghĩ. Nước Mỹ nhớ rất kỹ những gì người
khác gây cho họ nhưng lại quên rất nhanh những gì họ đã gây ra cho những người
khác. Người chết không thể sống dậy, người tàn tật mãi mãi tàn tật, và nỗi đau
mãi mãi là nỗi đau….Khi đọc xong cuốn sách này, mọi người sẽ hiểu bây giờ bất
cứ làm việc gì, nước Mỹ cũng không thể chuộc lại lỗi của mình đối với người dân
Việt Nam.”
Trong cuốn Không Thể Chuộc Lỗi, bác sĩ Hassan đã đề
cập đến chất độc da cam, nhưng đặc biệt, trong ấn bản Việt ngữ, ông đã viết thêm
một chương về những hậu quả và di chứng nặng nề của chất độc da cam mà quân đội
Mỹ đã sử dụng tại Việt Nam. Mỹ đã sử dụng bao nhiêu chất độc da cam ở Việt
Nam? Thượng Nghị Sĩ Mỹ Gaylor Nelson đã phát biều:
Nước Mỹ đã trút xuống Nam Việt Nam một lương hóa chất độc hại tương
đương với mức trung bình cho mỗi đầu người, kể cả phụ nữ và trẻ em, là 6 pound
(gần 3 kg).
(The US dropped down South Vietnam with a volume of toxic chemicals
equivalent to average level up to 6 pound (nearly 3 kgs) per head, including the
women and the children)
Di hại to lớn của chất độc da cam ở Việt Nam là điều hiển nhiên, không ai
có thể chối cãi. Nhưng nước Mỹ đã muối mặt phủ nhận trách nhiệm. Đáng lẽ sau
cuộc chiến, Việt Nam phải đưa Mỹ ra Tòa Án Quốc tế Xử Các Tội Phạm Chiến Tranh
nhưng có lẽ tự biết thân phận của một nước nhỏ, có kiện cũng chỉ là “con kiến đi
kiện củ khoai”.
Chúng ta hãy đọc thêm vài đoạn trong bài “ Chủ Nghĩa
Khủng Bố Và Diệt Chủng Dân Tộc Việt Nam Của Mỹ 1945-1975” (American
Terrorism and Genocide of the Vietnamese People, 1945-1974)
http://www.intellnet.org/ .
Bài này đã được đăng trên trang nhà Sách Hiếm:
http://www.sachhiem.net/TCN/TCNts/TCNts25.php với nguyên bản bằng tiếng Anh.
Những tội phạm chiến tranh thuộc Thủy, Lục, Không quân Hoa Kỳ đã tàn
sát 3 triệu người ở Việt Nam, trong rất nhiều nơi như Mỹ Lai. Hầu hết các nạn
nhân là đàn bà và trẻ con.
CIA có ngay cả một chương trình khủng bố chính thức của quốc gia Mỹ ở
Việt Nam, được biết là “Chiến Dịch Phụng Hoàng” hay “Kế Hoạch Phụng Hoàng”. [Kế
hoạch Phụng Hoàng còn được biết dưới tên “Kế Hoạch Ám Sát” (Douglas
Valentine, The Phoenix Program, p. 191: “Phoenix was labeled an Assassination
Program”).] Qua Kế Hoạch Phụng Hoàng, nhiều trăm ngàn người đã bị tra tấn
đến chết trong những “trung tâm thẩm vấn” trên khắp Nam Việt Nam.
Những trung tâm tra tấn này được dựng lên bởi Mỹ rõ ràng cho mục đích đó. Phụ nữ
luôn luôn bị hãm hiếp như là một phần của tra tấn trước khi bị giết. Khủng
bố, hãm hiếp và giết người hàng loạt một cách đại qui mô trên khắp miền quê là
chính sách của tập thể Lục Quân, Không Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Thủy Quân Hoa
Kỳ. Cuộc tàn sát ở Mỹ Lai là một chiến dịch trong Kế Hoạch Phụng Hoàng.
Chính sách diệt chủng dân Việt Nam của Mỹ có nguồn gốc từ ngay sau Đệ
Nhị Thế Chiến.
Mỹ đã ủng hộ Pháp trong toan tính lấy lại quyền cai trị đẫm máu của
thực dân Pháp ở Đông Nam Á.
John Kerry, Trung Úy Thủy Quân, lãnh tụ của những cựu quân nhân Mỹ
ở Việt Nam chống chiến tranh, làm chứng trước Ủy Ban Ngoại Giao của Thượng Viện năm 1971:
“Tôi muốn nói rằng vài tháng trước ở Detroit chúng tôi có một cuộc
điều tra trong đó có 150 quân nhân đã được giải ngũ trong danh dự đã làm chứng
cho những tội ác chiến tranh phạm ở Đông Nam Á. Họ nói những câu chuyện của
thời đó là chính họ đã hãm hiếp, cắt tai, chặt đầu, kẹp giây điện từ những bộ
máy truyền tin vào nhưng cơ quan sinh dục rồi quay điện, chặt chân tay, làm nổ
tan xác, bắn chơi vào các thường dân, triệt hạ cả làng theo kiểu của Thành Cát
Tư Hãn, bắn trâu bò, chó, làm trò chơi, đầu độc các kho lương thực và hầu như là
tàn phá toàn diện miền quê Nam Việt Nam, ngoài sự tàn phá thông thường của chiến
tranh và sự tàn phá thông thường và đặc biệt của những cuộc bỏ bom trên đất nước
này.”
Quá nhiều “con em của chúng ta” đã phạm phải những tội ác cuồng dâm
chống nhân loại. Lính Mỹ tra tấn tù binh. Lính Mỹ hiếp người qua đường hậu
môn, hãm hiếp và bạo sát đàn bà và con gái. Lính Mỹ tàn sát toàn thể đàn ông,
đàn bà, trẻ con trong nhiều làng – kể cả con nít - ở nhiều, nhiều nơi như Mỹ Lai
và Thanh Phong.
[Thanh Phong là tên ngôi làng mà nguyên Thượng Nghị Sĩ
Robert Kerrey, (không phải là John Kerry) đã chỉ huy một toán SEALS 7 người vào
tàn sát 21 người đàn ông, đàn bà và trẻ con trong làng vào tháng 2, 1969. Vào
căn nhà lá đầu tiên, toán này đã cắt cổ một ông lão, vợ ông ta và 3 đứa cháu.] (2)
Lực Lượng Đặc Biệt dạy binh sĩ của mình thi hành
nhiệm vụ ở Việt Nam phải dùng tra tấn như thế nào là một phần trong sự thẩm vấn.
Chiến dịch Phụng Hoàng nổi tiếng, do CIA dựng lên để
quét sạch hạ tầng cơ sở của Việt Cộng, đã tra tấn những người bị tình nghi như
sau:
- Quay điện vào các bộ phận sinh dục của nam và
nữ.
- Cắm vào tai một cái đũa gỗ dài 15 cm rồi đập
dần đũa vào óc cho đến khi nạn nhân chết.
- Những người bị tình nghi cũng bị ném từ trên
trực thăng xuống để làm gương cho những người tình nghi quan trọng khác phải
khai, tuy đây có thể coi như là sát nhân đối với nạn nhân bị ném, nhưng cũng là
một hình thức tra tấn đối với những người khác.
- Vi phạm Quy Ước Geneva, Mỹ trao tù binh cho
đồng minh Nam Việt Nam của họ biết rõ rằng nhưng người này sẽ bị tra tấn, viên
chức Mỹ thường có mặt trong cuộc tra tấn.
Cương quyết thi hành dịch vụ diệt chủng, Không Quân Mỹ phát động chiến
dịch “Rolling Thunder” tấn công dân Việt Nam năm 1964. Riêng cuộc tấn công này
đã thả xuống đất nước nhỏ bé nhiều bom hơn là toàn thể số bom dùng trong Đệ Nhị
Thế Chiến.
Trong 5 năm tiếp theo, nhiều trăm ngàn người dân Việt Nam, đàn ông,
đàn bà, trẻ con bị nghiền nát và thiêu sống bởi những phi hành đoàn của Không
Quân Mỹ. Đất nước Việt Nam phải chịu đựng 22 tấn thuốc nổ cho mỗi 1.6 km
vuông. Nghĩa là 660 kg chất nổ mạnh cho mỗi người, đàn ông, đàn bà và trẻ con.
Trong 13 năm chiến tranh ác ôn của Mỹ chống dân tộc Việt Nam, tổng cộng
là 8 triệu tấn bom (bom Napalm và bom chùm) và chất độc khai quang màu Cam đã
thả trên đất nước – và ít ra là 3 triệu người đã bị tàn sát.
Cùng với lò nướng thịt thổ dân Mỹ, lò nướng thịt người Việt Nam của
Mỹ đã xếp Mỹ xuống đáy của địa ngục – cùng với những công ty nổi tiếng như Nazi
của Đức, chính quyền Công Giáo Ustashi ở Croatia, quân lực Nhật Bản, quân lực
Thổ Nhĩ Kỳ, những đoàn quân bạo dâm chiến thắng của Tây Ban Nha, những đoàn quân
Mông Cổ, La Mã và những con quỷ diệt chủng như trên.
Trong khi đó thì những người Mỹ ái quốc, kỳ thị chủng tộc tiếp tục sống
cái gọi là đời sống “bình thường”, hoàn toàn lãnh đạm với cuộc tàn sát đẫm máu
được thi hành nhân danh họ, ăn nhậu trên những miếng thịt bò tái và xem TV, chơi
“golf” và đi dự những “parties” trong khi những đứa trẻ Việt Nam bị thiêu
sống trong làng mạc của chúng bởi những tên phi công trời đánh của chúng ta, và
vô số phụ nữ thường dân Việt Nam bị hãm hiếp tàn bạo và toàn thể các gia đình bị
bắn chết bằng súng liên thanh bởi những binh sĩ trời đánh của chúng ta.
Không chỉ những con quỷ Nazi Đức mới phạm tội diệt chủng. Chính
quyền ác ôn và quân lực Mỹ của chúng ta cũng phạm tội diệt chủng. Hằng triệu
người. Và tuyệt đại đa số nạn nhân là người dân thường không có ai bảo vệ.
[Vậy mà có những người chống Cộng hải ngoại đòi đưa Cộng Sản ra Tòa Án Mỹ
hay Quốc tế Xử Tội Phạm Chiến Tranh vì vụ Tết Mậu Thân ở Huế]
Hãy coi câu chuyện ở Mỹ Lai như là một thí dụ về người lính Mỹ anh hùng
của chúng ta khi hành sự - tàn sát trẻ con và hãm hiếp con gái Việt Nam
để làm cho thế giới yên ổn cho những công ty như Coca Cola và hãng dầu Standard.
Nhờ có sự kỳ thị chủng tộc kiêu căng, tự cho là công chính và không
quan tâm của Mỹ mà người Việt Nam tiếp tục bị đau khổ. Năm 1985 người ta ước
tính là một phần ba đất đai [Nam] Việt Nam bị nhiễm độc, vì Không Quân Mỹ đã
dùng thuốc khai quang như Chất Độc Màu Cam. Điều này đã khiến cho Việt Nam nghèo
nàn, đất đai bị ô nhiễm nặng và có đầy những trái bom chùm chưa nổ - và người
dân bị khủng khoảng tâm lý. 30 năm chiến tranh diệt chủng được nối tiếp bởi gần
20 năm cấm vận của Mỹ. [Giáo sư Noam Chomsky cũng đã châm biếm, cho rằng Mỹ
đã thắng một phần ở Việt Nam (A partial victory) vì đã thành công để lại cho
Việt Nam một di sản tan hoang đất nước, khó có cơ hội phục hồi về xã hội và kinh
tế… (Nhưng CS VN đã phục hồi được về xã hội và kinh tế, và còn tiến xa hơn
trước)]
Trong những năm từ khi những binh sĩ Mỹ giết người, hãm hiếp, lực lượng
SEALS [Sea, Air and Land Forces], của Thủy Quân bị đá ra khỏi Việt Nam
một cách ô nhục, cái di sản ác ôn của Mỹ để lại vẫn tiếp tục có ảnh hưởng đến
người dân. Chất độc Da Cam đã đưa đến nhiều vụ khuyết tật bẩm sinh trong
những thế hệ người dân Việt Nam và nhiều trăm ngàn trường hợp chết về ung thư đã
xẩy ra trong những người sống trong những vùng bị trải thuốc khai quang..
Những trái bom chùm chưa nổ đã tạo ra những bãi mìn không có họa đồ,
làm cho mọi người sợ hãi không dám canh tác trong những cánh đồng có thể trồng
trọt được và ruộng lúa. Những trái bom đó của Mỹ vẫn tiếp tục giết hại, làm chân
tay tàn phế và bị tàn tật suốt đời cho nhiều ngàn trẻ con và người lớn Việt Nam.
"Thượng Nghị Sĩ Wayne Morse, (Đảng dân Chủ -
Oregon), 1967:
Theo sự phán xét của tôi, chúng ta sẽ trở thành kẻ có tội vì
là sự đe dọa lớn nhất cho nền hòa bình thế giới. Đó là một sự thực xấu xa, và
người Mỹ chúng ta không thích đối diện với nó. Tôi thật không muốn nghĩ rằng một
trang sử của Mỹ sẽ được viết ra liên quan đến chính sách vô pháp của chúng ta ở
Đông Nam Á.”
Nhưng tại sao Mỹ, với những tội ác rất nghiêm trọng phạm ở Việt Nam, lại
không có cả một lời xin lỗi? Chúng ta có thể đọc những ý kiến sau đây của cựu
Tổng Thống Bill Clinton trên Internet.
25 năm sau chiến tranh chấm dứt, khi được hỏi ông ta có nghĩ rằng Mỹ nợ
Việt Nam một lời xin lỗi, ông Clinton đã trả lời, đơn giản là, “Không, tôi
không nghĩ như vậy” [Tại sao?], Vì:
- Xin lỗi về những tội ác chống dân Việt Nam có
nghĩa là thừa nhận những điều chúng ta nói với nhau về cách ứng xử của chúng
ta trong thế giới – khi đó cũng như bây giờ - là điều nói láo.
- Xin lỗi là thừa nhận rằng trong khi chúng ta
tuyên bố là bảo vệ dân chủ, chúng ta lại đi trật ra ngoài dân chủ. Trong khi
chúng ta tuyên bố rằng chúng ta đang bảo vệ Nam Việt Nam, thì chúng ta lại tấn
công người dân Nam Việt Nam.
- Chúng ta đã thả 6 triệu rưỡi tấn bom và 400 ngàn
tấn Napalm trên dân tộc ở Đông Nam Á. Bỏ bom tràn trề những vùng dân sự, những
chương trình chống khủng bố và ám sát chính trị, thường xuyên giết người dân
thường và dùng gần 45 triệu lít chất độc da cam để phá hủy mùa màng và mầu mỡ
đất đai – tất cả đều là một phần của cuộc chiến tranh khủng bố của Mỹ ở Việt
Nam, cũng như ở Lào và Cambodia. (3)
Những tài liệu trên, cũng như hàng trăm tài liệu hiện hữu khác về chiến
tranh Việt Nam của chính người Mỹ mà tác giả gồm các tướng lãnh, chính trị gia,
giáo sư đại học v..v…, đã nói lên những sự thật về chiến tranh Việt Nam. Cuộc
chiến đã chấm dứt cách đây hơn 34 năm rồi. Và ngày nay, dù những sự thật đó có
mang lại nhiều cay đắng cho người Việt Quốc Gia chúng ta, với tất cả sự lương
thiện trí thức, chúng ta phải chấp nhận chúng, vì đơn giản chúng chỉ là sự thật.
Và từ đó, hi vọng mỗi người trong chúng ta, nếu còn nghĩ đến quê hương đất nước,
sẽ tìm ra được một con đường hợp lý hơn để góp phần xây dựng đất nước.
Nhưng
có vẻ như một số người Việt ở hải ngoại, vẫn dựa vào vài
cái nghị quyết ruồi bu của Hạ Viện Mỹ, bám vào vài dân biểu cắc ké như Sanchez,
Smith v..v.., những kẻ không biết ngượng trước những tội ác của chính quốc gia
Mỹ của mình, để chống Cộng mà thực ra là chống quốc gia, theo kiểu Trần Ích Tắc
và Lê Chiêu Thống.
Như chúng ta đã biết, cuộc can thiệp của Mỹ, hay nói
đúng hơn là cuộc xâm lăng của Mỹ, vào Việt Nam, đã gây nên một cuộc chiến tàn
khốc trên khắp đất nước, phạm nhiều tội ác ở Việt Nam và di hại cho người dân
Việt Nam không ít, thực chất là một sự sai lầm căn bản và phi luân.
Một số nhỏ
người Mỹ, và đa số người Việt thuộc chế độ cũ, vẫn cho rằng sự can thiệp của Mỹ
bắt nguồn từ một ý định tốt. Nhưng tất cả những tài liệu mà chúng ta biết ngày
nay, tài liệu của Ngũ Giác Đài cũng như của các bậc trí thức, các học giả, các
bậc lãnh đạo tôn giáo có uy tín trên nước Mỹ đã chứng minh là điều này không
thực. Ngay cả cựu bộ trưởng Quốc Phòng Robert McNamara cũng phải thừa
nhận cuộc chiến Việt Nam là một sự sai lầm của Mỹ (một sự sai lầm cố ý, dựa trên
bản chất đế quốc của Mỹ)..
Gần đến ngày 30 tháng Tư, ở hải ngoại chúng ta lại sắp sửa nghe những bài
ca quen thuộc về những cái gọi là “CS cưỡng chiếm miền Nam” (sic), hay
“ngày mất nước” (sic), hay “tháng Tư đen”, hay “ngày quốc hận”
[sic] v.. v… phản ánh một sự hiểu biết rất sai lạc về cuộc chiến ở Việt Nam.
Sự
thật lịch sử là như thế nào?
Không ai có thể phủ nhận ngày 30/4/1975 là một
biến cố lịch sử có ảnh hưởng không ít không những chỉ trên khối người Việt lưu
vong mà còn trên cả dân tộc Việt Nam. Và cũng không ai có thể phủ nhận ngày
30/4/75 là ngày Việt Nam lấy lại hoàn toàn nền độc lập và thống nhất của nước
nhà sau gần một thế kỷ bị người Pháp đô hộ, và sau một cuộc chiến tranh bất đắc
dĩ đầy bi thảm mà nguyên nhân chính là sự can thiệp dựa trên “cường quyền
thắng công lý” của ngoại bang: sự liên kết giữa Vatican và Mỹ đưa Ngô Đình Diệm
về để chống Cộng, xóa bỏ hiệp định Genève trong đó có điều khoản qui định một
cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Đây cũng là những sự kiện lịch sử
bất khả phủ bác. Nhưng hiển nhiên vì cảm tính cá nhân, không phải tất cả mọi
người dân Việt đều có cùng một quan điểm về ngày 30/4/75.
... Đến Lập Trường.
Từ những hiểu biết mới và sâu rộng hơn về lịch sử, về cuộc chiến ở Việt
Nam, sự thay đổi quan niệm, suy tư của tôi là điều rất tự nhiên đối với con
người, nó tỷ lệ thuận với trình độ hiểu biết. Với sự hiểu biết mới về cuộc
chiến ở Việt Nam qua những tài liệu bất khả phủ bác trong những tác phẩm của
giới học giả trí thức Âu Mỹ, nhiều tác phẩm thuộc loại phân tích nghiên cứu viết
sau 1975, suy tư của tôi đã thay đổi và tôi không có cách nào còn có thể lên án
cuộc chiến ở Việt Nam là do Cộng Sản theo lệnh của Nga, Tầu để bành trướng chủ
nghĩa Cộng sản được.
Tại sao? Vì có nhiều bằng chứng chứng tỏ ông
Hồ là người có tinh thần quốc gia và mục tiêu duy nhất của ông ta là đánh đuổi
thực dân Pháp, giành lại chủ quyền cho Việt Nam. Chúng ta hãy đọc vài tài liệu
của các trí thức Âu Mỹ, những người không liên hệ gì đến sự đối nghịch Quốc-Cộng
và không có lý do gì để tự hạ uy tín của mình để đưa ra những khảo cứu không
nghiêm túc trong giới khoa bảng. Nhất là những công cuộc khảo cứu này đều
viết sau 1975 và sau ngay cả khi chủ nghĩa Cộng sản đã cáo chung vào năm 1989.
Trong tờ “Les Collections de L’Histoire”, số
23, Avril-Juin 2004, một tuyển tập về “Indochine Vietnam: Colonisation,
Guerres et Communisme” có bài “Con Người Trở Thành Hồ Chí Minh”
[L’Homme
Qui Devint Ho Chi Minh] của Pierre Brocheux, Giáo sư Diễn Giảng Danh Dự tại Đại
Học Denis-Diderot, Paris-VII. Chúng ta sẽ thấy trong đó có vài chi tiết
chứng tỏ ngay cả Nga và Tàu cũng không tin tưởng ông Hồ Chí Minh là người Cộng
Sản chính thống (orthodox communist). Giáo sư Brocheux viết, trang 33:
Đối với Quốc (Nguyễn Ái Quốc), chủ thuyết Mác Lênin đã đưa lên
những phương tiện hành động, như là ông ta đã giảng giải nhiều năm sau: “Chúng
ta phải hiểu rằng giật độc lập ra khỏi tay một cường quốc như Pháp là một nhiệm
vụ rất khó khăn mà người ta không thể hoàn thành mà không có một sự ngoại viện,
không cần thiết phải là một sự viện trợ vũ khí mà dưới dạng cố vấn và tiếp xúc.
Chúng ta không lấy lại được độc lập bằng cách ném bom hay bằng những hành động
tương tự. Đó là sự sai lầm của những nhà cách mạng lúc đầu đã phạm phải [Có
lẽ ông Hồ muốn nói đến cuộc ám sát thất bại của Phạm Hồng Thái đối với Toàn
Quyền Merlin]. Chúng ta lấy lại độc lập bằng sự tổ chức và tự khép
mình vào kỷ luật. Chúng ta cũng còn cần đến một lòng tin, một phúc âm, một sự
phân tích thực tiễn, có thể nói đến như là một thánh kinh. Chủ thuyết Mác-Lênin
đã cung cấp cho tôi đường lối hành động này.” (Pour Quoc, le
marxisme-léninisme offre des moyens d’action, comme il l’a expliqué des années
plus tard: “Vous devez comprendre qu’arracher l’indépendance à une puissance
comme la France est une tâche formidable qu’on ne peut accomplir sans une aide
extérieure et pas nécessairement une aide en armes mais sous la forme de
conseils et de contacts. On ne gagne pas l’indépendance en jetant des bombes et
par des actes de ce type. Ce fut l’erreur que les premiers révolutinaires
commirent. On gagne l’indépendance en s’organisant et en se diciplinant. On a
aussi besoin d’une foi, d’un évangile, d’une analyse pratique, on peut même
parler d’une bible. Le marxisme-léninisme m’a fourni cette panoplie.)
Thực ra thì có lẽ ông Hồ muốn nói đến Những Luận Đề Về Những Vấn Đề
Quốc Gia Và Thuộc Địa (Theses on The National and The Colonial Questions)
của Lê-nin đưa lên trong Đại Hội II Cộng Sản Quốc Tế (Second Congress of
the Communist International) vào năm 1920 để nghị thảo mà ông biết đến trong Đệ
Tam Quốc tế. Chúng ta đã biết, chính ông Hồ Chí Minh đã thành thực công nhận là
mới đầu ông không hiểu hết những từ và ý tưởng chính trị khó khăn trong bản văn
trên, nhưng rồi đọc đi đọc lại ông mới thấm và hiểu rõ, và ý thức được là những
đề án này đã giúp cho ông ta thấy con đường thích hợp nhất để cứu nước, giải
phóng dân tộc khỏi ách thuộc địa, thực dân. Và ông Hồ đã thành công.
Chúng ta hãy đọc tiếp vài đoạn khác của Giáo sư Brocheux. Trước hết là
một tài liệu trích dẫn từ một tài liệu trong văn khố của Nga Sô, mới được sử gia
Alain Ruscio phổ biến năm 1990, trang 34-36:
“Năm 1934, Ông Hồ trở lại Moscou. Stalin đã củng cố quyền lực, và
những cuộc thanh trừng lớn bắt đầu năm 1937. Có vẻ như con người Hồ Chí Minh
tương lai là nạn nhân, vì từ ngày trở lại Moscou, ông ta không được tin cậy để
giao phó cho một trách nhiệm nào. Không còn nghi ngờ gì nữa người ta đã
trách cứ là ông ta ngả về tinh thần quốc gia trong cuộc chiến đấu chống thực dân
thay vì tinh thần cách mạng vô sản quốc tế.” (En 1934, il est de
retour à Moscou. Staline raffermit son pouvoir, les grandes purges vont débuter
en 1937. Il apparait avec certitude que le futur Ho Chi Minh faillit en être
victime car, depuis son retour, il ne s’est vu confier aucune responsabilité.
Sans doute lui reproche-t’on de préférer le nationalisme qui sous-tend le combat
anti-colonial à l’internationalisme de la révolution prolatérienne.)
“Về vấn đề này, ông Hồ đã bày tỏ quan điểm của mình từ năm 1924. Được
huấn luyện về cách mạng và chủ thuyết Marx bởi Tây phương, tuy nhiên Quốc đã
nhìn theo đặc tính Á Đông: “Cuộc đấu tranh giai cấp ở Đông phương không giống
như ở Tây phương. Marx đã xây dựng lý thuyết của mình trên một căn bản triết lý
nào đó của lịch sử. Nhưng là lịch sử nào? Đó là lịch sử Âu Châu. Nhưng Âu Châu
là gì? Không phải là tất cả nhân loại.” (À ce sujet, il a
expliqué son point de vue dès 1924… Éduqué par l’Occident à la révolution et au
marxisme, Quoc est pourtant persuadé, de la spécifícité de l’Orient: “La lutte
de classes ne se manifeste pas en Indochine comme en Occident.” ; Marx a bâti sa
doctrine sur une certaine philosophie de l’histoire. Mais quelle histoire?
Celle de l’Europe. Mais qu’est ce que l’Europe? Ce n’est pas toute
l’humanité).
“Hồ Chí Minh có thực sự là mgười Mác-xít không? Hay ông ta chỉ là
người Quốc Gia sau lớp sơn đỏ? như một thành viên Cộng Sản Quốc Tế, ông M. N.
Roy, người Ấn Độ, đã nói. Vấn đề này đáng được đặt ra.. Nếu chắc chắn là ông
ta đã đọc bản Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản, nếu đã nhiều lần ông ta nói là chịu
ảnh hưởng trí thức và chính trị của Lê-nin, thì sự gắn bó của ông với chủ
nghĩa Mác không bao giờ có tính cách giáo điều.“ (Ho Chi Minh était-il
vraiment marxiste? Ou n’était-il qu’un “nationaliste peint en rouge”, comme l’a
dit un membre du Komintern, l’Indien M.N. Roy? La question mérite d’être
posée… S’il a certainement lu le Manifeste du Parti Communiste, s’il dit
maintes reprises sa dette intellectuelle et politique envers Lénine, son
adhésion au Marxisme ne fut, pour autant, jamais dogmatique.)
“Không có gì minh họa rõ hơn sự tương phản giữa Hồ Chí Minh và những
người lãnh đạo cộng sản là những trao đổi quan niệm của Mao Trạch Đông và Lưu
Thiếu Kỳ với ông Hồ Chí Minh vào năm 1960. Ông Hồ đã tuyên bố rằng ngay cả
việc giết kẻ thù cũng không được đạo đức; Mao đã trả lời ông ta: “Tưởng Giới
Thạch giết, tôi giết, đó không phải là một vấn đề đạo đức. Và Lưu Thiếu Kỳ thêm
vào là viện đến đạo đức khi ta phải đối phó với những tên tư bản chống cách mạng
là không thích đáng.” (Rien n’illustre mieux le contraste entre Ho Chi
Minh et d’autres dirigeants communistes que les propos que Mao Zedong et Liu
Shaoqi tinrent à Ho Chi Minh en 1960. Ho avait déclaré qu’il n’était pas moral
de tuer même ses adversaires; Mao lui répliqua: “Chiang Kaishek tue, je tue, ce
n’est pas une question de morale.” Et Liu Shaoqi de renchérir qu’il n’était pas
pertinent d’invoquer la morale lorsqu’on avait affaire aux
contre-révolutionnaires capitalistes.)
Ngoài ra, trong cuốn “The Vietnam War Almanac, General Editor:
John S. Bowman, Barnes & Noble Books, NY, 2005”, trang 493, cũng có viết:
“Ông Hồ ít quan tâm đến những chi tiết tế nhị của chủ thuyết CS, không
như Mao và Lê-nin; thiên tài của ông ta là về hành động chính trị, và lý
tưởng của ông ta có thể khá co dãn chừng nào mà nó đưa tới mục đích đã ám ảnh
ông ta: nền độc lập và thống nhất của Việt Nam.” (Ho was less concerned
with niceties of doctrine than Mao and Lenin; his genius was for political
action, and his ideology was capable of considerable stretching as long as it
tended toward the purpose that obsessed him: the independence and unification of
Vietnam.)
Trong cuốn Cracks In The Empire, South End Press, Boston, 1981,
Paul Joseph, Giáo sư xã hội học, đại học Tufts, viết, trang 83:
“Dù rằng thiếu bằng chứng, Washington tiếp tục cho rằng cuộc đấu tranh
chống Pháp (ở Việt Nam) là do sự hứng khởi và chỉ đạo từ Liên Bang Sô
Viết. Thí dụ, trong bức công điện gửi cho Thủ Tướng (Pháp) Ramadier, đại sứ
Mỹ vẫn sai lầm cho rằng Việt Minh là một phong trào mà “triết lý và tổ
chức chính trị đều phát khởi từ và bị kiểm soát bởi điện Kremlin. Tuy vậy,
tình báo Mỹ đã cố gắng, và thất bại, để kiếm ra bằng chứng là có mối liên hệ
kiểm soát giữa Moscou và Hồ Chí Minh. Một công điện của Bộ ngoại giao gửi
cho đại sứ Mỹ ở Trung Quốc viết “Bộ không có bằng chứng nào về sự nối kết
trực tiếp giữa ông Hồ và Moscou nhưng cứ cho rằng có.”
(Despite a lack of evidence,Washington continued to perceive the
anti-French struggle (in Vietnam) as something inspired and directed from the
Soviet Union. For example, in the cable to Premier Ramadier cited above, the
American embassador falsely maintained that the Vietminh was a movement whose
“philosophy and political organization emanated from and was controlled by the
Kremlin.” Yet American intelligence had tried, and failed, to substantiate the
existence of controlling ties between Moscou and Ho Chi Minh. A State
Department cable to the US Ambassador in China read “the Department has no
evidence of a direct link between Ho and Moscou but assumes it exists…)
Và Marilyn B. Young, trong cuốn The Vietnam Wars: 1945-1990,
HarperPerennial, New York, 1991, viết, trang 4:
“Trong vài năm tới, những văn bản Hồ Chí Minh viết bị tố cáo vì
những “mùi hôi quốc gia” trong đó, và sự ủng hộ của ông Hồ về một liên minh
rộng rãi bao gồm cả các địa chủ cỡ nhỏ và trung bình, miễn là họ yêu nước, bị
đả kích là kẻ xét lại và là kẻ hợp tác (với kẻ thù). Phải mười năm
sau sự tranh luận đắng cay về mối liên hệ giữa cách mạng quốc gia và cách mạng
xã hội mới được giải quyết, theo đường lối lúc đầu đưa ra bởi ông Hồ, sự thành
lập Việt Minh (Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội.”
(Over the next few years, Ho Chi Minh’s writings were denounced for their
“nationalist stench”, and his support for a broad alliance that could include
even small and medium landowners, provided they were patriotic, was attacked as
reformist and collaborationist. A decade would pass before this bitter debate
on the relationship between national and social revolution was resolved, along
the lines initially by Ho, in the formation of the Viet Minh.)
Đó là đại khái những gì mà chúng ta biết về ông Hồ qua những nghiên cứu
của một số học giả Âu Mỹ. Chắc chắn là những người này có bằng cấp, địa vị, uy
tín và hiểu biết trong giới khoa bảng Âu Mỹ, và địa vị của họ không cho phép họ
viết bậy bạ, xuyên tạc sự thật. Vậy không hiểu là tôi nên tin vào khả năng
chuyên môn của họ hay nên tin vào những kẻ chống Cộng vô tên tuổi như Minh Võ,
Nhữ Văn Úy, Chu Tất Tiến v..v.. và tập đoàn những người “duy chống Cộng thị
nghiệp” nhưng chẳng có mấy đầu óc và hiểu biết, chuyên dựng đứng những
chuyện bịa đặt về lịch sử và cá nhân theo cảm tính cá nhân, và dùng những danh
từ rất hạ cấp để mạ lị cá nhân trong những bài viết chẳng có mấy giá trị của
mình, điều mà những người trí thức và hiểu biết không ai đi làm như vậy cả.
Chúng ta không nên quên là giữa Nga và Tàu đã có cuộc tranh chấp ở biên
giới Nga-Hoa. Chúng ta cũng không nên quên là Việt Nam đã dẹp chế độ Cộng sản
cực đoan của Pol Pot ở bên Cambodia và đã kháng chiến chống Tàu năm 1979 ở biên
giới phía Bắc. Những người Công giáo cuồng tín ở hải ngoại thường đưa ra luận
điệu ngụy tạo cho rằng ông Hồ là tay sai, theo lệnh Nga Tàu để gây chiến ở Việt
Nam. Nhưng những tài liệu trích dẫn ở trên đã chứng tỏ ngược lại. Họ quên rằng
chính Công giáo mới là tổ chức tuyệt đối theo lệnh ngoại bang. Khi xưa Công
giáo đã làm tay sai và lập công lớn với Pháp để đưa nước nhà vào vòng đô hộ của
thực dân Pháp. Và gần đây, trong vụ Tòa Khâm Sứ, ông TGM “Ngô Quang Kiệt nhục
nhã” đã líu ríu nghe lệnh của Hồng Y Bertone ở Vatican, cuốn gói cờ quạt, thánh
giá, tượng Maria trở về nhà thờ, chấm dứt cuộc làm loạn bất chấp luật pháp quốc
gia. Đây mới là sự nhục nhã thực sự của ông Ngô Quang Kiệt và con chiên, chứ
không phải là sự nhục nhã mang hộ chiếu Việt Nam.
Tôi cũng không thể nào chấp nhận luận điệu cho rằng Cộng sản đã
gây chiến ở Việt Nam, tiền Geneva hay hậu Geneva, những luận điệu phản ánh
những cái đầu mà không có óc, hay của những con bò mộng Tây Ban Nha, chỉ thấy
màu đỏ là húc càn. Làm sao có thể cho là Cộng sản gây chiến khi mà hai cuộc
chiến ở Việt Nam đều có nguyên nhân là sự ngoại xâm của của thực dân Pháp và của
đế quốc Mỹ mà những tài liệu của chính người Mỹ, người Pháp đã viết lên rất rõ
ràng như tôi đã trích dẫn ở phần trên. Mặt khác, nghiên cứu kỹ về cuộc
chiến ở Việt Nam tôi cảm thấy kéo dài chống Cộng với tâm cảnh Quốc-Cộng khi xưa
là điều hết sức vô lý, và sự thù hận Cộng sản có
nhiều phần phi lý. Nói như vậy không có nghĩa là tôi ủng hộ tình trạng tham
nhũng, nền giáo dục xuống cấp, cơn sốt kinh tế, đặt tiền tài vật chất lên trên
hết, kéo theo nhiều tệ đoan trong xã hội hiện nay ở Việt Nam. Những vấn nạn xã
hội này cần phải giải quyết với sự đóng góp của toàn dân, với thiện chí và thức
tỉnh trong tinh thần phục vụ người dân của chính quyền.
Đối với một thiểu số, phần lớn thuộc thế lực đen, những người như Linh Mục
Nguyễn Hữu Lễ thì ngày 30/4/75 là ngày “Quốc hận” trong khi từ chính xác nhất
phải là ngày “Công giáo hận.” Tại sao? Vì Công Giáo đã mất đi quyền tự
tung tự tác như dưới thời Diệm, Thiệu, và quyền làm Việt gian như trong quá khứ.
Lẽ dĩ nhiên “Quốc” và “Công giáo” là hai từ hoàn toàn khác nhau,
nếu không muốn nói là bất khả tương hợp nếu xét trên những sự kiện lịch sử từ
ngày các thừa sai Công giáo đầu tiên đặt chân trên đất Việt và qua cuộc xâm lăng
và đô hộ của thực dân Pháp cho đến các chính quyền Diệm, Thiệu, nhất là Diệm.. “Quốc”
của Công giáo là ở trên trời, nơi Giê-su “ngồi lên trên” tay phải của Cha ông ta
(sit on the right hand of God), nhưng thực ra là Vatican.
Những người
không có mấy đầu óc thường lấy cái hận của mình hay của tôn giáo mình làm cái
hận của cả một quốc gia, không buồn để ý là nói như vậy chỉ tỏ rõ trình độ
thấp kém của mình. Bày tỏ ý kiến cá nhân là quyền căn bản của con người, miễn là
những ý kiến bày tỏ không thuộc loại khích động sự thù hận mà nước Mỹ quy vào
một loại tội ác “hate crime”, nhưng không ai có quyền lấy ý kiến của mình làm
ý kiến của cả cộng đồng, của cả dân tộc. Cho nên từ “Quốc hận”
là một từ của những kẻ vô trí cưỡng đặt trên cả một quốc gia mối hận của những
cá nhân hay tôn giáo họ.
Đối với một thiểu số khác thì ngày 30/4/1975 là ngày mà họ không ngớt lời
lên án “Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam” làm như “miền Nam” là một nước
của riêng những người sống ở miền Nam, mà không cần để ý đến miền Nam cũng
là một phần đất của nước Việt Nam. Họ cũng quên đi tất cả những nguyên nhân,
yếu tố nào đã đưa đến sự hình thành một miền Nam mà thực chất không nằm trong
tay người miền Nam, nói khác đi, một miền Nam không có căn cước của một quốc gia
độc lập, có đầy đủ chủ quyền..., vì hoàn toàn lệ thuộc Mỹ và bất lực, không
hề có phản ứng trước những chính sách và hành động tàn bạo của người Mỹ đối với
người dân miền Nam của mình nói riêng, người dân Việt Nam trên toàn quốc nói
chung, như những tài liệu nêu trên của chính người Mỹ đã viết rõ. Nhưng tại sao
Việt Cộng có thể “cưỡng chiếm” được miền Nam, nếu đồng minh không quá chán chê
với cái miền Nam nên đành “tháo chạy”, nếu quân dân miền Nam không chán chường
vì chiến tranh với tâm cảnh “cũng thế thôi” [Xin đọc bài “Đầu Hàng” của
Vân Xưa, alias Hồ Sĩ Khuê].
Điều hiển nhiên là những quan điểm như “mất nước”, “Quốc hận”, “Việt Cộng
cưỡng chiếm miền Nam” chỉ là những quan điểm cá nhân của một thiểu số được đưa
lên những diễn đàn truyền thông hải ngoại làm như đó là những quan điểm của cả
cộng đồng người Việt di cư gồm hơn 2 triệu người. Chỉ có điều những quan điểm
như vậy phản ánh một trình độ rất thấp kém, vì không hiểu ngay cả những từ đơn
giản như thế nào là “nước”, là “Quốc”, và “cưỡng chiếm”. Những quan điểm cá nhân
thiển cận này thường chỉ là những “thùng rỗng kêu to”, hoàn toàn vô nghĩa và vô
giá trị trước những quyền lợi lớn lao của cả toàn dân tộc.
◎
Và bây giờ tôi xin sang đến phần bày tỏ quan niệm cá nhân của tôi. Chỉ có một
điều khác biệt, quan niệm của tôi không dựa trên cảm tính cá nhân mà dựa trên
trên lịch sử dân tộc Việt Nam, trên những mặt tích cực của đất nước.
Lẽ dĩ nhiên, từ những hiểu biết mới, quan niệm của tôi về ngày 30 tháng Tư
năm 1975, cũng thay đổi. Nó không còn là “ngày mất nước”. Nước vẫn còn đó và
càng ngày càng phát triển; nó không còn là “tháng tư đen” mà là tháng tư đánh
dấu thêm một trang oai hùng trong chiều dài lịch sử chống xâm lăng của Việt
Nam. Nó cũng không còn là ngày “quốc hận”, một từ mà người Công giáo dùng để
thay cho “Công giáo hận”. Tại sao?
Chẳng có ai phủ nhận là CS Việt Nam trong quá khứ đã có
những sai lầm về chính sách, về những biện pháp độc tài khắc nghiệt không phù
hợp với truyền thống văn hóa của người Việt Nam. Chính sách Cải Cách Ruộng Đất
không sai nhưng khi thi hành đã vấp phải những sai lầm không kiểm soát được.
Điều đáng nói là chính quyền đã thẳng thắn công nhận sự sai lầm trước quốc dân
và có những hành động đền bù.
Tết Mậu Thân xẩy ra trong cuộc chiến và sự tàn
bạo không chỉ ở một phía. Ngày nay có nhiều tài liệu có thể làm sáng tỏ phần
nào về vụ Tết Mậu Thân ở Huế. [Xin đọc một số tài liệu về Tết Mậu Thân trên
dongduongthoibao.net hoặc nhandanvietnam.org] Nói như vậy không có nghĩa là bênh
vực hay biện hộ cho những hành động của CS trong các vụ trên là chính đáng,
nhưng chúng ta khi viết về những biến cố trên không thể chỉ đưa ra luận điệu một
chiều, nhiều khi chỉ có mục đích tuyên truyền qua những con số ngụy tạo, phóng
đại của một phía mà phải có những nhận định tổng hợp từ mọi phía. Nhưng dù
sao thì đa số người dân Việt Nam, Quốc cũng như Cộng, cũng không thể phủ nhận
được những đóng góp to lớn của CSVN cho đất nước. To lớn như thế nào, điều này
đã được David G. Marr viết trong Phần Dẫn Nhập của cuốn “Vietnamese Tradition
On Trial 1920-1945”, trang 1. David G. Marr là Giáo sư nghiên cứu về Thái
Bình Dương ở Đại Học Quốc Gia Úc.
Năm 1938, ít nhất là 18 triệu người Việt nằm trong
vòng kiềm tỏa của chỉ có 27000 binh lính thuộc địa. Tuy vậy mà chỉ 16 năm sau,
lực lượng thuộc địa tới 450,000 quân mà không thể tránh khỏi cuộc thảm bại về
chiến thuật ở Điện Biên Phủ và bắt buộc phải di tản chiến lược xuống miền Nam vĩ
tuyến 17. Sau cùng, trong những năm 1965-1975, nhiều tổ hợp của Mỹ, Việt Nam
Cộng Hòa, Nam Hàn, và các lực lượng quân sự đồng minh khác, tổng số lên tới 1.2
triệu người cũng bị thảm bại, và cuối cùng cũng bị đánh bại bởi Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam và Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.
(In 1938 at least eighteen million Vietnamese were
being kept in check by a mere 27,000 colonial troops. Yet a scant sixteen years
later, colonial forces totalling 450,000 were unable to avoid tactical disaster
at Dien Bien Phu and compulsory strategic evacuation south of the seventeenth
parallel. Finally, in the years 1965-1975, various combinations of American,
Republic of Vietnam, South Korean, and other allied armed forces totalling up to
1.2 million men were outfoxed, stalemated, and eventually vanquished by the
National Liberation Front and the People’s Army of Vietnam.)
Đó có phải là một đóng góp to lớn cho dân tộc Việt Nam
hay không bất kể là sau đó, CS đã suy thoái về lý tưởng ban đầu: giải phóng dân
tộc, gồm có giải phóng đất nước và giải phóng người dân. Nếu chúng ta lại biết
rằng, ngày 22-12-1944, ông Võ Nguyên Giáp mới bắt đầu thành lập một Trung đội 34
người, và từ đội quân nhỏ nhoi này đã phát triển thành Quân Đội Nhân Dân Việt
Nam trong vòng chưa đầy 10 năm để đưa đến thành tích chiến thắng ở Điện Biên
Phủ, và sau đó với thành tích chiến thắng một đối phương có ưu thế tuyệt đối về
quân sự và kinh tế, để đi đến thống nhất đất nước, thì đó có phải là điều đáng
để cho chúng ta suy nghĩ và nhìn CS Việt Nam ngoài cái lăng kính nhỏ hẹp của hội
chứng Quốc – Cộng không? Có bao giờ chúng ta đặt một câu hỏi cho chính chúng
ta, những người quốc gia, là nếu những điều chúng ta viết ở hải ngoại trong
những chiến dịch “tố Cộng” là đúng, thì làm sao CS có thể thắng trong cả hai
cuộc chiến? Lẽ dĩ nhiên những thành tích trên là của toàn dân, nhưng nếu
không có sự tổ chức và lãnh đạo của những người CS VN thì làm sao tự thân nhân
dân có thể đạt được những thành tích như vậy?
Chúng ta nên nhớ là từ ngày Pháp lập nền đô hộ ở Việt
Nam với công lớn của người Công giáo Việt Nam, đã có nhiều nhà ái quốc và tổ
chức chính trị nổi lên để chống Pháp. Nhưng chỉ có Việt Minh là thành công.
Những người chống Cộng đã đưa ra nhiều lý do nhưng chẳng có lý do nào có giá trị
lịch sử, tất cả chỉ là những cảm tính cá nhân và cuồng tín tôn giáo. Tại sao
chúng ta không thể đặt lên cán cân những sai lầm đáng tiếc của CS đối lại với
những gì CS đã cống hiến cho đất nước Việt Nam? Có một số người khùng đến độ gọi
Cộng Sản Việt Nam là “Việt Gian” và gọi những người ở hải ngoại mà họ cho là
“thân Cộng” chỉ vì không hợp ý họ cũng là Việt gian. Cộng sản hay không, một
lực lượng đã thành công đánh đuổi được thực dân, mang lại độc lập và thống nhất
cho đất nước mà là “Việt Gian”, vậy thì tổ chức tôn giáo của những người Việt
hoàn toàn lệ thuộc ngoại bang, đi làm tay sai cho thực dân Pháp để đưa nước nhà
vào vòng nô lệ thì gọi là gì ? Là những người “yêu nước” hay sao? Điều
đáng nói là trên một số diễn đàn truyền thông chống Cộng ở hải ngoại không thiếu
gì những người khùng như vậy, và những người này phần lớn lại nằm trong một tập
đoàn Việt gian như lịch sử đã ghi.
Với những sự hiểu biết mới và suy tư như trên, sau đây là những nhận định
mới của tôi về ngày 30 tháng Tư.
Ngày 30/4/1975 không chỉ có nghĩa là ngày đất nước thống nhất, chủ
quyền trở lại tay người Việt Nam, mà còn là ngày người dân Việt Nam, trừ
những kẻ có tâm cảnh phi dân tộc hay tiếp tục nuôi dưỡng thù hận, bất kể thuộc
chính kiến hay phe phái nào, đều có thể hãnh diện ngẩng mặt nhìn thẳng vào mắt
kẻ đối thoại, bất kể là họ thuộc lớp người nào, ở địa vị nào, thuộc quốc gia
nào. Tại sao? Vì đó là ngày đánh dấu thêm một trang sử chống xâm lăng oai hùng
của nhân dân Việt Nam.
Tôi ở phe thua trận, nhưng chiến thắng Điện Biên Phủ,
cũng như ngày 30/4/1975, đã mang đến cho tôi một niềm hãnh diện được làm một
người Việt Nam, một người Việt Nam không Quốc Gia không Cộng Sản, không Nam
không Bắc, một người Việt Nam không từ bỏ gốc gác tổ tiên, không từ bỏ lịch sử
khi vinh khi nhục của quốc gia, và lẽ dĩ nhiên rất hãnh diện với lịch sử chống
xâm lăng của dân tộc.
Ngày 30/4/1975 cũng là ngày hòa bình đã đến đất nước Việt Nam, không còn
chiến tranh bom đạn chết chóc phi lý và một thế hệ mới đã có thể bắt tay vào
việc xây dựng đất nước. Bất kể những hô hào chống đối của một thế lực đã nổi
tiếng là phi dân tộc cũng như của một số người đã sống với những “hào quang” của
quá khứ ở miền Nam, tình người Việt Nam đã tỏ rõ trong sự kiện hàng năm có nhiều
trăm ngàn người Việt tha hương về thăm quê hương. Nhiều chuyên gia trong giới
trẻ cũng đã góp phần xây dựng đất nước qua những kiến thức chuyên môn của mình,
và không ai có thể phủ nhận là đất nước càng ngày càng phát triển, vượt xa chế
độ miền Nam trước đây về đủ mọi mặt, kể cả về phương diện tự do và dân chủ tuy
rằng còn có ít nhiều giới hạn để đối phó với những người lợi dụng tôn giáo hay
dựa thế ngoại bang trong mưu toan làm loạn quốc gia, và đối phó với một số chính
trị gia ấu trĩ vọng ngoại.
Ngày 30/4/1975 mở đầu cho một cuộc di dân vĩ đại chưa từng có trong lịch
sử Việt Nam. Hơn hai triệu người, đi chính thức cũng như vượt biên, hiện đang
sống ở nước ngoài. Ở ngoại quốc, người Việt Nam nổi tiếng là cần cù, chịu khó,
con em học hành rất thành đạt và có thể nói là vượt trội nhiều sắc dân khác đã
định cư ở hải ngoại lâu đời.
Điều này không có nghĩa là con em Việt Nam ở ngoại
quốc giỏi hơn hay thông minh hơn con em người dân ỡ trong nước. Và trong cộng
đồng người Việt hải ngoại không phải là không có những băng đảng cướp của, giết
người, tống tiền v..v.., hậu quả của sự đua đòi vật chất nhưng lại không có khả
năng chuyên môn để kiếm sống; những sự gian lận của một số trí thức vô liêm sỉ
trong các giới bác sĩ, luật sư; những hành động phi dân chủ, tự do nhân danh
chính dân chủ và tự do của một số người thuộc loại chống Cộng chết bỏ, trong số
này có cả một số tu sĩ Công giáo cũng như Phật Giáo, những kẻ đầu cơ chính trị
v..v.. Ở đâu cũng vậy, đồng tiền và hư danh đã làm cho con người không còn lương
tri, không còn liêm sỉ, không còn đạo đức, chỉ vơ vào bản thân bằng bất cứ
phương tiện nào.
Riêng đối với cá nhân tôi, ngày 30/4/1975 là ngày tôi quyết định ly hương
trước đó mấy ngày và cho đến bây giờ tôi vẫn không hối tiếc gì về quyết định
này. Không được sống trên quê hương đất tổ, nhưng cả thế giới đã mở ra trước mắt
tôi. Không gian như thu hẹp lại, và tôi có thể đi khắp thế giới, đến bất cứ nơi
nào tôi muốn, để mở rộng tầm mắt. Thật vậy, nhờ “hồng ân thiên chúa” nên tôi đã
có dịp đi tham quan, ngoài gần khắp nước Mỹ, khá nhiều nơi trên thế giới: Trung
Quốc, Đài Loan, Singapore, Tây Âu, Đông Âu, Bắc Âu, Hi Lạp v..v… Vì sau ngày 30
tháng Tư 75 nước vẫn còn đó, không có mất đi đâu, nên ngày nay, tôi muốn về thăm
quê hương khi nào cũng được. Và tôi đã thực hiện ba chuyến về thăm quê hương
trong các năm 1996, 1998 và 2007. Tôi cũng còn dự định về xem lễ hội kỷ niệm
1000 năm Thăng Long vào năm tới, 2010.
Kể từ ngày tôi “tự cưỡng bách di tản” khỏi Saigon vào
mấy ngày cuối tháng 4 năm 1975, nay đã hơn 34 năm sống trên đất Mỹ. Cuộc chiến
Việt Nam đã đưa đẩy nhiều người đến những số phận không ai muốn (trừ những người
“tị nạn” nhưng thật ra vì lý do kinh tế). Nhưng dù muốn hay không, với bản năng
sinh tồn, con người vẫn phải tiếp tục sống. Đối với những mất mát về tinh thần
và vật chất khi phải xa quê hương, nói rằng không có sự luyến tiếc chỉ là tự dối
lòng. Nhưng điều bù đắp hơn hết là tôi có cơ hội đọc rất nhiều sách về chiến
tranh Việt Nam, về Ki Tô Giáo cũng như về Phật Giáo. Điều này đã khiến tư duy
của tôi thay đổi trên nhiều phương diện.
Đối với tôi, sự mất mát trong một giai
đoạn đã được đền bù bằng những món ăn tinh thần mà trước đây tôi không bao giờ
nghĩ tới. Từ 1975, định cư ở Mỹ, tôi mới có cơ hội và phương tiện để tìm hiểu về
Phật Giáo. Tôi cho đó là một hồng phúc của tổ tiên để lại. Ngoài ra, tôi cũng
còn có cơ hội để tìm hiểu thực chất về các tôn giáo khác, đặc biệt là về Ki Tô
Giáo nói chung, Công giáo Rô Ma (Roman Catholicism) nói riêng, cũng như về lịch
sử thế giới và lịch sử Việt Nam mà tôi tin rằng nếu ở lại Việt Nam tôi không thể
nào có phương tiện và cơ hội để có được những sự hiểu biết này. Qua những kiến
thức mới thu thập được này, tôi đã từ một người “Quốc gia” trở thành một người
“của Quốc Gia”, Quốc gia Việt Nam.
Về chiến tranh Việt Nam, chúng ta đã thua, và một thiểu số muốn tiếp tục
cuộc thánh chiến chống Cộng ở hải ngoại, chống Cộng vì những mất mát cá nhân về
quyền thế, về tôn giáo, hay tài sản, hay người thân v..v.., nói chung, với lý do
chúng ta là “nạn nhân của Cộng Sản”. Nhưng trong chúng ta, có ai đặt câu hỏi:
“Thế nạn nhân của Mỹ và của phía Quốc Gia thì sao?” Ai có can đảm trả
lời trung thực câu hỏi này. Nên nhớ, chính quyền Ngô Đình Diệm đã giết khoảng
300,000 người vô tội trong chính sách “tố Cộng”, cộng với những thảm bom trải từ
B52, vùng oanh kích tự do, Bến Tre, chiến dịch Phụng Hoàng, Agent Orange, Mỹ Lai
v..v.. Và sự thật là, trong cuộc chiến, số người chết, bị thương của miền Bắc
gấp mấy lần của miền Nam. Khoan nói đến những sự tàn khốc của chiến tranh,
những người chết và thân nhân gia đình họ ở phía bên kia có phải là người không,
và những người còn sống có đau khổ trước những sự mất mát to lớn đã đến với họ
không? Họ có quyền thù hận chúng ta không?
Vậy nếu họ cũng kéo dài thù hận như chúng ta, thì sự thù hận này bao giờ
mới chấm dứt, oan oan tương báo. Nhưng trên thực tế, chúng ta chỉ thấy những
thái độ thù hận một chiều, đúng ra là ngược chiều, từ phía những người quốc gia
ở hải ngoại. Có vẻ như những người đi buôn thù hận này nghĩ rằng, những người
bên phía CS không phải là người, không có cha mẹ, vợ chồng
con cái, bạn bè thân thuộc v..v.. nên những mất mát tổn thất của họ không đáng
kể, chỉ có những tổn thất của phía chúng ta mới đáng để thù hận.
Những người
chống Cộng chỉ đưa ra những luận điệu một chiều để chứng minh chỉ có CS là ác,
còn QG hay Mỹ thì không. Họ cố tình lờ đi và không bao giờ nhắc đến những hành
động đối với dân, với kẻ thù, của người lính Quốc Gia cũng như của người lính Mỹ
mà CS cũng phải chào thua, như những tài liệu của chính người Mỹ như đã trình
bày ở trên. Nhưng cũng may là sự thù hận này phần lớn chỉ có một chiều, tập
trung trong một thiểu số ở hải ngoại mà đa số trong đó thuộc thế lực đen, một
thế lực đã nổi tiếng trong dân gian, mà lịch sử đã ghi rõ, là “mất gốc”,
là “tay sai ngoại bang” và “hễ đã phi dân tộc thì thể nào cũng phản
dân tộc”, đang nắm những phương tiện truyền thông ở hải ngoại.
Ngày nay, thế giới Tây phương và tay sai tập trung vào chiến dịch hướng
dẫn dư luận, thật ra là lạc dẫn [mislead] dư luận qua những luận điệu tuyên
truyền xuyên tạc lịch sử, thổi phồng tội ác của Cộng Sản, nhằm mục đích xóa tên
Cộng sản trên chính trường thế giới để chạy tội cho chính mình. Sách lược
chung của họ là chỉ đưa ra, và thường là thổi phồng, xuyên tạc mặt xấu của Cộng
Sản mà không bao giờ nói đến cái lịch sử ô nhục của Tây phương về tôn giáo, về
thực dân, cũng như không bao giờ nói đến những thành quả của Cộng Sản trên thế
giới, kể cả ở Âu Châu.
Riêng về Việt Nam, những người chống Cộng cực đoan
hay chống Cộng cho Chúa thường quên đi hay xuyên tạc, hạ thấp những chiến công
lừng lẫy của Cộng Sản trong công cuộc đánh đuổi thực dân Pháp, cất bỏ được ách
đô hộ của thực dân trên toàn thể dân tộc, và là tiền phong trong những cuộc cách
mạng chống thực dân trên thế giới, và sau cùng thống nhất đất nước. Họ chỉ quan
tâm đến vài con số ngụy tạo trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất ở Việt Nam. Trong cuộc
chiến với Mỹ ở miền Nam, họ chỉ nhắc đến Tết Mậu Thân theo luận điệu tuyên
truyền của Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ, mà quên đi bom đạn Mỹ và VNCH đã tàn phá Huế
và Bến Tre như thế nào, đã làm bao nhiêu thường dân vô tội chết.
Một tài liệu
cho biết, cho tới cuối năm 1966, theo ước tính của CIA thì bom của Mỹ thả ở
ngoài Bắc đã làm chết trên 35,000 người mà 80% là thường dân [Ronald H. Specter,
After Tet, The Free Press, New York, 1993, p. 12: The bombing’s
economic and military damage to North Vietnam was estimated by the CIA at about
$130 million by the end of 1966, and more than 35000 North Vietnamese, 80
percent of them civilians, had been killed]. Họ cũng không bao giờ nhắc
đến Mỹ Lai, chiến dịch Phụng Hoàng, vùng oanh kích tự do, thuốc khai quang, và
những chính sách tàn bạo gấp bội, giết nhiều người gấp bội của Mỹ và tay sai,
nhất là của chính quyền tôn giáo trị, gia đình trị của Ngô Đình Diệm với chính
sách “tố Cộng” bừa bãi, với đoàn mật vụ miền Trung, với khu 9 hầm của Ngô Đình
Cẩn v.v... Nhưng tài liệu về cuộc chiến ở Việt Nam ngày nay không thiếu, cho
nên những luận điệu “tố Cộng” một chiều theo thiên kiến không còn giá trị thuyết
phục, ít ra là đối với lớp người có đôi chút hiểu biết về lịch sử.
Có một điều khó ai có thể phủ nhận là cuộc cách mạng 1789 của Pháp, và sự
bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản trong thế kỷ 20, đã phần nào làm sụp đổ ý
thức hệ và quyền lực của Công giáo Rô-ma Âu Châu, hậu quả là tình trạng suy
thoái thê thảm của Ki Tô Giáo ở Âu Châu ngày nay. Có thể nói, chủ nghĩa Cộng Sản
là một toa thuốc đã thành công chữa vài căn bệnh thời đại đã giáng lên đầu nhân
loại:
- bệnh nghiện thuốc phiện Thiên Chúa của Âu
Châu mà người dân Âu Châu ngày nay đã cai từ từ,
- bệnh tư bản bóc lột giai cấp vô sản
của cuộc cách mạng kỹ nghệ mà các xí nghiệp đã phải cho tổ chức những nghiệp
đoàn để bảo vệ quyền lợi của công nhân,
- và bệnh thực dân bóc lột chà đạp những
nước nhược tiểu, đã cáo chung sau chiến thắng Điện Biên Phủ ở Việt Nam.
Việt Nam nên hãnh diện vì đã
đi tiên phong trong sứ mạng giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp,
một ách nô lệ mà lịch sử đã ghi rõ, thực dân Pháp không thể áp đặt lên dân
tộc Việt Nam nếu không có những sự hỗ trợ, hành động tay sai của tổ chức Công
Giáo Rô-ma ở Việt Nam, như chính giám mục Puginier đã thú nhận.
Cộng Sản
Việt Nam đã mở đường chôn vùi chế độ thực dân trên thế giới, đồng thời đưa thế
lực đen đã nổi tiếng là “hễ phi dân tộc thì thể nào cũng phản dân tộc” về nguyên
vị là một thiểu số lệ thuộc ngoại bang trên đất nước, và mất đi những
quyền lợi chỉ có thể có được nhờ thực dân và 2 chính quyền Công giáo ở miền
Nam. Đây là những sự kiện lịch sử không ai có thể phủ bác bất cứ dưới lý luận
méo mó thiển cận nào, thí dụ như, cứ để yên rồi Pháp sẽ trả lại độc lập cho cũng
như Mỹ đã trả lại độc lập cho Phi Luật Tân mà không biết rằng bao nhiêu ngàn
người Phi Luật Tân đã chết vì chống Mỹ.
Nhưng sau khi đánh đuổi được thực dân
và thống nhất đất nước, chủ nghĩa Cộng Sản đã không còn thích hợp. Vì vậy mà sớm
hơn cuộc “cách mạng nhung 1989” tại Đông Âu, từ 1986, Việt Nam đã
kịp thời chuyển hướng, từng bước tự mình đổi mới để vượt qua những khó khăn lúc
đầu của tình trạng kiệt quệ sau cuộc chiến, vượt qua sự cấm vận trong 19 năm của
Mỹ, và đưa quốc gia đến tình trạng phát triển về mọi mặt ngày nay. Chỉ có
những con bò mộng Tây Ban Nha, đeo thêm cặp kính màu hồng, nhìn đâu cũng thấy
màu đỏ và cắm đầu húc càn, mới không biết đến những điều này.
Tôi biết bài này sẽ làm cho một số người phát dị ứng, nhất là những người
thuộc thế lực đen quốc tế [Từ của Linh mục Joseph McCabe: The Black
International]. Nhưng trong lãnh vực học thuật thì đó là sự thật, chỉ là sự
thật, không gì ngoài sự thật (the truth, the only truth, nothing but the
truth). Ai cũng biết là từ trước tới nay lập trường của tôi là “không chống
Cộng“, ít ra là không chống Cộng như những người chống Cộng ở hải ngoại, thí dụ
như chống một nghị quyết, chống một ông thầy tu đi giảng đạo nước ngoài, chống
một bức tranh, chống một bản nhạc, chống một cái bắt tay giữa ông Nguyễn Xuân
Vinh và bà Madison Nguyễn, chống những người không đồng ý với mình và cho họ là
Cộng sản v..v..... Hay chống Cộng như ông linh mục Đinh Xuân Minh, đòi chống
Cộng theo gương David, mà theo chính Kinh Thánh thì là một tướng cướp sau lên
làm Vua thì hoang dâm vô độ, mưu đồ giết thuộc hạ để cướp vợ của thuộc hạ
v..v...
Lý do chính đối với tôi rất đơn giản, Cộng ở đâu mà chống?
Theo như những lời huênh hoang của Công giáo Mít thì “Đức thánh cha“ John Paul
II của họ cùng với Gorbachev và Tổng thống Reagan đã dẹp tiệm Cộng sản từ năm
1989, vậy nếu bây giờ tôi cứ hùng hổ chống Cộng thì chẳng hóa ra là tôi ngu, đi
chống một hồn ma hay sao. Trên diễn đàn hải ngoại, và có cả ông thầy tu trong
nước, đòi “giải thể chủ nghĩa CS“ trong khi thực sự chẳng biết chủ nghĩa CS là
cái gì, và hiện nay ở Việt Nam còn ai áp dụng chủ nghĩa CS hay không, chủ nghĩa
như thế nào và áp dụng như thế nào. Đầu óc tôi tương đối vẫn chưa đến độ ngu
như vậy, vẫn là đầu óc của con người, không phải là đầu óc của con chiên.
Có người chất vấn tôi: tại sao ông không chống Cộng mà lại đi chống Công
giáo?
Đây là một câu hỏi hàm ý muốn áp đặt khuynh hướng chính trị của mình lên
người khác. Chống Cộng hay không và chống Công giáo hay không là quyền của tôi,
không ai có quyền xía vào lập trường cá nhân của tôi. Tuy nhiên, tôi cũng có
một câu trả lời rất đơn giản: “Việt Nam, qua dòng lịch sử, rất trân quý nền độc
lập và chủ quyền của nước nhà, và không ngại hi sinh để gìn giữ đất nước như
lịch sử đã chứng minh. Nhưng lịch sử cho thấy, Công giáo “có công“ đưa nước nhà
vào vòng nô lệ của thực dân Pháp và đào tạo được nhiều Việt gian như Trần Bá
Lộc, Nguyễn Trường Tộ, Pétrus Ký, Nguyễn Thân, Nguyễn Bá Tòng, Trần Lục, Lê Hữu
Từ, Hoàng Quỳnh, dòng họ Ngô Đình v..v...., còn Cộng sản thì có công đánh đuổi
được thực dân Pháp và thống nhất đất nước. Hai cái “công“ này rất khác nhau,
một là công đối với tổ tiên, đất nước; còn một là công đối với ngoại bang để xâm
chiếm đất nước của tổ tiên, phản bôi dân tộc. Vậy thì, chúng ta nên
chống Cộng hay chống Công giáo?“
Nhưng xét cho cùng thì tôi cũng chẳng phải là chống Công giáo, vì trước sự
tiến bộ trí thức của thế giới, Công giáo tự nó phải suy thoái chứ có gì đáng đâu
mà phải chống. Chính Công giáo đã chống Công giáo hơn ai hết chứ chẳng
phải Cộng sản hay người ngoại đạo đã chống Công giáo.
Chính vụ Giáo hoàng John
Paul II cùng một số Hồng Y, Tổng Giám Mục xưng thú 7 núi tội ác của Công giáo
trước thế giới đã chống Công giáo.
Chính lịch sử các Giáo hoàng loạn
luân, loạn dâm, sát nhân tàn bạo đã chống Công giáo.
Chính sự phá sản
tâm linh và đạo đức của giới chăn chiên qua những vụ như hơn 5000 linh mục bị
truy tố về tội loạn dâm với trẻ phụ tế và nữ tín đồ, hay cưỡng bách tình dục các
Sơ, chị em tâm linh của họ, trong 24 quốc gia đã chống Công giáo.
Chính
sự tàn nhẫn của một số Sơ đối với các trẻ mồ côi trong các viện mồ côi và một số
cơ sở “từ thiện“ của Công giáo đã chống Công giáo.
Chính lịch sử Công
giáo Việt Nam làm tay sai cho thực dân Pháp để đưa nước nhà vào vòng nô lệ Pháp,
như Giám Mục Puginier đã khẳng định, đã chống Công giáo hơn gì hết.
Chính sự nô lệ Vatican của Công giáo Việt Nam đã chống Công giáo. Còn
nhiều nữa nhưng tôi tưởng chừng đó cũng đủ để thấy rằng chính Công giáo đã chống
Công giáo hơn ai hết.
Tôi viết như trên không có nghĩa là tôi chống những người
dân theo Công giáo, họ là nạn nhân của những sự mê hoặc tôn giáo. Cái mà tôi
chống là cấu trúc tự tạo quyền lực của Công giáo để nhốt đầu óc tín đồ vào
một ngục tù tâm linh bằng những điều huyễn hoặc hoang đường đã không còn giá
trị trên thế giới ngày nay. Điều đáng trách là chính Giáo hội cũng đã biết như
vậy, nhưng giới chăn chiên, để duy trì quyền lực vật chất cũng như tinh thần
trước đám dân thấp kém, vẫn không có sự lương thiện trí thức để khai sáng đầu óc
tín đồ.
Những người Công giáo lên án tôi là “chống Công giáo“! Hãy dùng đầu óc để
suy nghĩ xem những điều tôi viết về Công giáo có phải là những sự thật hay
không, hay đó chỉ là những sự bịa đặt của ... Cộng sản (!) mà tôi dùng để “chống
Công giáo“? Tôi chỉ đưa ra những sự thật về Công giáo, qua những tài liệu bất
khả phủ bác của giới học giả Âu Mỹ, trong đó đa số lại là học giả Thiên Chúa
giáo, với hi vọng giúp được phần nào tăng sự hiểu biết đúng đắn của người
dân Việt Nam về bộ mặt thật của Công giáo.
Có lý do gì để người dân Việt Nam
không được quyền biết những sự thật này? Những tín đồ Công giáo có quyền tin
những lời dạy của các bề trên, rằng Công giáo của họ là một “hội thánh, thiên
khải, duy nhất, tông truyền“, quán quân về tinh thần bác ái v...v... Nhưng họ
phải biết rằng, bất kể Giáo hội Công giáo dạy tín đồ của họ như thế nào, đối với
những người hiểu biết ở ngoài đạo như tôi thì, trước hàng núi tài liệu khả
tín về Công giáo của hàng trăm học giả ở trong cũng như ở ngoài giáo hội viết về
Công giáo. Công giáo chẳng qua chỉ là một tổ chức thế tục ngụy trang đàng sau bộ
mặt tôn giáo, có nhiều sắc thái của Mafia, Mafia tâm linh cũng như Mafia vật
chất.
Tôi không có viết chơi, một trong những cuốn sách viết về những sắc
thái này là cuốn “The Vatican Mafia” của Đức Ông Tiến sĩ Rafael Rodriguez
Guillen trong Giáo hội Công giáo. Đức ông Rafael Rodriguez Guillen chưa hề bị
tuyệt thông và vẫn còn hành nghề hợp pháp [the person saying it is a Monsegñor
and Vaticanist priest who has not been excommunicated and still has his
Canonical licenses.] Đây là một tác phẩm kết quả của nhiều năm nghiên cứu khoa
học về lịch sử, triết lý, thần học và thánh kinh [This is a work of many years
of philosophical, biblical theological, scientifically and historical
investigation]
Cuốn The Vatican Mafia gồm có 40 chương, trong đó chúng ta có thể
đọc được những chương điển hình như sau:
3.
Personages of the Sacred Mafia of the Vatican
4.
The Vatican's Mafia in the Catholic Churches
5.
The Gangsters or the Vatican's Sacrilegious Mafia
6.
The connection of the Vatican in the Counterfeiting of Billions of Dollars
7.
The Vatican and her Connections With the Crime Syndicate
8.
The Archbishop Marcinkus and the Vatican's Mafia
9.
The Vatican's murderous Mafia
11.
The Vatican's Alliances with the International Mafia
12.
The Holy Mafia
13.
The Intellectual, Political and Sacred.....Mafia
14.
The Sacred Mafia in the USA, Spain and Latin America
15.
The Terrorist Mafia of the Vatican
16.
The Vatican and her Roman Legions Connected with the Mafia
17.
The Vatican Mafia's Efforts to Destroy Protestants
18.
The Lie of the Catholic Ecumenical Movement Organized by the Vatican's Mafia
20.
The Holy Mafia or the Opus Dei
21.
Writers and Historians who Prove the Vatican's Mafia
22.
Richard Hammer's Book "The Vatican Connection with the Mafia"
23.
Vaticanist Historians not compromised with the Vatican's Mafia
31.
The Vaticanist Author Rapporport Documents the Vatican's Mafia
34.
The Mafia of the Vatican is Directed by the Antichrist 666
35.
The Great Conflict between Christ and Antichrist or the Vatican's Mafia
38.
Satanic Practices of the Mafia
Tôi đã trở thành một công dân Mỹ gốc Việt 29 năm nay rồi. Nhân danh là
một công dân Mỹ, những gì tôi viết về Mỹ, chẳng phải là để chống Mỹ, mà chỉ là
những sự thật về Mỹ, từ những tài liệu của chính người Mỹ. Cũng vậy, những gì
tôi viết về Công giáo chẳng phải là tôi chống Công giáo, mà chỉ là những sự thật
về Công giáo, từ những tài liệu nghiên cứu về Công giáo của các học giả Âu Mỹ, ở
trong cũng như ở ngoài Công giáo. Không ở trong lãnh vực học thuật trí thức thì
khó mà có thể hiểu được những điều này.
Kiến thức thu thập được từ những tài liệu có giá trị về cuộc chiến, về tôn
giáo, tôi cho đây chính là sự đền bù lớn lao đối với tôi, về phương diện tri
thức, để bù đắp lại sự mất mát do quyết định của tôi, tự bắt buộc phải rời quê
hương mấy ngày trước ngày 30 tháng Tư, 1975.
Trần Chung Ngọc
4/2009
Thư liên quan đến bài viết:
► Thư gửi Cựu Giáo Sư và Học Sinh Trường KMTD, trả lời em QBH (Nguyễn Mạnh Quang)
______________________
Nguyên văn:
[1]
(It is worth recalling a few facts. The US was deeply
committed to the French effort to reconquer their former colony, recognizing
throughout that the enemy was the nationalist movement of Vietnam. The death
toll was about half a million. When France withdrew, the US dedicated itself at
once to subverting the 1954 Geneva settlement, installing in the south a
terrorist regime that killed perhaps 70000 “Viet Cong” by 1961, evoking
resistance which, from 1959, was supported from the northern half of the country
temporarily divided by the Geneva settlement that the US had undermined. In
1961-1962, President Kennedy launched a direct attack against rural South
Vietnam with large-scale bombing and defoliation as part of a program designed
to drive millions of people to camps where they would be “protected” by armed
guards and barbed wire from the guerillas whom, the US conceded, they were
willinggly supporting. The US maintained that it was invited in, but as the
London Economist accurately observed, “an invader is an invader unless invited
in by a government with a claim to legitimacy.” The US never regarded the
clients it installed as having any such claim, and in fact it regularly replaced
them when they failed to exhibit sufficient enthusiam for the American attack or
sought to implement the neutralist settlement that was advocated on all sides
and was considered the prime danger by the aggressors, since it would undermine
the basis for their war against South Vietnam. In short, the US invaded South
Vietnam, where it proceeded to compound the crime of aggression with numerous
and quite appalling crimes against humanity throughout Indochina.)
[2]
["Former US Senator Robert Kerrey, newly inaugurated as the president of the New
School University, one of the most prestigious positions in American academia,
has admitted participating in a death squad attack on a Vietnamese village
(Thanh Phong) 32 years ago, in which he and six soldiers under his command
killed 21 women, children and elderly men. "In the course of the nighttime
assault, the American raiders (U.S. Navy SEALS) killed every Vietnamese they
encountered — men, women, children. They used every weapon in their arsenal,
from knives to rifles and grenades to light anti-tank weapons, expending more
than 1,200 rounds of ammunition on a village where only a few dozen people
lived. "...the SEALS slit the throats of an elderly man, his wife and three
grandchildren in the first hut they encountered when they entered the village.
The graves of these five victims, marked with a common date of death, can be
seen in the village today." TCN]
[3]
[When asked if he thought the United States owed the
people of Vietnam an apology, 25 years after the end of the war, Clinton said,
simply, "No, I don't."
- [...] To apologize for crimes against the people
of Vietnam would be to admit that the stories we tell ourselves about our
conduct in the world -- then and now -- are a lie.
- […] To apologize would be to acknowledge that
while we claimed to be defending democracy, we were derailing democracy. While
we claimed to be defending South Vietnam, we were attacking the people of South
Vietnam.
- [...] we dropped 6.5 million tons of bombs and
400,000 tons of napalm on the people of Southeast Asia. Saturation bombing of
civilian areas, counterterrorism programs and political assassination, routine
killings of civilians and 11.2 million gallons of Agent Orange to destroy crops
and ground cover -- all were part of the U.S. terror war in Vietnam, as well as
Laos and Cambodia.[/quote])]
Các bài thời sự cùng tác giả
▪
22 Năm Giao Điểm: Trừ Tà - Hiển Chánh và Độ Sinh -
Trần Chung Ngọc
▪
Chủ Nghĩa Khủng Bố và Diệt Chủng -
Trần Chung Ngọc
▪
Cuốn Triumph Forsaken của Mark Moyar -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Người Máy Chống Cộng -
Trần Chung Ngọc
▪
Tại Sao Những Người Tin Chúa Lại Thù Ghét Những Người Vô Th -
Trần Chung Ngọc
▪
Tản Mạn về Chống Cộng -
Trần Chung Ngọc
▪
Ăn Cơm Quốc Gia Thờ Ma Cộng Sản - Một Câu Chữ Của Những Kẻ U Mê -
Trần Chung Ngọc
▪
ĐĐ Thích Nhật Từ và Các Xóm Đạo Washington D.C. -
Trần Chung Ngọc
▪
Đọc "Món Hàng Xuất Cảng Làm Chết Người Nhất Của Mỹ: DÂN CHỦ" -
Trần Chung Ngọc
▪
Avro Manhattan: Cơn Ác Mộng Của Một Quốc Gia -
Trần Chung Ngọc
▪
BA MƯƠI THÁNG TƯ VÀ TÔI TỪ KIẾN THỨC ĐẾN LẬP TRƯỜNG -
Trần Chung Ngọc
▪
Bang Giao "Bắc Kinh-Vatican" (?) Một Kinh Nghiệm Quý Giá Cho Việt Nam -
Trần Chung Ngọc
▪
Bang Giao Với Vatican? Bang Giao Như Thế Nào ?? -
Trần Chung Ngọc
▪
Công Nghiệp Cuối Cùng -
Vài Suy Tư Xung Quanh Sự Ra Đi Của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp -
Trần Chung Ngọc
▪
Cựu Tổng Thống Mỹ Jimmy Carter & Liên Hiệp Quốc Lên Án Mỹ Vi Phạm Quốc Tế Nhân Quyền -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Phịa Thời Sự: Tin Vịt Truyền Thông -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Thời Sự Về Bức Thư “Chê Chúa” Của Einstein -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Thời Sự - Về Bức Thư “Chê Chúa” Của Einstein -
Trần Chung Ngọc
▪
Kiến Thức 30/4 Qua Các Danh Nhân - Tại Sao Chúng Ta Thua ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Kiến Thức 30/4 Qua Các Danh Nhân - Tại Sao Chúng Ta Thua ? -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 ▪
>>>