VIỆT NAM ĐỆ NHẤT CỘNG HÒA TOÀN THƯ

Nguyễn Mạnh Quang

http://sachhiem.net/NMQ/VNCHTT/NMQ18.php

14-Apr-2018

0   1  2   3   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14   15   16   17   18   19   20   21   22

CHƯƠNG 18

 Hoa Kỳ Lo Lắng Và Săn Sóc Cho Ông Ngô Đình Diệm 

Hoa Kỳ đã mất công vận động, làm áp lực với Pháp và với ông Bảo Đại cho ông Ngô Đình Diệm làm thủ tướng Việt Nam rồi lại viện trợ vô cùng hào hiệp cho chính quyền Ngô Đình Diệm hơn tất cả các nước khác  trong cùng một hoàn cảnh cũng tiếp nhận viện trợ Hoa Kỳ. “Có đi có lại mới toại lòng nhau”, cũng như đối với các nước khác tiếp nhận viện trợ, Hoa Kỳ viện trợ cho miền Nam Việt Nam không phải là không đòi chính quyền Miền Nam Việt Nam một điều kiện nào. Ở đời không có gì là cho không cả. ”Ông mất cái giò, bà thò nậm rượu”, những điều kiện mà Hoa Kỳ đòi ông Ngô Đình Diệm y hệt như những điều kiện Hoa Kỳ đã đòi hỏi các nước Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Ý Đại Lợi, Pháp, Tây Đức, Nhật Bản, Nam Hàn và Đài Loan khi các quốc gia này ngửa tay xin viện trợ của Hoa Kỳ. Điều kiện đó là các nước tiếp nhận viện trợ của Hoa Kỳ phải có trách nhiệm tiếp sức với Hoa Kỳ trong việc dân chủ hoá các cơ cấu chính quyền, đem lại tự do, no ấm cho mọi người và công bằng cho tất cả mọi thành phần trong xã hội cùng các quyền tự do căn bản cho nhân dân để củng cố thế đứng dựa vào nhân dân. Có như thế thì mới hy vọng lôi cuốn nhân dân các nước trong khối tự do dân chủ vào một mặt trận chung chống lại khối Cộng Sản độc tài do Liên Sô lãnh đạo.

Miền Nam Việt Nam cũng phải chấp nhận những điều kiện trên, tức là chính quyền Ngô Đình Diệm phải có trách nhiệm tiến hành dân chủ hoá các cơ cấu chính quyền, giảm thiểu bất công trong xã hội, đem tự do no ấm và công bằng cho xã hội không phân biệt màu da, sắc tộc, tôn giáo và giai cấp để củng cố thế đứng dựa vào nhân dân chống lại chủ nghĩa Cộng Sản. Sự kiện này đã được cựu Tướng Đỗ Mậu ghi lại rõ ràng trong tác Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi như sau:

Ngay sau Thế Chiến Thứ Hai, Tổng Thống Franklin Roosevelt đã chủ trương yểm trợ cho các phong trào ”giải phóng dân tộc” của các quốc gia thuộc địa trong khuôn khổ của phong trào giải thực toàn cầu mà Việt Nam là một thí điểm kiểu mẫu. Ngay trong thời kỳ Nhật chiếm đóng Đông Dương, ngày 22-8-1945, một phái đoàn Mỹ gồm 5 sĩ quan do Thiếu Tá Archimede L. Patti cầm đầu đã nhẩy xuống vùng Thượng Du Bắc Việt giúp Hồ Chí Minh kháng Nhật, và chính phái đoàn Mỹ này đã về Hà Nội dự lễ Độc Lập của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhưng khi Hồ Chí Minh và Việt Minh để lộ sắc tướng Cộng Sản thì phái đoàn Patti được lệnh chấm dứt mọi liên hễ để hồi hương. Cuộc chiến tranh giữa Cộng Sản Việt Nam đội lốt dân tộc và thực dân Pháp đội lốt quốc gia chống Cộng bắt đầu từ đó
..
Quy ước của Hội Nghị Genève 1954 tạm thời chia đôi đất nước tại vĩ tuyến 17. Phản ảnh đứng đắn đường lối ngoại giao của mình, Hoa Kỳ can thiệp mạnh mẽ vào vấn đề Đông Dương mà cụ thể là giúp ông Diệm về nước để xây dựng một tiền đồn chống Cộng tại Đông Nam Á. Vì tiền đồn đó nếu muốn đóng vai trò chống Cộng hữu hiệu thì phải thật sự  tự do, dân chủ trên mặt chính trị, và phải thật sự hùng mạnh trên mặt kinh tế và quân sự nên Hoa Kỳ đã không ngại ngùng dùng mọi kế sách và phương tiện để ủng hộ cho miền Nam, kể cả việc không tôn trọng hai điều khoản quan trọng của Hội Nghị Genève về vấn đề Tuyển Cử (năm 1956) và về vấn đề quân đội ngoại nhập. Quân viện và kinh viện Hoa Kỳ đổ vào Việt Nam như thác đổ, chuyên viên và phương tiện Hoa Kỳ như một kho tàng bất tận cho nhà cầm quyền Miền Nam sử dụng.” (Đỗ Mậu. Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi. Westminster, CA: Văn Nghệ, 1993, trang 543-544).

 

MỘT LOẠI CÂY NGOẠI LAI LẠ GIỐNG CHƠ VƠ TRƠ TRỌI
GIỮA KHU VƯỜN VIỆT NAM

Căn cứ vào những sự kiện đã được trình bày trên đây, chúng ta thấy rằng sự nghiệp chính trị của ông Ngô Đình Diệm đã được tạo nên bằng cách nhờ vả vào 3 thế lực là:
1.- Tòa Thánh La Mã
2.- Hoa Kỳ
3.- Hơi hướng đàn bà (Bà Ngô Đình Nhu và Nam Phương Hoàng Hậu).

Xét cho cùng, chúng ta càng thấy rõ hơn thế lực chủ động lo cho Ông Ngô Đình Diệm lên nắm quyền chính trị tại Việt Nam là Tòa Thánh La Mã. Như đã trình bày ở phần trên, tháng 8 năm 1950, Giám-mục Ngô Đình Thục là người của Tòa Thánh La Mã dẫn ông Ngô Đình Diệm ra khỏi Việt Nam với danh nghĩa Năm Thánh, mà sự thực là đi  thăm Tòa Thánh Lã Mã, đúng hơn là để nhận chỉ thị của Đức Giáo Hoàng Pius XII. Khi sang tới Hoa Kỳ, ông Ngô Đnh Diệm được Tòa Thánh La Mã bao giàn cho ăn ở trong các tu viện Maryknoll (của Giáo Hội La Mã) ở Lakewood, New Jersey và Ossining, New York, rồi lại được người của Giáo Hội La Mã là Hồng Y Francis Spellman ra công vận động với những nhân vật có thế lực trong chính quyền Hoa Kỳ như các ông John F. Kennedy (Thượng Nghị Sĩ), Mike Mansfield (Thượng Nghị Sĩ), William Douglas (Thẩm phán Tối Cao Pháp Viện), Walter Judd (Dân Biểu Quốc Hội). Khi trở lại Âu Châu, ông Ngô Đình Diệm cũng được Giáo Hội La Mã bao giàn cho ăn ở trong một tu viện của Giáo Hội La Mã ở gần thành Bruges thuộc nước Bỉ.

Những người đàn bà  đã từng ”đêm khuya phòng vắng tâm tình đầy vơi” với ông Bảo Đại để rồi ”nỉ non ai dễ cầm lòng từ nan” khiến cho ông Bảo Đại phải xiêu lòng bổ nhậm ông Ngô Đình Nhiệm làm thủ tướng là bà Ngô Đình Nhu tục danh là Trần Lệ XuânNam Phương Hoàng Hậu. Hai người đàn bà sắc nước hương trời này cũng là người của Giáo Hội La Mã vì cả hai người này đều là tín đồ của Giáo Hội La.  Cũng nên biết là vào đầu thập niên 1850, một tín đồ ngoan đạo của Giáo Hội La Mã là kiều nữ Eugenie của nước Tây Ban Nha, còn mơn mởn đào tơ mới có 27 cái xuân xanh, được bố trí cho thành hôn với Hoàng Đế Napoléon III đã xấp xỉ ngũ tuần, một thành phần xuất thân từ Hội Tam Điểm (chống Giáo Hội La Mã một cách cực đoan). Bà Eugenie nghiễm nhiên trở thành Hoàng Hậu của nước Pháp và cũng là người tích cực tiếp tay cho các nhà truyền giáo trong việc vận động với triều đình Pháp đem quân đến đánh chiếm Việt Nam. (Cao Huy Thuần, Sđd., trang 59-83). Sách lựợc ”Mỹ Nhân Kế” này lại được tái diễn vào những năm đầu thập niên 1930 giữa bà Nam Phương Hoàng Hậu và ông Bảo Đại cùng với việc vận động đưa ông Ngô Đình Diệm lên làm Thượng Thư Bộ Lại và việc tranh đấu đòi Pháp trả lại cho triều đình Huế một số quyền hành còn lại. Làm như vậy, Vatican có chủ đích chuẩn bị cho kế hoạch dự trù là “Gia-tô Hóa” triều đình, rồi sau đó sẽ tiến hành kế hoạch “Gia-tô Hóa” nhân dân Việt Nam bằng phương tiện của chính quyền. Kế hoạch này bị những người Pháp trong Phe Thực Dân Cấp Tiến (đại đa số thuộc Hội Tam Điểm và say mê Cách Mạng 1789, vốn không ưa Giáo Hội La Mã) phá vỡ. Phạm Quỳnh được chỉ định thay thế Ngô Đình Diệm, Nguyễn Hữu Bài và Ngô Đình Khôi (tay sai đắc lực của Phe Thực Dân Bảo Thủ (liên kết chặt chẽ với  Vatican) lần lần bị cho về vườn”.

Nói tóm lại, tất cả mọi việc vận động, chạy chọt, chuẩn bị và xếp đặt cho ông Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền là đều do bàn tay của Giáo Hội La Mã cả. Giáo Hội La Mã đã mất bao nhiêu công lao và tiền bạc trong việc lo lót cho ông Ngô Đình Diệm để đưa ông ta về nắm quyền cai trị ở Việt Nam. Mục đích duy nhất của Giáo Hội là biến Ngô Đình Diệm thành một thứ bạo chúa Constantine tại Việt Nam với chủ trương dùng bạo lực cưỡng bách nhân dân Việt Nam phải chấp nhận đạo Ki Tô La Mã là quốc giáo.

 

Như vậy là ông Ngô Đình Diệm hoàn toàn nhờ vào thế lực của ngoại bang mà chủ chốt là Giáo Hội La Mã đưa lên cầm quyền. Ông chẳng phải là một Hoàng Thái tử hưởng quyền thừa kế vua cha mà nghiễm nhiên được đưa lên ngai vàng trị vì để lo phúc lợi cho dân cho nước. Ông cũng chẳng phải là người từ trong nhân dân dấy lên đem quân khử bạo, trừ gian, diệt trừ quốc tặc để đem lại công bằng và no ấm cho muôn dân. Ông cũng chẳng phải là người anh hùng từ chốn bưng biền kéo quân về đánh đuổi quân cướp ngoại thù, đòi lại núi sông cho dân tộc. Ông cũng chẳng phải là người ra tranh cử trong một cuộc bầu cử dân chủ tự do để được nhân dân tuyển chọn đưa lên làm nhà lãnh đạo quốc dân trong một thời gian hiến định. Ông chẳng có một thứ chính nghĩa nào theo bất kỳ một hoàn cảnh nào của đất nước hay thể chế chính trị nào trên đây cả. Ông chẳng là cái gì hết. Thực sự, ông chỉ là người được Giáo Hoàng Pius XII (1939-1958) của Giáo Hội La Mã đỡ đầu và được Tổng Thống Hoa Kỳ Dwight Davis Eisenhower cùng Ngoại Trưởng Foster Dulles bảo trợ, và được hai người đàn bà sắc nước hương trời tiếp tay bằng những lời ỏn thót nỉ non với Quốc Trưởng Bảo Đại để cho ông về Việt Nam cầm quyền.

Những sự kiện này đã làm cho toàn thể nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân thế giới đều nhận thấy rằng ông Ngô Đình Diệm là một tín đồ Gia-tô cuồng tín được Đế Quốc Vatican và Hoa Kỳ đưa về Việt Nam làm việc cho họ. Nhân dân Việt Nam, ai cũng đều biết rõ gia đình ông có thành tích công lao với Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp-Vatican ngay từ giữa thế kỷ 19 trong việc đàn áp và tiêu diệt các phong trào tranh đấu đòi lại quyền tự do cho quê hương và dân tộc. Bản thân ông Ngô Đình Diệm chỉ là tay sai nòng cốt cho Đế Quốc Vatican, cho Pháp, chạy theo Nhật, rồi đến Hoa Kỳ. Ông được người của Đế Quốc Vatican dẫn sang Hoa Kỳ để lo lót chạy chọt với chính quyền Hoa Kỳ cùng với Giáo Hội La Mã làm áp lực với chính quyền Pháp và Quốc Trưởng Bảo Đại cho ông về Việt Nam làm thủ tướng chính phủ. Khi ông về Việt Nam cầm quyền, người Việt Nam đang cầm súng chiến đấu  dù là ở trong hàng ngũ Việt Minh Kháng Chiến hay ở trong hàng ngũ Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp-Vatican (có chính quyền tay sai do ông Bảo Đại làm quốc trưởng) hầu như không ai biết đến tên ông. Tại sao lại như vậy? Nhân dân Việt Nam ở thế hệ đang chiến đấu lúc bấy giờ không biết đến ông bởi vì suốt thời gian từ khi toàn dân vùng lên đi đòi lại núi sông cho dân tộc thì ông lại lẩn trốn ẩn náu trong các nhà thờ của Giáo Hội La Mã, những trung tâm thâu thập tin tức tình báo chiến lược chống lại của tổ quốc. Đối với nhân dân miền Nam, khi ông về tới Saigon thì hầu như toàn dân nếu  thù ghét và coi ông như một kẻ tử thù thì cũng không lạnh lùng, thờ ơ lãnh đạm với ông. Các nhân sĩ miền Nam như các ông Hồ Hữu Tường, Trần Văn Ân, Trần Văn Văn, Trần Văn Hữu, Nguyễn Phan Long, v.v... khinh rẻ, không ủng hộ ông. Sẵn mang truyền thống bạo ngược, khi thấy rằng không được giới nhân sĩ Miền Nam ủng hộ, anh em nhà Ngô sử dụng sách lược ”sát nhất nhân, vạn nhân cụ”, ra lệnh cho mật vụ, công an và huy động những người cuồng tín đồng đạo (mang quốc tịch Vatican) đến khủng bố tinh thần cụ Nguyễn Phan Long để dằn mặt những người có uy tín tại Miền Nam. Dưới đây là câu chuyện chính quyền Ngô Đình Diệm chiếu cố cụ Nguyễn Phan Long rất ư là Gia-tô.

Nếu Không Hoan Hô Thủ Tướng Diệm Thì Đánh Chết Cha Nó Đi.- Câu nói trên đây lập đi lập lại nhiều lần, với giọng thật ”du côn”, trước cả trăm nắm tay dơ lên tại căn nhà số 11  đường Lieutenant Roubot, hẻm Lê Văn Duyệt, nơi trú ngụ của nguyên Thủ Tướng Nguyễn  Phan Long. Ông Long bị lôi ra giữa sân. Thân hình cao lớn, ông bận áo lụa dài, quần trắng, tóc bạc rối bời, tay bị nắm chặt. Chung quanh ông, có cả trăm nắm tay giơ lên định đánh. Nếu kể luôn cả những nắm tay ở ngoài cửa và ngoài đường thì có cả ngàn!

Có gì đâu, chả là Thủ Tướng Diệm biết ông Long được lòng dân và sự suy tôn của giới trí thức toàn quốc, nên có ý mời ông Long vào ghế phó thủ tướng để ”dễ dàng... việc nước việc nhà”. Ông Long từ chối khéo. Trong những ngày đầu của ”trào” Diệm, ông Long đứng về phía đối lập.  Một Thủ Đoạn Côn Đồ.- Đa số các báo hồi đó có đăng tải 100 ngàn đồng của Bảy Viễn, Thiếu Tướng Bình Xuyên. Kế bên là các bài đả kích nguyên Thủ Tướng Long đã ”lấy tiền” của Bình Xuyên. Mà tiền Bình Xuyên tức là tiền của sòng ”bạc Kim Chung, Đại Thế Giới, tiền điếm đường Vĩnh Viễn” v.v... Ông Long gửi bài đính chính, nhưng ”lệnh trên ban xuống”, báo nào dám đăng?. Sư thật như thế này: Trong khi sắp họp Hội Nghị Đình Chiến ở Genève, thì Quốc Trưởng Bảo Đại liên tiếp đánh ba điện tín gọi ông Long sang Pháp ”vấn kế”. Từ xưa, mặc dầu ông Bảo Đại bị Pháp bắt buộc phải giải tán nội các Long, song trong thâm tâm vẫn phục trí sáng suốt, tài mẫn tiệp của ông Long. Đến bọn Pháp còn thán phục ngòi bút và miệng lưỡi của ông Long, huống chi là ông Bảo Đại! Nhưng ông Long làm gì có tiền để mua vé phi cơ sang Pháp. Ông báo tin cho Quốc Trưởng Bảo Đại. Quốc Trưởng bèn hạ lệnh gửi cho ông Long 100 ngàn đồng. Không biết vô tình hay hữu ý, chi phiếu đó bị người ta viết sai vài chữ, thành thử ông Long không lãnh được. Ông Bảy Viễn được ”bộ hạ”  cho biết sự khó khăn của ông Long, liền đánh tiếng muốn giúp ông Long số tiền trên. Ông Long nhận lời với một điều kiện: Không dám nhận sự giúp đỡ, mà chỉ nhận vay. Cho phép viết một cái biên lai, lúc nào lãnh được chi phiếu, sẽ hoàn lại.

Cái biên lai này không rõ lúc Bình Xuyên chạy, làm thất lạc hay là có kẻ đánh cắp từ trước. Người ta chỉ biết rằng ông T... đã đem bán cái biên lai ấy cho bà cố vấn Ngô Đình Nhu, lấy một số tiền thật lớn, và chỉ 24 giờ sau, các báo - ôi các báo thời ông Diệm - đăng bản kẽm biên lai, để ”đả kích” ông Long bằng một giọng thật ”mất dạy” và thật ”du côn”.

Lại Một Thủ Đoạn Côn Đồ.- Những bài đính chính của ông Long gửi cho các báo được một vài quí chủ nhiệm trao lên ông bà cố vấn bằng đường lối ”quì hai gối dâng hai tay”. Ông bà cố vấn cười nhạt. Một mưu kế được thi hành tức khắc với mục đích bịp quốc dân Việt Nam rằng ông Long không chống đối ông Diệm mà còn hoan hô ”Cụ Thủ Tướng Diệm” là khác. Thế thì chắc chắn cụ Thủ Tướng Diệm là con người ”toàn thiện toàn năng” đứt đi rồi.  Đến đây, tôi xin mở một dấu ngoặc để ghi lại hai cái thối òm làm mình buồn mửa dưới thời Diệm. Ấy là cái lưỡi và cây bút của một số con nhà văn nhà báo. Trong lời chúc Tổng Thống Diệm nhân dịp lễ Song Thất, cái lưỡi của một ông chủ nhiệm  của một tờ nhật báo đã ví ông Diệm ngang với Chúa Trời. Và trên các sạp báo, sách, bày la liệt ở Sàigòn - không biết ở các tỉnh có bày bán không - không ai là không thấy cuốn Sấm  Trạng Trình” của một nhà văn cố uốn cong ngòi bút viết rằng: Ngô công thủ thành chính là cụ Ngô thủ thành để đánh tan giặc cộng, thực, phong! Ôi trời đất quỷ thần ôi! Khướu đến nước ấy mà còn dám vác mặt nhìn vợ, nhìn con, nhìn đồng bào thì thật là can đảm. Vậy thì cái kế bắt người hoan hô mình ”ghi vào băng nhựa ghi âm” (magnétophone) đã được thi hành ngay tại tư thất của cựu Thủ Tướng Nguyễn Phan Long như đã kể ở trên. Nhưng bọn bộ hạ nào đã được sai phái công tác ”thơm tho” phảng phất đến ngàn thu đó? Thưa rằng: Ông cựu tri huyện Trần CT, có ông Trần T - phụ tá rất đắc lực của ông Trần CT. Cả hai đã thành công rực rỡ!!! Được tin cựu Thủ Tướng Long bị ”nạn hoan hô”, kẻ hèn này có đến thăm. Sau khi kể rõ  tự sự, ông Long kết luận: Chúng muốn hoan hô, thì ta hoan hô, để khỏi ”đầy nhà vang tiếng ruồi xanh”. Cựu ký giả Nguyễn Phan Long cũng thuộc Kiều của cụ Nguyễn Du ra phết.” (o Người Dân Số 75 tháng 11 năm 1996, trang 31-32). (Người viết tin rằng Trần TC là Trần Chánh Thành)

Ngoài ra, Quốc Dân Đảng, Đại Việt Duy Dân và Việt Cách coi ông là tay sai của Giáo Hội La Mã, rút vào chiến khu ở ngoài miền Trung chống lại ông. Các giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo đều chống lại ông. Lực lượng võ trang Bình Xuyên Chống ông. Tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia cũng chống ông. Và ngay cả lực lượng võ trang Thiên Chúa Giáo ở vùng Bến Tre (Kiến Hòa và Mỹ Tho) dưới quyền chủ huy Đại Tá Le Roy cũng chống ông. Khối Thiên Chúa Giáo Phát Diệm đi theo ông Linh mục Hoàng Quỳnh cũng chống ông, kéo vào định cư ở Bình An, bên kia Cầu Nhị Thiên Đường nằm trong khu vực Bình Xuyên kiểm soát để ủng hộ Bình Xuyên (Lý do vì có sự xích mích giữa Giám-mục Lê Hữu Từ và anh em ông Ngô Đình Diệm). Những sự kiện này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi lại như sau:

Một đàng khác, nhờ Mỹ đã thành công hất cẳng Pháp, bắt buộc họ rút hết quân thuộc địa  về. Quân Pháp đi rồi, Ngô Đình Diệm truất phế Bảo Đại, rồi tự phong là Tổng Thống Cộng Hòa Miền Nam. Trong tất cả các cuộc khủng hoảng này, chú Sam luôn luôn có mặt. (Theo yêu cầu của ông Diệm, chúng tôi (Trung Tá Lansdale, trùm CIA) đến thăm ông ta hầu như mỗi chiều. Trong thời gian đó, sự căng thẳng gia tăng, và nhiều khi cuộc thăm viếng của chúng tôi kéo dài hàng giờ” (Pentagon Papers, tr.20).

Nhưng đàng khác, bên cạnh sự ủng hộ của Mỹ, Diệm cũng cần có lực lượng dân chúng để giúp ông cầm quyền. Nhân dân Miền Nam tỏ thái độ hững hờ hoặc chống đối ông. Các  đảng phái chính trị - tôn giáo hầu như không hợp tác với ông. Quân đội thì còn ở dưới sự chỉ huy của các sĩ quan thân Pháp. Đảng Cần Lao do em ông Diệm là Ngô Đình Nhu lập ra, tập họp một nhóm chính trị gia Công Giáo tư sản còn ở giai đoạn trứng nước. Diệm phải dựa vào khối Công Giáo di cư, dễ sai bảo và cuồng nhiệt, sẵn sàng tuân lệnh các cha xứ kéo nhau xuống đường mít tinh ủng hộ. Cuộc xuống đường đầu tiên xẩy ra vào ngày 21-9-1954. ”Trong không khí bị đầu độc của Sàigòn, những người di cư khốn khổ ấy dầu sao cũng là một sự khích lệ cho Diệm, khi họ kéo nhau đi biểu tình hô to ủng hộ ông ta với những khẩu hiệu được bôi vẽ vội vàng. Như thế ông không phải cô đơn một mình trong Dinh Norodom (Dinh Độc Lập), như một vài người muốn nói. Người di cư được tập họp theo những mệnh lệnh hết sức đơn giản. Họ biết rằng người cha của họ, người họ cậy nhờ,  người bảo hộ cho họ, đó là Tổng Thống Diệm... Người ta nói với họ rằng tổng thống sắp gặp rắc rối với các đối thủ, thế là họ kéo nhau tới, một cách hiền hòa, chẳng súng ống gì để nói lên sự ủng hộ gắn bó của họ”. Đó là các mô tả tình hình của báo Missi”. Trần Tam Tỉnh. Sđd., trang 120-121).

Ông Diệm quả thật như là một giống cây ngoại lai lạ giống, loại cây ”Gia-tô” hay “Thiên La Đắc Lộ”, với nhiều độc tố cùng nọc độc cực mạnh và vi khuẩn dịch hạch (cuồng tín, hung dữ, hiếu chiến, đa sát, bạo ngược, xấc xược, ngược ngạo, trịch thượng, gian tham, ganh ghét, tị hiềm, hiểm độc,  lươn lẹo, tráo trở, phản trắc,  hèn nhát, đê tiện, xun-xoe, đội trên đạp dưới) được Hoa Kỳ mang từ xứ lạ Vatican về trồng trong ”khu vườn Việt Nam đầy những cây trái tam giáo cổ truyền”. Loại cây ngoại lai lạ giống này trở nên chơ-vơ, trơ-trọi trong khu vườn này. Dù là nó được những bàn tay đặc biệt của người Việt Nam mang quốc tịch Vatican tưới bón bằng một thứ phân nước đặc biệt gọi là ”dollars” của Hoa Kỳ, thì sớm muộn rồi nó cũng phải chết vì không thích nghi được với môi sinh Tam Giáo cổ truyền của dân tộc. Thiếu một trong hai thứ này (phân nước dollars của Hoa Kỳ và bàn tay săn sóc của Vatican thì nó càng chết mau hơn nữa. Nếu cái cây ngoai lai này còn tôn tại thêm một ngày nào thì những độc tố cực mạnh và vi trùng dịch hạch mang trong nhựa sống của nó sẽ lan truyền ra giết hại hết tất cả các cây cỏ vốn đã có sẵn trong ”khu vườn Việt Nam” này, và sẽ không có một loại cây cỏ nào có thể trồng ở nơi đây được nữa. Nói cho rõ hơn, bản chất của ông Ngô Đình Diệm là người cuồng tín, hung dữ, đa sát và bạo ngược. Vốn là người của Đế quốc Vatican, lại được Đế Quốc Vatican và chính quyền Hoa Kỳ đưa về Việt Nam  cầm quyền làm tay sai cho hai thế lực này, chính quyền Ngô Đình Diệm  chỉ có thể được bảo vệ bằng một bộ máy công an, mật vụ và cảnh sát gồm toàn những người Việt Nam Gia-tô cuồng tín được tài trợ bằng tiền ngoại viện liên tục của Hoa Kỳ. Trong tình huống như vậy,  dù chính quyền Hoa Kỳ hết lòng cưu mang (tiếp tục viện trợ) và che chở (bằng cách nuôi dưỡng bộ máy công an và mật vụ) thì  sớm hay muộn cái chính đạo phiệt bạo tán khốn kiếp này cũng phải bị nghiền nát dưới sức mạnh quật khởi của nhân dân ta. Dĩ nhiên, là vì còn triền miên trong cơn mộng du mơ về nước Chúa, những người cuồng tín đồng đạo với ông Ngô Đình Diệm sẽ liều chết bảo vệ chế độ này trong tuyệt vọng. Đó là lý do tại sao khối người Gia-tô cuồng tín đã liều chết để duy trì cho được chế độ độc tôn tôn giáo này, một chế độ chống lại ý muốn của toàn dân trong đó có cả những người Kitô chân chính kính Chúa yêu nước như Giáo-sư Lý Chánh Trung, Linh-mục Trần Tam Tỉnh, Bác-sĩ Nguyễn Xuân Thọ, cụ Tạ Chương Phùng, các ông Phan Văn Đông, Tạ Chí Diệp, Trần Quý, Nguyễn Chấn, Trần Văn Lý, Trương Thiện, Phạm Hữu Tạo, v.v... Cũng là tín đồ thờ Chúa Jesus cả, nhưng họ là những người học cao, đọc nhiều, biết rộng, tâm hồn cởi mở, đủ sáng suốt nhận thức được rằng ngày nào mà chế độ đạo phiệt Gia-tô Ngô Đình Diệm còn tồn tại thì ngày đó nhân dân miền Nam còn phải mang cái thảm họa ”Spanish Inquisition”.

Hẳn là biết rõ hết tất cả tình trạng này của ông Diệm, và biết rõ cả bản chất cuồng tín, hiếu chiến của ông cũng như trình độ kém thông minh và thiếu khôn ngoan của ông, cho nên, ngoài việc đổ tiền ra như nước để cung ứng cho sức mạnh đàn áp hay mua chuộc các thế lực đối lập, tạo cho ông một sức mạnh cần phải có để tồn tại, Hoa Kỳ đã phải gấp rút đưa một sĩ quan tình báo thượng thăng là Đại Tá Edward Lansdale sang Việt Nam để dạy dỗ cho ông biết khôn ra, cung ứng cho ông một khối dân Gia-tô cuồng tín để làm cái loa suy tôn ông lên hàng chí sĩ yêu nước (Vatican) và cũng là tạo thành một thế lực chống đỡ và bảo vệ  ông.

1.- Hoa Kỳ lo lắng, săn sóc và dạy dỗ ông Diệm.- Theo dõi thời cuộc  trong mấy năm đầu của chính quyền Ngô Đình Diệm, chúng ta thấy Hoa Ky  lo lắng, săn sóc  từng li từng chút và dạy dỗ cho ông ta từ cách cư xử  đến  lời nói đối với các viên chức trong chính quyền và đối với nhân dân, y hệt như Lữ Bát Vi lo cho Tần Hoàng Chánh khi vừa lên nối ngôi An Quốc Quân làm vua nước Tần. Sự kiện này được Đại Tá Lansdale kể lại trong cuốn Hồi Ký của ông như sau:

Trong một chuyến đi chớp nhoáng với các sĩ quan của ông (Nguyễn Văn) Hinh, tôi (Đại Tá Edward Lansdale) đã nói chuyện với (Tổng Thống) Magsaysay về hoàn cảnh làm việc của ông Diệm, đặc biệt về việc bảo vệ an ninh tại Dinh Độc Lập. Magsaysay đồng ý rằng nếu ông Diệm cần, ông sẽ cho Đại Tá Napoleon Valeriano sang Saigon ít tuần để giúp đỡ ý kiến về phương thức bảo vệ an ninh cho thủ tướng (Ngô Đình Diệm). Valeriano là tùy viên chính của Magsaysay và chỉ huy tiểu đoàn phòng vệ phủ tổng thống tại Ma Ni. Ông Diệm nhiệt liệt đồng ý. Valeriano được mời sang Saigon và chẳng bao lâu vấn đề an ninh được chặt chẽ hơn. Khi trở lại Ma Ni, ông ta mời theo một số sĩ quan Việt Nam để học hỏi thêm về tiểu đoàn phòng vệ phủ Tổng Thống Phi.” (tr 56).

”Tôi nghênh đón một vài người Phi Luật Tân sang Saigon và được biết rằng họ là những người tiền thám của một nhóm chí nguyện hăng hái, đi tìm sự hướng dẫn để biết làm cách nào có thể giúp người Việt Nam.” (tr 85).

”Tôi mong muốn tìm được địa điểm nghỉ mát thật tốt cho ông Diệm để ông có thể nghỉ ngơi và bồi dưỡng tinh thần cũng như giúp cho sự suy tư của ông lắng dịu là những điều cần thiết để một vị nguyên thủ quốc gia làm việc đắc lực”. (tr 250).

”Đến Dinh (Độc Lập), tôi bước vào giữa lúc có cuộc họp giữa ông Diệm và một nhóm sĩ quan Việt Nam. Trong số này, có Tướng Tỵ, Đại Tá Đôn cũng như hai vị chỉ huy mặt trận đánh Bình Xuyên là Minh nhỏ và Minh lớn. Họ đều có vẻ vui mừng. Quân đội đã tiến qua Kinh Đôi ở Chợ Lớn và quân Bình Xuyên đang chạy trốn. Họ hỏi tôi có mừng cho họ không? Tôi trả lời không, chưa mừng được. Trong lúc họ đang quây quần tất cả ở đây để ca tụng lẫn nhau thì cuộc tấn công của họ qua Kinh Đôi đang bị thảm bại vì họ không chịu cung cấp hỏa lực yểm trợ bằng trọng pháo cho cánh quân này. Tôi lưu ý họ rằng như họ đã biết, tôi bị cấm ngặt không được chỉ dẫn cho họ một điều gì. Tuy nhiên, lệnh cấm ấy không cấm được tôi kể chuyện cổ tích cho họ nghe. Ngày xưa có một vài cấp chỉ huy Việt Nam ngồi uống trà với ông xếp của họ và kể cho ông xếp nghe họ đã thành công tốt đẹp như thế nào trong khi đáng lẽ họ nên di chuyển một trong những pháo đội ở Dinh Độc Lập, hay ở trước tư dinh vị Tham Mưu Trưởng, hoặc ở sân Bộ Tổng Tham Mưu để yểm trợ cho Trình Minh Thế ở Cầu Tân Thuận. Đơn vị của Tướng Thế là đơn vị duy nhất trong toàn  thể mặt trận phải đụng độ với các loại súng lớn được lớp vỏ sắt che chở. Đây cũng là đơn vị duy nhất không được pháo binh yểm trợ. Dân chúng nổi giận khi nghe được chuyện này. Hiện giờ, tôi rất tức giận về việc ấy và mong mỏi các vị sĩ quan hiện diện hãy làm nốt phần kết cục của câu chuyện cổ tích vừa kể. Khi tôi ngưng nói, mọi người im lặng một cách kinh ngạc.

Ông Diệm phá tan sự im lặng ấy bằng cách bảo ông Minh nhỏ đem pháo binh giúp cho Trình Minh Thế ngay lập tức. Ông Minh vội đi ngay, và những người khác cũng ra về. Tôi tỏ ý vui mừng về vụ tiến quân qua Kinh Đôi. Họ nhìn tôi có vẻ do dự. Tôi đã vô cùng tức giận khi tôi xen ngang vào cuộc họp. Tôi đoan chắc với họ rằng tôi vui mừng với các thành quả vừa qua. Tuy nhiên, còn khá lâu họ mới thắng trận này, và bây giờ chưa phải lúc nghỉ ngơi.  Ông Diệm bảo tôi ở lại nói chuyện với ông (ấy). Chúng tôi sang phòng khách nhỏ có chiếc ghế bành lớn để khá xa nhau khó nói chuyện. Vì vậy, tôi mời ông cùng ngồi trên ghế dài.  Ông Diệm mở đầu câu chuyện, nói rằng chưa bao giờ ông thấy tôi nổi giận như lúc này. Dầu sao Trình Minh Thế cũng là một quân nhân là phải chịu hiểm nguy cùng với những người khác ở mặt trận. Tôi không nên quá lo lắng đến công việc của anh ta. Dù Trình Minh Thế là người bạn, thì ông ta cũng chỉ là một trong những người Việt Nam bạn của tôi và có lẽ ông ta không có học vấn cũng như kinh nghiệm bằng một vài người khác. Tôi bảo ông (Diệm) không nên nói như vậy. Lời nói ấy dẫn đến chỗ khiến ông nói thêm một vài điều gì đó làm cho tôi bực tức trở lại. Trình Minh Thế đã ủng hộ ông trong lúc những  người học thức và có kinh nghiệm còn lưỡng lự. Hiện giờ ông ta đang chịu nguy hiểm đến  mạng sống của mình cho ông Diệm. Tình thân hữu của Trình Minh Thế có giá trị hơn tất cả loại thân hữu chỉ biết phù thịnh . Hơn thế nữa, kẻ nào đó ngu xuẩn một cách đáng kết tội đã làm quân sĩ của Tướng Thế chưa được huấn luyện đầy đủ, chưa được trang bị đầy đủ, (lại đem) sử dụng vào cuộc tấn công qui mô mà không có hỏa lực yểm trợ. Đó là cách sử dụng rất sai lạc khả năng của du kích quân Liên Minh (Trình Minh Thế). Ông Diệm thay đổi câu chuyện...

Ông Nhu bước thẳng đến trước chỗ tôi và ông Diệm ngồi, yên lặng nhìn chúng tôi một lúc. Cuối cùng ông nói nhỏ nhẹ: ”Trình Minh Thế chết rồi... bị trúng đạn nơi phía sau tai do một viên đạn súng trường. Suy từ góc độ của đường đạn đi, thì thủ phạm ở một nơi phía sau và trên cao. Binh sĩ tại đây nói rằng thủ phạm phải là một lính bắn tỉa... Ông Nhu ra khỏi phòng... Tôi quay sang bảo ông Diệm ”Chúng ta mất một người bạn chân thành”. Tôi không thể nói gì hơn. Ông Diệm nhìn vào mặt tôi rồi khóc. Những tiếng nấc lớn làm rung  động cả thân hình ông. Tôi ngồi lại xuống ghế và ôm lấy ông. Ông xin tôi tha lỗi những điều ông đã nói về Trình Minh Thế trước đấy. Tôi nói thực ra không có gì phải cho tôi tha lỗi, nhưng ông phải luôn luôn ghi nhớ bạn thành thật thì hiếm hoi. Không bao giờ được bỏ rơi những con người bất vụ lợi phục vụ cho tự do. Tôi và ông Diệm ngồi trên ghế im lặng cho đến khi ông Diệm lấy lại được bình tĩnh. Sau đó tôi trở về nhà”. ( E.G. Lansdale, sđd, tr 199-202).

2.- Cung ứng khối dân Gia-tô cuông tín cho ông Diệm: Để  cho ông Ngô Đình Diệm có một khối dân Gia-tô cuồng tín làm cái loa suy tôn ông lên hàng chí sĩ yêu nước (Vatican) và cũng là để có một thế lực chống đỡ và bảo vệ ông, người ta đã tung ra chuyện Hoa Kỳ sẽ ném bom nguyên tử để tiêu diệt miền Bắc và phịa ra chuyện Đức Mẹ đã vào Nam để lôi cuốn những người Thiên Chúa Giáo cuồng tín tưởng thật, rồi cuốn gói di cư vào miền Nam. Linh-mục Trần Tam Tỉnh viết về sự kiện này như sau:

Lợi dụng lòng mê tín dân gian, trước dịp Giáng Sinh 1954, người Mỹ lại sử dụng một vũ khí khác. ”Một nhà ái quốc mà chúng tôi gọi là Triều Đình, làm việc tại một sở in lịch bói toán phổ biến rất rộng rãi, nhất là tại các tỉnh Miền Bắc đang còn nằm trong tầm tay của ta. Người ta mời các thầy bói Việt Nam nổi tiếng đến, tiên đoán về những thất bại nghiêm trọng của một số cán bộ Việt Minh và về việc thống nhất tại Miền Nam”. Người ta không biết bộ lịch đó gây ra những hậu quả to lớn biết chừng nào.

Cũng có những tin đồn rằng quân Mỹ sẽ ném bom nguyên tử tiêu diệt Miền Bắc. Nếu các hoạt động phá hoại của bọn Pháp và Mỹ gây ra được ảnh hưởng lên toàn thể dân chúng người Việt, thì cũng có những luận điệu tuyên truyền khác đóng một vai trò quyết định hơn nơi các cộng đồng người  Công Giáo.

Trước tiên, họ sử dụng Đức Mẹ Fatima, mà việc tôn sùng mấy năm gần đây đã được tăng cường, qua việc thành lập Đạo Binh Đức Mẹ, Đạo Binh Xanh, Hiệp Hội Chiến Sĩ Đức Mẹ.  Tất nhiên, Đức Mẹ được giao cho chức năng chính trị là để giải thoát những kẻ tôn sùng Ngài. Người ta đồn rằng Đức Mẹ hiện ra ở Ba Làng, Thanh Hóa, để ra lệnh cho Giáo dân đi vào Nam, bởi vì Đức Mẹ cũng bỏ Miền Bắc Việt Nam. ”Việc hiện ra” hình như đã được dàn dựng tài tình bởi một linh mục, ông đã mặc áo Đức Mẹ cho một thiếu niên và đã cho em đứng vào sau bàn thờ Đức Mẹ Fatima. Trước mấy cây nến tung ánh sáng lung linh, một vài nhà ”đạo đức” coi đó là Đức Mẹ hiện ra, nói với họ một giọng dịu dàng nhưng minh bạch rõ ràng rằng, phải từ bỏ đất Cộng Sản bất cứ với giá nào mà tìm lánh sang vùng đất tự do. Đức Mẹ sắp sửa bỏ Miền Bắc. Từ miệng qua tai, tin đồn được loan ra như một vết dầu loang, và được thêm thắt những nét chấm phá mới, kèm theo những lời tiên tri mới,  hoặc những điềm gở tiên báo tai ương sắp đổ tới. Óc tưởng tượng của dân chúng lại bày ra những chuyện linh mục bị tàn sát, những mật báo của Hồ Chí Minh phải tiêu diệt cho hết những người Công Giáo, hay là bắt họ phải bỏ đạo.

”Chạy trốn để cứu lấy mạng sống và cứu lấy đức tin”. ”Chúa Kitô đã đi vào Nam”. ”Đức Mẹ đã rời bỏ Bắc Việt”. Những khẩu hiệu phi lý đó làm cho người Kitô Tây Phương phải mỉm cười, nhưng lại có tác dụng rất lớn nơi một cộng đồng Kitô hữu đã từng bị giam nhốt xưa  nay trong sự ngu dốt và trong kiểu tin đạo nói được là thời Trung Cổ. Trong cái ốc đảo khép kín đó của Giáo dân, những gì gọi là ”Bí mật của Đức Mẹ Fatima đều được coi như là tín điều bắt buộc, đang khi nó chỉ dựa vào một mớ tài liệu tuyên truyền nhảm nhí. Nếu những năm 1949-1953, các linh mục đã thề biến Giáo dân hiền lành vô tội đó thành những tên sát nhân cuồng nhiệt nhờ khẩu hiệu ”Tiêu diệt Cộng Sản để làm vinh danh Chúa”, thì họ cũng chẳng khó khăn gì trong việc tạo ra cuộc ”Xuất hành vĩ đại” vào những năm 1954-1955. Hiển nhiên là người nông dân Việt Nam sống gắn bó với ruộng đất của tổ tiên, với  mái nhà, với mảnh vườn, với nhà thờ và làng xóm hơn nông dân ở các nước khác nhiều. Nhưng họ lại dám từ bỏ tất cả mọi sự để bảo vệ đức tin, nhất là khi các cha xứ của họ lại bảo đảm với họ rằng tại Miền Nam có một vị thủ tướng Công Giáo đang chờ đón họ và sẽ cấp cho họ những vùng đất phì nhiêu để làm ăn. Và khối dân chúng một khi đã bước chân ra đi, thì không gì có thể ngăn cản họ lại. Thế là với những áp lực đủ kiểu đủ cách, nhờ một lối tuyên truyền xảo trá, tạo ra một cơn hốt hoảng tinh thần nơi dân chúng Công Giáo, người ta đã thành công đưa vào Nam hàng trăm ngàn nông dân, bởi vì khối di cư Công Giáo sẽ là một lực lượng chính trị to lớn hỗ trợ cho chính phủ Ngô Đình Diệm”. (Trần Tam Tỉnh, sđd, tr 102-104). 

3.- Bỏ tiền ra như nước để mua chuộc các thế lực không ưa hay chống đối cá nhân và chính quyền Ngô Đình Diệm.- Như  đã trình bày ở phần trên, chủ đích của chính sách viện trợ của Hoa Kỳ cho các nước trong khối tự do là phục hồi kinh tế và dân chủ hóa bộ máy cai trị để giảm thiểu tối đa những bất công trong xã hội, đem lại tự do no ấm cho mọi người dân không phân biệt tôn giáo, sắc tộc và giai cấp nhằm tạo được uy tín cho phe dân chủ để lôi cuốn nhân dân và chiến tuyến chống lại chủ nghĩa độc tài vô sản do Liên Sô lãnh đạo. Chính sách viện trợ này của Hoa Kỳ được thi hành từ mùa Xuân năm 1947 và đã giúp cho các nước Tây và Nam Âu phục hồi được nền kinh tế, theo kịp đà tiến với các nước Bắc Mỹ. Nhờ thành công này mà nhân dân Hoa Kỳ vui lòng đóng thuế để mở rộng chương trình viện trợ cho các nước Á Châu như Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan, Phi Luật Tân, Thái Lan và miền Nam Việt Nam. So với các nước  khác cũng tiếp nhận viện trợ của Hoa Kỳ,miền Nam Việt Nam được Hoa Kỳ viện trợ lâu dài nhất và hào hiệp nhất. Chưa nói tới những khoản tiền chi vào các khoản tiền chi phí cho quốc phòng, mở mang giáo dục để nâng cao dân trí, cải thiện y tế và phát triển kinh tế, chỉ nói một vài khoản tiền lo lót cho ông Diệm về cầm quyền và mua chuộc các thế lực trong nước để tạo thêm vây cánh cho ông ta  khi còn lao đao  và ngồi chưa yên chỗ trong những ngày tháng mới về Việt Nam, Hoa Kỳ đã phải chi ra tới hàng trăm triệu Mỹ Kim rồi. Ở đây, chúng tôi chỉ nói đến những khoản tiền để mua chuộc các thế lực không ưa hay chống đối cá nhân và chính quyền nhà Ngô:

A.- Tiền lo lót với Pháp để cho Ông Ngô Đình Diệm được yên vị nắm quyền, qua hình thức viện trợ cho đạo quân viễn chính Pháp tại Đông Dương. Sự kiện này được ông Lương Minh Sơn viết như sau:

Đầu năm 1955, trong một cuộc tranh chấp quyền lực với Trung Tướng Nguyễn Văn Hinh, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Miền Nam Việt Nam, một sĩ quan của Pháp đưa về để bảo vệ Bảo Đại, ông Diệm bị Bảo Đại cách chức vì lý do không còn được tín nhiệm nữa. Tuy nhiên, Hoa Kỳ đồng ý trả 100 (một trăm) triệu đô la bằng viện trợ cho quân đội Viễn Chinh để Pháp chấm dứt ủng hộ Bảo Đại, nên ông Diệm có tư thế không tuân hành lệnh giải nhiệm. Ngày 23-10-1955, qua sự vận động của tình báo Hoa Kỳ và một số văn bút ở  Saigon, ông Diệm tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý. Trước khi trở về Hoa Kỳ để lánh mặt trong cuộc bầu cử, Đại Tá Lansdale căn dặn ông Diệm, ”Trong lúc vắng mặt, tôi không muốn bỗng nhiên nhận được tin ông đắc cử với tỉ số 99.99 phần trăm số phiếu,” [MCC. Trg 62]. (Lương Minh Sơn. Bài đã dẫn, Kỳ 4).

B.- Tiền mua chuộc các thế lực trong nước để tạo thêm vây cánh cho ông Diệm lúc mới về cầm quyền. Việc này được sử gia Bernard B. Fall ghi lại như sau:

Trong một loạt hành động mau lẹ khiến cho các ông lãnh tụ các giáo phái hoang mang không biết người bạn đồng minh mới thề bồi ngày hôm trước đã bán đứng lấy một số tiền khá lớn hay chưa, khi ông Diệm mua ông Tướng Cao Đài Trình Minh Thế với một số tiền là 2 triệu Mỹ kim. Ông tướng này là người chủ mưu các vụ gài bom tại các đường phố Saigon vào năm 1952 và đã được ôngGraham Greene tả trong cuốn Người Mỹ Thầm Lặng như là những vụ phá họai rất tài tình. Tiền mua ông tướng Cao Đài Nguyễn Thành Phương là 3.6 triệu Mỹ Kim, và còn phải trả thêm tiền lương hàng tháng cho quân lính của ông ta. Số tiền mua ông lãnh chúa Hòa Hảo Trần Văn Soái là 3 triệu Mỹ Kim. Tất cả tiền chi tiêu dùng để mua các ông tướng giáo phái như vậy lên đến hơn 12 triệu Mỹ Kim. Tới khi các ông lãnh tụ tham lam này ý thức được là họ đã bị phỉnh gạt, họ quay ra chống lại, nhưng cuộc chiến của họ không còn chính nghĩa nữa”. (Bernard B. Fall , sđd, 1994, tr. 245-246).

Có thể còn nhiều khoản tiền khác nữa mà chúng tôi chưa biết. Cũng nên biết là từ năm 1955 đến năm 1961, số tiền viện trợ của Hoa Kỳ cho Miền Nam Việt Nam đã lên đến trên một tỷ Mỹ kim. (Robert S. McNamra, Hồi Ký: Những Thảm Kịch và Bài Học Việt Nam, 1995, trang 44). Tính đến năm  1962, Hoa Kỳ đã viện trợ cho miền Nam Việt Nam trên 2 tỷ Mỹ kim. (Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu [VNNB]. 1939-11975, tập I-C: 1955-1963: Sư Thăng Tiến Và Sụp Đổ của Họ Ngô (Houston: Văn Hóa. 2000), trang 269). Tuy nhiên, theo Giảng Sử Fishel, Cố Vấn của Ngô Đình Diệm, tiền viện trợ Hoa Kỳ chỉ đủ giúp cho những ngón tay chân miên Nam cử động, còn toàn thân xác vẫn ù lì, cứng đọng. (Ibid., trang 239-240).


Trang Nguyễn Mạnh Quang