 |
15 tháng 11, 2009 |
...
Trong khi lại có người gọi là trí thức,
mang dòng máu Lạc-Hồng, tri ân người theo ngoa ngôn của mấy ông thầy dòng:
"Khi cho Việt Nam các mẫu tự la-tinh, Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi
trước đến ba thế kỷ !" Cần biết rằng trên thế giới này có nhiều loại ký tự.
Theo dòng tượng thanh như: La-tinh, Slavơ… Theo dòng tượng hình như: Ai-cập,
Hán… Mỗi vùng miền có những đặc thù riêng về địa lý, lịch sử, kinh tế, văn
hóa và chính trị. Đánh giá nền văn minh và tốc độ phát triển của một dân tộc
không ai chỉ dựa vào ký tự. (TVH)
Chúng tôi ở xa, đọc báo Văn nghệ TPHCM không đều. Tuy nhiên gần đây qua
một số bài có tính khảo cứu về lịch sử và văn hóa, chúng tôi rất tâm đắc.
Thực tình không biết người viết chuyên sâu tới mức nào nhưng bài viết dựa
trên những căn cứ lịch sử hiển nhiên, có tâm, có tình, thuyết phục và được
nhiều bạn đọc hoan nghênh.
Một tờ báo Văn lại viết những vấn đề về Sử không phải là một việc làm
tréo ngoe vì người viết văn được trang bị những kiến thức Sử và Triết càng
sâu thì ngòi bút càng vững vàng chín chắn. Trong khi nhiều báo chuyên đề Văn
hóa xã hội và Lịch sử nếu không làm ngơ thì lại có những bài viết mập mờ lẫn
lộn trắng đen, thậm chí trái chiều lịch sử nên những bài của quý báo là rất
cần thiết. Phải chăng, bảo vệ sự chân thực lịch sử là trách nhiệm công dân,
nhất là với người cầm bút.
Nhân bài viết về chữ Quốc ngữ với người sáng lập ra nó của bạn Trí Nhân,
chúng tôi xin được bổ xung một số tư liệu để các bạn đọc hiểu rõ hơn về
truyền thống văn hóa Đại Việt ta.
Thực ra người Việt từ xa xưa đã có chữ viết riêng, trước khi có chữ Hán hàng
ngàn năm và hoàn toàn khác chữ Hán. Chữ Việt cổ là thứ chữ tượng thanh, ghép
những chữ cái thành từ. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học của ta lâu nay như:
Trương Vĩnh Ký, Vương Duy Trinh, Hà Văn Tấn, Lê Huy Nghiệm, Trần Trọng Thêm,
Lê Trọng Khánh, Phạm Ngọc Liễn… đã có những khám phá và còn tiếp tục dò tìm.
Những nhà ngôn ngữ học Pháp, Anh, Mỹ, Tiệp và nhất là Trung Hoa Từ: Lục Lưu,
Hứa Thân, Trịnh Tiểu… đều khẳng định người Việt ta đã có chữ viết riêng từ
rất sớm.
Năm 1855, Tri châu Phạm Thận Duật ở Tây Bắc tìm thấy một bộ chữ lạ có cấu
trúc gần giống với chữ Mường cổ. Gần đây, nhóm nghiên cứu Chữ Việt cổ và nền
giáo dục thời Hùng Vương do nhà văn Khánh Hoài – Đỗ Văn Xuyền chủ trì, cho
rằng ngữ tự này có thể là biến thể của chữ Khoa đẩu, hay còn gọi là Hỏa tự
đã được ghi trong cổ sử, nghĩa là nó có từ thời vua Hùng. Bộ chữ ấy còn lưu
lại trong nền văn hóa tiền Việt – Mường. Kết hợp với bộ môn Khảo cổ học,
người ta thấy trên các mặt trống đồng và nhiều di vật cổ xưa khác khai quật
ở Bắc bộ, Bắc Trung bộ và rải rác ở phía nam Trung Quốc, có một dạng ký hiệu
giống nhau, như hình con nòng nọc và phát hiện ra đó chính là tự dạng để ghi
lại những âm thanh cấu thành từ ngữ. Đó chính là chữ Việt cổ. Bộ chữ ấy dùng
để ghi tiếng nói của người Việt từ xưa lắm, xa trước Công nguyên nhiều. Nó
tồn tại song hành cùng ngôn ngữ Việt, thích ứng với đặc điểm ngôn ngữ Việt.
Các nhà nghiên cứu đã mã hóa được các tự dạng đó và đã giải mã được các ký
tự Việt cổ. Từ đó bật ra được tiếng nói của tổ tiên thời tiền sử… Đời vua
Nghiêu, để giữ hòa hiếu giữa hai nước, người Việt đã đem Thần Quy ngàn năm
tuổi tặng, trên mai có khắc chữ Khoa đẩu, chép việc từ thời khai thiên lập
địa, nội dung như sau: Kể từ trời Nam mở vận, dòng họ đầu tiên trong nước là
Hồng Bàng. Bậc quân vương thụ mệnh trời đầu tiên là Kinh Dương Vương – là
hậu duệ của Thần nông. Kinh Dương Vương vốn được cha là Đế Minh phong làm
chủ Nam Việt, kết duyên cùng Long nữ Hồng Đăng Ngàn – con gái Động Đình
Quân, sinh ra Lạc Long Quân, húy là Sùng Lãm. Lạc Long Quân lấy con gái Đế
Lai là nàng Âu Cơ, sinh ra trăm con từ một bọc trứng, ấy là thủy tổ của Bách
Việt vậy. (Ngọc phả Liệt phả liệt vị Đại vương – La Nội, Hà Nội; Ngọc phả
đền Tứ Lạc Long quân chi tử – Lập Thạch, Vĩnh Phúc; sách Tân lĩnh nam chích
quái của Vũ Quỳnh)… Nhờ biết giải mã các ký tự cổ đó, người ta phát hiện ra
một điều thú vị: Những từ vô lý (Suấy = suối; São le = song le; Đàng lão =
Đàng trong; Thần Nõu = Thần nông; Lạc Lão Cuôn = Lạc Long quân… ) trong chữ
Quốc ngữ buổi đầu (có trong từ điển và các văn bản khác) đã sử dụng lối cấu
trúc của chữ Khoa đẩu và thay vỏ La-tinh vào. Nó còn giúp các nhà nghiên cứu
hiện nay có thể đọc được dễ dàng những trang sách chữ Quốc ngữ có tuổi hàng
mấy trăm năm, nay chỉ còn lưu giữ rải rác trong dân và trong các thư viện ở
Lisbon, Rhoma, Paris…
Chữ viết đóng góp phần quyết định vào nền văn minh của một dân tộc. Hệ thống
giáo dục ở nước ta đã phát triển ngay từ thời Hùng Vương, An Dương Vương,
thời Triệu, thời Hai Bà Trưng… ở khắp vùng Giao Chỉ, Cửu Chân cũ. Người Lạc
Việt đã làm nên nền văn minh Đông sơn, có ảnh hưởng rất lớn đối với các dân
tộc khác trước công nguyên và chữ Việt cổ có một không gian phân bố vô cùng
rộng lớn (Lê Trọng Khánh).
Tiếc rằng tổ tiên ta chịu một quá trình lâu dài đô hộ với âm mưu huỷ diệt
nền văn minh bản địa và quyết liệt đồng hoá dân tộc của các nước lớn ngoại
bang. Chữ viết là đối tượng bị huỷ diệt trước nhất bởi nó phản ánh tư tưởng,
tâm hồn của một dân tộc.
Thời Bắc thuộc, chính quyền đô hộ dùng chữ Hán để bức tử, tuyệt diệt bộ chữ
Khoa đẩu của người Việt cổ. Sách sử truyền rằng Sỹ Nhiếp đã mang chữ Hán về
khai hoá cho dân tộc Nam man hay là việc đó nằm trong chủ tâm thâm trầm độc
địa của quốc gia xâm lược?! Đời này qua đời nọ, con chữ ngoại lai được tôn
lên vị trí chính thống, dùng mãi dần quen đi, thì đồng thời con chữ truyền
thống của dân tộc cũng bị lãng quên và chìm dần vào dĩ vãng! Chữ Khoa đẩu do
không được phổ biến nên bị đóng băng, dần không phát triển kịp theo những
biến âm trong tiếng nói của người Việt qua từng thời kỳ phát triển, mặc dù
nó vẫn âm thầm tồn tại trong giao tiếp dân gian. Tuy nhiên, sức sống của
người Việt vô cùng mạnh mẽ. Với khát vọng độc lập tự do luôn thôi thúc, từ
chữ Hán tượng hình, người Việt chế tác ra thứ chữ Nôm cho riêng mình và chỉ
qua mấy thế kỷ, chữ Nôm đã có những thành tựu rực rỡ, làm nên nền văn hoá
Việt Nam cận đại với bản sắc riêng.
Đến thời thuộc Pháp, một lần nữa, chữ viết của người Việt – chữ Nôm, lại bị
bức tử! Một bộ chữ mới gọi là Quốc ngữ ra đời. Theo các nhà nghiên cứu ngôn
ngữ Việt thì sự ra đời của chữ Quốc ngữ có những đặc thù riêng. Phải chăng,
chữ Việt cổ cùng trên cơ sở với chữ La-tinh tượng thanh, đã mau chóng được
các linh mục đồng thời là những nhà ngôn ngữ học không chủ ý người phương
tây tiếp nhận, sáng chế ra một dạng chữ đơn giản và dễ phổ cập là chữ Quốc
ngữ ta dùng hiện nay. Tuy nhiên, để hình thành bộ chữ mới này, mấy ông tây
dù học thức, thông thái đến đâu cũng không thể thâm nhập sâu vào đời sống
dân dã để làm nên những quyển từ điển dày dặn công phu với những từ ngữ dân
gian khá phong phú, kể cả những lời chửi tục mà chỉ được dùng với những
người thân cận trong trạng thái tình cảm thất thường. Tất nhiên họ phải có
những người bản địa cộng tác đắc lực. Theo Roland Jacques – nhà nghiên cứu
ngôn ngữ học người Pháp, thì số người Việt góp công trong sự phát minh ra
chữ Quốc ngữ lúc sơ khai gồm hai nhóm:
Nhóm thứ nhất thuộc giới có học, là
những thầy đồ, thầy tu thuộc nhiều tông phái Phật, Khổng, Lão, Trang…, quan
lại, sỹ tử… hiểu nhiều tiếng mẹ đẻ, am tường nền văn hóa dân tộc. Nhóm thứ
hai gồm các phiên dịch là các thanh niên giáo dân biết tiếng Bồ-đào, La-tinh
giúp các giáo sỹ đi truyền đạo. Tất nhiên, số người Việt này phải hơn gấp
nhiều lần so với các nhà truyền giáo tây phương. Điều hiển nhiên là trước
khi có cuốn từ điển Việt-Bồ-La của giám mục Alexandre de Rhodes thì đã có
những giám mục Bồ-đào-nha đến đây sớm hơn, hướng dẫn A.Rhodes và để lại
những công trình ngôn ngữ cụ thể, như Francisco de Pina, Gaspa de Amaral,
Antonio Barbosa. Chính Giám mục A.Rhodes thừa nhận đã sử dụng công khó của
hai ông (G.Amaral với cuốn từ điển Việt-Bồ và A.Barbosa với cuốn từ điển
Bồ-Việt) và thêm vào đó phần tiếng La-tinh. Cho nên R. Jacques đề nghị: Cần
thiết phải đặt đúng vị trí việc làm của cá nhân Alexandre de Rhodes trong
một công trình tập thể mà ông chỉ là một trong số nghệ nhân cư yếu, trong đó
người Bồ-đào-nha và những người cạnh tranh ngang hàng Việt Nam của họ đã giữ
vai trò hàng đầu. Vậy là đã rõ, việc làm của Alexandre de Rhodes, nên được
coi như có phần đóng góp cải tiến chứ không thể vinh danh đơn phương là
người khai sáng ra chữ Quốc ngữ ngày nay.
Việc cải tiến và đưa chữ Quốc ngữ vào đời sống của người Việt là cả một quá
trình dài không đơn giản. Ý đồ hủy diệt một nền văn minh lâu đời của một dân
tộc ở phương Đông không dễ được thực hiện. Trước hết nó gặp sự bất hợp tác
của người bản địa là lẽ đương nhiên. Chữ Quốc ngữ ra đời vào giữa thế kỷ
XVII, hầu như chỉ lưu hành trong giáo hội Cơ đốc, để các linh mục tây phương
tiếp cận với người bản xứ. Nửa sau thế kỷ XIX, khi người Pháp hoàn thành
công cuộc bình định Việt Nam, họ có ý định dùng chữ Quốc ngữ thay cho chữ
Hán-Nôm thì ngay trong giới cầm quyền thuộc địa cũng có những phản ứng gay
gắt. Họ đã hai lần tổ chức hội thảo nhưng vấn đề vẫn chưa được khai thông.
Chính Toàn quyền Pasquier, đứng ở góc độ văn hóa, đưa ra lời khuyến cáo:
“Các tác phẩm văn học Việt Nam, dù đậm nét dân gian hay có giá trị đỉnh cao
của Nho học – một kho tàng văn hóa độc đáo, phi thường, nếu ta làm mất đi
trong quên lãng, thử hỏi đó có là trọng tội không?… Ta không nên phá hoại
bất cứ thứ gì trong tòa lâu đài văn hóa cổ xưa này… Nếu với sự độ lượng
khoan dung, nước Pháp sẽ có thể được tôn trọng hơn, được qúy mến hơn khi họ
biết đánh giá, biết nâng niu trân trọng những tài năng, những tác phẩm của
người dân An Nam tại Đông Dương, biết cúi xuống thấp hơn một chút khi chào,
cười với một ông thầy Đồ, chấp nhận mà không chút miệt thị, trên quan điểm
thoáng mở có chọn lọc, trung thực, những thành tựu phát triển trí tuệ của
họ”. Đến đầu thế kỷ XX, chính quyền thuộc địa lập một Ban cải tiến chữ quốc
ngữ gồm nhiều học giả người Pháp và người Việt. Chữ Quốc ngữ được cởi trói
và các thể loại văn học mới lần lượt ra đời nhưng vẫn không nhận được sự
hưởng ứng mặn mà trong giới nho sỹ và giới bình dân.
Phải đến khi nhân dân ta giành được quyền làm chủ vận mệnh quốc gia thì ý
thức cần được khai thông trí tuệ mới trỗi dậy mạnh mẽ. Lời Cụ Hồ nói cả nước
đồng tình: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu! Yếu thì đói nghèo và mất
nước! Đói nghèo – Dốt nát và Kẻ xâm lăng đều là giặc! Sự thật đó hiển nhiên
nhưng mấy ai đã nhận ra? Và diệt nó tới cùng không dễ! Chữ Quốc ngữ được
mạnh dạn cải tiến trên cơ sở tiếng Việt là thứ tiếng thống nhất trong cả
nước nên việc phổ cập rất nhanh. Sau khi đuổi được giặc Pháp, năm 1960, Hội
nghị cải tiến chữ Quốc ngữ lại được tổ chức tại Hà Nội. Chữ Quốc ngữ được
nâng cấp, phát triển toàn diện, đáp ứng được trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội từ sinh hoạt, tình cảm, trí tuệ, tâm linh tới các bộ môn khoa học xã
hội và tự nhiên hiện đại rất phức tạp, là ngôn ngữ chính thống giảng dạy
trong các trường từ mầm non đến đại học.
Song, hãy nhìn vào thành tựu của văn hóa Quốc ngữ và văn hóa chữ Nôm mà suy
ngẫm. Một thứ thì dễ dụng và một thứ thì thâm trầm. Một đàng mở lòng ra đón
gió bốn phương. Một đàng kín đáo khép mình biền ngẫu. Nhà Quốc ngữ tiên
phong Nguyễn Văn Vĩnh từng nói: Kể những sách của những bậc tài nôm nước Nam
để lại mà làm nền cho quốc văn thì thực hiếm, nhưng tuy hiếm mà thực là qúy,
thực là hay. Như văn Kim-Vân-Kiều mà đem vào kho tàng văn chương thế giới kể
cũng xứng, chớ không đến nỗi để người An Nam mình phải hổ thẹn rằng nước
không có văn.
Cho đến hôm nay, văn chương Quốc ngữ đủ loại và nhiều nhưng đã
có sách nào hay, qúy sánh ngang bằng bậc cha ông? Nhìn vào các tác phẩm văn
chương đang được người ta tung hứng mà lòng những thẹn với lòng! Có ai kịp
suy nghĩ lại lời cảnh báo như là tiên tri của ông Pasquier ngày ấy: "Hãy tìm
cách thích nghi, hòa nhập, chứ không phải hủy hoại, sao cho trong một thế kỷ
tới người Pháp sẽ không phải chuốc lấy những lời trách cứ nặng nề rằng: Dưới
chế độ tập quyền nghiệt ngã, những bản sắc đặc thù của một đất nước xa xôi
đã bị tàn phá ! Chúng ta khỏi phải làm một việc như đã làm đối với Provence
là: Vực dậy một nền văn học chết!"
Trong khi lại có người gọi là trí thức,
mang dòng máu Lạc-Hồng, tri ân người theo ngoa ngôn của mấy ông thầy dòng:
"Khi cho Việt Nam các mẫu tự la-tinh, Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi
trước đến ba thế kỷ !" Cần biết rằng trên thế giới này có nhiều loại ký tự.
Theo dòng tượng thanh như: La-tinh, Slavơ… Theo dòng tượng hình như: Ai-cập,
Hán… Mỗi vùng miền có những đặc thù riêng về địa lý, lịch sử, kinh tế, văn
hóa và chính trị. Đánh giá nền văn minh và tốc độ phát triển của một dân tộc
không ai chỉ dựa vào ký tự.
Chúng tôi cùng nghĩ như bạn Trí Nhân: Cái xác chữ chẳng là gì. Cái thần của
chữ mới làm nên văn hóa. Cái thần ấy gọi là hồn nước, tiềm ẩn trong tâm thức
mỗi người dân Đại Việt.
Nhiệm vụ của những người cầm bút chân chính là dựng dậy tinh thần Đại Việt.
Những ngày thu tháng Tám 2009
Trần Vân Hạc
Cùng một tác giả:
Chè “Hai không”, “năm cực” Suối Giàng (Trần Vân Hạc)
Chữ Viết Khoa Đẩu Duy Nhất Trên Đá Cổ Sa Pa (Trần Vân Hạc)
Công Trình Chữ Việt Cổ Của Giáo Sư Lê Trọng Khánh (Trần Vân Hạc)
Gửi Người Tạc Tượng Alexandre De Rhodes (Vân Hạc)
Huyền Thoại Tắm Tiên Tây Bắc (Trần Vân Hạc)
Hình Tượng Cây Nêu Với Một Số Dân Tộc Tây Bắc (Trần Vân Hạc)
Hương Sắc Rừng Xuân Tây Bắc (Trần Vân Hạc)
Hội thảo: Kinh thành Thăng Long - Thủ đô Hà Nội (Văn Hạc)
Không gian cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng – Một hướng tiếp cận mới (Trần Vân Hạc)
Kính gửi Ban biên tập Tuần báo Văn nghệ TPHCM (Trần Vân Hạc & Nguyễn Lê)
Lê Văn Tám: Lửa Bất Diệt (Trần Vân Hạc)
Mùa Xuân Tây Bắc Trong Tôi (Trần Vân Hạc)
Một ngôi chùa cổ rất cần những tấm lòng (Trần Vân Hạc)
Một văn bản chữ cổ của người Pà Thẻn (Trần Vân Hạc)
Nghĩa Trang Mang Tên Một Dòng Sông (Trần Vân Hạc)
Nguyễn Trãi, hợp tuyển thơ của soạn giả Gia Dũng (Vân Hạc)
Người Giữ Hương Chè Shan Tuyết Suối Giàng (Vân Hạc)
Người Lắng Thầm Tìm Con Chữ Việt Cổ (Trần Vân Hạc)
Người phụ nữ Thái hết lòng vì văn hóa dân tộc (Trần Vân Hạc)
Ngọn lửa Lệ Chi Viên (Trần Vân Hạc)
Nhà Sàn Của Người Thái Tây Bắc (Trần Vân Hạc)
Nhân Sinh Trong Tiếng Đại Ngàn (Trần Vân Hạc)
Những ngôi chùa trên huyện đảo Trường Sa (Trần Vân Hạc)
Nét Đẹp Tục Chơi Còn Của Người Thái Tây Bắc (Trần Vân Hạc)
Núi Rừng Tây Bắc Đón Xuân: Inh Lả Ơi, Xao Nọong Ơi! (Vân Hạc)
Thông báo xuất bản sách chữ Việt cổ (Trần Vân Hạc)
Tinh thần yêu nước trong thơ Nguyễn Khắc Nhu (Trần Vân Hạc)
Triết lý nhân sinh qua các món ăn của người Thái Tây Bắc (Trần Vân Hạc)
Trái Tim Của Biển (Trần Vân Hạc)
Trống đồng vang vọng giữa Trường Sa (Trần Vân Hạc)
Tây Bắc trong thơ Nguyễn Quang Bích (Trần Vân Hạc)
Tính hòa đồng của những ngôi chùa cổ Việt Nam (Trần Thi)
Tấm lòng vàng của một nhà khoa học chân chính (Trần Vân Hạc)
Tập Thơ Đường "Thuận Nghịch Độc" Của Tiến Sỹ Đặng Văn Phú (Trần Vân Hạc)
Vui buồn trên đường dâng sách (Trần Vân Hạc)
Vài nét về rừng thiêng của dân tộc Thái (Trần Vân Hạc)
Vài nét về tiến trình của chữ Quốc ngữ (Trần Vân Hạc)
Vàng Son Huyết Lệ (Trần Vân Hạc)
Yếu tố Việt cổ trong ngôn ngữ Thái (Trần Vân Hạc)
Đài Giọt Lệ (Hoàng Đạo Chúc)
Đầu xuân gặp nhà văn Sơn Tùng (Trần Vân Hạc)