 |
13 tháng 2, 2010 |
Ông sinh năm 1881, tại làng Song Khê, huyện
Yên Dũng, tỉnh
Bắc Giang.
Xuất thân trong một gia đình Nho học, thuở nhỏ ông theo học khoa cử, năm
1912 đi thi Hương đứng đầu cả xứ
Bắc Kỳ nên
đương thời gọi là Đầu Xứ Nhu, gọi tắt là Xứ Nhu. Ông không chỉ là một lãnh
tụ của Việt Nam Quốc Dân đảng, với chức vụ trưởng ban lập pháp, người có vai
trò quan trọng trong đường lối đấu tranh vũ trang của Việt Nam Quốc Dân
đảng, mà còn là một nhà thơ chân chính. Mỗi trang, mỗi dòng như chính cuộc
đời bi hùng của ông, chứa chan tinh thần yêu nước, thương nòi.
Là một nhà nho chân chính, hết lòng yêu quê
hương đất nước, ông chủ trương đấu tranh vũ trang chống thực dân cướp nước
dành chính quyền, vì vậy thơ ông khác hẳn với những nhà nho đương thời: Đó
là hơi thở của dân gian, mang cái hồn trí tuệ và tầm cao thời đại. Nơi ông
sinh ra là cái nôi của nhiều làn điệu dân ca và văn học dân gian. Ngay từ
nhỏ ông đã từng theo một phương chèo đi khắp miền Bắc Giang, Bắc Ninh, Lạng
Sơn. Những làn điệu dân ca đầy chất trí tuệ, nhưng không kém phần lạc quan
thấm vào ông từ lúc nào. Chí lớn, hoài bão của ông được thể hiện rõ nét
trong thơ. Đây là câu đối treo trên tường lớp học, cùng bản đồ thế giới:
“Bích quải địa dư đồ, Tổ quốc giang sơn hà xứ tại?
Đường tôn nho giáo học,
Nam cương tử đệ kiếp tông dư?”, có nghĩa là: Trên vách treo bản đồ, Tổ quốc
non sông đâu đó nhỉ?
Trong nhà tôn nho học, cháu con đất nước nối dòng
chăng? Ôi! Tình yêu đất nước, ý chí tự tôn dân tộc cùng ý thức với thế hệ
mai sau đau đáu trong lòng, để rồi sau này thể hiện ra bằng hành động cụ
thể: Đấu tranh cách mạng. Khi dạy học, vừa dạy chữ Quốc ngữ, vừa dạy chữ
Nho, trước thế và lực hơn hẳn của thực dân Pháp, ông đã âm thầm tập hợp bạn
bè cùng chí hướng, khéo léo khơi dậy tinh thần yêu nước trong nhân dân, đặc
biệt chú ý đến sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ, ươm những hạt mầm cho đất nước
mai sau:
“Thầy xứ, hỡi thầy xứ!
Một thầy một lũ trò con
Khi ngồi lúc đứng
đã chồn
Hết bài Quốc ngữ lại dồn chữ Nho
Miệng giảng nghĩa to to nhỏ nhỏ
Tay xếp bài sổ sổ khuyên khuyên
Ngoài trông ra vẻ tự nhiên
Trong thì ắt
hẳn có phen chẳng thường”.
Hai câu cuối của bài thơ chứa đầy ẩn ý, chí lớn
được diễn đạt tinh tế và sâu sắc. Cái chí vẫy vùng cứ nước cứu dân ấy còn
được gửi gắm qua một bài thơ trả lời một người bạn đồng học ở Bắc Giang mới
được đổi đi làm thừa phái ở Hải Dương năm 1916:
“Canh tàn rót chén biệt ly
Xét mình mà lại thương vì cho ai
Tấm thân lưu lạc quê người
Trên đầu ngày
lại sương phơi dần dần
Nước trôi e những sảy chân
Lòng son còn có cổ nhân
biết cùng
Cũng nên vùng vẫy vẫy vùng
Đương khi Mỹ vũ Âu phong thấm nhuần”.
Ông khuyên con người hãy chú ý đến việc giữ gìn nhân cách, hơn là chỉ chú ý
đến bề ngoài:
“Tạo hóa sinh ra vốn ở truồng
Áo quần che để khác cầm muông
Rách lành cốt giữ mầu thơm, sạch
Đơn, kép tùy che lúc nắng sương
Nết tốt
vẫn thường nhiều kẻ chuộng
Tài hèn, mặc gấm chẳng ai màng
Người Tây kia
những mang gai vải
Sao vẫn văn minh vẫn vẻ vang”.
Bài thơ đầy phong vị dân
gian, trào lộng mà thâm thúy, đặc biệt, tuy căm ghét giặc Tây cướp nước,
nhưng ông vẫn đánh giá đúng mức những thành tựu của họ. Với bạn, ông chân
tình, sâu nặng, luôn mong cho bạn gặp những điều tốt lành, nhắc nhở các bạn
vận động thanh niên theo Âu học, hy vọng có ngày đất nước ta có thể theo kịp
những nước văn minh. Song ông không tha thứ cho kẻ bất nhân bạc ác. Khi biết
tên tri huyện Thụ Ngọc Lương của huyện Võ Giảng, Bắc Ninh cũ tham lam, tàn
ác, ông làm bài thơ cho dán trước cổng huyện đường, cảnh cáo hắn:
“Gớm ghiếc
huyện quan Thụ Ngọc Lương
Mồm thì lảm nhảm, mắt thì giương
Mẹ cha tổng lý
lòng không nể
Bè bạn chân tình dạ chẳng thương
Xử kiện lèm nhèm như tổ
đỉa
Nã tiền đòn đánh tựa đầu lươn
Văn nhân sỹ tử nào đâu cả
Xỏ khố khiêng
lên trả tỉnh đường”.
Dân gian truyền miệng rằng, đọc bài thơ, tuy miệng nói
cứng, như Thụ cũng e sợ và phải giảm bớt những hành động đàn áp bóc lột nhân
dân trong huyện. Bài thơ của ông vừa răn đe kẻ bạc ác, vừa làm thức tỉnh sức
mạnh trong mỗi người dân. Tư tưởng và chủ trương của ông được khẳng định
trong bài thơ viết sau khi Ba Danh - tên mộ phu khét tiếng tham tàn của thực
dân Pháp bị trừng trị đích đáng:
“Nặng lòng ưu ái khó làm thinh
Dội máu nam
nhi rửa bất bình
Cướp nước, chém cha quân Phú – Lãng
Cháy thành chết mẹ
chú Ba Danh
Gian nan những xót người trong hội
Tâm sự nào ai kể với mình
Hỡi hỡi anh em cùng gắng sức
Phen này quét sạch lũ hôi tanh!”.
Trong khi
vận nước đang lúc khó khăn, nhưng Nguyễn Khắc Nhu vẫn tin tưởng vào tương
lai của dân tộc, của con đường đấu tranh cách mạng mình đã lựa chọn. Ngay
khi còn dạy học, ông đã cho dán câu đối:
“Thế giới văn minh vô chỉ cảnh
Nhân quần tiến hóa hữu cơ quan”,
có nghĩa là: Văn minh thế giới không dừng
bước
Tiến hóa loài người có chốt then”.
Thực ra vế đầu của câu đối mang ẩn
ý sâu xa:
“Văn minh Nam Việt không dừng bước”.
Thơ của Nguyễn Khắc Nhu thể hiện rõ tình yêu
với dân, với nước, yêu ghét phân minh, đầy suy tư trăn trở, nhưng những trăn
trở suy tư ấy không bi quan yếm thế như một số nhà nho đương thời. Mà cái
phần tích cực, năng động của nho giáo được ông tiếp thu, biến thành hành
động cụ thể.
Năm 1909, sau khi cả phong trào Đông du và
Đông Kinh nghĩa thục đều bị tan vỡ, thực dân Pháp truy nã và bắt giam nhiều
nhà chí sĩ, có cả Phan Bội Châu và
Phan Chu Trinh.
Nguyễn Khắc Nhu trốn sang Trung Quốc, tham gia vào cuộc vận động cứu nước.
Từ đó, ông chuyển dần xu sang hướng đấu tranh bạo động. Năm 1927, ông về
nước cùng với các đồng chí thành lập Hội Việt Nam Dân Quốc, tổ chức nhiều
cuộc tập kích một số đồn Pháp ở Bắc Ninh, Đáp Cầu, Phả Lại... với ý định vũ
trang khởi nghĩa. Năm 1928, ông sáp nhập hội Việt Nam Dân Quốc vào Việt Nam
Quốc Dân Đảng và ông được cử tham gia với vai trò là trưởng ban
Lập pháp
của đảng. Ngày 9 tháng 2 năm 1930, ông trực tiếp chỉ huy trận đánh tập kích
đồn binh Hưng Hoá và phủ lị
Lâm Thao.
Cuộc tập kích bất thành, bản thân ông bị trúng đạn nhưng vẫn tìm đường trốn
thoát. Giữa đường ông dùng lựu đạn tự tử nhưng không chết và bị quân Pháp
bắt được. Trên đường giải về trại giam, ông nhảy xuống sông tự trầm, nhưng
lại bị quân Pháp vớt được và đem về giam ông tại Hưng Hóa. Tại đây, ngày 11
tháng 2 năm 1930, ông đập đầu vào tường giam tự tử để bảo toàn khí tiết,
hưởng dương 49 tuổi.
Nhân dân vô cùng thương tiếc và cảm phục,
nhiều người lập bài vị thờ cúng và làm nhiều bài thơ, câu đối tưởng nhớ
người anh hùng đã anh dũng hy sinh vì dân vì nước. Đặc biệt một nhà nho đã
lập bài vị thờ cùng câu đối được nhân dân khắp nơi truyền tụng: “Vị dân
quyên sinh, vị Quốc quyên sinh, vị đảng nghĩa quyên sinh, thệ bất câu sinh
đối thủ tặc
Kỳ tâm bất tử, kỳ danh bất tử, kỳ tinh thần bất tử, quyết tương
nhất tử khích đồng bào”. Có nghĩa là: Vì dân quyên sinh, vì nước quyên sinh,
vì đảng nghĩa quyên sinh, thề chẳng tham sinh nhìn giặc nước
Lòng ông không
chết, danh ông không chết, tinh thần ông không chết, quyết đem cái chết giục
đồng bào.
Ngày nay nhiều
con đường, ngôi trường trên đất nước ta được vinh dự mang tên Nguyễn Khắc
Nhu. Ông sống mãi trong lòng dân tộc.
Bài liên hệ:
- Kỷ niệm 80 năm cuộc khởi nghĩa Yên Bái - Bà Tôi (Dương Hiền Nga)
- Tinh thần yêu nước trong thơ Nguyễn Khắc Nhu (Trần Vân Hạc)
Trần Vân Hạc
Những bài của tác giả:
Chè “Hai không”, “năm cực” Suối Giàng (Trần Vân Hạc)
Chữ Viết Khoa Đẩu Duy Nhất Trên Đá Cổ Sa Pa (Trần Vân Hạc)
Công Trình Chữ Việt Cổ Của Giáo Sư Lê Trọng Khánh (Trần Vân Hạc)
Gửi Người Tạc Tượng Alexandre De Rhodes (Vân Hạc)
Huyền Thoại Tắm Tiên Tây Bắc (Trần Vân Hạc)
Hình Tượng Cây Nêu Với Một Số Dân Tộc Tây Bắc (Trần Vân Hạc)
Hương Sắc Rừng Xuân Tây Bắc (Trần Vân Hạc)
Hội thảo: Kinh thành Thăng Long - Thủ đô Hà Nội (Văn Hạc)
Không gian cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng – Một hướng tiếp cận mới (Trần Vân Hạc)
Kính gửi Ban biên tập Tuần báo Văn nghệ TPHCM (Trần Vân Hạc & Nguyễn Lê)
Lê Văn Tám: Lửa Bất Diệt (Trần Vân Hạc)
Mùa Xuân Tây Bắc Trong Tôi (Trần Vân Hạc)
Một ngôi chùa cổ rất cần những tấm lòng (Trần Vân Hạc)
Một văn bản chữ cổ của người Pà Thẻn (Trần Vân Hạc)
Nghĩa Trang Mang Tên Một Dòng Sông (Trần Vân Hạc)
Nguyễn Trãi, hợp tuyển thơ của soạn giả Gia Dũng (Vân Hạc)
Người Giữ Hương Chè Shan Tuyết Suối Giàng (Vân Hạc)
Người Lắng Thầm Tìm Con Chữ Việt Cổ (Trần Vân Hạc)
Người phụ nữ Thái hết lòng vì văn hóa dân tộc (Trần Vân Hạc)
Ngọn lửa Lệ Chi Viên (Trần Vân Hạc)
Nhà Sàn Của Người Thái Tây Bắc (Trần Vân Hạc)
Nhân Sinh Trong Tiếng Đại Ngàn (Trần Vân Hạc)
Những ngôi chùa trên huyện đảo Trường Sa (Trần Vân Hạc)
Nét Đẹp Tục Chơi Còn Của Người Thái Tây Bắc (Trần Vân Hạc)
Núi Rừng Tây Bắc Đón Xuân: Inh Lả Ơi, Xao Nọong Ơi! (Vân Hạc)
Thông báo xuất bản sách chữ Việt cổ (Trần Vân Hạc)
Tinh thần yêu nước trong thơ Nguyễn Khắc Nhu (Trần Vân Hạc)
Triết lý nhân sinh qua các món ăn của người Thái Tây Bắc (Trần Vân Hạc)
Trái Tim Của Biển (Trần Vân Hạc)
Trống đồng vang vọng giữa Trường Sa (Trần Vân Hạc)
Tây Bắc trong thơ Nguyễn Quang Bích (Trần Vân Hạc)
Tính hòa đồng của những ngôi chùa cổ Việt Nam (Trần Thi)
Tấm lòng vàng của một nhà khoa học chân chính (Trần Vân Hạc)
Tập Thơ Đường "Thuận Nghịch Độc" Của Tiến Sỹ Đặng Văn Phú (Trần Vân Hạc)
Vui buồn trên đường dâng sách (Trần Vân Hạc)
Vài nét về rừng thiêng của dân tộc Thái (Trần Vân Hạc)
Vài nét về tiến trình của chữ Quốc ngữ (Trần Vân Hạc)
Vàng Son Huyết Lệ (Trần Vân Hạc)
Yếu tố Việt cổ trong ngôn ngữ Thái (Trần Vân Hạc)
Đài Giọt Lệ (Hoàng Đạo Chúc)
Đầu xuân gặp nhà văn Sơn Tùng (Trần Vân Hạc)