VIỆT NAM ĐỆ NHẤT CỘNG HÒA TOÀN THƯ

Tư Tưởng Biến Thành Hành Động

Nguyễn Mạnh Quang

http://sachhiem.net/NMQ/VNCHTT/NMQ22.php

20 Jun 2015

0   1  2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16   17   18   19   20   21   22

CHƯƠNG 22

Tư Tưởng Biến Thành Hành Động

Trong Chương 21, chúng tôi đã trình bày chủ trương của Giáo Hội La Mã là ”Tôn giáo phải chỉ đạo chính trị” và chỉ có Giáo Hội La Mã mới xứng đáng được gọi là tôn giáo. Chủ trương (tư tưởng) của Giáo Hội là:”Cứu cánh phải đứng đầu,…” và “Giáo Hội phải đứng trên quốc gia”. Muốn cho tư tưởng trên đây thể hiện thành hành động cụ thể theo ý muốn của Giáo Hội, Giáo Hội phải có những biện pháp và phương tiện để thì hành để đạt được mục đích này (biến thành hành động cụ thể). Giáo Hội đã quyết tâm dùng những biện pháp sắt máu ”Cường Quyền thắng Công Lý” (Might makes right) bất kể gì đến thuyết lý bác ái hay tình thương như người ta vẫn hằng cao rao là Chúa Jesus đã truyền dạy, bất kể gì đến lương tâm và tình người, mà chỉ biết đến bạo lực và thủ đoạn quỷ quyệt gian manh (ăn gian, nói dối) để lừa gạt người đời. Bằng chứng là Giáo Hội đã phát động gần 10 cuộc chiến thập ác (Crusades) [đem quân đi trừng phạt có những người dân không muốn nghe tin theo cái chủ thuyết thờ phượng kỳ cục của Giáo Hội và các sắc dân có truyền thống và tín ngưỡng riêng của họ] kéo dài cả hơn 2 thế kỷ (từ năm 1095 đến năm 1296), thiết lập các Tòa Án Dị Giáo (Inquisitions) để trừng phạt và thiêu sống những người dân đã biết rõ thủ đoạn gian manh của Giáo Hội, ban hành các sắc lệnh vào những năm 1449, 1452 và 1493 dưới thời các Giáo Hoàng Martin V, Caliste III và Alexandre V, hạ lệnh cho tín đồ  của Giáo Hội đem quân lính đi đánh chiếm đất đai các vùng đất nằm ngoài Âu Châu để thống trị loài người bằng bạo lực. Dưới đây là sơ lược về những việc làm của Giáo Hội để biến cái tư tưởng ”Duy ngã độc tôn” của Giáo Hội thành những hành động cụ thể mà Giáo Hội hằng mong muốn.

TỪ VIỆC NHỒI SỌ TƯ TƯỎNG ...

Để thực hiện được mưu đồ này, Giáo Hội phải cho cán bộ của Giáo Hội đi đến các địa phương thi hành kế họach thực thi chủ trương này của Giáo Hội. Với chủ trương ”Phương tiện nào cũng tốt cả miễn là được việc” (Tous les moyens sont bons), Giáo Hội đã sử dụng tất cả những thủ đoạn tàn ác gian manh nhất để đạt được mục đích này. Sau khi ông cố đạo Alexandre de Rhodes  hoàn thành xong sứ mạng thâu thập các tin tức tình báo chiến lược về Việt Nam và viết xong sách lược truyền giáo (Phép Giảng Tám Ngày) để áp dụng cho việc truyền giáo trong vùng đất này, Giáo Hội La Mã cho cán bộ tay sai đến thì hành sách lược quấy phá nước Việt Nam trong ý đồ “thừa nước đục thả câu”, cấu kết cùng bọn tín đồ vong bản tại địa phương nhẩy lên cướp chính quyền để  thi hành lý thuyết ”Tôn giáo chỉ phải đạo chính trị”  qua từng giai đoạn mà giai đoạn thứ nhất là nhồi sọ cho những tín đồ địa phương về cái ý niệm ”Giáo Hội La Mã tức là nước Vatican mới là quê hương đích thực và hằng cửu của tín đồ và Giáo Hoàng mới đích thực là đấng chỉ huy tối cao mà họ phải nghe theo và vâng lời; còn đất nước Việt Nam chỉ là cõi sống tạm bợ và vua chúa cũng như các nhà cầm quyền Việt Nam, nhất là nhà lãnh đạo không phải là tín đồ của Giáo Hội thì họ không có nghĩa vụ phải nghe theo, và cũng không có nghĩa vụ phải bảo vệ tổ quốc Việt Nam. Cái nghĩa vụ đích thực của họ là phải nghe theo lời dạy của Giáo Hoàng, và phải bảo vệ tổ quốc hay quê hương đích thực của họ là Đế Quốc Vatican hay Giáo Hội La Mã. Trong một bản báo cáo đề ngày 25 tháng 12 năm 1859 gửi cho Bộ Trưởng Hải Quân Pháp, Đô Đốc Page viết:

Những năm đầu mới lên ngôi, vua Tự Đức có một thái độ đối xử khá ân cần với họ (các giáo sĩ). Nhà vua đã ra lệnh cho các quan lại địa phương có thái độ khoan dung, rộng rãi với họ trong những chuyện làm trái pháp luật, những vụ phạm pháp nhỏ. Nhưng rồi các giáo dân do các giáo sĩ lãnh đạo đã ngày càng trở nên xấc xược ngạo mạn đến mức độ họ không thèm biết đến chính quyền địa phương. Họ công khai nổi loạn; họ tuyên bố người Kitô giáo không thể vâng lời những kẻ theo một tôn giáo khác (...)

Đâu đâu cũng có loạn ly. Họ (các giáo sĩ) cưỡng ép bắt đi những em bé, những thiếu nữ ra khỏi gia đình để được Kitô hóa. Do những hành động và những phản ứng ấy (tôi tóm tắt lại trong hai từ này tất cả những lời buộc tội). Các giáo sĩ nghiễm nhiên trở thành người lãnh đạo, hoặc bao che cho tất cả những cuộc nổi loạn này: tất nhiên họ tham gia vào tất cả những hoạt động bí mật chống lại nhà vua, kể cả những hoạt động khủng khiếp nhất: sự sụp đổ của nhà nước và của non sông đang có nguy cơ xẩy ra dưới ảnh hưởng của một tình thế như vậy”. (Nguyễn Xuân Thọ. Sđd., trang 86).

Nhà viết sử Nguyễn Xuân Thọ viết:

Hơn nữa các nhà truyền giáo còn yêu cầu người công giáo Việt Nam đừng thừa nhận quyền lực Nhà Vua và luật pháp nước họ. Họ nói với các ”con chiên”: Đức Giáo Hoàng ở La Mã (Rome) mới là vị vua tối cao duy nhất của họ, họ chỉ tuân phục quyền lực của Tòa Thánh Vatican”. (Nguyễn Văn Thọ. Sđd., trang 17).

Như vậy, theo đúng chủ trương của Giáo Hội La Mã,  người dân thuộc bất kỳ quốc gia nào, một khi đã trở thành tín đồ của Giáo Hội thì trở thành công dân của nước Vatican. Kể từ đó, Đế Quốc Vatican hay Đô Thị Thiên Chúa mới chính là tổ quốc hay quê hương đích thực của họ. Cũng từ đây họ chỉ có nghĩa vụ với tổ quốc Vatican và với ”Đức Giáo Hoàng ở La Mã (Rome), và chỉ có Đức Giáo Hoàng mới là vị vua tối cao duy nhất của họ. Họ chỉ tuân phục quyền lực của Tòa Thánh Vatican” và chính quyền tay sai của Đế Quốc Vatican mà thôi. Ta có thể ví tình trạng của họ giống như những thường trú nhân ở Hoa Kỳ sau khi đã tuyên thệ nhập tịch Hoa Kỳ. Một khi đã tuyên thệ trở thành công dân của Hoa Kỳ thi người đó phải coi Hoa Kỳ là quê hương và phải có bổn phận và nghĩa vụ đối với Hoa Kỳ trừ phi họ xin từ bỏ làm công dân Hoa Kỳ. Trong trường hợp có sự xung đột giữa quốc gia cũ và Hoa Kỳ, người mới nhập tịch Hoa Kỳ phải quyết định:

1.- Tiếp tục là công dân Hoa Kỳ thì phải phục vụ cho Hoa Kỳ chống lại quốc gia cũ.
2.- Từ bỏ quốc tịch Hoa Kỳ để phục vụ cho cố hương.

Tương tự như vậy, tín đồ của Giáo Hội La Mã cũng có bổn phận và nghĩa vụ đối với Đế Quốc Vatican hay Tòa Thánh La Mã y hệt như một người nhập tịch Hoa Kỳ có bổn phận và nghĩa vụ đối với nước Hoa Kỳ. Vấn đề đặt ra là nếu có xung đột Đế Quốc Vatican và quốc gia gốc của người tín đồ Gia-tô (mang quốc tịch Vatican), thì họ sẽ ở vào thế kẹt giống như những người Hoa Kỳ gốc Nhật hay gốc Đức trong thời Đệ Nhị Thế Chiến.

Sự kiện này làm cho Gia-tô còn lương tri và không cuồng tín đã phải thao thức, trăn trở, suy tư và cân nhắc giữa ”Tôn Giáo và Dân Tộc”. Nếu là có cơ may thoát ra ngoài sự kèm tỏa của các ông linh mục địa phương hay của cán bộ truyền giáo của Giáo Hội La Mã hoặc ách thống trị của Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp-Vatican (du học hay tỵ nạn sau năm 1954 và 1975), họ được tiếp xúc với các thư viện tại các nước dân chủ Tây Ây Bắc Mỹ, tìm đọc những Thánh Kinh, lịch sử thế giới và nhất là lịch sử của Giáo Hội, họ có thể tìm ra ánh sáng của chân lý, giúp cho họ cương quyết và dứt khoát ”Tìm Về Dân Tộc”. Sau đó, họ viết sách nói lên tất cả những sự thật về chính sách đế quốc thực dân của Đế Quốc Vatican được ngụy trang bằng một danh xưng tôn giáo là Giáo Hội La Mã với chiêu bài tôn sùng và thờ phượng Thượng Đế và Chúa Jesus. Đây là trường hợp của những người như:
1.- Bác-sĩ Nguyễn Văn Thọ với bài viết Ít Nhiều Nhận Định Về Thiên Chúa Giáo - Đăng
trong cuốn Tại Sao Không Theo Đạo Chúa (Tập 1),Ban Nghiên Cứu Đạo
Giáo, 1994.
2.- Linh-mục Trần Tam Tỉnh với cuốn Thập Giáo Và Lưỡi Gươm, (Paris: Sudestasie, 1978).
3.- Linh-mục Trần Thái Đỉnh với bài viết Cái Nhìn Về Phật Giáo Trong PHÉP GIẢNG
TÁM NGÀY của Alexandre de Rhodes - Đăng trong cuốn Kitô Giáo Từ Thực Chất Đến
Huyền Thoại, (nhiều tác giả, 1996).
4.- Giáo-sư Lý Chánh Trung với các tác phẩm Tôn Giáo Và Dân Tộc, Tìm Về Dân Tộc,
Những Ngày Buồn Nôn v.v... (Sàigòn: 1971 và 1972).
5.- Giáo-sư Nguyễn Văn Trung với bài viết Một Số Tình Hình Đặc Biệt của Giáo Hội Công
Giáo Việt Nam - Đăng trong cuốn Tại Sao Không Theo Đạo Giáo (Tập 2). Spring, Texas:
Ban Nghiên Cứu Đạo Giáo, 1998.
6.- Ông Phan Quốc Đông với bài viết Nỗi Ăn Năn Thống Hối Của Một Người Theo Công
Giáo - Đăng trong cuốn Đối Thoại Với Đức Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II (Giao Điểm, 1995).
7.- Ông Trương Thiện với bài viết: Chung Quanh Cuốn Hồi Ký VNMLQHT Của Đỗ Mậu
(đăng trong Tờ Tia Sáng số 18 tháng 6 năm 1987).
8.- Ông Charles Nguyễn (Nguyễn Chấn) với bài viết Tấm Vải Liệm Xác Chúa, (đăng trong cuốn Kitô Giáo Từ Thực Chất Đến Huyền Thoại, bài Tâm Thư Của Một Người Công Giáo Sau Nhiều Năm Khủng Hoảng Đức Tin, (đăng trong tờ Đông Dương Thời Báo số 66, ngày 30-4 1998) và  hai tác phẩm “Công Giáo Huyền Thoại Và Tội Ác” và “Công Giáo trên Bở Vực Thẳm )Garden Grove, California: Giao Điến, 2001)

Kể ra thì còn nhiều lắm. Có nhiều người ở trong hoàn cảnh tương tự như vậy mà người viết không biết. Cũng có nhiều người khác nữa chúng tôi biết mà không tiện kể ra đây. Lại cũng có nhiều người đã tỉnh cơn mê, như trường hợp anh Phạm Văn Đảm, sinh năm 1950 tại Thái Bình, Bắc Việt. Năm 1954, anh cùng với gia đình di cư vào Nam. Đầu thập niên 1960 được (bị) gia đình đưa vào Tiểu Chủng Viện Sàigòn tại đường Cường Để, Sàigòn để học nghề đi tu. Biến cố 1975 làm anh mở mắt khiến anh bị khủng hoảng niềm tin (crise de foi), rồi trở thành người mất trí, và qua đời vào khoảng năm 1981.

 Những người  Gia-tô còn lại là những người là chỉ được học Thánh Kinh, giáo lý, giáo luật, các phép bí tích và phép mầu theo phương pháp nhồi sọ:

1.- truyền khẩu như các bà con ở các nơi thôn dã,
2.- qua các tài liệu do các nhà truyền giáo hay các ông linh mục biên soạn, và qua sự hướng
dẫn của các ông linh-mục quản nhiệm hay của một người nào đó trong họ đạo do nhà thờ chỉ định.
3.- qua các lớp học như trường hợp Giáo-sư Lý Chánh Trung (đã nói trong phần trên).

Thường thường thì những người này không bao giờ thắc mắc về những chuyện nói ở trong Thánh Kinh, giáo lý, giáo luật, các phép bí tích và các phép mầu. Các ông linh mục hay những người hướng dẫn nói làm sao thì họ tin như vậy. Đúng như ông Phạm Trùng Dương đã viết:

 ”Tổ tiên chúng ta ăn trái cấm, phạm tội nên chúng ta mắc tội tổ tông, cần ơn cứu chuộc, cần rửa tội tổ tông để được thông công với Hội Thánh. Không rửa tội, thì không được thông công, không được cứu rỗi (hors del'Église, point de salut). Với chúng tôi, đó là tín điều. Còn ông có cho đó làhuyền thoại không? Rồi những chuyện tích trong Tân Ước nữa, có là huyền thoại không? .
.
Về việc theo đạo cần phải thấy đạo dưới ánh sáng khoa học, chúng tôi thiết tưởng không phải là việc làm của chúng tôi, kể cả của bất cứ tôn giáo nào... Chúng tôi thấy là chí lý với lý luận rằng: ”Mang sự hiểu biết hữu hạn, mang ngôn ngữ phàm tục của con người để giải thích sự vô hạn vô cùng là Thiên Chúa là việc làm của những kẻ điên rồ, thưa ông Lão Ngoan Đồng. Trân trọng chào ông”. ( Phạm Trùng Dương nhờ nhắn giùm Lão Ngoan Đồng Người Dân số 86 tháng 10-1997, trang 24-25).

Không nói chi những người ít học hay không biết chữ, ngay cả những người đã đi học luật, được chế độ đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm cho làm đến luật sư nhờ có quốc tịch Vatican, cũng vẫn mông muội, mộng du, ngu dốt y hệt như những người đồng đạo ít học của họ. Cũng vì nhờ có quốc tịch Vatican mà thế lực tôn giáo ở đằng hậu trường của chế độ quân phiệt  Gia-tô Nguyễn Văn Thiệu cho làm thượng nghĩ sĩ gia nô. Ông ta vẫn thường huênh hoang khoác lác đọc hết sách này đến sách kia, nhưng cũng chẳng bao giờ chịu mở Thánh Kinh ra đọc cả. Có thể họ có đọc hay đã đọc nhiều lần, nhưng vì thói quen học theo lối nhồi sọ, chỉ kêu như con vẹt mà không hiểu gì cả, cho nên họ không biết rằng trong Thánh Kinh có nhiều điều thật là hú hồn. Tình trạng này đã được Bà Hoàng Thị Ngọ ghi lại như sau:

”... các tín đồ đạo giáo phải trưởng thành. Tin giáo chủ, tin giáo hội, tin cán bộ truyền giáo. Miễn là không phải tin cái mê muội, cuồng tín, ngu xuẩn, không còn trí phán đoán sơ đẳng  của con người. Dĩ nhiên đây tôi nói về những người có đôi chút trình độ, đa số là dân thành thị, chứ không phải những tín hữu loại ”bà già trầu”. Tôi nói thế vì những vị có ăn học mà có theo một tôn giáo, khi bàn về lời giáo chủ, về kinh sách, thì tôi đều phát giác ra rằng họ chẳng bao giờ tìm đọc, tìm hiểu mà chỉ cắm đầu nghe mấy lời các cán bộ truyền giáo nói nhăng nói cuội rồi gân cổ cãi cho đến khi mang kinh sách ra dí vào mắt họ. Mà rồi họ cũng không tin những điều nói trong kinh sách đó là sự thật”. (“Tôn Giáo Và Đất Nước;” Người Dân số 74 tháng 10-1996).

Chính những người  Gia-tô cuông tín chỉ cắm đầu nghe mấy lời các cán bộ truyền giáo nói nhăng nói cuội này cho nên họ mới dứt khoát từ bỏ cái nghĩa vụ và bổn phận đối với quê hương để phục vụ cho Đế quốc Vatican đúng như lời ông Linh-mục Hoàng Quỳnh vẫn thường hô hào với giáo dân rằng ”Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”, hay Linh-mục Trịnh Văn Phát: ”Giúp quê hương không phải là bổn phận trực tiếp của tôi, nhưng tôi có bổn phận với giáo hội vì tôi là người của giáo hội và được đào tạo để sau này phục vụ giáo hội.... Tôi dược huấn luyện để phục vụ theo nhu cầu của giáo hội” (Giáo Hoàng Học Viện Piô X. Liên Lạc, Nhóm  Úc Châu ) Số 2 tháng 7-1995, tr 72).

 Cũng từ đó, những người Gia-tô cuồng tín chỉ cắm đầu nghe mấy lời các cán bộ truyền giáo nói nhăng nói cuội này tách rời khỏi đại khối dân tộc đi theo hướng đi riêng của họ. Trong khi toàn thể nhân dân ta quyết tâm sống chết cùng với quê hương ”khóc cười theo mệnh nước”, thì những người Gia-tô này lại quyết tâm ”chìm nổi với quân cướp Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp-Vatican”. Cũng vì thế mà lịch sử dân tộc ta mới có những cảnh ”Nồi da xáo thịt” giữa một bên là dân tộc Việt Nam quyết tâm bảo vệ quê hương đất tổ, cơ đồ của ông cha để lại, và một bên là những người  Gia-tô cuồng tín chỉ biết cắm đầu nghe mấy lời các cán bộ truyền giáo của Giáo Hội La Mã nói nhăng nói cuội, rồi đem tâm trí và cả cuộc đời của họ ra phục vụ cho Đô Thị Thiên Chúa Đế Quốc Vatican. Nghiễm nhiên, dân tộc Việt Nam và nhóm người này đi theo hai ngả đường riêng biệt khác nhau với những quan niệm về bổn phận và nghĩa vụ đối với quốc gia cũng như về đạo lý và chính trị hoàn toàn trái ngược nhau. Dưới đây, chúng ta lần lượt xét xem từng điểm một.

ĐẾN VIỆC BIẾN THÀNH HÀNH ĐỘNG

A.- HÀNH ĐỘNG CỦA ĐẠI KHỐI DÂN TỘC

Đối với đại khối dân tộc, theo truyền thống Nho Giáo là ”Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” ”Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”. Cũng vì thế mà:

1.- Khi quân Nguyên trùng trùng điệp điếp tiến vào xâm lăng đất nước, Đức Trần Hưng Đạo dẫn quân đi chống giặc, đã chỉ xuống dòng sông Hóa mà thề lời thề lịch sử: “”Trận này không phá xong giặc Nguyên, thì không về đến sông này nữa!” (Trần Trọng Kim, VNSL, tr 157).

2.- Khi phải liều thân chống giặc cứu nước, chẳng may bị giặc bắt, dụ hàng cho là vua bù nhìn, Trần Bình Trọng đã thét lên như tiếng sấm, mắng vào tên tướng giặc Thoát Hoan rằng: “Ta thà làm quỉ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Ta đã bị bắt thì có một thế  mà thôi, can gì mà phải hỏi lôi thoi!” (Trần Trọng Kim. Sđd., trang 144).

3.- Khi bị vây khổn ở Chí Linh, Bình Định Vương Lê Lợi trong thế cùng đường gần như bị bắt thì Lê Lai đã nhẩy hoá trang mặc áo ngự bào cưỡi ngựa xông ra, đánh lừa giặc Minh tưởng lầm là Lê Lợi, để cho giặc bắt sống rồi chịu chết để cho đại cuộc cứu nước được thành công.

4.- Khi sa cơ lọt vào tay giặc, giặc dụ hàng, Mai Xuân Thưởng đã ném vào mặt tên Việt gian Trần Bá Lộc bằng những lời sấm sét:  ”Chỉ có đoạn đầu tướng quân, chứ không có đầu hàng tướng quân” (Ly Châu Lý Minh Hào, Nguyễn Trung Trực - Biểu Tượng Hào Khí Dân Tộc, (1995, tr 37).

5.- Khi quân cướp Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm LượcPháp-Vatican đánh chiếm đất nước, cụ Phan Đình Phùng quên hẳn cái hận riêng đối với triều đình nhà Nguyễn, thân hành tìm đến kẻ cựu thù trước đấy là quyền thần Tôn Thất Thuyết (người đã lột chức tước đuổi Ngài về nguyên quán), để lãnh chiếu Cần Vương, chiêu mộ quân sĩ để cùng nhau chống đỡ giang san, giữ lấy quê hương và dân tộc. Cũng vì trách nhiệm đối với quốc gia mà Cụ quyết tâm hiến thân cứu nước, đặt việc nước trước việc nhà. Cho nên khi hay tin người anh ruột của cụ là Phan Đình Thông bị giặc bắt và tiếp nhận lá thư dụ hàng của bạn năm xưa là Lê Minh Hạp đã trở cờ thành Việt gian, viết thư dụ hàng với những lời lẽ đe dọa: 

Duy có điều phải nói là đôi lúc gần đây tôi đi qua làng Đông Thái, đền thờ cùng là phần  mộ các đấng tiên quân Bác nghiêng ngả điêu tàn, không ngờ, tôi sụt sùi nước mắt mà khóc. Bác Phan ơi! ngày này, trong họ hàng làng xóm được an nguy chỉ can hệ ở nơi Bác,  tánh mạng ông anh Bác mất hay còn cũng chỉ can hệ nơi Bác” (Việt Nam Thời Báo số 225, Seattle, ngày 28-10-1994). Cụ Phan đã không thèm trả lời, mà chỉ nhắn cho người đưa thư rằng: ”Nếu ai có làm thịt  anh ta, thì nhớ gửi cho ta một bát nước canh”. Rồi sau đó, cụ tuyên bố: ”... Tôi có một ngôi mộ rất to nên giữ là đất nước Việt Nam. Tôi có một ông anh rất to, đang bị nguy vong là mấy mươi triệu đồng bào. Nếu về mà sửa sang phần mộ của mình, thì ngôi mộ của cả nước kia ai giữ? Về (quy hàng) để cứu một ông anh thì bao nhiêu anh em trong nước ai cứu?” (Việt Nam Thời Báo, bài đã đã dẫn).

6.- Khi phải cân nhắc giữa một bên là trách nhiệm của người dân đối với quốc gia dân tộc và một bên là tình nghĩa cha con, cụ Hoàng Hoa Thám đã cương quyết đặt việc nước trước việc nhà, gạt bỏ tình nghĩa  riêng tư với ông dưỡng phụ Bá Phức  phản quốc (đã trở cờ, đi theo quân cướp ngoại thù), mà quyết tâm giữ vững lòng son phục vụ quê hương. Bài thơ Lá Huyết Thư Cuối Cùng dưới đây cho chúng ta thấy ý chí quyết tâm đặt tình nước lên trên tình nhà của cụ Hoàng Hoa Thám, mà cũng là ý chí của dân tộc Việt Nam ta gặp khi quốc biến.

LÁ HUYẾT THƯ CUỐI CÙNG

Đọc mấy lời trong bức thư cha nhủ,
Giòng lệ con hoen ố mảnh nhung y.
Nhớ ngày nào mang chí lớn ra đi,
Trong dĩ vãng cha ghi nhiều kiêu hãnh.
Kìa lưỡi kiếm máu kẻ thù còn dính,
Mà anh hùng tim lạnh bởi hư vinh.
Trong phong ba vùng vẫy bóng ngư kình,
Ham mồi béo nạp mình cho ngư phủ.
Nơi rừng xanh tung hoành con mãnh hổ,
Ham mồi ngon ủ rũ chốn chuồng con.
Bả vinh hoa làm mất cả tâm hồn,
Và lay chuyển cả lòng son dạ sắt.
Mây Hồng Lĩnh còn mịt mù u uất,
Sóng Nhị Hà còn chứa chất căm hờn.
Thì đời con là của cả giang sơn,
Dù thịt nát xương tan đâu dám kể.
Rồi những lúc cha vui vầy vị kỷ,
Là khi con rầu rĩ khóc non sông.
Đêm canh trường cha nệm ấm chăn bông,
Nơi rừng thẳm con nằm gai nếm mật.
Cha hít thở hương trầm bát ngát
Pha lẫn mùi máu thịt của lê dân,
Thì mũi con nghẹt thở cổ khô khan,
Tai vẳng tiếng hồn oan trong thảm cảnh.
Cha, nơi ngực đầy mề đay kim khánh,
Con, bên sườn lấp lánh kiếm tiên cừu.
Cha say mê bên thiếu nữ yêu kiều,
Con tận tụy với tình yêu tổ quốc.
Nghĩa là cha đem tài năng trí óc,
Mưu vinh thân là mục đích cuối cùng,
Thì con thề đem xương trắng với máu hồng
Ra cứu vớt non sông là chí nguyện.
Cha với con thế là hai trận tuyến,
Cha một đường mà con tiến một đường.
Thôi từ đây hai chữ cương thường,
Con mở rộng để dâng thờ tổ quốc.
Buổi đoàn viên thôi cha đừng mong ước,
Cuộc hội đàm là đại bác thần công.
Bức thư đây là bức cuối cùng,
Mà cha chỉ là cha trong dĩ vãng.
Thôi hạ bút cho thâm tình gián đoạn,
Để người đời kết án kẻ gian phi.
Thanh gươm thần ta tuốt sẵn chờ khi...

Nguyễn Mậu Chí

(Thái Bạch. Thi Văn Quốc Cấm. Glendale, CA: Đại Nam, (không đề năm), trang 216-217).

7.- Gặp phải khi đất nước lầm than, rên xiết dưới ách thống trị bạo tàn của quân cướp sài lang Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp-Vatican, Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí Việt Nam Quốc Dân Đảng quyết tâm liều chết hiến thân cho đại cuộc để giải thoát cho quê hương thoát thoát khỏi kiếp sống đọa đầy làm nô lệ cho quân cướp ngoại thù. Chẳng may bị bắt và bị đưa lên máy chém, ông đã thản nhiên bước lên đoạn đầu đài và khảng khái cất cao lời ngâm:

Chết vì tổ quốc,
Cái chết vinh quang,
Lòng ta sung sướng,
Trí ta nhẹ nhàng

8.- Khi Liên Minh Đế Quốc Thực Dân  Xm Lược Pháp-Vatican đem quân trở lại  mưu toan tái chiếm Việt Nam thì toàn dân trong toàn quốc từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu, từ những em bé mười lăm cho đến các cụ già tóc đã bạc, quyết tâm Lên Đường, lao vào cuộc chiến, đi cứu nước, đòi lại núi sông cho dân tộc.

Trong mắt tôi đã thấy,
Dân tôi:
Người trước nối người sau,
Tay trong tay kết chặt một vòng
Đi đòi lại núi sông trong tay giặc.
”Thế giặc mạnh lấy gì mà chống đỡ?”
Lời Diên Hồng vạn tiến quyết tâm.
Phải trải xương,
Phải đổ máu với quân thù,
Phải đoàn kết triệu bước chân dấn bước.
Từ sông Hồng xuôi về sông Cửu,
Từ đồng bằng nối mãi tới Trường Sơn,
Khắp non sông vang dội bước quân hành
Tay giáo mác và con tim sôi máu.
Trong ánh mắt triệu niềm tin rực sáng
Buổi quân về giải phóng Việt Nam.
Quê hương tôi hôm nay đã thấy
Những mẹ già chị gái
Làm hậu cần nuôi quân,
Những thanh niên hôm nay
Đã làm anh kháng chiến,
Những em bé mười lăm
Gánh vai trò liên lạc
Cả nước đồng một lòng
Đứng lên tiêu diệt giặc.
Lời réo gọi của non sông đất nước,
Các anh
Xin đứng dậy
Lên đường!
Nguyễn Tố Chi

 
B.-HÀNH ĐỘNG CỦA NHỮNG  GIA TÔ CUỒNG TÍN

Trong khi đại khối dân tộc ta xả thân lao vào cuộc chiến chống lại quân cướp Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp-Vatican, thì những người Gia-tô cuồng tín chỉ biết cắm đầu nghe theo lời các ông cán bộ truyền giáo của Giáo Hội La Mã đến nỗi đành lòng ”bán quê hương lại quên tình nước non”, và làm đủ mọi điều gian ác, tàn bạo, dã man còn tệ hơn cả loài dã thú. Chúng ta hãy theo dõi việc làm dã man của những người Việt Nam đã trở thành con chiên ngoan đạo của Giáo Hội La Mã:

1.- Trần Bá Lộc qua lời ghi lại của ông Lý Minh Hào:

Trần Bá Lộc là người Việt Nam đầu tiên được Pháp bổ làm chủ quận ở Nam Kỳ, có tài nhưng tự phụ và hiếu sát. Ông thân của Lộc là Trần Bá Phước, gốc người Quảng Bình, vào Vĩnh Long dạy học, rồi theo đạo Gia Tô và cưới vợ miền Nam. Chính Lộc lãnh trách nhiệm điều tra rồi trình cho Pháp danh sách 170 người theo ông Nguyễn Trung Trực. Sau đó, Lộc ra lệnh giết tất cả. Cũng chính Lộc được Pháp nhờ mộ một ngàn lính mã tà, đem về thành Ô-Ma tại Sàigòn huấn luyện, rồi kéo ra miền Trung dẹp loạn Mai Xuân Thưởng. Lộc lại dở độc kế cố hữu là cho bắt giam mẹ ông, các hương lý và dân làng. Lâm vào tình thế bắt buộc, Mai Xuân Thưởng phải ra gặp Trần Bá Lộc tại một ngôi đình. Lộc dụ ông quy thuận  theo Pháp, nhưng ông khẳng khái bảo: ”Chỉ có đoạn đầu tướng quân, chứ không có đầu hàng tướng quân! Sau Pháp xử chém ông tại Bình Định. Lúc chết ông mới có 27 tuổi. Về già, khi chết, không hiểu tại sao Lộc lại dặn con cháu phải chôn đứng! Nếu xuôi tàu từ Sàigòn xuống Mỹ Tho, sẽ thấy ngôi mộ ”chôn đứng” ở ngay ngã ba sông Mỹ Tho. Một ngôi mộ chôn đứng thứ hai nữa là mộ của một người con bất hiếu đánh mẹ bị ”trời trồng” cho chết đứng, được chôn tại xã Khánh Hậu. Nếu ai từ các tỉnh miền Tây như Kiên Giang, Cần Thơ, Long Xuyên, Châu Đốc đi Sàigòn theo đường Quốc Lộ 4, tới địa phận Long An sẽ gặp xã Tân Hương ở bên tay trái, đi sâu vào một quãng là xã Khánh Hậu. Phải chăng, phường nghịch tử, nghịch tặc lúc sống, khi chết cũng chọn ”vị thế” trái ngược với thường nhân?” (Lý Minh Hào. Sđd., trang 36-37).

2.- Ngô Đình Khả do chính đứa con ruột của ông ta là Giám Mục Ngô Đình Thục kể lể công ơn với quan thày về thành tích của ông ta:

”... nhân danh là một Giám Mục, một người An Nam, và với tư cách là thành phần của một gia đình mà người cha (tức là Ngô Đình Khả) đã nhiều lần chấp nhận nguy hiểm tới tính  mạng vì nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi, một Bộ Tướng của Nguyễn Thân, đã chỉ huy để chống lại những kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng cầm đầu ở Nghệ An và Hà Tĩnh”. (Trần Văn Kha. Sđd., trang 457).

Công lao của Ngô Đình Khả đối với kẻ thù của dân tộc là quân cướp ngoại thù Vatican-Pháp được Cụ  Lê Hữu Dản ghi lại như sau:

Theo sử liệu, Ngô Đình Khả được Triều Nguyễn thời Pháp thuộc trọng dụng là nhờ công lao giúp Nguyễn Thân tiêu diệt lực lượng chống Pháp của nhà ái quốc Phan Đình Phùng, và đặc biệt đã đào mả cụ Phan (lấy xương cốt đốt thành tro), để bắn cho tiêu tan hài cốt cụ Phan: Quả là một tên đại thần đại gian đại ác!” (Lê Hữu Dản, Tài Liệu Soi Sáng Sự Thật,1996, tr 18).

3.- Linh-mục Trần Lục do một vị Linh-mục khác là Trần Tam Tỉnh kể lại như sau:

Cho tới ngày chết, 25-4-1895, Giám-mục Puginier chẳng bỏ qua bữa nào mà không hoạt động để củng cố thêm vị trí nước Pháp tại xứ sở con nuôi này của ông. Người ta đang giữ hàng chục điệp văn và bản tin tình báo mang chữ ký của ông trong văn khố của Bộ Thuộc Địa. Và một phần nhờ ở các bản tin đó mà quân Pháp đã có thể đập tan cuộc kháng chiến vũ trang của người Việt Nam. Cuộc kháng cự hùng mạnh nhất đã xẩy ra tại Ba Đình, Thanh Hóa, dưới sự chỉ huy của Đinh Công Tráng. Bề ngoài, đó là một loại làng được biến thành căn cứ, được lũy tre bảo vệ, có thành có đường hầm và hệ thống giao thông hào  được bố trí rất thông Minh. Tinh thần các chiến sĩ lúc đó rất cao. Nhằm ”bình định” cứ điểm này, quân Pháp đã gửi tới một lực lượng gồm 2250 tên lính, 25 đại bác, 4 pháo hạm dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Metzinger. Cuộc tấn công vào ngày 16-12-1886 bị đẩy lui. Quân Pháp phải tổ chức bao vây để tìm hiểu chiến thuật mới. May cho chúng, vì có một sĩ quan trẻ, Đại Úy Joffre (sau này là thống chế Pháp trong thời Đệ Nhất Thế Chiến) nghĩ tới việc nhờ Linh-mục Trần Lục, quản xứ Phát Diệm và là Phó Vương, tiếp trợ cho cuộc bình định các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Ông linh-mục này đã nhận phép lành của Giám-mục Puginier, rồi đi tiếp viện cho quân Pháp với 5000 (5 ngàn) giáo dân. Ba Đình thất thủ”. (Trần Tam Tỉnh. Sđd., trang 45-46).

4.- Ngô Đình Diệm được cụ An Khê Nguyễn Bính Thinh kể lại:

Có một số người từng làm cách mạng, hoặc có xem báo chí ở Huế, ở Hà Nội trước năm  1940, đều biết ít nhiều về ông Diệm khi làm Thượng Thư Bộ Lại của Triều Đình Huế, có óc quan liêu phong kiến và nịnh quan thầy Tây. Ông tranh quyền với Phạm Quỳnh, nhưng quan thầy của ông là Khâm Sứ Thibaudeau kém thế hơn quan thầy của Phạm Quỳnh là Toàn Quyền Pasquier. Ông Diệm thua Phạm Quỳnh, bất mãn từ quan. Có người còn hiểu khi trước, ông Diệm học lực chưa đủ sức thi vào ngạch quan lại, nhờ vai ấm sinh của cha truyền, cho nên khỏi phải thi. Từ một chức tiểu lại đến 7 năm sau, ông đã thành một vị đường quan. Vì ông khéo luồn lõi, lập công với thực dân Pháp, mau thăng chức hơn các bạn đồng liêu. Khi làm tri phủ Hòa Đa, ông đã nổi tiếng là tay sai đắc lực của Pháp, lùng bắt và tra tấn các nhà cách mạng rất dã man bằng cách xông lửa nến (đèn cầy) dưới ghế ngồi. Ông cho trói chặt người bị lấy cung vào ghế, mặt ghế có khoét lỗ ngay ở chỗ hậu môn người ngồi, bên dưới đốt ngọn đèn cầy cho lửa xông lên, dần dần ruột, tim và phổi của nạn nhân bị sấy lửa, khô dần đi, không chịu nổi, dù có khai ra để cho dứt cực hình, nhưng hậu quả về sau không lường được. Lối tra tấn dã man này, ngay cả đến các bót (đồn) giam của Pháp như bót (đồn) Catinat nổi tiếng là lò sát sinh mà cũng chưa dùng. Về sau, ông Diệm bất mãn với người Pháp, thấy Nhật đến thì chạy theo Nhật để mong lập nội các. Pháp thấy ông Diệm trở cờ, toan bắt, nhưng Nhật đã cứu kịp. Khi Nhật thua trận, ông Diệm thấy Việt Minh nổi lên, lại muốn xin gặp ông Hồ. Hồ Chí Minh không tiếp. Ông Diệm lại quay ra Nhật, mong Nhật giúp khí giới cho ông đánh lại Việt Minh. Ông đi với Nhật nửa đường về Huế thì bị Việt Minh bắt. Lúc ấy, Ngô Đình Nhu có giao tình với Võ Nguyên Giáp, viết thư cho Giáp xin thả ông Diệm ra. Sau đó, ông Diệm thoát được sang Mỹ hoạt động như một người Công Giáo yêu nước. Về sau, ông được một vị Hồng Y ở Mỹ đỡ đầu, vận động cho ông trở về Việt Nam cầm quyền. Ngô Đình Nhu khôn ngoan khoác cho ông danh từ chí sĩ, tung hô chí sĩ Ngô Đình Diệm, thì còn ai dám bảo ông là tay sai hoạt đầu chính trị!” (Lê Hữu Dản. Sđd., trang 327). (Xin xem thêm phần nói về ông Tiến-sĩ Phạm Văn Lưu).

Thực ra, còn nhiều người Gia-tô cuồng tín khác cũng đã cúi mặt đi trên bốn chân làm việc cõng con rắn độc Vatican về cắn gà nhà Việt Nam. Những người Gia-tô cuồng tín này đã nhắm mắt tin theo các nhà truyền giáo nói nhăng nói cuội, xúi bẩy làm càn khiến cho họ đành lòng phản lại quê hương, bán rẻ giống nòi, làm những điều bạo ngược, khiến cho ông Trời phải nổi xung trừng phạt thẳng tay: Trần Bá Lộc thì Trời bắt phải chôn đứng như Trời trồng, Lê Hoan thì phải nằm liệt giường liệt chiếu nhìn chằm chằm lên trần nhà suốt trong sáu tháng trường rồi Trời mới cho chết, Nguyễn Thân và Ngô Đình Khả vì phạm tội dã man đào mả cụ Phan Đình Phùng lấy xác đốt thành tro, trộn vào thuốc súng bắn xuống sông Lam Giang cho tiêu tan mất xác, thì đều bị trời phạt cho hộc máu ra mà chết. Riêng Ngô Đình Khả thâm hiểm và gian ác hơn, lại sinh ra lũ con bạo ngược, dùng những quỷ kế độc ác tra tấn đồng bào yêu nước và giết hại quá nhiều dân lành, thì bị trời phạt nặng hơn đến nỗi gần như tuyệt tự. Chỉ trong vòng chưa đầy 30 năm mà cả gia đình có tới 7 người chết bất đắc kỳ tử: Cuối tháng 8 năm 1945 thì hai cha con Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Huân bị Phong Trào Việt Minh bắt đem xử tử chôn chung một lỗ tại một đường mương thuộc làng Cổ Bi, gần kinh thành Huế. Ngày 2/11/1963, anh em Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị quân dân cách mạng Miền Nam vùng lên đâm chết, phải chôn xúi chôn xó ở trong một góc vườn sau một ngôi chùa trong khuông viên Bộ Tổng Tham Mưu. Năm 1964, Ngô Đình Cẩn bị tòa án cách mạng đưa ra pháp trường đền tội cướp của giết người, tàn sát và bóc lột nhân dân. Rồi Ngô Đình Lệ Thủy bị xe cán chết, rồi đứa con trai của Ngô Đình Luyện đi trượt tuyết, trời xui đất khiến cũng té lăn ra chết tuốt. Đặc biệt nhất là Ngô Đình Khả, dù là đã chết rồi và đã nằm yên trong ngôi mồ sang trọng, mà cũng vẫn bị Trời đánh cho nứt ngang mặt mả. ”Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”. Lưới Trời thưa mà khó lọt là thế đó.

VỀ VIỆC TRI ÂN ANH HÙNG DÂN TỘC

 

A.- ĐẠI KHỐI DÂN TỘC VIỆT NAM
SÙNG KÍNH ANH HÙNG DÂN TỘC CHIẾN ĐẤU CHO VIỆT NAM

Việc tri ân các vị anh hùng đã vì nước quên mình cũng là một vấn đề mà những người  Gia-tô cuồng tín có một quan niệm hoàn toàn trái ngược với đại khối dân tộc Việt Nam. Thực ra, không phải chỉ riêng dân tộc Việt Nam mới coi việc tri ân các vị anh hùng dân tộc vì nước quên mình là quan trọng. Người viết thiết nghĩ bất kỳ dân tộc nào ở trên thế giới cũng có quan niệm này. Có khác chăng là khác cái cường độ sùng kính anh hùng dân tộc của người Việt Nam có thể là mạnh hơn các dân tộc khác, có lẽ là vì hoàn cảnh đặc biệt của dân tộc ta đã phải đấu tranh gian khổ trong việc dựng nước, mở nước và giữ nước suốt cả chiều dài lịch sử từ mấy ngàn nay. Từ ngày lập quốc đến nay, từ việc chống lại quân cường xâm từ phương Bắc đến việc mở mang lãnh thổ về phương Nam, và đánh đuổi quân cướp Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp-Vatican khỏi giang san, tất cả đều trông cậy vào sự hy sinh vô bờ bến của tiền nhân. Nhờ vậy mà dân tộc ta mới có mảnh đất để dung thân và người Việt Nam ta mới có thể ngẩng đầu hiên ngang với cộng đồng nhân loại trong năm châu bốn biển. Ai cũng biết rằng việc đánh đuổi được quân cướp ngoại thù ra khỏi đất nước hay lật đổ được một chế độ bất nhân và phi dân tộc  như chế độ đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm không phải là một việc làm dễ dàng như công việc mưu sinh hàng ngày. Kinh nghiệm gần một ngàn năm dưới quyền đô hộ của người Hán và gần một trăm năm dưới ách thống trị của Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp-Vatican cho chúng ta thấy rõ điều này. Ai cũng biết rằng lao mình vào đại sự đánh đuổi quân xâm lăng ra khỏi quê hương hay chống lại một chính quyền bạo ngược là một việc làm vô cùng nguy hiểm, không những nguy hiểm cho riêng bản thân, mà còn có thể nguy hại đến cả gia đình và các bạn bè thân thiết nữa. Việc Đại Tá Nguyễn Chánh Thi và Đại Úy Phan Lạc Tuyên bị bạo quyền độc tôn tôn giáo Ngô Đình Diệm phá nát cả gia đình là bằng chúng chứng minh rõ rệt nhất cho điều này. Cũng vì thế mà bất kỳ một nhân vật nào dù là xuất thân từ một giai cấp bình dân tầm thường nhất trong xã hội, nếu đã liều thân đứng lên dựng cờ đấu tranh chống lại ách thống trị của người ngoại bang hay một chế độ độc tài, bạo ngược, phi nhân và phản dân tộc cũng đều được nhân dân ta ngưỡng mộ, kính thương và tôn vinh lên hàng anh hùng dân tộc.

Điểm đặc biệt của dân tộc Việt Nam là tất cả các anh hùng dân tộc đều được coi như là một thứ quốc bảo, một thánh linh cao quý và thiêng liêng nhất của dân tộc. Chính vì vậy, mà hầu như tất cả các vị anh hùng dân tộc Việt Nam đều được nhân dân ta sùng kính, trân quý, tạc tượng lập đền thờ và tôn vinh lên hàng thần thánh, có giá trị thiêng liêng trân trọng như các đấng tối cao hay thánh tổ của các tôn giáo lớn của người Tây Phương. Bằng chứng rõ rệt nhất là vua Hùng Vương Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Vua Lý Nam Đế, Vua Đinh Tiên Hoàng, Vua Ngô Quyền, cụ Lý Thường Kiệt, Đức Trần Hưng Đạo, cụ Phạm Ngũ Lão, cụ Nguyễn Trãi, Vua Lê Lợi, ông Lê Lai, Vua Quang Trung, Bà Bùi Thị Xuân, cụ Nguyễn Trung Trực, ông Mai Xuân Thưởng, cụ Nguyễn Thiện Thuật, Cụ Phan Đình Phùng, cụ Hoàng Hoa Thám, cụ Đinh Công Tráng, cụ Hoàng Diệu, cụ Nguyễn Tri Phương, liệt sĩ Phạm Hồng Thái, ông Nguyễn Thái Học, Hoà Thượg Thích Quảng Đức, cô nữ sinh Quách Thị Trang (bị mật vụ của chế độ đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm bắn chết tại Bùng Binh Saigòn vào sáng ngày 25/8/1963, lúc cô đến tham dự cuộc biểu tình của học sinh và sinh viên tại đây), v.v.., tất cả, nếu không có đền thờ thì cũng được tạc tượng để sùng kính và tôn vinh.

Ngoài ra, nhân dân ta còn tự động viết lại những chiến công oai hùng của các vị anh hùng dân tộc như là những tấm gương cao cả vì nước quên mình cho các thế hệ sau này đời đời ghi nhớ. Có nhiều trường hợp được viết thành thơ hay đặt thành nhạc để cho người đời dễ nhớ và dễ được phổ biến rộng rãi hơn. Đây là trường hợp của Bài Ca Bình Bắc (của Thi sĩ Vũ Hoàng Chương nói về chiến công diệt giặc Thanh của vua Quang Trung), Lá Huyết Thư Cuối Cùng (của nhà Nho Nguyễn Mậu Chi nói về chí lớn phục vụ quê hương của cụ Hoàng Hoa Thám), Lửa Từ Bi (của thi-sĩ Vũ Hoàng Chương), Huyền Sử Một Người Mang Tên Quốc (của nhạc sĩ Phạm Duy nói về Hoà Thượng Thích Quảng Đức và anh hùng Phạm Phú Quốc đã liều chết hy sinh bản thân của để chống lại bạo quyền Ngô Đình Diệm), Ải Chi Lăng, Bạch Đằng Giang, Tiếng Trống Hà Hồi, Hội Nghị Diện Hồng, và còn không biết bao nhiêu là thi, văn, nhạc kịch khác nữa, tất cả đều được viết lên với mục đích duy nhất là để vinh danh những người đã liều mình hy sinh vì nước. Tất cả là những bằng chứng hùng hồn về lòng ngưỡng mộ và kính trọng của nhân dân ta đối với các vị anh hùng dân tộc của đất nước.

 
B.- NHỮNG NGƯỜI THIÊN LA ĐẮC LỘ
SÙNG KÍNH NHỮNG NGƯỜI HY SINH CHO ĐẾ QUỐC VATICAN

 Khác hẳn với đại khối dân tộc Việt Nam, những người Gia-tô cuồng tín có những tiêu chuẩn về anh hùng dân tộc khác hẳn với tiêu chuẩn về anh hùng dân tộc của đại khối dân tộc Việt Nam. Đối với đại khối dân tộc Việt Nam, những người đã hy sinh hiến mình cho tổ quốc Việt Nam thì được gọi là anh hùng dân tộc. Nhưng đối với họ (những người Gia-tô cuồng tín), thì những người đã hy sinh quên mình cho Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Vatican hay Giáo Hội La Mã mới là anh hùng dân tộc, và cao hơn nữa là các ông thánh của Vatican. Xét cho cùng, tiêu chuẩn đề ra để trở thành anh hùng dân tộc của những người Gia-tô cuồng tín không khác gì tiêu chuẩn về anh hùng dân tộc của đại khối dân tộc Việt Nam. Sở dĩ  có sự khác biệt là vì họ  (những người Gia-tô cuồng tín) đã chọn một thế đứng trái ngược với thế đứng của đại khối dân tộc Việt Nam. Chúng ta có thể lấy trường hợp Đại Tướng Mã Viện vâng lệnh Hán Đế đem quân sang đánh dẹp cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng vào năm 43 Tây lịch. Đối với dân tộc Việt Nam, Hai Bà Trưng là hai vị nữ anh hùng của dân tộc và được dân tộc ta đời đời vinh danh và sùng kính; ông Đại Tướng Mã Viện là một tên tướng giặc của quân cướp ngoại thù và bị dân tộc ta đời đời thù ghét. Trái lại, đối với người Hán thì lại khác, họ gọi Hai Bà Trưng là loạn quân, dĩ nhiên là họ khinh thường Hai Bà; đồng thời, họ coi ông Tướng Mã Viện như là một anh hùng của nước họ.

Tương tự như vậy, trong khi đại khối dân tộc Việt Nam coi các vị Nho sĩ trong phong trào Cần Vương, Văn Thân hay các lực lượng nghĩa quân chống lại quân cướp xâm lăng Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp-Vatican và những người liên hệ đến tất cả các phong trào chống lại chế độ đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm từ Vua Hàm Nghi, cụ Tôn Thất Thuyết, cụ Phan Đình Phùng, v.v... cho đến Hoà Thượng Thích Quảng Đức, văn hào Nhất Linh, anh Phạm Phú Quốc, và cô nữ sinh Quách Thị Trang là những vị anh hùng của đất nước, thì trái lại, những người  Gia-tô cuồng tín lại coi họ là những quân phản loạn. Đối với họ, những vị anh hùng, liệt nữ trên đây của dân tộc Việt nam nếu không bị họ công khai khinh rẻ, thì bất cứ khi nào, nếu có cơ may là họ không bỏ lỡ để dè bỉu và mỉa mai. Hãy đọc các ấn phẩm của họ, chúng ta sẽ thấy liền.

Đối với đại khối dân tộc Việt Nam, những hạng người như Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ), Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc), Trần Bá Lộc (Tổng Đốc Lộc), Huyện Sĩ, Đỗ Hữu Phương (Tổng Đốc Phương), Pétrus Trương Vĩnh Ký, Linh-mục Trần Lục, Linh-mục Hồ Ngọc Cẩn, Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Trường Tộ, v.v... và tất cả những người Gia-tô Viêt Nam trong số 117 ngưồi được Giáo Hội La Mã phong thánh vào ngày 19-6-1988 chỉ là  những tên tội đồ gián điệp chống lại tổ quốc Việt Nam, và những tên tội đồ Việt gian phản quốc này chỉ là những hạng người ”cõng rắn cắn gà nhà” hay ”rước voi về giầy mả tổ”. Nhưng đối với những người Gia-tô cuồng tín thì lại hoàn toàn khác hẳn. Họ suy tôn những tên tội đồ này của dân tộc ta lên hàng anh hùng dân tộc, và vinh danh họ. Chúng ta không lấy  làm ngạc nhiên khi thấy ở thành phố Saigòn-Chợlớn và các thành phố lớn tại miền Nam Việt Nam trong thời hai chế độ đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm và Chế độ Diệm không Diệm của ông Nguyễn Văn Thiệu lại có Trường Đắc Lộ, Đường Đắc Lộ, Trung Tâm Văn Hóa Đắc Lộ, Đường Bá Đa Lộc, Trung Học Pétrus (Trương Vĩnh) Ký, Đường Pétrus Ký, Trung Học Trần Lục, Trung Học Hồ Ngọc Cẩn, Trường Nguyễn Trường Tộ, Đường Nguyễn Trường Tộ, Đường Tổng Đốc Phương, Đường Tổng Đốc Lộc; đặc biệt lại có Đại Lộ Ngô Đình Khôi (sau ngày 1/11/1963 được đổi là Đại Lộ Cách Mạng 1/11/1963). Độc đáo hơn nữa, tại thành phố Vĩnh Long lại có Đại Lộ Ngô Đình Thục. Ông Ngô Đình Diệm thì được họ vinh danh cho là ”nhà chí sĩ yêu nước” và ”anh hùng dân tộc”. Nói cho đúng, những người Gia-tô cuồng tín vinh danh những tên tội đồ Việt gian phản quốc, những hạng người ”cõng rắn cắn gà nhàhay ”rước voi về giầy mả tổ” này của dân tộc Việt Nam lên thành những nhà ái quốc của họ, thì cũng đúng với quan niệm và thế đứng của họ, bởi vì những tên tội đồ này đã tận tụy hy sinh cho tổ quốc đích thực của họ là nước Vatican tức là Giáo Hội La Mã. Đối với họ, những gì đúng theo lời dạy của Giáo Hội La Mã hay Đế Quốc Vatican là đúng, là tuyệt vời, những gì trái với lời dạy của Tòa Thánh La Mã là sai quấy, là qủy sa tăng. Làm gì thì làm, cũng phải làm cho có lợi hay đúng theo quy luật của  nước tổ của họ là Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Vatican, không cần biết đến lương tâm, không cần biết đến lẽ phải, và cũng không cần biết đến quê hương gốc của họ là Việt Nam và dân tộc gốc của họ là Việt Nam. Điều này được thể hiện rõ rệt nhất qua lời tuyên bố trong bài thuyết trình vào ngày 13/8/1993, tại Denver, Colorado, của ông Nguyễn Văn Chức, người tín đồ Gia-tô cuồng tín khi đón tiếp Giáo Hoàng John Paul II tại đây. Nguyên văn lời tuyên bố này như sau:

”... bổn phận chúng ta, người Công Giáo tỵ nạn, đối với Giáo Hội và quê hương... Vì vậy, nếu trong công cuộc loại trừ bạo quyền Cộng Sản, tôn giáo tại Việt Nam là động lực vận hành và thúc đẩy, thì trong công cuộc phục hưng con người sau khi xóa bỏ chế độ Công Sản, tôn giáo tại Việt Nam sẽ là nhân tố chủ đạo, chỉ đạo và quyết định. Riêng về phía Thiên Chúa Giáo, quyển Thánh Kinh sẽ là cẩm nang và đạo lý tại Việt Nam...” (Chu Văn Trình - Thái Vân - Trần Quang Anh, sđd, 1994, tr 9-10).

CÁI NHÌN KHÁC NHAU VỀ TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI SỰ VIỆC

Đối với đại khối dân tộc, “tiên trách kỷ hậu trách nhân”, nếu chẳng may có chuyện gì bất như ý, thì người Việt Nam ta, nhất là những thành phần được xem như là có học, thường tự vấn hay kiểm điểm lại xem chính bản thân của mình có lầm lẫn hay sai quấy không? Tuyệt nhiên không có một người có học người nào mà khi có chuyện gì bất như ý lại đi đổ lỗi cho người khác. Đó là lý do, khi miền Nam Việt Nam bại trận, bị Miền Bắc thống nhất, thâu giang san về một mối thì hầu như những người được xem như là có học đã có thái độ rất là vô tư và khách quan, nhận biết là lỗi tại các nhà lãnh đạo và giai cấp thống trị của miền Nam. Họ cho là miền Nam bị thảm bại trước sự tấn công ồ ạt của quân đội miền Bắc là lỗi của người miền Nam, đúng hơn là các nhà lãnh đạo của miền Nam đã ích kỷ quá, bạo ngược quá, dã man quá, và gian ác quá, ăn chặn tiền viện trợ và bóc lột nhân dân nhiều quá. (Xin xem lại các chương 17 đến hết chương 20). Vì vậy mới nên nông nỗi, chứ không phải là do Hoa Kỳ làm cho miền Nam thất bại trong cuộc chiến kéo dài cả 20 năm trường. Bài viết dưới đây của ông Bạch Đinh nói lên điều này:

Đỗ lỗi cho người khác.- Ta lúc nào cũng hay, cũng giỏi nhưng sở dĩ thất bại là vì kẻ khác. Một số người Mỹ giận dữ kết tội đồng minh (VNCH) tồi. Một số người Việt hùng hổ lên án đồng minh (Hoa Kỳ) phản bội. Nó phản ảnh một tinh thần vô trách nhiệm. Chúng ta  có bao giờ tự hỏi là đã chu toàn nhiệm vụ trong cuộc chiến Việt Nam chưa? Bao nhiêu thanh niên trốn quân dịch? Bao nhiêu người chạy chọt để được ở lại hậu phương? Bao nhiêu gạo, máy truyền tin, thuốc tây... đã bán cho Cộng Sản. Bao nhiêu tham nhũng sống phè phỡn nhờ chiến tranh? Há những điều đó chẳng phải là khuyết điểm của chúng ta hay sao? Hay chúng ta coi đó là căn bệnh rất yếu của chiến tranh? Thái độ đó khiến chúng ta phủi tay trước trách nhiệm đối với tổ quốc. Quan hệ đồng minh thường dựa trên quyền lợi hỗ tương. Khi một bên thấy quyền lợi của mình bị sứt mẻ tất phải dẫn tới đổ vỡ. Vì thế cần phải nhìn hai mặt. Hoa Kỳ giúp VNCH là vì quyền lợi của nước Mỹ cần chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản tại Vùng Đông Nam Á. Mỹ cũng làm điều đó tại Âu Châu, tại Đại Hàn. Những sự trợ giúp đó là cần thiết để cho VNCH đủ sức chống lại cuộc xâm lăng của Cộng Sản... Giá đồng minh VNCH giữ vững được tiền đồn, liệu chính quyền Mỹ có cần đưa quân vào Việt Nam hay không? Tình hình chiến sự, xáo trộn xã hội VNCH trong những năm đầu thập niên 1960 chứng tỏ sự bất lực của chính quyền. VNCH quả thực khó đứng vững trước sức tấn công ồ ạt của khối Cộng. Nếu chỉ cần đổ tiền vào mà VNCH đứng vững thì Hoa Thịnh Đốn chẳng dại gì đưa quân vào VN0. Ai hoạch định chính sách thì cũng phải làm như vậy.  Khi nhận thấy tiền của đổ vào VNCH hằm mục đích chống Cộng đã biến thành phương tiện cung phụng cho một thiểu số, thì dân Mỹ đòi phải có thái độ.” (Đại Dương, “Nhân Tâm Tùy Mạng Mỡ”, Người Dân Số 89, tháng 1-1998 ).

Ngược lại, những người  Gia-tô cuồng tín, cả những người có học cũng không nghĩ như vậy. Họ có một quan niệm khác hẳn. Mặc dầu, mỗi lần đi nhà thờ thường vừa đấm ngực vừa đọc câu kinh cầu rằng ”lỗi tại tôi, ...” đến mỏi miệng mới thôi. Thật là vô cùng ngạc nhiên khi thấy rằng một tín đồ ngoan đạo của Giáo Hội La Mã như ông Gia-tô Nguyễn Văn Chức và những người Gia-tô khác trong Phong Trào Phục Hưng Tinh Thần đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm lại không nhớ mấy kinh cầu nhật tụng ”lỗi tại tôi” này? Tại sao họ lại không nhớ đến tội ác của chính bản thân và bè đảng đồng đạo của họ khi nắm chính quyền khiến cho nhân dân ghê tởm mà xa lìa chính quyền, để cho miền Bắc có thêm được sự ủng hộ của quần chúng ở ngay trong miền Nam. Ông Gia-tô Nguyễn Văn Chức Chức và những người  Gia-tô cuồng tín khác khăng khăng cho rằng vì Hoa Kỳ phản bội, không giữ đúng lời cam kết bảo vệ miền Nam cho đến cùng (trọn đời), cho nên miền Nam mới bị miền Bắc thống nhất, khiến cho Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược La Mã mất đi một thuộc địa, và họ mất đi cái thế ăn trên ngồi trước, mất đi cái địa vị nắm độc quyền thao túng, múa may quay cuồng trên sân khấu chính trị tại miền Nam Việt Nam như thời 1954-1975. Chúng ta hãy theo dõi Bức Thư Ngỏ của ông Gia-tô cuồng tín Nguyễn Văn Chức đem hết tài ăn học ra để trình bày đầy đủ cái tinh hoa của nền văn hóa Gia-tô trong kỹ thuật chửi bới và hạ nhục Ông MacNamra và Hoa Kỳ. Dưới đây là nguyên văn của bức thư ngỏ này:

”Thưa ông,

1.- Tôi hân hạnh gửi đến ông bức thư này để nói lên những suy nghĩ của tôi về cuốn In Retrospect: The tragedy and Lessons of Vietnam của ông.

2.- Trong tập biên khảo nổi tiếng Fifteen Decisive Battles of the World xuất bản năm 1851, sử gia kiêm luật gia Sir Edward S. Creasy đã đưa ra nguyên lý sau đây: tầm quan trọng lịch sử của một cuộc chiến tranh không được tính bằng những con số, con số người chết và bị thương, hoặc con số vũ khí bị mất. Nó được tính bằng những gì ta không có ngày hôm nay, nếu ta thất trận hoặc hèn nhát bỏ chạy.

3.- Tuy sống trên những lục địa khác nhau, ông và tôi, thời còn cắp sách đến trường, đã học những đại tác phẩm của Aeschylus, Sophocles, Euripides, Plato, Aristole... Những di sản văn hóa này đã không được truyền đến thệ hệ chúng ta và con em chúng ta, nếu không có chiến thắng Marathon. Như sử sách đã ghi: năm 490 trước Tây Lịch, những đoàn quân man rợ Ba Tư đã tràn vào phá phách các đền thờ tại Acropolis. Dân thành Athens đã đánh lại, và đã chiến thắng trên cánh đồng Marathon.

4.- Trong bài tựa bản dịch vở kịch Oresteia của Aeschylus, hai học giả Robert Fagles và W. B. Stanford đã gọi chiến thắng Marathon là chiến thắng của lẽ phải đánh bại bạo lực, của dũng cảm đánh bại khiếp nhược, của tự do bẻ gẫy gông xiềng... Hai học giả đó viết thêm: chiến thắng Marathon có thể được coi là biến cố quyết định cho sự phát triển của  nền văn minh Tây Phương sau này.

5.- Trong tập biên khảo Fifteen Decisive Battles of the World, Sir Creasy cũng đã viết: chiến thắng Marathon đã giữ lại cho nhân loại những kho tàng văn hóa của Hy Lạp, đã bảo đảm những phát triển những định chế tự do, đã giúp cho sự nẩy nở của trí tuệ Tây Phương, và qua các thời đại, đã đưa nền văn minh Tây Phương tiến lên. Mặc nhiên, Sir Edward Creasy đã đưa ra kết luận: nếu không có chiến thắng Marathon, Tây Phương đã không có được một nền văn minh như ngày hôm nay.

6.- Cuộc chiến tranh lớn nhất của thế kỷ 20 là Đệ Nhị Thế Chiến, giữa phe Trục và Đồng Minh. Và chiến thắng Normandy (then chốt cho cuộc chiến thắng Đức Quốc Xã tại Âu Châu) đã đưa nước Mỹ lên địa vị siêu cường. Thật vậy, nếu sau cuộc chiến tranh Cách Mạng (1775-1783) lục địa Mỹ trở thành một quốc gia độc lập, thì sau chiến thắng Normandy, nước Mỹ đã trở thành một trong hai siêu cường trên thế giới, trở thành người lãnh đạo đáng kính của Thế Giới Tự Do, và cuối cùng trở thành kẻ chiến thắng trong cuộc Chiến Tranh Lạnh.

7.- Hãy tưởng tượng những gì đã xẩy ra cho thế giới tự do nói chung và cho nước Mỹ nói riêng, nếu không có chiến thắng Normandy, bạo lực sẽ ngự trị trên lục địa Âu Châu thêm một thời gian với những hậu quả không lường được. Nước Mỹ sẽ không bao giờ trở thành một siêu cường; nước Mỹ sẽ không bao giờ trở thành người lãnh đạo đáng kính của thế giới tự do. Và trước con mắt của nhân loại, nước Mỹ sẽ chỉ là lục địa của những kẻ đi tìm vàng, một mảnh đất của những người con buôn.

8.- Bây giờ tôi xin nói về cuộc chiến Việt Nam 1960-1975. Cuộc chiến tranh này, thực chất là một cuộc chiến tranh xâm lược do Cộng Sản quốc tế phát động trong tiến trình nhuộm đỏ bán đảo đông Dương, trước khi nhuộm đỏ toàn vùng Đông Nam Á. Hồ Chí Minh và Cộng Sản Việt Nam chỉ là kẻ thừa hành. Nhân dân Miền Nam Việt Nam đã đem xương máu ra chống lại. Và trung thành với lý tưởng tự do cũng như trung thành với những lời cam kết của ít nhất 4 vị Tổng Thống của mình, nước Mỹ đã tham chiến tại Miền Nam Việt Nam như một đồng minh. Cái ơn này, dân tộc Việt Nam đời đời ghi nhớ. (Vấn đề này cần phải được bàn kỹ lại. Ngay đến 14 triệu dân ở phía Nam vĩ tuyến 17 cũng chưa hẳn đã tri ân sự tham chiến của người Hoa Kỳ. Chỉ có một thiểu số dân miền Nam được hưởng những đặc quyền đặc lơi của các chế độ đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu, hoặc những tử thù của Cộng Sản mới ghi ơn sự tham chiến của Hoa Kỳ).

9.- Câu hỏi được đặt ra: nếu nước Mỹ không tham chiến tại Miền Nam Việt Nam, những gì đã xẩy ra? Đã có một nước Việt Nam rơi vào quỹ đạo của Cộng Sản quốc tế, ngay từ cuối thập niên 1950. Đã không có một Miền Nam Việt Nam thịnh vượng, bảo tồn được nền văn hóa dân tộc Việt Nam và phát huy được những truyền thống dân chủ tự do (?), để ngày hôm nay nhân dân Việt Nam trong cũng như ngoài nước có được những điều kiện tối ưu, đấu tranh cho một nước Việt Nam không Cộng Sản. Đó là đối với Miền Nam Việt Nam. Đối với Á Đông, đã không có những Thái Lan, Đại Hàn, Đài Loan, Tân Gia Ba... Những quốc  gia này đã có điều kiện (thời gian, an ninh, vốn đầu tư) để phát triển, nhờ cuộc chiến tranh Miền Nam Việt Nam. Những quốc gia này hiện là những nhân tố hùng hậu có thể giúp nước Mỹ thực hiện những mục tiêu chiến lược trong tương lai tại vùng Đông Nam Á. (Câu trả lời thật dễ, ngắn và gọn: Cuộc tương tàn giữa người Việt đã được rút ngắn hơn hai thập niên; hàng trăm ngàn sinh mạng người Việt không bị hoang phí; ruộng vườn thành phố Việt Nam không bị phá hủy một cách phí phạn. Về việc “giải phóng miền Bắc” vào năm 1990, 1991 thì chỉ là chuyện hoang tưởng của một ông Gia-tô cuồng tín sinh viên sĩ quan Nam Định đã từng bị đưa ra Hội Đồng Kỷ Luật về tội trễ phép với ý định đào ngũ. Còn những nước khác ở Đông Nam Á? Ông Gia-tô Nguyễn Văn Chức chẳng biết gì về lịch sử vùng Đông Nam Á mà cứ đòi lên mặt tài khôn!).

10.- Câu hỏi cũng đặt ra: Nếu nước Mỹ không phản bội Miền Nam Việt Nam, cái gì sẽ xẩy ra? Đã không có hơn một triệu người Việt Nam chế trên biển trong cuộc ra đi tìm tự do. Đã không có một Miền Nam bị rơi vào tay Cộng Sản Việt Nam, và giữa thập niên 1980 khi Liên Sô và Đông Âu bắt đầu rạn vỡ, chế độ Cộng Sản Miền Bắc đã có thể bị thanh toán bằng một cuộc vùng dậy của nhân dân Miền Bắc, với sự hỗ trợ của quốc gia Miền Nam Việt Nam (?). Đó là đối với Việt Nam. Đối với nước Mỹ, nếu không chạy trốn tại Miền Nam, nếu không phản bội những lời cam kết đối với Miền Nam Việt Nam, chắc chắn nước Mỹ đã được toàn thế giới kính nể, bạn cũng như thù. Chắc chắn nước Mỹ đã không bị Thế Giới Tự Do coi thường, nếu không muốn nói là khinh bỉ. Sự coi thường này đã thể hiện rõ rệt trong con mắt của các nhà lãnh đạo Á Châu từ 20 năm nay đối với nước Mỹ. Sự coi thường này cũng đã thể hiện trong vụ Bosnia hiện nay. Vài học Việt Nam 1975 vẫn còn ám ảnh lương tâm thế giới; nó không cho phép các nhà lãnh đạo Âu Châu được tin vào lời cam kết của các chánh quyền Mỹ. (Hoa Kỳ đã phản bội miền Nam, hay đã có một quyết định hợp lý và được lòng người Việt nhất, từ năm 1945-45 tới năm 1973? Tai sao lại phải hy sinh tiền bạc và xương máu thanh niên, trai tráng của Hoa Kỳ để nuôi báo cô những tên đầu nậu chiến tranh? Hơn nữa, ông Gia-tô Nguyễn Văn Chức chắc cố tình quên những phong trào chống đối chiến tranh trên thế giới rồi. Trong số những người chống đối và phản bội có những nguời Gia-to ở Việt Nam và có cả Giáo Hoàng ở La Mã đấy, ông Gia-tô Chức ạ. Ông thử đọc lại cuốn Thập Tự và Bồ Đề [The Cross and the Bo-Tree] của Linh-mục Piero Gheddo, hoặc tập sách Tôn Giáo & Chính Trị: Phật Giáo, 1963-1967 chủa Chính Đạo thì rõ).

11.- Trong hơn 20 năm qua, nước Mỹ đã phải mang trong mình Hội Chứng Việtnam (Vietnam Syndrome), hội chứng của sự phản bội. Hội chứng này, nước Mỹ còn phải mang trong mình bao nhiêu năm nữa? Cuốn In Retrospect chỉ là một hiện tượng nẩy sinh từ hội chứng ấy. (Hội chứng Việt Nam thực ra chẳng dính nhập gì đến cuốn In Retrospect, mà tác giả là một trong những người đã giúp đưa đến việc chấm dứt cuộc chiến Việt Nam. Hội Chúng Việt Nam nói cho đúng là sự thức tỉnh của dân tộc Hoa Kỳ trước phong trào đòi độc lập và chủ quyền của các nước nhược tiểu đã bị bóc lộ, đàn áp và cướp bóc bởi iên minh thực dân-Giáo Hội Vatican).

12.- Cuốn In Retrospect kể lại thảm kịch của Việt Nam. Thực ra, đó là thảm kịch của chính nước Mỹ. Thập niên 1960, khi phải đương đầu với một cuộc khủng hoảng ngày càng trầm trọng tại Đông Nam Á do Cộng Sản quốc tế tạo ra, nước Mỹ đã được lãnh đạo bởi John F. Kennedy, một vị tổng thống có mê lực (charisma), nhưng thiếu viễn kiến và không quyết đáp. Vị tổng thống ấy đã đi từ thất bại này đến thất bại khác, từ vụ Vịnh Con Heo đến Ai Lao, đến vụ lật đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam. Tệ hơn nữa, nước Mỹ đã có một kẻ thiếu khả năng và thiếu nhân cách làm bộ trưởng quốc phòng. Kẻ đó chính là ông Robert S. McNamara. (Một cá nhân như ông Gia-tô Nguyễn Văn Chức có thẩm quyền gì để đưa ra những nhận định có tính cách chiến lược như trên? Thực ra, lật độ chế độ đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm là một điểm son của chính quyền Kennedy. Nó đánh dấu đoạn chót của hơn 100 năm thống trị của bọn linh mục và giám mục Gia-tô qua sự cấu kết chặt chẽ với thực dân Pháp và tàn dư phong kiến cùng những phường cuồng nô vô tổ quốc Gia-tô).

13.- Khả năng về nhân cách của ông đã hiện lên rõ rệt trong cuốn In Retrospect, một cuốn sách lịchsử và thực tiễn đã chứng minh - đầy rẫy những sai lầm về Việt Nam, những sai lầm trong tư duy cũng như trong hành động, những sai lầm của chính ông và của nước Mỹ.  Sai lầm khi coi Cộng Sản quốc tế không phải là một đại họa cho nền hòa bình thế giới nói chung và nền hòa bình Đông Nam Á nói riêng. Sai lầm khi coi cuộc Chiến Tranh Việt Nam là nột cuộc ”Chiến tranh giải phóng dân tộc”. Sai lầm khi coi Hồ Chí Minh là người Việt quốc gia yêu nước. Sai lầm khi trách quân đội Miền Nam thiếu khả năng và dũng cảm để chiến đấu. Tôi không thể liệt kê tất cả những sai lầm của cuốn In Retrospect. Tôi chỉ kể ra một vài thí dụ. (ng (Ông Gia-tô Nguyễn Văn Chức bị nhồi sọ rằng Cộng Sản Quốc Tế là đại họa của thế giới vì thuyết Cộng Sản, giống như đạo Tin Lành, nhắm mục đích chính là đả phá Giáo Hội La Mã. So với những nước độc tài chuyên chính chuyên chế như Việt Nam thì chuyên chính vô sản hay chuyên chính của đạo phiệt Gia-ô có khác gì nhau về mức độ tàn ác và khát máu?)

14.- Dư luận có thể tha thứ cho ông về những sai lầm nói trên, bởi đó thuộc vấn đề nhận thức. Vì như ông đã thú nhận trong cuốn In Retrospect trước khi giữ chức bộ trưởng quốc phòng Mỹ, ông chỉ là chủ tịch một công ty xe hơi, không biết gì về chính trị.

15.- Nhưng dư luận (?) không thể tha thứ cho ông khi ông viết rằng Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã sống với em dâu là bà Ngô Đình Nhu như vợ chồng. Nếu ông viết điều đó với sự dè dặt thông thường, kèm theo những từ ngữ thông thường như ”theo tin đồn”, hoặc ”theo một số người”, ông vẫn không tránh được sự khinh bỉ của dư luận (?). Đằng này, ông viết một cáh quyết đáp, không dè dặt, không viện dẫn, dù là bằng cớ ngụy tạo. liêm khiết của người trí thức ông để đâu? (Bà Trần Lệ Xuân còn sống sờ sờ ra đó. Nếu không đúng sự thực, ba ta đã nạp đơn kiện ông McNamara rồi. Sợ rằng ông McNamara nổi sùng, công bố hết tài liệu về câu chuyện “người vợ trên thực tế” này, nước biển Đông cũng không rửa hết nỗi nhục).

16.- Có thể tôi lầm chăng? Văn hóa Việt Nam, lễ giáo Đông phương cũng như một chút văn hóa Pháp trong tôi đã khiến cho tôi nhận xét sai lạc về ông, một người Mỹ từng được coi  là tầng lớp trí thức và lãnh đạo của Mỹ. (Ông Gia-tô Nguyễn Văn Chức hơi lộng ngôn. Cái gọi là “chút văn hóa Pháp” trong ông chỉ là thứ nước mè văn hóa thuộc địa Pháp, pha chút nước màu Gia-tô Đắc Lộ. Người có chút văn hóa Pháp thực sự chẳng bao giờ hạ bút chửi bới Tướng Thi là “vô học”, hay nhục mạ Tướng Đỗ Mậu bằng ngôn ngữ của những phường đá cá lăn dưa).

17.- Tôi vẫn mong có dịp đến nghĩa trang Arlington để viếng mộ của Tổng Thống Kennedy, vị Tổng Thống Mỹ được nhân dân Mỹ tôn thờ vì mê lực và bị chết thảm, hơn là vì những thành quả trong 3 năm ngồi trong Tòa Bạch Ốc. Và nếu có dịp viết về cuộc đời của vị Tổng Thống này cũng như cuộc đời của một số Tổng Thống khác của nước Mỹ, chắc chắn tôi sẽ không viết những điều xúc phạm đến đạo hạnh của các vị đó, cho dù trong giả thuyết - những điều có thật và có thể chứng minh. Văn hóa Việt Nam, lễ giáo Đông Phương cũng như một chút văn hóa Pháp trong tôi không cho phép tôi làm điều đó
.
18.- Ông đã có liêm sỉ bịa đặt trắng trợn để xúc phạm đến anh linh của ông Ngô Đình Diệm, một vị tổng thống đáng kính (?) của quốc gia Miền Nam (?) và cũng là ”một trong những nhà lãnh đạo có khả năng nhất của Á Châu Tự Do”. Ông hơn tôi ở điểm đo. Và ông nên tự hào. (Ông Diệm chỉ đáng kính đối với thiểu số Gia-tô cuồng tín, vốn được hưởng những đặc ân đặc quyền của chế độ như anh em ông Gia-tô Nguyễn Đức Chiểu và Nguyễn Văn Chúc mà thôi. Ngay đến Giám-mục Lê Hữu Từ cũng đã nhận định từ năm 1954 rằng ông Diệm là người bất tài, chỉ tạo nên sự hiềm khích giữa người Gia-tô và và đại khối nhân dân người Việt. Và Quôc Trưởng Bảo Đại thì gọi ông Diệm là thằng “bệnh thần kinh” (psychopath). Ông Gia-tô Nguyễn Văn Chức chẳng biết gì mà cũng loạn ngôn. Ông thử đọc lại bộ Việt Nam Niên Biểu, tập 1B-1947-1954 của Chính Đạo thì rõ).

19.- Trong cuốn In Retrospect, ông có nói đến vụ ông bị ám sát hụt trong chuyến đi thăm Miền Nam Việt Nam, hồi tháng 5/1964. Người ám sát ông là tên đặc công Việt Cộng Nguyễn Văn Trỗi. Tôi có nói chuyện với nó trong nhà lao, vài ngày trước khi nó bị hành quyết. Nó khóc với tôi, vì đã dại dột đi theo Cộng Sản để phải mang án tử hình, bỏi lại người vợ mới cưới tên Quyên. Nhìn nó khóc, tôi tin nó thành thực. Nhưng khi nhìn ông khóc mới đây trên đài truyền hình ABC trước mặt Barbara Walters, khóc cho những sai lầm của ông và của nước Mỹ, tôi không tin ông thành thật. Ông làm cho nhiều người phì cười(?). Ông đóng kịch, nhưng đóng quá vụng. Tôi cứ nghĩ hôm đó (ngày 9/5/1964), ông bị giết tại Cầu Công Lý Saigòn, chắc chắn nước Mỹ đã có thêm một vị anh hùng; xác ông có thể đã được mang về chôn cất tại nghĩa trang Arlington, với lễ nghi dành cho các vị anh hùng dân tộc của Mỹ. Và lời tiên tri của Homer đã ứng nghiệm. Cách đây 25 thế kỷ, trong thiên anh hùng ca Illiade, Homer đã viết rằng: trong cuộc chiến nào cũng vậy, vẫn có những kẻ hèn nhát được tôn vinh lẫn lộn với những người dũng cảm.

20.- Trong cuốn In Retrospect, ông đã chạy tội bằng cách đổ tội cho người khác. Ông đã thóa mạ sự hy sinh cao cả của quân đội Mỹ và quân đội Việt Nam. Ông đã bạch hóa tội ác xâm lược của Cộng Sản Việt Nam. Chưa đủ, ông đã dùng những lời lẽ thiếu lễ độ nói về những người mà ông không ưa thích, cũng như ông đã dùng những lời lẽ quá đáng để ca ngợi những người mà ông cần phải ca ngợi. Những lời ca ngợi mà ông dành cho Tổng Thống Kennedy trong cuốn In Retrospect đơn thuần chỉ là những lời xu nịnh dùng để phúng điếu. Tóm lại, làm ra vẻ thông minh xuất chúng, thiếu ý thích chính trị, thiếu lương thiện, trắng trợn và thời cơ chủ nghĩa, đó là con người của ông trong cuốn In Retrospect.

21.- Trong cuốn In Retrospect, ông đã liệt kê những sai lầm căn bản của nước Mỹ trong cuộc chiến tranh Miền Nam Việt Nam. Những câu hỏi được đặt ra. Ông biết những sai lầm đó, lúc nào? Tại sao ông không nói rõ cuối năm 1968 khi ông rời chức vụ bộ trưởng quốc phòng để tránh cho bao nhiêu người con ưu tú của nước Mỹ khỏi phải hy sinh một cách ”vô ích”. Tại sao lại đợi đến năm 1995 mới nói ra? Tôi vẫn nghĩ: cuốn In Retrospect chỉ là những suy tư của ông sau này, được viết ra để chạy tội cho bản thân ông, chạy tội cho nước Mỹ, và để làm yên ổn lương tâm những con buôn Mỹ đang muốn nhẩy vào Việt Nam. Ngày 1/7/1995 vừa qua, nhân danh những lý tưỏng nhân đạo và nhân quyền, Tổng Thống  Clinton đã thiết lập bang giao với chế độ Cộng Sản Hà Nội, một chế độ bạo ngược thù nghịch ấy đã trả thù, hành hạ dã man và giam cầm những người quốc gia, nhất là các chiến sĩ QLVNCH, trái với Hiệp Định Ba Lê 1973. Chế độ bạo ngược ấy đang giam cầm những chiến sĩ của tự do, trong đó có các vị lãnh đạo Phật Giáo, như Thượng Tọa Thích Huyền Quang, TT Thích Quảng Độ... vì tội đấu tranh cho nhân quyền, cho tự do và cho tôn giáo. Chế độ bạo ngược đã và đang khóa kín nhân dân Việt Nam trong kiếp sống cùng cực và tồi tệ nhất trong lịch sử Việt Nam.

22.- Thật là mỉa mai cho nước Mỹ, một nước được ca tụng một cách xác đáng là xứ sở của những người tự do và quê hương của người dũng cảm.

23.- Tôi viết bức thư này, buổi sáng mùng 1 tháng 11, khi tưởng nhớ cái chết của TT NNgô Đình Diệm và cái chết TT Kennedy, cách đây hơn 30 năm. Tôi vẫn tiếc cho TT Kennedy. TT Kennedy đã không sống thêm vài tháng nữa để chứng kiến những gì xẩy ra cho miền Nam Việt Nam và cho nước Mỹ, sau khi TT Diệm bị giết. Những gì cũng đã được chính ông cựu bộ trưởng trong cuốn In Retrospect. Ông cựu bộ trưởng đã kể lại lời Mao Trạch Đông tâm sự với ký giả Edgar Snow năm 1965. Họ Mao dẫn ý rằng: ”Mỹ đã không nghe lời Ngô Đình Diệm”. Mỹ đây không phải là nhân dân Mỹ, mà là TT Kennedy và chính quyền Kennedy trong đó có ông.

24.- Trên bàn viết của tôi, có bức vẽ người chiến sĩ QLVNCH với nền cờ vàng ba sọc đỏ, hình ảnh một quân đội không thua sút bất cứ quân đội nào trên thế giới, về lòng dũng cảm và về khả năng chiến đấu. Quân đội ấy đã chịu mọi hy sinh gian khổ để bảo vệ Miền Nam  và để ngăn chặn làn sóng đỏ tại vùng Đông Nam Á. Quân đội ấy đã chiến đấu trong những điều kiện cực kỳ nghiệt ngã... điều kiện chính trị cũng như điều kiện xã hội để rồi cuối cùng bị trói tay, phải buông súng, và làm vật hy sinh cho một cuộc trả thù man rợ của CSVN. Đó mới đích thực là Thảm kịch của Việt Nam. Và nước Mỹ đã đóng góp rất nhiều để tạo ra thảm kịch ấy. 

25.- Lật đổ Ngô Đình Diệm gây ra hỗn loạn chính trị tại miền Nam, rồi đổ tội cho Miền Nam không có lãnh đạo.

26.- Chủ xướng và tạo ra Hiệp Định Ba Lê 1973, hợp thức hóa sự có mặt của bộ đội CS Bắc Việt trên lãnh thổ Miền Nam VN, ngưng viện trợ quân sự cho Miền Nam VN, rút lui ”trong danh dự”, bỏ rơi quân đội Miền Nam VN, rồi đổ tội cho quân đội ấy thiếu khả năng và dũng cảm để chiến đấu.

27.- Phải chăng đó là logic và đạo tắc (ethics) của nước Mỹ, một nước từng được coi là người lãnh đạo đáng kính của thế giới tự do? Phải chăng đó là truyền thống đạo đức của nước Mỹ, một nước từng được ca tụng là xứ sở của những người tự do và quê hương của người dũng cảm? Phải chăng đó là Những Bài Học mà tấn thảm kịch Việt Nam đã để lại, về lòng dũng cảm của nhân dân dân Mỹ cũng như về sự thành tín của các chính quyền Mỹ? Tôi không dám nghĩ như vậy. Bởi vì nghĩ như vậy là xúc phạm nặng nề đến dân tộc Mỹ, một dân tộc mà tôi luôn luôn ngưỡng mộ là đại lượng, anh hùng, không biết gian dối và không biết phản trắc.  Kính chào ông  Houston ngày 1/11/1995

NGUYỄN VĂN CHỨC
Cựu Sĩ Quan QLVNCH
Cựu Luật Sư Tòa TT Sàigon
Cựu Chủ Tịch Ủy Ban Tư Pháp Định Chế
Thượng Nghị Viện VNCH
Nguyên Tổng Thư Ký Liên Đoàn Công Giáo VN tại Hoa Kỳ

Lá thư trên đây được đăng trên tuần báo Việt Nam Mới số 254 ra ngày 24/11/1995 phát hành tại Seattle, Washington, và tờ Việt Nam Post số 246 ra ngày 22/11/1995 ở Westminster, California.

Người ta thường nói: ”Cuồng tín là sự tổng hợp của ngu, dốt và hợp hĩnh”.  Trên đây, chúng tôi đã nêu lên sơ lược một vài điểm dốt nát của ông Gia-tô Nguyễn Văn Chức, khiến cho những cái tước hiệu mà ông ta kê dẫn ra chỉ làm cho người ngoại quốc thêm khinh bỉ hàng ngũ cai thầu chiến tranh tại miền Nam Việt Nam hồi đó.Trong một dịp khác, người viết sẽ phân tách trình độ kiến thức và tư cách của tác giả lá thứ trên đây để quý vị thấy rằng tất cả căn bệnh không biết mình là người ít học (dốt) lại hàm hồ (ngu xuẩn) và huênh hoang (hợm hĩnh) giống như một thứ ếch ngồi đáy giếng. Sở dĩ có hiện tượng này là vì những người bị nhồi sọ lâu năm, thường bị loại siêu vi khuẩn cuồng tín và thiển cận làm tê liệt hết tất cả các tế bào thần kinh thuộc trung khu lý trí trong não bộ, cho nên họ không còn có óc lý luận và tinh thần sáng suốt nữa để nhận ra cái ngu, cái dốt và cái hợm hĩnh của họ. Vì thế cho nên mới có tình trạng ếch ngồi đáy giếng như tác giả viết lá thư trên đây gửi cho ông McNamara. Người Việt Nam ta thường nói rằng, ”Đứa ngu dốt thường thường không biết nó là đứa ngu dốt”. Độc đáo hơn nữa, dù là nó phải chui vào cái vỏ sò tôn giáo để vươn lên, và chỉ có 3 năm học luật theo lối học nhồi sọ, rồi được chính quyền đồng đạo ban cho cái bằng cử nhân luật. Kẻ đo, bọn người cuồng tín ngu xuẩn này lại thường lên  lên mặt ra vẻ ta đây thông minh và có học hơn người, chê bai những người khác học kém hơn, và sỉ vả nhiều người khác là ngu xuẩn và đần độn”.

Người khôn biết rõ phận mình,
Đứa ngu không biết chính mình là ai.

MỘT NỀN ĐẠO LÝ ĐỘI TRÊN ĐẠP DƯỚI

Trừ một vài trường hợp ngoại lệ, là người Việt Nam, chẳng cần phải đi học hay phải học qua hết tiểu học, hầu như ai cũng biết lời dạy ”Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân của” của Đức Khổng Tử. Người viết xin chuyển dịch nôm na lời dạy trên đây là ”vừa mắt ta ra mắt người” hay là ”Đừng làm cho người khác những gì mà chính mình cũng không muốn người khác làm như vậy”, hoặc là ”Đừng cưỡng bách người khác phải làm những gì mà nếu chính mình bị cưỡng bách như vậy thì mình sẽ bất mãnchống lại”. Hầu như tất cả mọi người trong khối đại dân tộc Việt Nam ta đều cho lời dạy trên đây là khuôn vàng thước ngọc để theo đó mà cư xử với nhau. Cũng vì thế mà suốt mấy ngàn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam gồm nhiều sắc dân dị biệt với nhau về nhiều phương diện mà vẫn có thể sống chung hòa thuận với trong cùng một mảnh đất mà không hề xẩy ra những chuyện kỳ thị, không hề xẩy ra những chuyện người mạnh hà hiếp và đàn áp kẻ yếu. Không biết bao nhiêu tư tưởng khác nhau được du nhập vào Việt Nam, nhân dân ta đều đón nhận để rồi nếu tốt thì giữ lại, đồng hóa làm của mình, nếu không tốt đi bỏ qua, coi như là không có gì xẩy ra. Vì thế cho nên trên mảnh đất từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu, người dân Việt Nam mang đủ mọi sắc thái của đủ mọi thứ tín ngưỡng và đạo lý khác nhau từ đạo Khổng, đạo Phật, đạo Lão, đạo thờ tổ tiên, Hòa Hảo, Cao Đài và đạo Hồi, v.v... , kể ra có cả hơn chục thứ tôn giáo mà vẫn yên vui như trai gái đến tuổi cặp kê thương yêu nhau đang chung sống với nhau dưới cùng một mái nhà.

Xét cho cùng, không phải chỉ có Việt Nam mới như vậy. Hầu như ở các nước Đông Á và Đông Nam Á đều như vậy cả. Và được như vậy là nhờ cái ơn hay đúng hơn là món quà của Đức Khổng Tử đã mang lại cho nhân loại cách đây vào khoảng 2600 năm trước đây để dạy cho người đời phải biết tôn trọng nhân quyền. Nhờ những lời dạy này mà xã hội Đông Phương khi bọn vua chúa lạm quyền cũng không dám quá trớn. Chính vì vậy mà trong lịch sử các nước Đông Phương như Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản và Việt Nam, chưa hề có một tôn giáo nào phát động một cuộc thánh chiến để cưỡng bách các dân tộc khác phải theo cái chủ thuyết thờ phượng theo cung cách của mình, chưa hề có một tòa án nào gọi là tòa án dị giáo để đem những người có những quan niệm khác biệt về Thượng Đế hay khác biệt về cung cách thờ phượng ra để xử tội và đưa họ lên giàn hỏa thiêu thiêu sống, và cũng chưa hề bao giờ có chuyện dựa vào nhu cầu sinh lý hay hơi hướng tình yêu của lứa đôi, trong cơn nóng bỏng thèm khát sống đời hạnh phúc gia đình để bắt chẹt nạn nhân phải từ bỏ cái đạo gốc của tổ tiên truyền lại mà theo cái đạo lạ hoắc của người tình. Chính vì vậy mà từ ngàn xưa, người dân Đông Phương được sống trong tình người, hoà thuận với nhau, chưa có bao giờ có chiến tranh tôn giáo, và chưa bao giờ có những cặp trái gái thương nhau mà phải tự tử chỉ vì khác biệt tôn giáo mà không được sống với nhau trong hạnh phúc dưới cùng một mái nhà. Đấy là nếp sống tươi vui trong tình người, biết tôn trọng nhân quyền của dân tộc ta trước khi có các ông giáo sĩ của Giáo Hội La Mãđến Việt Nam truyền đạo.

Thế nhưng, từ khi các nhà truyền giáo Gia-tô của Giáo Hội La Mã đến Việt Nam nói rằng họ đem ”Tin Mừng” về ”Hồng Ân Thiên Chúa” đến ”rao truyền” về cái đạo ”Bác Ái” của Thiên Chúa (mà thực ra là của Giáo Hội La Mã), nhưng trong thực tế, họ lại du nhập vào Việt Nam một lối sống mới, khác hẳn với lối sống ”vừa mắt ta ra mắt người” để được ”dĩ hòa vi quý” của truyền thống tam giáo cỗ truyền của dân tộc ta đã có từ ngàn xưa. Kể từ đó, người ta thấy, bất kỳ người Việt Nam đã thấm nhuần ”Tin Mừng” về ”Hồng Ân Thiên Chúa” của các nhà truyền giáo Gia-tô mang lại cũng đều khăng khăng đòi rằng những người nào muốn thành hôn với con cái của họ thì phải từ bỏ cái lối thờ phượng cổ truyền của ông cha trước kia để theo lối thờ phượng của họ, nếu không nghe theo thì sẽ không cho tiến hành lễ thành hôn, và sẽ ngăn cản bằng mọi giá. Có những nạn nhân thất vọng quá sinh ra căm hận và đã thốt lên rằng ”đây là một thái độ trịch thượng, xấc xược và ngược ngạo do các nhà truyền giáo của Giáo Hội La Mã du nhập vào Việt Nam, chứ trước kia làm gì có chuyện ngược đời như thế này”. Thì ra cái đạo ”Bác Ái” này  “Chẳng Bác Ái” một chút nào cả, trái lại, còn  ti tiện và hẹp hòi đến nỗi không có đủ tình thương để khoan dung dung nạp cho đôi trai gái khác tôn giáo thương nhau được sống chung dưới cùng một mái nhà. Điều này đã được bà Ngọc Tuyết Tiên, Đại Diện Cao Đài Thiên Lý Bửu Tòa mếu máo nêu lên trong buổi Hội Thảo Liên Tôn Việt Mỹ được tổ chức vào ngày 15/10/1994 tại San José, California, bàn về Nhân Quyền và Tự Do Tín Ngưỡng cho Việt Nam. Bà Ngọc Tuyết Tiên nói:

Tôi rất đau buồn suốt mấy chục năm qua khi thấy những mối tình duyên bất thành giữa nhiều đôi trẻ, phần lớn do cha mẹ Thiên Chúa Giáo quá khắt khe đã buộc dâu, rể theo các đạo khác phải đi nhà thờ rửa tội, xưng tội; đã có nhiều trường hợp đôi bạn trẻ phải ly dị hoặc quyên sinh”. (Lê Hữu Dản, “Tòa Thánh Vatican Và Phong Trào Hợp Tác Tôn Giáo;” trong Ban Nghiên Cứu Đạo Giáo, Tại Sao Không Theo Đạo Chúa?, 1994, tr. 222-223).

Thực ra, thái độ trịch thượng, xấc xược và ngược ngạo này không phải chỉ áp dụng với những người thuộc các tôn giáo khác. Ngay cả đối với những người đồng đạo, hễ người nào có ưu thế hơn một chút là người đó quay ra bắt chẹt những người kém thế, chả còn có gì là bác ái cả.  Tình trạng này  đã khiến Giáo-sư Nguyễn Văn Trung,  dù là đã được Giáo Hội dạy dỗ “tốt đẹp khoe ra, xấu xa đậy lại” mà cũng phải than trời về cái thái độ trịch thượng, xấc xược, ngược ngạo và luôn luôn là xun-xoe “đội trên, đạp dưới” rồi lại quay ra đấm đá tố cáo của các nhà tu hành áo đỏ, áo tím, áo đen tiêu biểu cho nền đạo lý Gia-tô tại Việt Nam nhau y hệt như mấy ông Giáo Hoàng và phe đảng chức sắc chóp bu của Giáo Hội trong thời Đại Ly Giáo (Great Schism). Giáo-sư Trung viết:

Điểm lại tình hình Giáo Hội Việt Nam, có những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Thực vậy, chuyện giáo dân bị coi như cỏ rác là chuyện thường ngày ở huyện. Chuyện đau lòng hơn cả là chuyện các chủ chăn chơi nhau thay vì chơi với nhau ngày càng phơi trần ra. Sự sa đoạ trong Giáo Hội ngày càng tăng thêm.

Trong Giáo Hội, người giáo dân ở địa vị thấp nhất, nữ giáo dân luôn luôn nằm dưới. Thật là nghịch lý trong khi Đức Mẹ lại được các cha, nhất là các cha Dòng Cứu Thế ”ga lăng” hết cỡ! Người giáo dân chỉ có quyền vâng lời, đóng góp và hầu hạ các Đấng, các bậc trong Hội Thánh, Ai vâng lời dưới 100%, có thể bị coi là rối đạo và bị loại trừ dưới mọi hình thức, nhất là không vâng lời về chuyện chính trị và tiền bạc thì xem như lúa đời, phạm tội cực trọng, đáng sa hỏa ngục đời đời chẳng cùng, Amen.

Thật ra chính trị và tiền bạc đã và đang là nguyên nhân chính gây nên sự mất bình an, sa đọa và làm hoen ố hình ảnh tươi đạp của Giáo Hội Việt Nam, “Các Giám-mục sang Tòa Thánh đều tỏ ra chống Cộng hơn nhau một tí”...

I.- THƯỢNG BẤT CHÍNH, HẠ TẮC LOẠN

Ai có dịp gần gũi các giám mục Việt Nam đều có chung nhận xét rằng bề mặt cá nhân, các Ngài có vẻ đạo mạo, cởi mở, dễ mến; trừ một ít vị tỏ ra cao ngạo, khép kín và quan liêu. Nhưng trong lề lối làm việc của các giám mục thường rất độc tài, độc đoán. Trong cách đối xử thường tỏ ra kỳ thị, ban phát ân huệ, coi thường bề dưới, ganh tị và kèn cựa với các đồng liêu để lập công với Tòa Thánh. Những điểm nổi bật nhất là tiền hậu bất nhất, việc làm không đi đôi với lời rao giảng, trong ngoại khinh nội, tham phú phụ bần, vô cùng sợ Tòa Thánh, đến nỗi có những linh mục nói rằng:

”Tòa Thánh đánh rắm cũng thơm”"tuân giữ tín điều Chống Cộng đến cùng” vì Cộng Sản Việt Nam nó không chịu làm ”cánh tay đời” cho các Ngài để trị giáo dân và mở mang nước Chúa.  Quan cách như thế của các giám mục Việt Nam là điều dễ hiểu, cần phải thông cảm với các Ngài. Các Ngài được đào tạo để làm quan đạo, làm vua đạo, và chưa bao giờ được đào tạo để phục vụ anh em đồng đạo, đồng bào, mà chỉ được đào tạo để cai trị và để được hầu hạ, ăn trên ngồi trước, kể từ khi bước chân vào chủng viện... Việc đào tạo này được xuất phát từ yêu cầu của một tầng lớp xã hội và để phục vụ tầng lớp xã hội ấy.

MÂU THUẪN GIỮA GIÁM MỤC CHÁNH
VÀ GIÁM MỤC PHÓ

Ngày nay, chuyện các giám-mục chơi nhau, không cần phải vạch áo cho người xem lưng, bàn dân thiên hạ đều biết rõ, nhất là giữa các giám-mục chánh và giám mục phó. Đức  Tổng Giám Mục Philippê Nguyễn Kim Diền chơi Đức Tổng Giám Mục Phó Stêphanô Nguyễn Như Thể ra sao hồ sơ còn đó, buộc Đức Cha Thể phải ”từ chức vì sự hiệp nhất của Giáo Hội” (hiệp nhất hay là hèn nhát?). Nhiều người biết Đức Cha Bùi Chu Tạo chơi Đức Cha Giuse Nguyễn Văn Yến, thậm chí có đơn phụ nữ tố cáo Đức Cha Yến gửi sang Tòa Thánh, và việc Đức Cha Tạo bàn tính với Đức Hồng Y buộc Đức Cha Yến từ chức. Bà con giáo dân Vinh ở Miền Nam biết rõ Đức Cha Phêrô Trần Xuân Hạp đã chơi Đức Cha Phaolồ Cao Đình Thuyên phải ngậm đắng nuốt cay như thế nào? Đức Cha Anrê Nguyễn Văn Nam và Đức Cha Phó G.B. Phạm Minh Mẫn mâu thuẫn với nhau ra sao đã có nhiều  giai thoại.

Chuyện Đức Cha Alexis Phạm Văn Lộc và Đức Cha Phó Phêrô Trần Thành Chung choảng nhau đã nổi tiếng sang đến tận Tòa Thánh. Đức Cha Phao lồ Nguyễn Minh Nhật đối xử với Đức Cha phụ tá Tôma Nguyễn Văn Trâm thua cả giáo dân chân tay thân tín của Đức Cha Nhật, làm nhiều linh mục ở Xuân Lộc phải ngao ngán. Đức Cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ ”trường kỳ khống chế” Đức Cha Bùi Tuần ra sao, xin miễn bàn. Dầu sao Đức Cha Tuần cũng sắp sửa mừng 25 năm làm giám mục phó dưới sự canh chừng cẩn mật của Đức Cha Ngữ, kẻo Đức Cha Tuần lầm đường lạc lối, sa chước cám dỗ làm Tổng Biên Tập cho báo Công Giáo và Dân Tộc... Chuyện các giám mục chơi nhau có lẽ kể nghìn lẻ một đêm cũng không dứt, nên nhiều linh mục chánh và phó đã noi gương chơi nhau sát ván ra sao, bà con các xứ đạo đều biết, nhất là các chị em con Đức Mẹ, không dám nêu thêm ở đây nữa, kẻo ô danh sự đạo... Giêsu, Maria, lạy Chúa tôi, bọn phá đạo nói xấu các Đức Cha! Không đâu! Nói thật đấy. Lời Chúa phán sự thật sẽ giải thoát chúng ta. Các giám mục, linh mục hãy thành thật thương nhau cho giáo dân được nhờ. Hãy làm gương sống theo lời răn dạy của Chúa. Không thương yêu nhau thì thương yêu kẻ thù thế quái nào được? Cứ rao giảng như thế là láo toét và bịp bợm!

CHUYỆN ĐỨC CHA NICOLAS HUỲNH VĂN NGHI "KHÔNG CÒN GÌ ĐỂ NÓI”.

Đức Giám Quản Niclas đã làm nhiều việc tại Sàigòn trong tình trạng lén lút đối với chính quyền, có người khen là can đảm, nhưng có nhiều người trách móc, nhất là những công việc tiền hậu bất nhất, dối mình, dối người, khiến cho các linh mục có lương tri tại Sàigòn phải chán ngán, nói rằng Đức Cha Nghi làm như thế thì không còn gì để nói nữa, nhục cho giáo phận Sàigòn...” (Nguyễn Văn Trung, “Một Số Tình Hình “Đặc Biệt” Của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam”, Tại Sao Không Theo Đạo Chúa - Tuyển Tập 2, 1998, tr. 115-119).

Mấy đoạn văn trên đây của người con chiên thuần thành Nguyễn Văn Trung, nguyên giáo sư Trưởng Trường Đại Học Văn Khoa Sàigòn (trước năm 1975) giúp cho chúng ta thấy rõ ngay cả ở trong hàng giáo phẩm, những người được những người Gia-tô cuồng tín hay Thiên La Đắc Lộ thường coi như là những người đạo cao đức trọng, đại diện cho Chúa, mà còn đối xử với nhau như vậy, thì đối với những con chiên thấp cổ bé miệng tất nhiên là bị họ coi như là cỏ rác, đúng như lời Giáo-sư Nguyễn Văn Trung đã viết trên đây: ”giáo dân bị coi như cỏ rác chuyện thường ngày ở huyện”.

Đây là hệ thống đạo lý Lấy Thịt Đè Người hay  Kẻ Trên Đè Người Dưới (nên đạo lý bạo lực) của Giáo Hội La Mã được truyền dạy vào Việt Nam. Ông Hồng Y thì đè các ông Tổng Giám Mục, các ông Tổng Giám Mục thì đè các ông giám mục. Các ông giám mục quay ra đè các ông giám-mục phó. Các ông linh-mục chánh xứ đè các ông linh-mục phó xứ và giáo dân. Và giáo dân thì nhắm vào người dân khác tôn giaó mà đè cho đã, đặc biệt là vào khi chính quyền nằm trong tay của người Thiên Chúa giáo. Từ đây, chúng ta suy ra, đối với giáo dân mà họ còn đối xử như cỏ rác, thì đối với những người dân khác tôn giáo với họ, tất nhiên là họ đối xử còn tệ hơn cả cỏ rác. Những người này luôn luôn có chủ trương “tôn giáo phải chỉ đạo chính quyền” và chỉ đạo bằng bạo lực “Lấy Thịt Đè Người” với những triêt lý hành động “Cường Quyền Thắng Công Lý” và “Bất Khoan Dung” (nghĩa là nếu không chịu từ bỏ tín ngưỡng cũ để theo đạo Gia-tô thì sẽ bị khử diệt). Bởi thế cho nên  khi mà chính quyền lọt vào tay giáo dân thì các ông chức sắc trong Giáo Hội nhẩy ra chỉ đạo chính quyền, và khi đó cái đại khối dân tộc khác tôn giáo với các ông đó, sẽ bị đối xử còn tệ hơn cả cỏ rác. Cái gương thời bạo quyền Ngô Đình Diệm còn sờ sờ trước mắt. Cái gương của bạo chúa Ante Pavelich của nước Croatia thuộc nước Nam Tư trong thời Đệ Nhị Thế Chiến còn đó! Cái gương của các tên bạo chúa Ferdinand V (1452-1516), Isabella I (1451-1504), Philip II (1527-1598) của nước Tây Ban Nha, Bloody Mary (1516-1588) của nước Anh, và Louis XIV (1638-1715) của nước Pháp còn đó! Nghĩ đến mà rùng mình! Kinh cung chi điểu.

Ôn lại quãng thời gian từ khi Chúa Jesus chết thảm, thân xác bị đóng đinh vào thập tự giá trên núi Sọ, đưa đến việc hình thành đạo Kitô Do Thái, rồi biến thành Đạo Kitô La Mã với những bản chất gian tham,  nham hiểm, tàn bạo, ngạo ngược của cá nhân Hoàng Đế Constantine nói riêng, Đế Quốc La Mã cói chung, cùng với những tham vọng đế quốc của các ông Giáo Hoàng và Giáo Hội La Mã từ thời đó cho đến ngày nay, người viết lại nhớ lại lời cụ Vương Hồng Sển viết lại về sự biến thể của Thiên Địa Hội của người Trung Hoa tại Sốc Trang. Đoạn văn ấy như sau:

Nguyên hồi Tây mới qua, gọi là ”Đời đàng cựu”, tại Sốc Trang, trong đám Minh Hương có ba đảng Thiên Địa Hội:

1.- Đảng ở Bố Thảo (Thuận Hòa) và đảng ở Bãi Xàu (Mỹ Xuyên) nhập một, xưng là ”Nghĩa Hòa Đoàn”;

2.- Đảng ở châu thành Sốc Trang là ”Nghĩa Hưng Đoàn” do Trần Phước Hải là tùa hia (anh hai = lãnh tụ). Sau ông này giúp chính phủ Pháp, lần lần làm đến cai tổng, tổng Nhiêu Khánh, về già cáo lão, Tây phong làm Tri Phủ.

3.- Một đảng nữa do Nghĩa Hưng Đoàn tách ra, xưng là Lương Hữu Hội. Cầm đầu là hai ông: ông Ông Hưng Kỳ và ông Xếp (chef) Sâm. Sau khi hai ông đều ra mặt làm việc cho Tây, ông Kỳ làm đến cai tổng Nhiêu Khánh, thế cho ông Phủ Hải, và khi mất được thăng Tri Huyện hàm, nên gọi là ông Hàm Kỳ; ông Sầm ra làm hương quản làng sở tại là làng Khánh Hưng, Tây phong chức chef de la police communale, nên cũng gọi là ông Xếp Sầm. Bởi đó, chức tùa hia hai người nhường lại cho ông nội tôi. Lúc khởi sự, Thiên Địa Hội là hội kín lập ra với mục đích lập là xúm nhau lại quyên tiền gởi sang Tàu giúp việc lật đổ nhà Thanh, khôi phục nhà Minh. Nhưng về lâu, chủ nghĩa lệch lạc, biến lần ra hội ái hữu Phước Thiện chuyên tế trợ anh em trong hội lúc hữu sự, để rồi suy đồi thêm một cấp nữa, trở nên ”hội đánh lộn”, chuyên giành quyền, cướp của, hiếp đáp lẫn nhau, và lần hồi phe nọ tố cáo phe kia, Tây thừa dịp bắt hết, kẻ bị đi đày, người bị tù, thỏn mỏn Thiên Địa Hội tỉnh Sốc Trang cũng như ở các tỉnh đều tàn lụi dần”. (Vương Hồng Sển. Sđd., trang 30).

Đem sự biến thể của Thiên Địa Hội của người Trung Hoa ở Sóc Trang trong người Pháp thống trị Đông Dương so sánh với sự biến thể của Giáo Hội Ki Tô Do Thái thành ra  Giáo Hội La Mã với chính sách đế quốc dùng bạo lực để cưỡng bách người dân phải theo đạo để nô lệ hóa người dân cả tâm hồn lẫn thể xác, chúng ta thấy có sự giống nhau như bóc. Kế đến lại đem nó so sánh với sự biến thể của chính quyền Quốc Gia của Quốc Trưởng Bảo Đại ra đời vào năm 1949 cho đến ngày 30-4-1975, với sự suy đồi của Mặt Trận Kháng Chiến Hoàng Cơ Minh, và với tình trạng các hội đoàn của người Việt hải ngoại ngày nay với những sự cấu xé và chụp mũ cho nhau là Cộng Sản, chúng ta thấy có sự giống nhau gần như trăm phần trăm.

Cũng vì sự giống này, chúng ta rút ra được một quy luật. Quy luật đó là, bất kỳ tổ chức nào  dù cho có danh xưng tốt đẹp đến đâu đi nữa, dù cho có bộ máy tuyền truyền siêu việt và những phương tiện dư thừa đến đâu đi nữa, nhưng nếu cứ bám lấy chủ trương trông cậy vào bạo lực để làm những việc bạo ngược, bất chánh, bất nhân và bất nghĩa với dã tâm thâm độc thủ lợi hay thỏa mãn tham vọng “tiền bạc, quyền thế và danh vọng” thì  sớm muộn  cũng bước vào giai đoạn thoái tráo mà khởi đầu là quần chúng bất mãn, căm thù và phản kháng khiến cho nội bộ lủng củng, phân hóa, cuối cùng biến thành một thứ “gian nhân hiệp đảng” rồi tự diệt.  Giáo Hội La Mã có ở vào tình trạng này hay không, điều đó ai cũng biết, ngoại trừ những người Gia-tô cuồng tín. Và chắc chắn là Giáo Hội La Mã sẽ không thoát khỏi cái quy luật này. Lịch sử sẽ cho chúng ta biết.

ĐỐI THOẠI

Người viết không tìm thấy chữ ĐỐI THOẠI trong cuốn Việt Nam Tự Điển của ông Lê Văn Đức. Trong cuốn Hán Việt Tự Điển của ông Đào Duy Anh thì chỉ có chữ ”ĐỐI THOẠI THỂ và ghi là ”lời văn làm theo cách nói chuyện = vấn đáp (dialogue). Theo ”The American Heritage Dictionary of the English Language” thì  Dialogue có nghĩa là ”An exchange of ideas or opinions.”. Vậy thì:

Đối thoại có nghĩa là sự trao đổi ý kiến và gần như đồng nghĩa với đàm luận.  Nói đến sự trao đổi ý kiến là nói đến chuyện ngồi lại với nhau trong tư thế và tinh thần bình đẳng, xây dựng và tôn trọng ý kiến hay tư tưởng của nhau. Bất kể là của ai, nếu là một ý kiến hợp lý thì tất cả mọi người đều phải chấp nhận. Không có chuyện ỷ thế mạnh mà át giọng người yếu thế. Trong trường hợp ở cách xa nhau, không thể ngồi lại với nhau, người ta cũng có thể ĐỐI THOẠI với nhau bằng cách viết bài trao đổi ý kiến với nhau với tinh thần xây dựng và bình đẳng như là cùng ngồi nói chuyện với nhau như đã trình bày trên đây. Trong trường hợp này người ta gọi là bút thoại hay bút luận. Tuy nhiên, thường thường, người ta cũng vẫn gọi là đối thoại.

Bút thoại hay bút luận về một vấn đề gì mà hai bên có lập trường trái ngược nhau thì được gọi là bút chiến. Trong cuộc bút chiến, thường thì hai bên đều sử dụng tất cả nhũng sự hiểu biết của mình về vấn đề đang tranh luận làm chất liệu để biện minh cho lập luận của mình, hay đả phá lập luận của đối phương, hoặc là dồn đối phương vào thế bí. Tuy là tranh cãi nhau, nhưng vì là bút chiến, không bao giờ có bên nào lại nghĩ đến việc dùng những ngôn ngữ hay lời lẽ khiếm nhã đối với đối phương, vì nếu làm như vậy thì sẽ bị độc giả khinh rẻ và lên án, và cho là bí thế tức là kẻ thua cuộc. Nói một cách tổng quát đối thoại, đàm thoại, bút luận, bút đàm hay bút chiến đều là ngôn luận cả. Nói đến ngôn luận, chúng ta cũng nên biết rằng, tại các nước tự do dân chủ ở Bắc Mỹ, Tây Âu quyền tự do ngôn luận được ghi hẳn vào hiến pháp của họ, và dĩ nhiên là đảng phái hay nhân vật nào lên cầm quyền cũng phải triệt để tôn trọng và tôn trọng một cách nghiêm chỉnh cái quyền bất khả xâm phạm này của người dân. Đồng thời, chúng ta cũng nên cùng nhau nhìn lại đất nước chúng ta từ trước đến ngày nay đã thực sự có tự do ngôn luận bao giờ chưa? Và nếu quyền tự do ngôn luận này bị kiểm soát chặt chẽ hay bị cấm đoán thì thời nào hay chế độ nào cấm đoán gắt gao nhất.

Trước khi Giáo Hội La Mã cấu kết vơi  Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp đánh chiếm và thống trị nước ta, dân Việt Nam sử dụng chữ Hán và chữ Nôm. Một phần vì hoàn cảnh đất nước kém mở mang, một phần vì trình độ dân trí còn thấp kém, một phần vì loại chữ này khó học hơn, cho nên con số người biết đọc biết viết rất là nhỏ nhoi, không quá 5 phần trăm dân số đọc được các bản thông cáo hay văn biểu của chính quyền thời đó. Hơn nữa, thời đó chưa có tờ báo nào ra đời cả. Vì vậy chúng có thể nói là vấn đề ngôn luận không có trên diễn đàn trong công luận. Sư tranh luận bằng văn tự, nếu có, thì chỉ xẩy ra trong một phạm vi rất giới hạn tại một vài địa phương và trong một số người trong giới Nho sĩ.

Trong thời Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp-Vatican đánh chiếm và thống trị nước ta, chữ quốc ngữ bắt đầu được phổ biến rộng rãi và càng ngày càng rộng rãi hơn. Con số người biết chữ càng ngày càng nhiều hơn, và báo chí cũng dần dần xuất hiện càng ngày càng nhiều hơn. Thoạt đầu với tờ Notre Dame và Đông Dương Tạp Chí của ông Nguyễn Văn Vĩnh, rồi sau đó có tờ Nam Phong của ông Phạm Quỳnh và một vài tờ báo khác như Tri Tân, v.v.., cũng ra đời. Đồng thời văn thơ của các nhà Nho như các cụ Ngô Đức Kế, Hùynh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu cũng được phổ biến rộng rãi hơn. Như vậy, trong thời kỳ này, chúng ta đã có diễn đàn công luận. Dù sao thì cũng là thời kỳ phôi thai và bị chính quyền  bảo hộ kiểm soát, nhưng mức độ kiểm soát không đến nỗi chặt chẽ quá quắt như thời đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm. Được như vậy là nhờ những người Pháp thực dân thuộc Phe Cấp Tiến luôn luôn thắng thế trên chính trường Pháp quốc, và cầm trịch quyền lực thống trị tại Việt Nam. Họ chỉ để cho các nhà truyền giáo Gia-tô một số đặc quyền về kinh tế cùng các hoạt động kinh tài để vơ vét tài sản của nhân dân ta, và được tự do tung hoành trong các xóm đạo giống như những ốc đảo trong cộng đồng dân tộc.

Chiến thắng của nhân dân Việt Nam tại Điện Biên Phủ vào ngày 7 tháng 5 năm 1954 khai tử Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp-Vatican. Mỹ nhẩy vào thay thế Pháp và Việt Nam chia làm hai miền Nam Bắc, lấy vĩ tuyến 17, nằm ngay nơi con sông Bến Hải làm lằn ranh qua phân. Miền Bắc theo con đường Chủ Nghĩa Xã Hội nằm trong khối Cộng Sản do Liên sô lãnh đạo. Miền Nam được mệnh danh là tiền đồn của Thế Giới Tự Do do Hoa Kỳ hướng dẫn. Đau đớn cho dân tộc Việt Nam là cả hai miền Nam và Bắc đều không có tự do và dân chủ. Miền Bắc thực sự đã giành được quyền độc lập cho tổ quốc, nhưng lại thi hành chính sách vô sản chuyên chính độc tài đảng trị. Vấn đề ngôn luận do đảng Cộng Sản chỉ đạo. Sự thể như thế nào, chúng tôi xin nhường lời cho những người đã có kinh nghiệm sống lâu năm  ở miền Bắc nhiều hơn, thí dụ  như ông Bùi Tín hay nhiều người khác nói thì có giá trị xác thực hơn chúng tôi.

Tại miền Nam vĩ tuyến 17, chính quyền nằm trong tay anh em ông Ngô Đình Diệm và đảng Cần Lao Công Giáo thao túng. Như đã chứng minh ở Chương 17, chính quyền này là con đẻ của Tòa Thánh Vatican. Tòa Thánh Vatican tạo dựng nên chính quyền Ngô Đình Diệm là để phục vụ cho mục đích của Tòa Thánh Vatican và theo đường lối của Vatican. Trong phần này, chúng ta nói về ngôn luận, vậy xin bàn về ngôn luận. Đường lối hay chính sách của Vatican về vấn đề ngôn luận đã được Giáo-sư Lý Chánh Trung, một tín đồ của Tòa Thánh ghi lại như sau:

”Trong xã hội loài người, Giáo Hội không bao giờ công nhận cho các tôn giáo khác hoặc cho những người không công giáo cái quyền ăn nói ngang hàng với mình, bởi các lý do giản  dị là chỉ có Giáo Hội mới có sự thật mà chỉ có sự thật mới có quyền ăn nói. Người sai lầm thì chỉ có mỗi một quyền sửa sai. Trong thông điệp ngày 29-4-1814 gửi Đức Giám-mục địa phận Troyes, Đức Giáo Hoàng Pie VII viết “Người ta lẫn lộn sự thật với sự sai lầm, người ta đặt Hiền thê thánh thiện và tinh tuyền của Đức Kitô (tức Giáo Hội Công Giáo) ngang hàng với những giáo phái lạc đạo và ngay cả với bọn Do Thái bất tín”. Đức Giáo Hoàng  Grégoire XVI đã gọi tự do báo chí là ”thứ tự do tai hại nhất, đáng ghét nhất, kinh tởm nhất mà một số người dám đòi hỏi một cách ồn ào cuồng nhiệt và quảng bá khắp nơi...”. (Lý Chánh Trung, Sđd., tr. 76).

Quan niệm của Tòa Thánh đối với vấn đề ngôn luận là như vậy. Là con đẻ của Tòa Thánh La Mã, và lại La Mã hơn cả La Mã thì hẳn là chính quyền của anh em ông Ngô Đình Diệm và đảng Cần Lao Công Giáo đối xử với báo chí như thế nào, không cần nói thì cũng hiểu. Chúng tôi xin nhắc lại, suốt trong chín năm (1954-1963) dưới chế độ cảnh sát trị của nhà Ngô với 13 tổ chức công an và mật vụ khác nhau, trước năm 1959 tờ Nhật Báo Thời Luận của cụ Nghiêm Xuân Thiện bị công an và mật vụ đập phá tan tành. Chính cụ Nghiêm Xuân Thiện bị hành hạ đủ điều. Đầu năm 1960, Ban biên tập Nhât Báo Tự Do cho phát hành tờ Giai Phẩm Xuân Canh Tý 1960, trên tờ bìa có hình Miền Nam Việt Nam giống trái dưa hấu với 6 con chuột đang gặm nhấm và đục khoét làm cho rách mướp, tan hoang xơ xác. Ngay sau khi vừa cho phát hành, Nhật Báo Tự Do liền bị công an và mật vụ chiếu cố. Số phận của tờ báo này còn tệ hơn cả tờ Thời Luận: Họa sĩ Phạm Tăng, tác giả của bức hí họa, nếu không lanh chân chạy qua Cao Mên, rồi sang Ý Đại Lợi tị nạn, thì đã bị mật vụ của ông Ngô Đình Nhu thủ tiêu, cho đi gặp các ông Trình Minh Thế, Vũ Tam Anh, Hồ Hán Sơn, Nguyễn Bảo Toàn, Phạm Xuân Gia, Vương Quang Nhường, Đại-tá Hoàng Thụy Năm, v. v... rồi. Ngày 26 tháng 4 năm 1960, 18 nhà trí thức nhóm họp tại Khách Sạn Caravelle, cùng soạn thảo bản Tuyên Ngôn gửi cho chính quyền để giúp cho anh em nhà Ngô mở mắt nhìn ra lỗi lầm mà sửa sai. Kết quả như thế nào thì ai cũng biết. Các nhà trí thức này bị truy lùng, phải chạy đi ẩn náu, và phải im hơi lặng tiếng. Bị dồn vào bước đường cùng, toàn thể quân dân ta vùng dậy: Ngày 11/11/1960, Binh Đoàn Nhẩy Dù phải đứng lên đáp lời sông núi. Ngày 27/2/1962, hai chiến sĩ anh hùng Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử lên đường bay đem bom dội xuống đầu não của  bon đạo phiệt Gia-tô này đang ở trong Dinh Độc Lập.

Tất cả cũng vẫn không làm cho anh em ông Ngô Đình Diệm và đảng Cần Lao Công Giáo mở mắt nhìn ra sự thật, nhìn ra nỗi thống khổ của muôn dân. Trái lại, chính quyền còn đẩy mạnh các chiến dịch ”Spanish Inquisition” đàn áp Phật Giáo, giết hại người dân khác đạo. Riêng các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Khánh Hòa, con số nạn nhân lên tới cả 300 ngàn (300.000) người. Trong thời gian này, ngày nào cũng có xác người chết trôi trên sông Tam Kỳ. Ngày 8 tháng 5 năm 1963, đồng bào cố đô Huế bị đàn áp, đàn bà và trẻ em bị giết hại con số thương vong lên cả trên dưới mười người. 

Tất cả đã khiến cho Phật Giáo phải vùng lên đòi lại quyền được sống dưới ánh nắng mặt trời. Ngày 11/6/1963, ngọn lửa Từ Bi Thích Quảng Đức được thắp lên để soi vào lương tâm của anh em nhà Ngô và tập đoàn Cần Lao Công Giáo mượn Chúa lừa dân. Ngày 7/7/1963, văn hào Nhất linh Nguyễn Tường Tam bị bức tử, rồi hàng ngàn tu sĩ Phật Giáo và Phật Tử theo gương Bồ Tát Quảng Đức cùng thắp lên ngọn đuốc đấu tranh báo động cho nhân dân thế giới biết tình trạng khốn cùng của nhân dân Miền Nam Việt Nam dưới ách thống trị bạo tàn của chế độ ”Spanish Inquisition Ngô Đình Diệm”. Chùa chiền bị tấn công, sư sãi cùng Phật tử bị truy lùng và hàng ngàn người bị bắt giam, bị tra tấn, và hành hạ dã man, khiến cho học sinh và sinh viên, tuổi thơ với hai bàn tay trắng, phải đứng lên tay nắm tay nói chuyện với bạo quyền để đòi lại núi sông từ trong tay quân cướp Vaticxan khát máu và bạo tàn. Tự do của Giáo Hội La Mã là thế đấy. Tự do của những người Gia-tô cuồng tín tôn thờ anh em ông Ngô Đình Diệm là thế đấy. Tự do đến độ ngày 4/11/1963, ba nhà báo Chu Tử, Hiếu Chân và Từ Chung đã phải ra một tuyên cáo thú nhận những người cầm bút tại miền Nam Việt Nam dưới thời Gia-tô Ngô Đình Diệm đã “đánh đĩ tâm hồn” để “ca tụng” những cái điêu ngoa, xảo trá của chế độ. 

Tới khi ra hải ngoại tị nạn, tay không, còn đi ăn nhờ ở đậu, sống giữa một quốc gia dân chủ thực sự như ở Hoa Kỳ, mà những người tôn thờ ông Ngô Đình Diệm vẫn tụ tập nhau thành một thứ băng đảng, chỉ có một mục đích duy nhất là củng cố thế lực để đàn áp những người Việt Nam tị nạn dám nói lên sự thật về cái chế độ đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm khốn nạn nhất trong lịch sử loài ngưòi. Hành động côn đồ bạo ngược của họ đối với tác giả cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, đối với Cụ Lê Hữu Dản, đối với nhà viết sử Vũ Ngự Chiêu, đối với người viết (Nguyễn Mạnh Quang), và đối với cuộc hội thảo văn hóa được tổ chức tại nhà hành Caravan ở Seattle (Washington) vào ngày 20-12-1997 là bằng chứng cho những việc làm ngang ngược của những người Gia-tô  suy tôn ông Ngô Đình Diệm lên hàng chí sĩ và nhà ái quốc của nước Vatican.

Thành tích sử dụng bạo lực để khủng bố và đàn áp những người cầm bút chân chính muốn nói lên tất cả sự thật lịch sử đã được ghi vào sách sử. Chính họ là những người luôn luôn gây ra khổ nạn cho các nhà viết sử chân chính. Họ là sản phẩm của các nhà truyền giáo của Giáo Hội La Mã. Các nhà truyền giáo của Giáo Hội La Mã đã du nhập vào Việt Nam sách lược  “dân ngu dễ trị, dân dốt dễ dùng”, lấy bạo lực làm phương tiện hành động cùng với cái Thông Điệp của Giáo Hoàng Pie VII gửi cho ông Giám-mục địa phận Troyes như đã nói ở trên đây. Và họ đã tuyệt đối vâng lời các ông giáo hoàng trên đây của Giáo Hội La Mã. Họ đã trở thành những hung thần gây ra cho những người cầm viết chân chính muốn nói lên sự thật của lịch sử. Các nhà truyền Giáo của Giáo Hội La Mã đã thành công biến những người Gia-tô cuồng tín thành những thứ hung thần ác quỷ, ăn gan uống máu người (đã trình bày đầy đủ ở Chương 11 trong bộ Thực Chất Của Giáo Hội La Mã) và để lại cái di lụy này cho người Việt Nam ta. Hồng Ân Thiên Chúa của Giáo Hội La Mã là như thế đó!. Thử hỏi, nếu những người này trở lại cầm quyền tại Việt Nam thì số phận dân tộc Việt Nam ta sẽ ra sao?

Tất cả đã giúp cho chúng ta thấy rằng, những người Gia-tô Việt Nam, khi đã có chính quyền trong tay như thời chính quyền Ngô Đình Diệm:

1.- Họ sẽ sử dụng bạo lực để cưỡng bách nhân dân ta phải thờ phượng Thượng Đế theo cung cách của họ. Ai không chịu khuất phục cúi đầu nghe theo lệnh truyền của họ thì sẽ bị tóm cổ tống vào tù, và sẽ bị thủ tiêu (300 ngàn nạn nhân bị sát hạt tại các tỉnh Thừa Thiên, Quản Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên trong thời bạo quyền Ngô Đình Diệm).

2.- Họ sẽ dùng bộ máy mật vụ, công an và cảnh sát để đàn áp bất kỳ người nào dám nói lên sự thật không đẹp về những việc làm của Giáo Hội La Mã hay của những tay sai của Giáo Hội.

Chúng ta cần phải rút kinh nghiệm từ bài học trong câu chuyện ”Bà già cầu cho bạo chúa sống lâu” và bài học nước Pháp trong thời kỳ Khủng Bố Trắng (La Terreur Blanche) [tàn sát những người tham gia và ủng hộ Cách Mạng Pháp 1789]  âm ỷ từ thời Louis XVIII (1815-1824) và bùng lên công khai thành chính sách trong thời bạo chúa Gia-tô Charles X (1824-1830). Tất cả cho chúng ta thấy rằng trong tương lai, nếu vì lý do gì mà những người Gia-tô Việt Nam lại được nhẩy lên sân khấu chính trị, nắm quyền lãnh đạo đất nước thì chắc chắn là họ sẽ trở thành những hung thần bạo chúa tồi tệ, khốn nạn và độc ác gấp bội phần đám anh em nhà Ngô và đảng Cần Lao thống trị Miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1963.

Viết xong ngày 19 tháng 9 năm 1998
Hiệu chính xong để tái bản ngày 20 tháng 7 năm 2000

Nguyễn Mạnh Quang

Trang Nguyễn Mạnh Quang