 |
06 tháng 4, 2010 |
 Vợ chồng chị Lò Mai Cương |
Khi tôi hỏi thạc sỹ khoa học Lò Mai Cương:
- Điều tâm huyết nhất của mình trong sự
nghiệp bảo tồn và phát huy văn hóa Thái là gì? chị tươi cười, trong đôi mắt
của chị như có hai đốm lửa:
- Đó là việc bảo tồn và phát triển chữ Thái,
đưa chữ Thái vào giảng dạy trong nhà trường và cho người dân.
Còn giám đốc Trung tâm giáo dục thường xuyên
tỉnh Sơn La thạc sỹ văn học Hoàng Kim Ngọc, thủ trưởng trực tiếp của chị vui
vẻ:
- Đó là một người tài năng và tâm huyết!
Gặp chị, ai cũng bị cuốn hút bởi tình yêu
nghề dạy học, tình yêu và nỗi trăn trở với việc bảo tồn và phát huy vốn văn
hóa dân tộc. Là người con của dân tộc Thái, sinh ra và lớn lên trong một gia
đình có truyền thống văn hóa, giáo dục. Bố chị là ông Lò Văn Mười, cố trưởng
ty giáo dục khu tự trị Thái Mèo, chính ông đã từng khởi xướng và bước đầu
thành công trong việc cải tiến chữ Thái. Chị không bao giờ quên được những
con chữ đầu tiên do người cha thân yêu dạy. Còn mẹ chị, Cầm Thị Minh là
người rất giỏi những điệu “khắp” cổ và sáng tác những tác bài hát mới của
dân tộc Thái. Tự bao giờ, những lời ca mượt mà đằm lắng cùng những thiên
truyện thơ bất hủ của dân tộc đã thấm vào chị, như mạch nước nguồn trong mát
của quê hương không bao giờ vơi cạn.

Tác giả cùng chị Lò Mai Cương tại Hội thảo bàn về việc dạy và học chữ Thái lần thứ hai tại Lạng Sơn ngày 27 – 28.3.2010
|
Do nhiều yếu tố khách quan, người Thái ở Việt
Nam có đến 8 hệ chữ khác nhau, bởi vậy việc tìm hiểu kho tàng văn hóa vô giá
của tổ tiên để lại gặp nhiều khó khăn. Số người biết chữ ngày một ít đi. Kho
tri thức quí báu ấy ngày có nguy cơ mai một. Chưa nói rằng, trước sự phát
triển nhanh chóng về mọi mặt của xã hội. Một vấn đề lớn đặt ra là phải có
một bộ chữ thống nhất được đưa vào giảng dạy, nhất là phải được số hóa, tạo
điều kiện cho lớp trẻ và cộng đồng quốc tế dễ dàng tìm kiếm bằng các công cụ
hiện đại của Internet. Chính vì vậy ngay từ khi còn công tác ở trường Cao
đẳng Sư phạm tỉnh Sơn La chị luôn trăn trở với việc xây dựng một bộ chữ
chung và số hóa được bộ chữ đó. Nhưng khi bắt tay vào công việc, chị mới
thấy có quá nhiều trở ngại, mà trước hết bộ chữ ấy phải đáp ứng được yêu cầu
dân tộc và hiện đại, được người Thái ở các vùng miền và quốc tế thừa nhận.
Thế là chị không quản ngày đêm, thử nghiệm, so sánh, cải tiến đưa 65/72 mẫu
kí tự mã hóa vào Unicode. Chị vui lắm, bởi qua bộ font chữ cái do chị cải
tiến và số hóa này đã được lựa chọn đại diện cho ngôn ngữ của cộng đồng
người Thái ở Việt Nam và được nhóm kỹ thuật Unicode chọn và cấp mã nguồn.
Người Thái ở khắp các tỉnh đều điện về và trực tiếp đến xin chị font chữ về
sử dụng và đều rất khâm phục vì hiệu quả cao.
Không thể kể hết được công sức của chị khi
bắt tay nghiên cứu công trình này từ đầu những năm 90 và được thông qua từ
năm 2005. Song chị không muốn nói về mình, chị thầm lặng cho ra đời nhiều
đứa con tinh thần được cộng đồng người Thái và nhân dân các dân tộc nâng
niu, đón nhận, đó là những áng văn, thơ, tục ngữ ca dao, những pho sử nổi
tiếng của dân tộc Thái: “Tiễn dặn người yêu”, “Tục ngữ, ca dao Thái”… “Tâm
tình tiếc thương”, “Tâm tình trêu ghẹo yêu thương… Chương trình dạy chữ
Thái của chị cùng nhóm nghiên cứu đã được triển khai dạy trong trường Cao
đắng Sư phạm và toàn tỉnh.
Gần đây khi Đảng và Nhà nước có chủ trương
đưa ngôn ngữ dân tộc vào giảng dạy trong nhà trường và dạy cho cán bộ, viên
chức đang công tác ở vùng miền núi và dân tộc khi và “Mạng lưới bảo tồn tri
thức bản địa dân tộc Thái” (VTIK), thuộc Trung tâm vì sự phát triển bền vững
miền núi (CSDM) ra đời, chị như được chắp thêm đôi cánh.
Với cương vị là trưởng phòng bồi dưỡng, chị
có thêm nhiều điều kiện để phát huy năng lực và ước nguyện của mình. Chị
được giao nhiệm vụ phụ trách công việc bồi dưỡng tiếng và chữ Thái cho các
trường dân tộc nội trú của 11 huyện thị, học sinh, cán bộ, viên chức, lực
lượng vũ trang…
Đặc biệt năm 2010 này chị tham gia nhiều
mảng đề tài về chữ viết, phong tục tập quán, trang phục… trong đề tài nghiên
cứu cấp tỉnh: “Giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc
Thái ở Sơn La trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” do chính ủy viên
trung ương Đảng, bí thư tỉnh ủy, chủ tịch Hội đồng Nhân dân, trưởng đoàn đại
biểu Quốc hội tỉnh Sơn La Thào Xuân Sùng là chủ nhiệm đề tài.
Người viết bài này có quá trình sống và làm
việc ở Tây Bắc 30 năm, quen biết gia đình chị đã lâu, mỗi lần đến thăm gia
đình chị lại càng thêm khâm phục người chồng yêu quí của chị đã vượt lên mọi
định kiến hẹp hòi, cổ hủ để quán xuyến việc nhà, chăm sóc con nhỏ cho chị đi
học 6 năm trời để có bằng đại học và thạc sỹ suốt từ năm 1989 và dành cho
chị thời gian nghiên cứu khoa học.
Chị không dấu nguyện vọng cháy bỏng của mình:
- Anh ạ, chữ Thái được hồi sinh, nhiều người
đã đọc thông viết thạo, em vui vô cùng, bởi đó là cánh cửa mở ra để kế thừa
và phát huy những giá trị tinh thần tốt đẹp của cha ông.
Hướng về phía trời xa, chị trầm ngâm:
- Hiện nay Bảo tàng tỉnh Sơn La có đến 3.000
cuốn sách bằng chữ Thái cổ, nhưng kho tài sản vô giá ấy liệu có bền vững mãi
trước sự tác động của thời gian. Em chỉ muốn được lãnh đạo các cấp quan tâm
cho phép số hóa kho sách ấy giữ cho muôn đời con cháu.
Tôi thật sự khâm phục tài năng, nghị lực, tâm
huyết và thành công của chị. Dẫu biết rằng năm nay chị 48, cái tuổi đang độ
chín. Phải chăng ước mơ cháy bỏng của người cha thân yêu năm nào, cùng khát
vọng từ bao đời của dân tộc đã tiếp thêm ngọn lửa niềm tin và tình yêu văn
hóa dân tộc và chắp cánh cho chị, để chị thực hiện được những tâm nguyện,
hoài bão đẹp đẽ của mình với quê hương, với dân tộc.
Trần Vân Hạc
Những bài của tác giả:
Chè “Hai không”, “năm cực” Suối Giàng (Trần Vân Hạc)
Chữ Viết Khoa Đẩu Duy Nhất Trên Đá Cổ Sa Pa (Trần Vân Hạc)
Công Trình Chữ Việt Cổ Của Giáo Sư Lê Trọng Khánh (Trần Vân Hạc)
Gửi Người Tạc Tượng Alexandre De Rhodes (Vân Hạc)
Huyền Thoại Tắm Tiên Tây Bắc (Trần Vân Hạc)
Hình Tượng Cây Nêu Với Một Số Dân Tộc Tây Bắc (Trần Vân Hạc)
Hương Sắc Rừng Xuân Tây Bắc (Trần Vân Hạc)
Hội thảo: Kinh thành Thăng Long - Thủ đô Hà Nội (Văn Hạc)
Không gian cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng – Một hướng tiếp cận mới (Trần Vân Hạc)
Kính gửi Ban biên tập Tuần báo Văn nghệ TPHCM (Trần Vân Hạc & Nguyễn Lê)
Lê Văn Tám: Lửa Bất Diệt (Trần Vân Hạc)
Mùa Xuân Tây Bắc Trong Tôi (Trần Vân Hạc)
Một ngôi chùa cổ rất cần những tấm lòng (Trần Vân Hạc)
Một văn bản chữ cổ của người Pà Thẻn (Trần Vân Hạc)
Nghĩa Trang Mang Tên Một Dòng Sông (Trần Vân Hạc)
Nguyễn Trãi, hợp tuyển thơ của soạn giả Gia Dũng (Vân Hạc)
Người Giữ Hương Chè Shan Tuyết Suối Giàng (Vân Hạc)
Người Lắng Thầm Tìm Con Chữ Việt Cổ (Trần Vân Hạc)
Người phụ nữ Thái hết lòng vì văn hóa dân tộc (Trần Vân Hạc)
Ngọn lửa Lệ Chi Viên (Trần Vân Hạc)
Nhà Sàn Của Người Thái Tây Bắc (Trần Vân Hạc)
Nhân Sinh Trong Tiếng Đại Ngàn (Trần Vân Hạc)
Những ngôi chùa trên huyện đảo Trường Sa (Trần Vân Hạc)
Nét Đẹp Tục Chơi Còn Của Người Thái Tây Bắc (Trần Vân Hạc)
Núi Rừng Tây Bắc Đón Xuân: Inh Lả Ơi, Xao Nọong Ơi! (Vân Hạc)
Thông báo xuất bản sách chữ Việt cổ (Trần Vân Hạc)
Tinh thần yêu nước trong thơ Nguyễn Khắc Nhu (Trần Vân Hạc)
Triết lý nhân sinh qua các món ăn của người Thái Tây Bắc (Trần Vân Hạc)
Trái Tim Của Biển (Trần Vân Hạc)
Trống đồng vang vọng giữa Trường Sa (Trần Vân Hạc)
Tây Bắc trong thơ Nguyễn Quang Bích (Trần Vân Hạc)
Tính hòa đồng của những ngôi chùa cổ Việt Nam (Trần Thi)
Tấm lòng vàng của một nhà khoa học chân chính (Trần Vân Hạc)
Tập Thơ Đường "Thuận Nghịch Độc" Của Tiến Sỹ Đặng Văn Phú (Trần Vân Hạc)
Vui buồn trên đường dâng sách (Trần Vân Hạc)
Vài nét về rừng thiêng của dân tộc Thái (Trần Vân Hạc)
Vài nét về tiến trình của chữ Quốc ngữ (Trần Vân Hạc)
Vàng Son Huyết Lệ (Trần Vân Hạc)
Yếu tố Việt cổ trong ngôn ngữ Thái (Trần Vân Hạc)
Đài Giọt Lệ (Hoàng Đạo Chúc)
Đầu xuân gặp nhà văn Sơn Tùng (Trần Vân Hạc)