|
29 tháng 1, 2010 |
Núi ngàn Tây Bắc mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng,
đầy bí ẩn và đam mê, quyến rũ. Song mùa xuân có một vẻ đẹp không mùa nào có
được. Trên nền xanh non mướt mát căng đầy nhựa sống, là những sắc mầu tinh
khôi, hài hòa đến tuyệt đỉnh của các loại hoa rừng, mà mỗi sắc mầu, mỗi
hương thơm như thấm đẫm, tan hòa trong thiên nhiên, trong mỗi bản mường,
trên muôn sắc mầu thổ cẩm tay búp măng rừng thêu dệt, trên sắc má đào thơm
thơm thiếu nữ và trong ánh mắt cười lung linh của người già, trẻ nhỏ, đơn sơ
mộc mạc thế thôi nhưng say đắm lạ kỳ.
Tây Bắc núi non trùng điệp. Khi nàng xuân
khoác tấm áo choàng như sương như khói nương ánh bình minh lướt trên đỉnh
núi, lòng thung, bàn tay dịu hiền, ấm áp như bàn tay thân thương của bà, của
mẹ, của em chạm vào vạn vật. Đất bỗng chuyển mình trong cồn cào sinh nở,
những rừng cây thu mình lại tránh cái giá rét của mùa đông giá như thoáng
ngỡ ngàng rồi bừng tỉnh e ấp những chồi xanh, những dòng suối đang nhẹ nhàng
róc rách thì thầm bản tình ca mùa đông, bỗng reo vui ngời muôn ánh bạc, trên
những cành cây xù xì thô ráp chợt hé muôn nụ xuân, ngơ ngác trước sự hoàn
sinh diệu kỳ của vạn vật, rồi đua nhau bừng nở những bông hoa đầy hương sắc
chào xuân mới.
Xuân Tây Bắc ngàn thứ hoa rừng, những hoa lê,
hoa mận, hoa đào, hoa ban, hoa chuối, hoa dó, các loại lan rừng… những loài
hoa có tên và không tên. Khắp núi ngàn như được dát bằng một tấm thảm nhung
gấm ngồn ngộn sắc mầu, ngây ngất hương thơm, hôi hổi một sức sống diệu kỳ
bất tận. Mỗi làn gió xuân nhẹ thổi, muôn sắc mầu lại hân hoan, nao nức trong
những đợt sóng xanh reo vui đuổi nhau xa tít tắp. Những bông hoa dập dờn,
thấp thoáng như muôn ngọn lửa ấm áp. Nếu hoa lê, hoa mận, hoa ban, hoa dó…
trắng đến nao lòng, thì hoa đào phớt hồng lại như gợi bao nỗi niềm về một
mùa hò hẹn. Mùa hoa mận đến sớm nhưng thật là độc đáo, vừa mới chiều qua đấy
thôi, những nụ hoa còn e ấp, chúm chím nét cười duyên trên cao nguyên Mộc
Châu (Sơn La), Bắc Hà (Lào Cai)… cho lòng người cứ thấp thỏm đợi chờ, vậy mà
sáng xuân nay đã mênh mông một mầu trắng đến nghiêng cả đất trời. Cái khoảng
khắc diệu kỳ đến nao lòng ấy để lại trong ta một ấn tượng khó phai. Chỉ một
bước chân mà cái khoảng cách của hai mùa Đông - Xuân bỗng trở thành gần gũi.
Còn sắc hồng phơn phớt của hoa đào Tây Bắc lại như một thông điệp của mùa
xuân.
Đào Tây Bắc không rực rỡ kiêu sa, nhưng lại đi vào chiều sâu của không
gian và thời gian và tình người đằm lắng. Những cánh hoa đơn hồng nhạt, dung
dị, mà không kém phần thanh cao ấy chuyên chở cả mối tình bất tử. Người xưa
đã dùng dòng máu từ trái tim yêu nhuộm thắm những bông hoa trên tấm thổ cẩm
dệt bằng khát vọng một tình yêu trắng trong chung thủy mãi hồng trên khắp
non ngàn và trái tim của người Tây Bắc. Người
Mông Tây Bắc còn gọi hoa này là “Tớ Dảy”,
người Mông có câu:“Làm
mùa xem hoa tớ dảy /Xây lứa đôi xem bàn tay”. Hội chơi núi đầu
xuân - “Sài sán”, từng đôi trai gái Mông ô hồng nghiêng chao, đôi mắt huyền
tình tứ, sắc hoa đào hồng trên má thắm, tiếng khèn, đàn môi, kèn lá thổn
thức cả rừng xuân. Du khách chỉ một lần được chiêm ngưỡng hoa đào Tây Bắc
chắc sẽ không khỏi trầm trồ thán phục vẻ đẹp dung dị nhưng thánh thiện ấy,
để rồi ký ức cứ ùa về rộn rã trong nhịp vó ngựa của Vua Quang Trung Nguyễn
Huệ gửi nhành đào báo tiệp tới Ngọc Hân công chúa và cứ tự hỏi: Có phải tự
ngàn xưa hồn thiêng dân tộc đã hòa trong sắc hoa đào, nên những cánh hoa đào
rơi như những giọt nước mắt hồng, khi quân giặc treo và bắn người anh hùng
nhỏ tuổi Vừ A Dính vì không chịu chỉ nơi ở của du kích, cùng những hạt mầm
của cây đào Tô Hiệu xanh biếc trên đá xám nhà giam đã bừng nở những mùa xuân
bất diệt cho dân tộc?
Nếu hoa đào được coi là hoàng hậu của mùa
xuân, thì hoa ban lại được coi là hoa của tình yêu, của lòng hiếu thảo.
Người Thái Tây Bắc có bao nhiêu câu chuyện tình về hoa ban, câu chuyện nào
cũng thấm đẫm một khát vọng về tự do hôn nhân và tình yêu đôi lứa. “Hoa ban
nở thành người con gái Thái” - (Dân ca Thái), mỗi bông hoa năm cánh trắng
ngần tỏa hương thơm dịu như búp tay em, trên nền lá xanh trung trinh hình
tim hai nửa. Có phải vậy không mà từ bàn tay em gọi lúa lên xanh, gọi ngô
mẩy hạt, bông ngời sắc trắng, hóa thân trong muôn sắc mầu thổ cẩm, đến những
dòng suối già nua trầm tư kia mỗi khi tay em hồn nhiên khỏa nước, bỗng thổn
thức một trái tim yêu trẻ trung cháy bỏng một ước mơ hạnh phúc vẹn tròn.
Trong Hội hái hoa ban, những đôi người yêu nhau gửi gắm bao ước nguyện trong
mỗi nhành hoa trao nhau: “Hoa ban nở,
hoa ban tàn/ Tình ta đẹp như hoa ban/ Còn dài lâu thì như hoa nào /Hỡi người
ta yêu...”. “Đôi ta yêu nhau không tính mùa ban nở/ Không thấy ngày ban tàn/
Mãi mãi như mùa ban bắt đầu, ngày ta yêu nhau”, “Trăm
năm ngắm ban nở vẫn còn ngắm mãi. Mỗi mùa ban lại thêm trẻ, không già”
(tình ca Thái). Cũng vì vậy người Mông
Tây Bắc gọi hoa ban là: ‘Pà lầu”, pà là hoa, lầu là già, xuân về, ngắm hoa
ban người già thấy lòng trẻ lại. Giữa
mênh mông rạo rực chồi non lộc biếc của đại ngàn ngút ngát, từng chùm hoa
ban trắng bồng bềnh như áng mây trên đầu núi, bâng khuâng trong không trung
rồi ùa xuống các lòng thung và ngời trên tận những đỉnh núi chọc trời, sáng
bừng từng nếp nhà, bản nhỏ. Hoa ban từ lâu gắn bó với đất và người Tây Bắc
và được xem là biểu tượng của Tây Bắc.
Tây Bắc còn bao nhiêu loại hoa rừng: Hoa dó
mang một hương sắc riêng như một cung bậc tinh tế trong bản hòa tấu sắc mầu,
dịu dàng trong câu si, câu lượn: “Hoa
dó giục đàn ông vào rừng lấy củi/ Giục đàn bà vào rừng lấy lá dong/ Giục mọi
nhà khẩn trương cày, bừa, cấy lúa/ Khắp nơi nhộn nhịp tưng bừng”.
“Bên suối, bên nương hoa dó thả
từng chùm/ Như những bàn tay trắng xinh vẫy gọi/ Hoa khoác vai nhau soi mình
bên suối/ Hương ngọt ngào dưới trăng/ Có chiều xuân gió khẽ đu cành/ Cả rừng
dó lao xao ca hát”. Chính vì vậy, tết đến xuân về, trên
mâm cúng tổ tiên của người Tày không thể thiếu đĩa hoa dó. Rồi một bông hoa
chuối đỏ rực trong đại ngàn xanh, mỗi con gió dập dờn, bông hoa lửa lập lòe,
bập bùng như trái tim đỏ thắm, hoa gạo thắp lửa đỏ trời, hoa dã quỳ vàng rực
ven đường, hoa cải trắng làm duyên bên triền nương và còn bao loại lan rừng
kiêu sa, tiên cách… tất cả như được một bàn tay tuyệt vời vẽ vờn trên lụa,
thực mà sao cứ như mơ.
Mùa xuân trên mọi nẻo đường Tây Bắc, du khách
được thỏa thích ngắm những bông hoa rừng đủ loại, gợi nhớ, gợi thương. Hương
hoa thấm đẫm trong từng ngọn gió, thơm trong tiếng khèn thanh thoát vút cao,
ngọt ngào trong tiếng hát ai thiết tha, nồng cháy trong tiếng đàn môi thầm
thì gọi bạn, ngây ngất đam mê trong làn tóc ai náo nức hội xòe. Những đàn
bướm hàng ngàn con dập dờn trong vũ điệu giao duyên, những chú ong say hương
mùa mật ngọt, những tiếng chim gọi bạn cặp đôi xanh trong vòm lá…
Hương sắc rừng xuân Tây Bắc ấy chân thật, tự
nhiên, đồng hành và tự lúc nào đã ăn sâu vào tiềm thức người dân Tây Bắc,
trở thành một phần không thể thiếu, mỗi độ xuân về lại náo nức hồi hộp đợi
chờ như lời hẹn hò với một mối tình thuở hoa niên. Còn với những người con
xa xứ, tình yêu, nỗi nhớ với hương sắc rừng xuân Tây Bắc thật khó mà đặt
tên, cứ dư ba, đau đáu day dứt khôn cùng trong ký ức và khát khao một cuộc
hành hương về cội.
Xuân 2010
Trần Vân Hạc
Cùng một tác giả:
Chè “Hai không”, “năm cực” Suối Giàng (Trần Vân Hạc) Chữ Viết Khoa Đẩu Duy Nhất Trên Đá Cổ Sa Pa (Trần Vân Hạc) Công Trình Chữ Việt Cổ Của Giáo Sư Lê Trọng Khánh (Trần Vân Hạc) Gửi Người Tạc Tượng Alexandre De Rhodes (Vân Hạc) Huyền Thoại Tắm Tiên Tây Bắc (Trần Vân Hạc) Hình Tượng Cây Nêu Với Một Số Dân Tộc Tây Bắc (Trần Vân Hạc)Hương Sắc Rừng Xuân Tây Bắc (Trần Vân Hạc)Hội thảo: Kinh thành Thăng Long - Thủ đô Hà Nội (Văn Hạc) Không gian cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng – Một hướng tiếp cận mới (Trần Vân Hạc) Kính gửi Ban biên tập Tuần báo Văn nghệ TPHCM (Trần Vân Hạc & Nguyễn Lê)Lê Văn Tám: Lửa Bất Diệt (Trần Vân Hạc)Mùa Xuân Tây Bắc Trong Tôi (Trần Vân Hạc)Một ngôi chùa cổ rất cần những tấm lòng (Trần Vân Hạc)Một văn bản chữ cổ của người Pà Thẻn (Trần Vân Hạc) Nghĩa Trang Mang Tên Một Dòng Sông (Trần Vân Hạc)Nguyễn Trãi, hợp tuyển thơ của soạn giả Gia Dũng (Vân Hạc) Người Giữ Hương Chè Shan Tuyết Suối Giàng (Vân Hạc)Người Lắng Thầm Tìm Con Chữ Việt Cổ (Trần Vân Hạc)Người phụ nữ Thái hết lòng vì văn hóa dân tộc (Trần Vân Hạc)Ngọn lửa Lệ Chi Viên (Trần Vân Hạc)Nhà Sàn Của Người Thái Tây Bắc (Trần Vân Hạc)Nhân Sinh Trong Tiếng Đại Ngàn (Trần Vân Hạc)Những ngôi chùa trên huyện đảo Trường Sa (Trần Vân Hạc)Nét Đẹp Tục Chơi Còn Của Người Thái Tây Bắc (Trần Vân Hạc)Núi Rừng Tây Bắc Đón Xuân: Inh Lả Ơi, Xao Nọong Ơi! (Vân Hạc) Thông báo xuất bản sách chữ Việt cổ (Trần Vân Hạc)Tinh thần yêu nước trong thơ Nguyễn Khắc Nhu (Trần Vân Hạc)Triết lý nhân sinh qua các món ăn của người Thái Tây Bắc (Trần Vân Hạc)Trái Tim Của Biển (Trần Vân Hạc)Trống đồng vang vọng giữa Trường Sa (Trần Vân Hạc)Tây Bắc trong thơ Nguyễn Quang Bích (Trần Vân Hạc)Tính hòa đồng của những ngôi chùa cổ Việt Nam (Trần Thi) Tấm lòng vàng của một nhà khoa học chân chính (Trần Vân Hạc)Tập Thơ Đường "Thuận Nghịch Độc" Của Tiến Sỹ Đặng Văn Phú (Trần Vân Hạc)Vui buồn trên đường dâng sách (Trần Vân Hạc)Vài nét về rừng thiêng của dân tộc Thái (Trần Vân Hạc)Vài nét về tiến trình của chữ Quốc ngữ (Trần Vân Hạc)Vàng Son Huyết Lệ (Trần Vân Hạc)Yếu tố Việt cổ trong ngôn ngữ Thái (Trần Vân Hạc) Đài Giọt Lệ (Hoàng Đạo Chúc)Đầu xuân gặp nhà văn Sơn Tùng (Trần Vân Hạc)