Một đoạn duy nhứt trong bài phỏng vấn ông Cao Xuân Vĩ Trần Quang Diệu | ||
LTS: Một số những người thọ ân của chế độ nhà Ngô thỉnh thoảng góp nhặt những ý kiến cá nhân cho là có thể tô vẽ cho một chế độ mà đa số người dân lẫn thế giới đều khinh miệt. Bài phỏng vấn Cao Xuân Vỹ của ông Minh Võ (xem dưới cùng) là một trong những nỗ lực đó. Trong khi miền Bắc cơ cực dồn cả nỗ lực để mong giành độc lập cho đất nước, thì ở miền Nam chính quyền làm những việc gì ngoài việc gom quyền lực cho riêng một gia đình, lo áp đặt tôn giáo, và tiêu diệt người anh em trong những chiến dịch tố cộng? Chúng tôi ghi lại một vài lá thư nhận xét ngoài các diễn đàn điện tử như của ông Trần Quang Diệu và Góp Gió, cùng với nhận xét của chính bạn để xem giá trị của những ý kiến cá nhân trong bài phỏng vấn có giá trị được bao nhiêu. (SH)
Ông Cao Xuân Vỹ trả lời trong bài "phỏng vấn" này (SH: xem ở dưới cùng) thì tôi không đọc hết mà chỉ kéo con chuột lên xuống 2 lần. Tôi chỉ tò mò dừng lại đọc thử mấy đoạn mà tác giả (?) đã highlight. Thông thường, ai cũng hiểu ra, cái nào đã highlight thì được xem như đoạn đó là quan trọng, hay, và cần thiết. Nhưng, cái quan trọng, sự cần thiết ở đây tôi nhận ra có sự dối gian! Tôi sẽ chỉ dẫn thưa một đoạn duy nhứt, trong toàn bài của Minh Võ. Minh Võ thuật lời ông Vỹ (or Vĩ) thế này: "Hồi ấy còn cả một ủy ban của chính phủ gồm nhiều Phật tử đứng đầu là phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ cố gắng dàn xếp. Nhưng bên Phật Giáo tranh đấu chỉ muốn lật đổ chính phủ thôi. Nên họ cố đưa ra những yêu sách không cách nào làm được." Sự gian dối này thì không thể chấp nhận! Tôi bác bỏ thái độ bóp méo sự thật trong hành vi này của ông Cao Xuân Vỹ khi ông vu cho là "Phật Giáo tranh đấu chỉ muốn lật đổ chính phủ thôi. Nên họ cố đưa ra những yêu sách không cách nào làm được." Nguyên nhân gì đầu tiên để rồi phải có sự "cố gắng dàn xếp" thì dưới "cặp mắt thần" và "kiếng chiếu yêu" của giới trí thức và nhân dân Việt Nam chân chính, họ đã thấy tuốt luốt cái bản chất âm mưu thực thi thủ đoạn "diệt trừ ma quỉ" (tiêu diệt PG và các tôn giáo dân tộc) của anh em ông Ngô Đình Diệm mà Giám mục Thục đã khẳng định, được ghi trong sách Đảng Cần Lao của Chu Bằng Lĩnh là "việc chúng tôi làm (tấn công chùa chiền đêm 20.8.1963) là vì Chúa, vì Giáo Hội". Phật tử bị ức ép đến phải giằng co với quân đội Ông Cao Xuân Vỹ làm sao phủ nhận được điều đó trong suốt thời Đệ Nhất VNCH? Xin hỏi ông Cao Xuân Vỹ rằng Phật giáo đã "cố đưa ra những yêu sách" ra sao để rồi chính phủ ông Ngô Đình Diệm "không cách nào làm được"? Chính phủ của một "đại anh hùng dân tộc" đâu mà dở, đâu mà đơn giản quá vậy? Sau đêm 8.5.1963, lúc xảy ra thương vong ở trước cửa đài phát thanh Thừa Thiên - Huế, Phật giáo chỉ yêu cầu chính phủ đáp ứng 5 nguyện vọng như sau:
Là một chính phủ, lại là chính phủ do một "đại anh hùng dân tộc" lãnh đạo mà chỉ 5 nguyện vọng như vậy của một tôn giáo đã có mặt và song hành cùng dân tộc có đến hai nghìn năm (so với những kẻ tân tòng!) mà lại không giải quyết được thì "anh hùng" cái gì? Nó có chi mà "những yêu sách không cách nào làm được" như ông Cao Xuân Vỹ thuật lại như vậy? Ngoại trừ anh em ông Diệm đã mang dã tâm quyết tiêu diệt Phật giáo! Âm mưu như thế đã được anh em ông Diệm thể hiện lúc cầm quyền và lưu vết tích rất nhiều chứ không còn là chuyện suy đoán. 5 nguyện vọng như trên khi Phật giáo yêu cầu mà chẳng được. Đến khi cái chết của Nhất Linh xảy ra; vụ tự châm lửa thiêu thân của ngài Hòa thượng Thích Quảng Đức lan đi khắp thế giới, thì anh em ông Ngô Đình Diệm mới hoảng hốt lên, nhưng cũng vẫn giữ nguyên chích sách độc tài nhằm xoa dịu dư luận, mới chỉ thị cho 3 ông Nguyễn Ngọc Thơ, Nguyễn Đình Thuần và Bùi Văn Lương đóng vai Ủy ban Liên bộ, gọi là "dàn xếp" chứ "phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ cố gắng dàn xếp" cái gì? Cụ thể nhất trong việc "phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ dàn xếp" là một "Thông Cáo Chung" giữa Ủy ban Liên bộ (của Chính phủ) và Ủy ban Liên phái (của Phật giáo) thì làm sao ông Vỹ có thể nói là "không cách nào làm được"? Mở đầu cuộc "dàn xếp" xảy ra vào lúc 9 giờ sáng ngày 14 tháng 6 năm 1963 cho đến 1 giờ đêm ngày 16 tháng 6 năm 1963 thì hai bên đã thõa thuận đưa ra được "Thông Cáo Chung" đó. "Thông Cáo Chung" có đệ lên cho Tổng thống duyệt y (duyệt và ký, thông qua, cho thi hành). Bên Phật giáo cũng có chữ ký đồng thuận của Hòa thượng Hội chủ Tổng Hội Phật giáo Việt Nam Thích Tịnh Khiết thì sao ông Vỹ có thể kết án là "không cách nào làm được"? Phải chăng, đó chỉ là thái độ muốn bóp méo nhằm khỏa lấp trước lịch sử về một chế độ độc tài gia đình trị lẫn tôn giáo ngoại bang trị, rồi đâm ra kỳ thị với các tôn giáo dân tộc? Nhưng ông Vỹ cũng như bất kỳ ai nữa thì thiết thưởng: đừng có hòng mà chạy tội! "Thông Cáo Chung" cũng đã đưa ra được năm điều:
5 điều nêu trên chưa ráo mực. Anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm chỉ hứa cuội cho qua búa rìu dư luận trong lúc lòng người đang phẫn uất lên cao độ về cái chết của nhà văn Nhất Linh và ngọn lửa của Hòa thượng Thích Quảng Đức. (4) Ông Cao Xuân Vỹ nói "Phật Giáo tranh đấu chỉ muốn lật đổ chính phủ thôi" là hoàn toàn bịa đặt để vu khống! Sau khi 5 nguyện vọng (đã nêu trong phần đầu!) của Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo không được chính phủ Ngô Đình Diệm đếm xỉa. Phật giáo liền ra một "Bản Tuyên Ngôn". Sau bản Tuyên Ngôn, có kèm theo một "Bản Phụ Đính" do vị đứng đầu Phong trào Tranh đấu là Hòa thượng Thích Tịnh Khiết ký ngày 23.5.1963. Khẳng định lập trường trong phần "Phụ Đính" cho "Bản Tuyên Ngôn" đó là thế này: "Đối với Chính phủ.- Chúng tôi không chủ trương lật đổ, chúng tôi chỉ có nguyện vọng "cải thiện chính sách". Chúng tôi không nói vấn đề người." (5) Từ đây, mời độc giả theo dõi những gì đã xảy ra sau "Thông Cáo Chung": "PHONG TRÀO HỌC SINH, SINH VIÊN VÀ TRÍ THỨC CHỐNG CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI I. Ngoại trưởng Vũ văn Mẫu từ chức và cạo đầu. Người đi tiên phong trong hàng ngũ trí thức chống chế độ độc tài sau khi các chùa bị phá là Giáo sư Vũ văn Mẫu, Bộ trưởng Ngoại giao. Trong mưu kế đánh chiếm các chùa và bắt giam Tăng, Ni, anh em ông Diệm chỉ phổ biến kế hoạch này trong nội bộ gia đình, một số Bộ trưởng thân tín, và những người có nhiệm vụ trực tiếp điều khiển mật vụ, cảnh sát và lực lượng đặc biệt mà thôi. Chính ngay Phó Tổng Thống Nguyễn ngọc Thơ cũng không được biết kế hoạch này. Cho mãi tới 5 giờ 30 sáng ngày 21.8.1963, khi bọn mật vụ đã thanh toán xong các chùa, ông Diệm mới triệu tập hàng ngũ Bộ trưởng để cho biết quyết định thiết quân luật trên lãnh thổ. Ngay trong buổi họp của Hội đồng chính phủ này. Giáo sư Vũ văn Mẫu đã bất mãn về lý do "Vì Cộng sản xâm nhập các Châu thành và vùng phụ cận Sài gòn nên phải thiết quân luật" của ông Diệm. Mẫu nhận thấy lời nói này hoàn toàn giả dối nên ông có phản ứng ngay, bằng câu "Nếu quả thực có sự đột nhập của Việt Cộng vào ngoại ô Sài gòn thì đã đủ lý do để giải thích sự việc này". Nghĩa là ông Mẫu muốn vạch rõ thái độ quanh co, thiếu thành thực của ông Diệm trước hội đồng chính phủ. Một vị nguyên thủ quốc gia báo cho các hàng Bộ trưởng biết "...Cộng sản đã xâm nhập...". Vậy mà một ông Bộ trưởng Ngoại giao lại đứng ra nói "Nếu quả thực có như vậy..." tức là Ông Bộ trưởng này không tin lời nói của vị nguyên thủ và cố ý nhấn mạnh tiếng "Nếu" để mọi người hiểu được sự thực không phải như vậy. Hơn nữa, ông Vũ văn Mẫu còn bất mãn về việc ông Diệm chỉ hỏi ý kiến ông sau khi lệnh thiết quân luật đã ban hành và nhất là lúc chính quyền đã đánh chiếm xong các chùa và bắt hết Tăng, Ni. Bởi vậy, phản ứng đầu tiên của ông Mẫu sau buổi họp tại dinh Gia Long là cạo đầu để thể hiện lập trường của mình và gởi đơn từ chức Bộ trưởng Ngoại giao. Sau đó, ông Mẫu, một mình với chiếc đầu nhẵn bóng lái xe đi tìm gặp các ông Khoa trưởng, Giáo sư Đại học, đồng nghiệp của mình, để vận động một phong trào trí thức chống độc tài. Đa số các Giáo sư tại Sài gòn đều hưởng ứng lời hô hào của ông Vũ văn Mẫu. Nhưng với sự đe dọa, khủng bố điên cuồng của Mật vụ do Ngô đình Nhu điều khiển, làm cho mọi người phải thủ thế, bằng cách tạm nén những uất hận trong lòng, chờ cơ hội thuận tiện đứng ra hoạt động. Một số Giáo sư khác, vì quá lo sợ nên đã lánh mặt khi ông Mẫu tìm gặp. Người ta hình dung ông Mẫu như một bó đuốc đang cháy tưng bừng và bó đuốc này tràn tới đâu là khiến thành cháy vạ lây. Hành động cương quyết, quả cảm của Giáo sư Vũ văn Mẫu là một tấm gương sáng chói trong hàng ngũ trí thức và tấm gương này đã châm ngòi cho một phong trào sinh viên học sinh vùng dậy tranh đấu chống bạo quyền. Học sinh, sinh viên vốn đang hoang mang và xúc động trước sự việc chùa chiền bị triệt hạ, Tăng, Ni bị giam cầm thì nay, một Giáo sư danh tiếng đã đi tiên phong, khơi nguồn, vạch đường chỉ lối cho họ. Bởi vậy những người thanh niên thanh nữ đầy nhiệt huyết, những người nắm vận mệnh quốc gia trong tương lai này đã nhất quyết lao mình vào đám lửa đỏ để giành lại những ngày tươi sáng cho dân tộc, tự do cho muôn người. II. Sinh viên các phân khoa Đại học nổi dậy. Dẫn đầu phong trào chống đối công khai của sinh viên là tất cả sinh viên thuộc Trung tâm Kỹ thuật Phú Thọ bãi khóa vào ngay chiều ngày có lệnh thiết quân luật, 21.8.1963, Giáo sư Lê sĩ Ngạc không những tán thành việc làm của sinh viên Kỹ thuật mà còn tỏ lập trường chống chính quyền tàn bạo và cổ động sinh viên tiếp tay tranh đấu cho chính nghĩa Phật giáo. Chiều ngày 22.8.1963, Bác sĩ Phạm biểu Tâm, Khoa trưởng Đại học Y khoa Sài gòn gởi đơn từ chức và sáng hôm sau, Bác sĩ bị chính quyền Ngô đình Diệm bắt giam. Việc này đã gây xúc động và làm xôn xao trong hàng ngũ sinh viên. Bởi vậy, ngay ngày hôm đó, các sinh viên Đại học Y khoa Sài gòn, không phân biệt trường, kéo nhau tới tập trung tại trường Y khoa để theo dõi tin tức về Bác sĩ Phạm biểu Tâm. Sinh viên tới quá đông, họ đứng chật sân trường, tràn ra ngoài cổng và phủ kín cả mặt đường. Họ bàn tán, tranh luận huyên náo; mặt người nào cũng đỏ gay. Có người quá hăng hái, lớn tiếng mạt sát chính quyền Ngô đình Diệm trước mặt mấy nhân viên Cảnh sát. Những người Cảnh sát này giả đò không nghe thấy, quay đi. Không rõ họ cũng đồng tình hay khiếp sợ không dàm ho he, phản ứng. Sinh viên bàn tán kế hoạch cứu Bác sĩ Phạm biểu Tâm. Có người nêu ý kiến, sinh viên nếu chia ra ừng tốp tới gặp các Khoa trưởng, Giáo sư Đại học, yêu cầu các vị này từ chức đồng loạt để gây một áp lực mạnh mẽ đối với chính quyền và nếu Bác sĩ Phạm biểu Tâm đã có đồng minh, không cô lập và đỡ lo bị hãm hại. Người khác lại góp ý thêm: song hành với việc vận động Khoa trưởng, Giáo sư từ chức, ngay bây giờ phải tổ chức biểu tình phản đối chính phủ... Và chiều ngày 23.8.1963, giữa lúc một nhóm sinh viên kín đáo ra về để kiếm vải viết biểu ngữ cho cuộc biểu tình dự định tổ chức vào giờ tan sở, thì Bác sĩ Phạm biểu Tâm cũng vừa được trả tự do. Tuy lý do của cuộc biểu tình không còn, nhưng chiều hôm đó, sinh viên các phân khoa vẫn tới tập trung đông đảo tại trường Y khoa để mừng Bác sĩ Phạm biểu Tâm và vận động thành lập Ủy ban chỉ đạo Sinh viên Liên khoa. Trong buổi họp mặt này, một sinh viên năm thứ tư Y khoa đã đứng ra hỏi Bác sĩ Phạm biểu Tâm: "Trong những ngày thực tập tại bệnh viện, Sinh viên đã được lệnh của chính quyền, không chữa bệnh cho những Tăng, Ni, Phật tử bị thương trong các cuộc biểu tình. Việc này trái với lương tâm và lý tưởng của người thầy thuốc, là chữa bệnh cho cả kẻ thù mình. Hơn nữa, Phật giáo đồ đâu phải là kẻ thù? Vậy xin thầy cho biết lập trường và thái độ của Sinh viên lúc này phải như thế nào?" Bác sĩ Phạm biểu Tâm trả lời: "Tôi xem các anh như những người lớn, các anh có thể làm những gì các anh muốn làm; tuy nhiên cũng đừng quá khích và hãy tôn trọng luật lệ hiện hành". Sở dĩ Bác sĩ Phạm biểu Tâm khuyến nhủ sinh viên với những lời dè dặt như vậy, một phần bởi bản tính hiếu hòa, nhân từ của Bác sĩ, phần khác cũng vì tuy được trả tự do, nhưng Bác sĩ lại bị chính quyền quản thúc, chung quanh luôn luôn có mật vụ kèm sát theo dõi. Giữa lúc sinh viên đang sôi sục căm hờn chế độ, lời nói "...các anh có thể làm những gì các anh muốn làm" của Bác sĩ Phạm biểu Tâm có giá trị như một lời cổ võ. Bởi vậy, sinh viên đã hò reo hoan hô Bác sĩ Phạm biểu Tâm rồi kéo nhau tới giảng đường hội họp để thành lập Ủy ban chỉ đạo Sinh viên Liên khoa. Trong buổi họp này, một sinh viên Cao học Luật khoa, Luật sư Tòa Thượng thẩm Sài gòn tuyên bố: "Nhận thấy cuộc tranh đấu của Phật giáo phù hợp với điều 18 của bản tuyên ngôn nhân quyền quốc tế và điều 17 của Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa, nên tôi không ngần ngại tham gia vào ban chỉ đạo...". Một sinh viên khác, cảm động gần như muốn khóc đã phát biểu: "Làm thế nào tôi có thể sống được, khi cả nhà tôi không ai ăn cơm, mẹ và chị tôi khóc suốt từ hôm các chùa bị đập phá"... Thế rồi, các sinh viên đồng thanh la lớn "Nous sommes dépour-vus du tous". Và, trong cảnh huyên náo của một phong trào sinh viên với nhiệt khí tràn đầy huyết quản, Ủy ban chỉ đạo Sinh viên Liên Khoa ra đời với 18 nam 1 nữ. Trong đó có đầy đủ thành phần đại diện cho mọi phân khoa. (...) Riêng anh Tô lai Chánh, Chủ tịch Sinh viên Luật Khoa là người có công nhiều nhất trong phong trào vận động Sinh viên Liên hiệp chống chính phủ độc tài Nhu - Diệm. Ngay từ khi mới bước chân vào đời sống sinh viên, Tô lai Chánh đã từng trăn trối, đau xót trước cảnh Tổng hội Sinh viên Việt Nam bị gạt ra ngoài tổ chức Comité de contrôle, một tổ chức quyền hành và nằm trên cấp bực cao nhất của Tổng hội Sinh viên thế giới. Còn gì điếm nhục cho xứ sở bằng Tổng hội Sinh viên Việt Nam bị đuổi ra khỏi tổ chức Sinh viên của các nước tự do (C.I.E)? Nguyên nhân chỉ vì trong lần đại hội lần thứ 9 họp tại Klostus (Suisse), trong lúc sinh viên thế giới đang bàn đến việc tranh đấu cho lý tưởng cao đẹp của thế hệ thanh niên trí thức hiện tại như: Bác ái, công bình xã hội, tự do cho mọi người và nhất là đánh đổ chế độ độc tài, thu hồi nền độc lập cho các nước thuộc địa như Algérie chẳng hạn, thì phái đoàn đại biểu Sinh viên Việt Nam gồm một ông một bà do Ngô đình Nhu và Trần kim Tuyến chỉ định với sứ mạng kêu gào cho Sinh viên thế giới biết: "chế độ hiện hữu tại Việt Nam không phải là chế độ độc tài". Và, một ông một bà đại biểu này khi tới Klostus chẳng thèm bàn đến lý tưởng của Sinh viên mà chỉ nói tới chuyện chơi bời, ăn, nhảy, nên bị sinh viên thế giới tẩy chay. Tủi hổ cho sinh viên Việt Nam biết bao! Vậy mà Trần kim Tuyến còn hiến kế với Ngô đình Nhu: "Đối với Tổng hội Sinh viên Việt Nam, nếu không dẫn dắt được họ đi theo đường lối của ta thì nên bóp chết nó đi, trừ tiệt hậu hoạn". Thế rồi, mật vụ được tung vào hoạt động trong Tổng hội Sinh viên Việt Nam làm cho biết bao thanh niên trí thức ôm những hoài bão lớn lao bị bó tay. Tô lai Chánh cũng chung một số phận như vậy. Nhưng anh không khiếp sợ, không chạy trốn mà đưa đầu ra lăn xả vào hoạt động mong sao giành lại quyền chủ động cho sinh viên, độc lập cho tổng hội và cứu vãn thể diện sinh viên Việt Nam trên bình diện quốc tế. Tô lai Chánh, con người có một quan niệm tín ngưỡng phóng khoáng, anh có thể hiện tinh thần đoàn kết tôn giáo qua công việc làm của anh. Sinh trưởng trong một gia đình Phật giáo, Tô lai Chánh đã từng giữ chức Chủ tịch Sinh viên ; Ủy viên kiểm soát ban chấp hành Câu Lạc Bộ Phục Hưng rồi Chủ tịch Sinh viên Câu Lạc Bộ Phục Hưng. Câu Lạc Bộ Phục Hưng là trung tâm sinh hoạt của sinh viên Công giáo. Nơi này qui tụ nhiều tài năng non trẻ, nhiều đầu não cấp tiến chống chính phủ cổ điển, quan liêu và lạc hậu Ngô đình Diệm. Nương vào tổ chức này, với sự đỡ đầu gần như bất khả xâm phạm của các Linh mục đầy uy tín, Tô lai Chánh đã liên hiệp các Sinh viên có nhiều tâm huyết, chống lại một tổng hội sinh viên đang biến hình thành một công cụ của gia đình họ Ngô. Lần đầu tiên trong lịch sử sinh viên Công giáo và cũng là lần đầu tiên trong lịch sử Câu Lạc Bộ Phục Hưng, một sinh viên không Công giáo nắm giữ một tổ chức thuần túy Công giáo. Nhờ vậy, Tô lai Chánh đã ngang nhiên hoạt động chống Tổng hội Sinh viên bù nhìn tức là gián tiếp chống chính quyền Ngô đình Diệm trong suốt hai năm gần đây. Khi thấy chính phủ Diệm đánh phá các chùa, noi gương Giáo sư Vũ văn Mẫu. Tô lai Chánh đã cạo đầu rồi tích cực vận động để Ủy ban Chỉ đạo Sinh viên Liên khoa chóng được thành lập. Cũng trong chiều ngày 23.8.1963, tại trường Đại học Y khoa, Tô lai Chánh cùng với 18 sinh viên đại diện cho các phân khoa soạn thảo bản tuyên ngôn chung của học sinh sinh viên để đọc vào ngày sáng hôm sau tại trường Luật; đồng thời cũng lập một bản kiến nghị gởi lên Tổng thống Ngô đình Diệm đòi hỏi chính phủ phải phóng thích Tăng, Ni, Phật tử, Giáo sư, Sinh viên... và giải tỏa các chùa trên toàn quốc. Ủy ban chỉ đạo Sinh viên Liên khoa hoạt động dưới danh nghĩa chống bạo quyền, chống chế độ độc tài gia đình trị đã được hầu hết các giáo sư và toàn thể sinh viên nhiệt liệt ủng hộ. Bởi vậy, chỉ trong một thời gian ngắn. Ủy ban này đã có đầy đủ sức mạnh làm rung chuyển cả hệ thống học đường và tạo được uy tín lớn lao đối với quốc tế, đánh dấu một giai đoạn lịch sử hào hùng của sinh viên đối với dân tộc. Phong trào bãi khóa của sinh viên như một vết dầu loang xuất phát từ Trung tâm Kỹ thuật Phú thọ, qua trường Y, trường Luật, trường Dược, trường Khoa học, trường Mỹ thuật v.v...rồi, lan tràn khắp các phân khoa và các trường trung học. Sáng ngày 24.8.1963, sinh viên Liên khoa và học sinh đô thành vào khoảng trên 3000 người tập trung tại trường Luật để đón tiếp Giáo sư Vũ văn Mẫu vừa cạo đầu từ chức Bộ trưởng Ngoại giao và dự định qua Ấn Độ viếng thăm các thắng tích Phật giáo. Trong buổi họp sáng này, một số sinh viên đã lên chất vấn ông Khoa trưởng Luật khoa Vũ quốc Thúc, đòi hỏi ông này phải có lập trường rõ rệt, đồng thời sinh viên cũng chỉ trích thái độ thiếu chính đáng của nhà trường đã đe dọa cảnh cáo các sinh viên đứng đầu trong việc bãi khóa. Cũng trong buổi sáng ngày hôm đó, Giáo sư Nguyễn văn Bông được sinh viên hoan hô nhiệt liệt, vì ông, trước hơn ai hết tại trường Luật đã hòa mình trong hàng ngũ sinh viên chống chế độ độc tài hiện hữu. Nhưng khi chiếc đầu nhẵn bóng của ông Vũ văn Mẫu hiện ra giữa cổng trường, thì một làn sóng người cuồng nhiệt ào lên, tiếng hoan hô xen lẫn tiếng vỗ tay vang dội. Sinh viên nhảy múa, reo hò; chào mừng Giáo sư Vũ văn Mẫu như mừng một viên đại tướng vừa ca khúc khải hoàn. Sau đó, một bảng tuyên ngôn được đọc lên, xác định ý chí của sinh viên học sinh, quyết tâm chống đối đàn áp, chống độc tài vô nhân đạo." (6) Như trên, đó là vài trang trong quyển sách dày trên 500 trang với chữ nhỏ rí, ra đời rất sớm vào năm 1964 sau khi chế độ ông Ngô Đình Diệm vừa sụp đổ. Chỉ một ngạch đoàn thể học đường như vậy, mọi người đều thấy rằng, chế độ ông Ngô Đình Diệm đã không những mất lòng tin mà nó còn gây phẫn nộ, bất bình cho hầu hết mọi giới (mà nhất là quân đội...!) dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa chứ không riêng chỉ Phật giáo. Với phong trào sinh viên học sinh, bằng một "Ủy ban chỉ đạo Liên Khoa" như vậy, những người nói họ nghe thì phải là những Giáo sư! Môi trường học đường, Giáo sư, giới trí thức, sinh viên học sinh mà như thế, tất nó lôi cuốn hết mọi thành phần khác trong cộng đồng xã hội lúc bấy giờ vào chung "một lối". Đến nước đó thì ông Ngô Đình Diệm có là vị "đại anh hùng dân tộc" theo kiểu nào đấy như hiện nay có người tôn xưng lên tận cổng thiên đàng thì cũng đành phải xếp giáp bó tay. Trân trọng, Trần Quang Diệu --------------------------- 1) Quốc Tuệ - Vũ Ngự Chiêu "Công cuộc tranh đấu của Phật Giáo Việt Nam, in lần thứ nhất 1964 tại Sài gòn. In lần thứ hai tại Pháp 1987, trang 49, 50. 2) Có mấy tay, cho đến giờ này (2011) còn hạch xách bảo ngưới khác phải chứng minh văn bản Dụ số 10, thì xem ra họ đã thóa mạ vào Ủy ban Liên bộ của chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa không biết gì về Dụ số 10 này? 3) Trợ giúp những gia đình của các nạn nhân bị giết trước cửa đài phát thanh Thừa Thiên - Huế. 4) Ngọn lửa nầy mà không đâu đó rõ ràng thì nhà Ngô đã buộc tội PG ngay lúc còn mấy tháng cầm quyền chứ không đợi tới ngoài 40 năm sau những kẻ "hoài Ngô" làm trò vu khống để chạy tội được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu về một chế độ bạo tàn. 5) Sđd, tr 51. 6) Sđd, từ trang 412 đến 420.
Von: "Gop gio" <gopgionews@yahoo.com> Gesendet: 06.11.2011 01:57:09 Betreff: [ChinhNghiaViet] Đôi hàng về ông Cao Xuân Vỹ. Đôi hàng về ông Cao Xuân Vỹ. Sự kiện không có gì ngạc nhiên khi ông Minh Võ phỏng vấn ông Cao Xuân Vỹ. Cả hai ông đều là phần tử hoài Ngô, dĩ nhiên là tìm cách “chạy tội” cho ông Diệm. Lấy lý do rằng vì Phật giáo đòi hỏi quá đáng nên không chấp thuận được là nói láo. Bằng chứng ngày 16-6-1963 Ủy Ban Liên Phái hai bên đã đạt xong thoả thuận tạm ngưng thi hành Dụ số 10. Ngày 19-6-1963 Quốc hội họp xét Dụ số 10. Nhưng rồi im luôn… không đưa ra kết quả nào. Lý do vợ chồng Nhu chống đối Thông Cáo Chung. Và đêm 20-8-1963 Diệm ra lịnh cho LLĐB tổng tấn công càn quét toàn thể các chùa Phật giáo trên toàn quốc bắt đi hàng ngàn tăng, ni. Hành động này khiến LHQ phẫn nộ, cử phái đoàn đến Sài Gòn điều tra. Có thể nói, đây là giọt nước làm tràn ly, khiến các Tướng Lãnh quyết tâm đoàn kết lật đổ một chế độ tàn ác phi nhân. Xin hỏi ông Cao Xuân Vỹ : Có phải vào chiều tối ngày 1-11-1963 ông đã “thừa lệnh” của tướng Trần Thiện Khiêm lái chiếc traction 2 CV vào cỗng sau Dinh Gia Long để đón hai ông Diệm-Nhu đưa vào nhà Hoa kiều Mã Tuyên ở Chợ Lớn hay không ? Có những dấu hiệu cho thấy tướng Khiêm đã ra lịnh cho Đại tá Nguyễn Văn Thiệu “bỏ ngỏ” không tấn công Dinh Gia Long vào buổi chiều 1-11-1963. Bởi vì Hội Đồng Tướng Lãnh đã đồng ý bắt sống cả 2 ông. Tướng Khiêm trong cương vị Tham Mưu Trưởng Liên Quân điều động toàn bộ cuộc hành quân đã nhận chỉ thị này. Nếu thi hành đúng kế hoạch tấn công Dinh Gia Long cùng lúc với tấn công Thành Cộng Hoà thì bắt buộc phải bắt sống 2 ông Diệm-Nhu ? Nhưng vì ông Khiêm đã được Đại tá Conein bàn thảo phải “giết” cả 2 ông Diệm-Nhu. Nếu thi hành đúng kế hoạch thì làm sao có cơ hội để giết ? Do đó, Tướng Khiêm ra lịnh cho Đại tá Thiệu bỏ ngỏ Dinh Gia Long. (Không có toán quân nào được lịnh tấn công Dinh Gia Long chiều ngày 1-11-19630. Ông Vỹ được lịnh ông Khiêm vào Dinh Gia Long bằng lối sau đưa 2 ông Diệm-Nhu tới nhà Mã Tuyên. Sau đó ông Vỹ quay về báo cáo với Tướng Khiêm. Theo sách Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi của Đỗ Mậu còn cho biết, khi nghe 2 ông Diệm-Nhu đã tới nhà Mã Tuyên, Tướng Khiêm liền sai Đại tá Phạm Ngọc Thảo đưa một toán quân tới nhà Mã Tuyên bắt Diệm-Nhu. Nhưng lúc đó 2 ông Diệm-Nhu đã vào nhà thờ cha Tam ! Đại tá Thảo đành quay trở về không. Bị hụt hẫng, Tướng Khiêm liền vạch ra kế hoạch dùng xe M113 đón 2 ông Diệm-Nhu để giết như đã xảy ra ! Xin lưu ý : Theo Đỗ Thọ, vào buổi tối ngày 1-11-1963, tùy viên Đại úy Lê Công Hoàn đã điện thoại báo cho Tướng Khiêm biết 2 ông Diệm-Nhu đã rời Dinh Gia Long rồi, nhưng Tướng Khiêm đã “giữ kín” không thông báo cho HĐTL hay cho tới sáng 2-11-1963 chính ông Diệm gọi báo cho HĐTL ! Đây rõ ràng là một bằng chứng không chối cãi là Tướng Khiêm đã có kế hoạch giết 2 ông Diệm-Nhu. Mấy năm trước đây, một độc giả của Góp Gió là Bác sĩ HVĐ, là một bạn rất thân của tướng Trần Thiện Khiêm, khi đọc những bài viết của chúng tôi nói tướng Khiêm là người chủ mưu giết ông Diệm. Bác sĩ HVĐ đã điện thoại hỏi tướng Khiêm, và tướng Khiêm đã xác nhận là đúng : “Người Mỹ đã muốn giết. Không giết sẽ gặp hậu hoạ.” Bác sĩ HVĐ là bạn với tướng Khiêm khi ông Diệm mới lên làm Tổng thống. Lúc đó ông Khiêm là Đại úy, còn Bác sĩ HVĐ là Trung úy Y-sĩ cùng đơn vị. Bác sĩ HVĐ khen ông Khiêm là người rất đàng hoàng, thẳng thắn. Khi Bác sĩ HVĐ nhận được hồ sơ xin gia nhập “Đảng Cần Lao”, ông có hỏi ý kiến ông Khiêm. Ông Khiêm nói : “Moa là sĩ quan tác chiến, nếu muốn cầm quân chỉ huy và thăng cấp thì phải gia nhập Đảng CL. Còn toa là bác sĩ, sau này giải ngũ cũng vẫn là bác sĩ. Vậy xin vô làm chi ?” Trở lại vụ ông Cao Xuân Vỹ. Qua những diễn tiến vừa kể, chúng tôi tin rằng ông Cao Xuân Vỹ đã có quan hệ mật thiết với Tướng Trần Thiện Khiêm, và ông ta đã hợp tác với tướng Khiêm trong cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963. Khoảng 8, 9 năm về trước, tôi có nói chuyện với GS Cao Thế Dung chuyện ông Vỹ hợp tác với Tướng Khiêm làm đảo chảnh 1-11-1963. GS Dung không tin, Ông hứa sẽ hỏi lại ông Vỹ. Nhưng rồi ông im luôn ! Quý vị hoài Ngô đã lầm ông Cao Xuân Vỹ. GÓP GIÓ 6-11-2011
From: PHS-Gmail <phamhungson@gmail.com> Date: 2011/11/4 Subject: ÔNG CAO XUÂN VĨ KỂ VIỆC NGÔ ĐÌNH NHU BÍ MẬT GẶP ÔNG PHẠM HÙNG Ở KHU RỪNG TÁNH LINH-BÌNH TUYTo: ÔNG CAO XUÂN VĨ KỂ VIỆC NGÔ ĐÌNH NHU BÍ MẬT GẶP ÔNG PHẠM HÙNG Ở KHU RỪNG TÁNH LINH-BÌNH TUY Như đã hứa, ( 1) ông Cao Xuân Vỹ, sau ba lần vào cấp cứu và điều trị tại bệnh viện, đã vui lòng dành cho chúng tôi một cuộc phỏng vấn để cống hiến bạn đọc một số hồi ức và kỷ niệm của ông trong thời gian đi theo Việt Minh kháng chiến rồi về hợp tác với chính phủ Ngô Đình Diệm với tư cách là người phụ tá thân cận của ông Ngô Đình Nhu, bào đệ và là cố vấn chính trị của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. 1. Hỏi: Thưa ông, nghe nói ông cùng quê Nghệ An với ông Hồ Chí Minh? Đáp: Phải. Tôi người làng Thịnh Mỹ, phủ Diễn Châu ở về phía biển, còn ông Hồ ở xã Kim Liên huyện Nam Đàn về phía núi. 2. Hỏi: Ông có thể cho biết gia đình ông có liên hệ gì với gia đình ông Hồ không? Đáp: Tôi được biết ông cố tôi là cụ Cao Xuân Dục, thượng thư bộ học thuộc triều đình Huế có giúp đỡ thân phụ ông Hồ là Nguyễn Sinh Sắc về tài chính và khuyến khích, giúp đỡ ông ấy nhiều trong việc học hành để có thể đi thi và đậu phó bảng. Một phần vì ông Nguyễn Sinh Sắc là bạn học với ông nội tôi là Cao Xuân Tiếu. Đây là hình căn nhà ông nội tôi cho ông cử Sắc. (Ông Vỹ đưa xem hình căn nhà.) 3. Hỏi: Có tài liệu của phía Cộng Sản, như của Sơn Tùng và Nguyễn Đắc Xuân nói, khi thấy ông Nguyễn Sinh Sắc thi hỏng khoa Ất Mùi, (năm 1895), ông Cao Xuân Dục đã giúp cho ông Nguyễn Sinh Sắc được vào Huế, để có phương tiện và đủ sách vở hầu tiếp tục việc học và có thể thành đạt. Điều này có đúng không? Đáp: Đúng. Ông cố tôi còn can thiệp để cho ông Nguyễn Sinh Sắc, dù không phải là con quan cũng được vào học ở Quốc Tử Giám. Đến khoa thi năm Tân Sửu (1901) chánh chủ khảo Cao Xuân Dục thấy khóa sinh Sắc không trúng tuyển đã cho lệnh xét lại bài thi của 4 thí sinh để rồi xin vua Thành Thái cho ông ta đậu phó bảng. Khóa ấy có 9 tiến sĩ, 13 phó bảng. Ông Sắc đậu phó bảng thứ 11. 4. Hỏi: Hồi còn nhỏ ông có biết về hoạt động của Cộng sản ở quê nhà và có chứng kiến các cuộc nổi dậy của Cộng Sản thường được gọi là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh không? Đáp: Có. Phong trào này mạnh nhất ở hai huyện Nam Đàn và Thanh Chương. Nhiều người bị chết oan. Cộng Sản đã giết hai tri phủ. Vì thế phản ứng của chính quyền bảo hộ cũng rất quyết liệt. Pháp đem bom thả cũng giết nhiều người, trong số ấy có cả Cộng Sản lẫn thường dân. Cha tôi có kể lại rằng để đối phó với phong trào này, ông Nguyễn Hữu Bài, thượng thư bộ Lại của Triều Đình Huế, (tương đương với chức thủ tướng thời nay), đã cho áp dụng một kế hoạch chiêu dụ Cộng Sản khá thành công. Lúc ấy ông cố tôi cùng ở trong nội các Nguyễn Hữu Bài. 5. Hỏi: Khi Việt Minh cướp chính quyền ông ở đâu? và có ủng hộ họ không? Đáp: Lúc ấy tôi đang học ở Hà Nội. Tôi nhớ là mấy tháng trước khi Việt Minh cướp chính quyền, thanh niên sinh viên Hà Nội chúng tôi rất hăng hái ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim, vì là chính phủ của Việt Nam độc lập đầu tiên, dù phải nhờ có người Nhật lật đổ người Pháp. Nhưng chúng tôi rất phấn khởi và đã ủng hộ hết mình. Tiếc rằng bỗng nhiên chính phủ này từ chức ngày 7 tháng 8 (1945). Thật khó hiểu. Tuy từ chức nhưng chính phủ Trần Trọng Kim vẫn xử lý theo lệnh nhà vua. Khi mà Việt Minh tới trám vào chỗ trống chính trị này thì chúng tôi đã đi theo Việt Minh. Chúng tôi không biết Việt Minh là Cộng Sản. Thực ra lúc ấy chả mấy người biết Việt Minh là Cộng Sản. 6. Hỏi: Ông có gặp ông Hồ bao giờ không? Đáp: Có. Hồi ấy tôi ở trong phong trào thanh niên sinh viên tranh đấu. Chúng tôi được hai ông Hoàng Minh Giám và Phan Mỹ giới thiệu để gặp ông Hồ ở Bắc Bộ Phủ. Lúc ấy ông ấy có cái vẻ bề ngoài rất ân cần và dễ mến. Về sau tôi mới hiểu tại sao ông ấy đã chiêu dụ được nhiều người đi theo ủng hộ Việt Minh. Cho đến giờ này tôi vẫn nghĩ ông ta thật là thông minh và xảo quyệt. Lại được tay Võ Nguyên Giáp cũng rất thông minh trợ tá đắc lực. Tôi học với Võ Nguyễn Giáp 4 năm, Tôi biết ông ta rất rõ. Ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã tỏ ra sắc sảo và quả đoán… Rất “độc tài”. Nhưng dầu sao Võ Nguyên Giáp không thể sánh được với Ngô Đình Nhu. Còn Phạm Văn Đồng thì không đáng là học trò Ngô Đình Nhu. 7. Hỏi: Rồi tại sao ông lại bỏ Việt Minh? Đáp: Vì chúng tôi kết án ông Hồ đã ký thỏa ước mồng 6 tháng 3, nhượng bộ Pháp quá nhiều. Hơn nữa họ đã hãm hại nhiều người yêu nước bất đồng chính kiến. Chúng tôi chạy sang phía Việt Cách của các ông Nguyễn Hải Thần và Nghiêm Kế Tổ… 8. Hỏi: Khi nào thì các ông rời Hà Nội? Đáp: Liền khi cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ ngày 19-12-46. Lúc ấy ông Hồ và đại bộ phận Việt Minh chạy lên Việt Bắc kháng chiến. Thì chúng tôi gồm 36 nhà trí thức và thanh niên sinh viên tranh đấu chạy vào khu Tư, gồm Thanh Nghê Tĩnh, để cùng với một số Việt Minh ôn hòa lập một phòng tuyến mới phi Cộng Sản chống thực dân và giúp dân mở mang về kinh tế và văn hóa. Có thể nói Liên Khu Tư lúc ấy như là một khu tự trị. 9. Hỏi: Ông có thể cho biết tên một số trong 36 nhà trí thức mà ông bảo đã rời Hà Nội vào Liên Khu Tư sau kháng chiến bùng nổ không? Đáp: Tôi còn nhớ chẳng hạn có Luật Sư Trần Chánh Thành, các ông Trần Hữu Dương, Hồ Đắc Điềm, Phạm Thành Vinh, sau này trở thành rể của ông Hồ Đắc Điềm, ông Nguyễn Duy Quang, người của ông Bảo Đại, ông Phan Huy Xương, anh của bác sĩ Phan Huy Đán tức Phan Quang Đán, ông Tôn Thất Trạch v.v… Các ông này về sau đã hợp tác với thủ tướng Ngô Đình Diệm. Ông Trần Chánh Thành từng là bộ trưởng phủ thủ tướng, với ông Tôn Thất Trạch là đổng lý văn phòng. Ngoài ra, về phía thường dân tôi nhớ còn có bà Hòa Tường là một thương gia giầu có ở phố Hàng Đào cũng đi theo. Tôi xin nói thêm ông biết điều này, là những vị này và tôi hồi đầu theo Việt Minh. Nhưng tất cả đều không phải Cộng Sản. Và ngay từ 1930 thì đã có hai phe cùng chống Pháp một bên là Đảng Cộng Sản, lúc ấy chưa có Việt Minh. Một bên là các nhân vật và tổ chức quốc gia phi Cộng Sản trong đó ngoài những người như ông Ngô Đình Diệm đã bắt đầu hoạt động từ đó, còn có các chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng, mà đảng trưởng là Nguyễn Thái Học và 13 đồng chí đã bị Pháp xử bắn. 10. Hỏi: Khi nào ông rời Liên Khu Tư vào Sài Gòn và gặp ông Ngô Đình Nhu? Đáp: Chúng tôi rời Liên Khu Tư ra Hà Nội. Chứ chưa vào Sài Gòn. Lúc ấy là vào khoảng đầu năm 1953. Ông Hồ Chí Minh theo lệnh Stalin và Mao Trạch Đông khỉ sự chuẩn bị mở chiến dịch Giảm Tô và cải cách ruộng đất. Có người thân trong Việt Minh cho chúng tôi biết. Nên tìm đường chạy trước. Về sau trong họ tôi có nhiều người có chút tư điền bị đem ra đấu tố. Chị ruột tôi cũng bị giết. Tôi “dinh Tề” qua ngả Phúc Nhạc, Phát Diệm là khu an toàn tự trị dưới quyền trông coi của giám mục Lê Hữu Từ. Khó khăn lắm mới tới được Hà Nội. Hà Nội lúc ấy đang sống an bình dưới chính quyền Bảo Đại. Tôi đi thoát được là nhờ có người chú họ ở trong tổ chức Việt Minh cấp cho một giấy thông hành. Ở Hà Nội tôi gặp lại các ông Đặng Văn Sung, Phan Huy Quát từng hoạt động chung với chúng tôi thời 1945. Trong thời gian còn ở Liên Khu Tư chúng tôi nghe biết cán bộ Cộng Sản trong tổ chức Việt Minh chịu ảnh hưởng rất lớn bởi cán bộ Trung Cộng. Sau khi Mao Trạch Đông chiếm trọn lục địa vào cuối năm 1949, ông ta đã bắt Hồ Chí Minh gửi một số lớn cán bộ Việt Cộng sang Tầu để tẩy não, cải tạo tư tưởng, bắt học tập chủ nghĩa Mao-ít. Vì cái chủ nghĩa này mà các chiến dịch giảm tô và cải cách ruộng đất đã đẫm máu với những vụ con tố cha, vợ tố chồng và nông dân tàn sát lẫn nhau thật rùng rợn. Làng tôi có ông hàn Lương biết mình sắp bị đưa ra đấu tố đã nhảy xuống giếng tự tử, vậy mà đội cải cách đã lôi xác ông lên để đấu cái thây ma. Chúng đánh nát bấy cái thây ấy. Tôi mong có người thâu thập những tin tức khắp nước về cuộc Cải Cách Ruộng Đất thời gian đó để cho mọi người biết Cộng Sản dã man chừng nào. 11. Hỏi: Khi nào thì ông gặp ông Ngô Đình Nhu? Đáp: Cuối năm 1953. Tôi vào Sài Gòn thì gặp lại ông Trần Chánh Thành. Ông Thành giới thiệu tôi với ông Nhu. Ông Thành vào Sài Gòn năm 1952 cùng một lượt với phần lớn trong số 36 nhà trí thức đã vào Liên Khu Tư để kháng chiến chống Pháp nhưng bất hợp tác với Việt Minh. Lúc gặp lại tôi thì ông Thành đang làm cho tờ báo Xã Hội của ông Nhu, đồng thời tập sự luật sư với Luật Sư Trương Đình Du... 12. Hỏi: Theo chỗ chúng tôi biết thì ông Ngô Đình Nhu từng có 5 nhiệm vụ quan trọng: một là dân biểu Quốc Hội, hai là Cố Vấn Chính Trị của Tổng Thống, ba là thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, bốn là Tổng Bí Thư đảng Cần Lao Nhân Vị, và sau hết vào năm cuối cùng ông còn là chủ tịch ủy ban liên bộ về Ấp Chiến Lược. Vậy ông ấy có một lực lượng nhân sự nào đáng kể để giúp thi hành chừng ấy nhiệm vụ không? Ví dụ ông ấy có mấy văn phòng? Có bao nhiêu nhân viên được ăn lương? Đáp: Ông ấy chỉ có một mình thiếu tá Phạm Thu Đường làm chánh văn phòng, thường được gọi là chánh văn phòng ông Cố Vấn. Và dưới quyền thiếu tá Đường chỉ có 5 nhân viên, hầu hết tự túc. Không có ngân khoản nào dành cho ông Cố Vấn. Và phải nói thực khó hiểu là chính chức Cố Vấn này cũng chẳng được một văn kiện nào bổ nhiệm hay quy định nhiệm vụ. Thực tế ông Nhu chỉ giúp việc cho riêng ông Diệm với tư cách là phụ tá cho Tổng Thống. Người ta thấy việc ông làm thì gọi ông là Cố Vấn vậy thôi. Vì thế ông không có quyền hạn và nhiệm vụ gì chính thức. Còn về thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, thì ông chỉ thị cho chúng tôi, phải tự túc. Mọi đoàn viên đều tự nguyện và tự túc theo tinh thần cách mạng. Cho nên cũng chẳng có quyền lợi gì. Về văn phòng dân biểu, ông cũng không có. Thực ra ông ấy rất ít đi họp Quốc Hội. Chỉ khi nào có vấn đề chính sách quan trọng như Ấp Chiến Lược chẳng hạn, hay vấn đề “Giáo Dục nhân bản”, vấn đề “kinh tế tư hữu cơ bản” v.v.. thì ông mới tới trình bày mà thôi. Cho nên mọi thứ một mình ông cáng đáng. Tôi thật phục sức làm việc của ông Nhu. 13. Hỏi: Thế còn chức chủ tịch ủy ban liên bộ về Ấp Chiến Lược thì sao? Có văn thư nào quy định không? Đáp: Chức này thì có. Nhưng cũng chỉ là một thông tư của phủ Tổng Thống gửi đến các bộ, để việc ông chủ tọa các phiên họp Ủy Ban Liên Bộ được danh chính ngôn thuận. Ông Nhu quan niệm chương trình Ấp Chiến Lược là một cuộc cách mạng xã hội và chính trị, chứ không phải chỉ là một chiến lược để đối phó với sự xâm nhập và khủng bố của Cộng Sản mà thôi. Ông thúc đẩy các tỉnh trưởng khai hóa người dân quê theo tinh thần tam túc, nghĩa là tự túc về tư tưởng, tự túc về tổ chức và tự túc về kỹ thuật, để có thể làm chủ cuộc đời mình, làm chủ được xã hội, không bị lệ thuộc vào bên ngoài, vào ngoại bang. Ông để rất nhiều thì giờ đích thân soạn những bài thuyết trình có tính lý luận cao dành cho các cấp lãnh đạo chính phủ và cán bộ cao cấp, chỉ cho họ cách thức đưa những tư tưởng cao vào đầu óc thường dân qua những hình ảnh và ngôn ngữ bình dân dễ hiểu. Mục đích của ông là tiến dần tới một xã hội có tổ chức cao, có đầy đủ các phương tiện truyền thông, giao tế, kinh tế, văn hóa cao trong đó mỗi con người, “mỗi nhân vị”, đều được quan tâm đồng đều, chứ không biến con người thành những “cái đinh, con ốc” trong một guồng máy xã hội theo kiểu Cộng Sản. Ông tin tưởng rằng phương pháp đó về lâu về dài sẽ làm cho CS phải đầu hàng. Chứ không phải chỉ dựa vào những hàng rào giây kẽm gai. Dĩ nhiên ban đầu thì việc rào ấp là cần thiết để giữ cho Ấp Chiến Lược được an toàn trước sự phá hoại và tấn công của du kích CS. Quốc sách Ấp Chiến Lược mà thành công thì Cộng Sản sẽ thành cá bị tát ra khỏi ao, nằm trên đất. 14. Hỏi: Về đảng Cần Lao Nhân Vị, nó thành hình ra sao, và ai là những đồng chí cốt cán nhất của ông Nhu? Đáp: Hai người cùng với ông Nhu sáng lập ra đảng Cần Lao Nhân Vị là các ông Trần Quốc Bửu và Huỳnh Hữu Nghĩa. Nhưng ban đầu các ông không gọi tên đảng là Cần Lao mà gọi là đảng Công Nông. Nhưng vì không muốn gợi ý về cái liên minh công nông của Cộng Sản, nên về sau các ông đổi ra là Cần Lao. Còn vế Nhân Vị thì sau nữa mới thêm vào theo đề nghị của ông Nhu. Ông Bửu, chủ tịch Liên Đoàn Lao Công có kinh nghiệm về đấu tranh nghiệp đoàn, đã quen ông Nhu khi còn ở bên Pháp. Và ông Huỳnh Hữu Nghĩa một tín đồ Cao Đài, là cố vấn chính trị của tướng Trình Minh Thế. Ông Nghĩa đã giúp ông Nhu chinh phục được tướng Thế, chứ không phải như có người Mỹ cho rằng ông Nhu có được ông Thế là nhờ đại tá Edward Lansdale. Ông Lansdale có can thiệp để quân của tướng Thế được hợp thức hóa và trả lương như Quân Đội Quốc Gia thì đúng. Người nào bảo Lansdale dùng tiền mua Tướng Thế là cố tình xuyên tạc để hạ uy tín của một vị tướng kiên cường anh dũng, thanh liêm mà anh em ông Diệm rất quý trọng. Khi nghe tin tướng Thế tử trận Tổng Thống Diệm đã ngất xỉu. Điều này tướng Lansdale có ghi trong hồi ký. Văn phòng Tổng Bí Thư đảng Cần Lao cũng do một mình Thiếu Tá Phạm Thu Đường quán xuyến, kiêm nhiệm. 15. Hỏi: Ông Ngô Đình Diệm có giữ vai trò gì trong đảng Cần Lao không? Đáp: Không. Ông ấy hoàn toàn ở ngoài và trên đảng Cần Lao. Với ông Diệm chỉ có Tổ Quốc và Quốc Dân. Tôi còn nhớ khoảng năm 1956, Tổng Thống gọi tôi vào bảo tôi lên cao nguyên đèo heo hút gió để quan sát nghiên cứu tìm ra những địa điểm thích hợp để lập các khu dinh điền, hòng đưa người kinh lên trấn giữ địa điểm mà ông bảo là vô cùng quan trọng về mặt chiến lước. Tôi thấy mình đi thì ông Nhu thiếu một trợ lý. Lại cũng hơi ngán cảnh cô đơn ở nơi xa lạ. Tôi bèn thưa với Tổng Thống: Công tác đoàn thể của ông Cố Vấn đang thiếu người. Tổng Thống nói: Đoàn thể gì. Dẹp. Tuy nhiên rồi ông cũng đấu dịu. Cứ đi đi. Thỉnh thoảng tôi sẽ lên với anh… Cũng cần thêm rằng ông Diệm rất quan tâm đến vùng cao nguyên. Ông thường nói: giữ được cao nguyên thì giữ được miền Nam. Và ông tìm cách đưa nhiều cán bộ và những người dân có kinh nghiệm với Cộng Sản lên đó lập nghiệp. 16. Hỏi: Ông nghĩ gì về việc chính phủ Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu dân ý truất phế ông Bảo Đại? Đáp: Nhiều người chê ông Diệm, là nhà Nho mà bất trung, không giữ lời thề trung thành với cựu hoàng. Nhưng tôi thấy không đúng. Trước hết chính cựu hoàng bảo ông Diệm chỉ thề trước Thánh Giá trung thành với Tổ Quốc. Thứ nữa, khi cựu hoàng triệu ông sang Pháp, ông Diệm đã sẵn sàng lên đường, dù biết sang đó sẽ mất chức thủ tướng. Nhưng chính nhóm liên khu Tư chúng tôi đã thuyết phục ông, gần như làm áp lực với ông, để ông bỏ ý định sang Cannes . Chúng tôi xúm vào yêu cầu ông ở lại lấy cớ tình hình không cho phép vắng mặt. Chúng tôi phải nói với thủ tướng rằng nếu Cụ bỏ chúng tôi lại mà đi một mình thì sinh mệnh chúng tôi ai sẽ lo? Chúng tôi đã bỏ tất cả vào đây là vì cụ, vì tin cụ sẽ bảo vệ phần đất tự do còn lại này, bảo vệ chúng tôi. Nay cụ nỡ lòng nào bỏ chúng tôi, bỏ đất nước này cho Thực dân, Cộng Sản? Rồi nhiều đoàn thể họp nhau lại đặt ông Diệm trước sự việc đã rồi là tự ý hạ bệ ông Bảo Đại. Cuộc trưng cầu dân ý của chính phủ Ngô Đình Diệm tổ chức sau đó chỉ là để hợp pháp hóa hành động của chúng tôi. 17. Hỏi: Có sử gia Mỹ bảo ngày 22 tháng 8 năm 1963, Thanh Niên Cộng Hòa đã tấn công chùa Xá Lợi cùng với Cảnh Sát và Lực Lượng Đặc Biệt. Điều này có đúng không? Đáp: Hoàn toàn bịa đặt. Tổ chức này không phải để dùng vào những việc như vậy. Nó là tổ chức phi vũ trang mà.
18. Hỏi: Sử gia Mark Mayor viết trong tác phẩm Triumph Forsaken rằng gần ngày đảo chính, tỉnh trưởng Định Tường báo cáo với ông Nhu rằng đại tá Có là phụ tá của tướng Đính rủ ông ta làm đảo chính. Ông Nhu hỏi lại tướng Đính, thì tướng Đính xin đi chém đầu Có. Ông có biết vụ này không? Đáp: Không cần tỉnh trưởng Định Tường báo cáo thì ông Nhu đã biết rồi. Nhưng ông muốn cứ để vậy để theo dõi.
19. Hỏi: Khi ông cùng ông Nhu đi gặp Phạm Hùng ở Bình Tuy, ông Nhu có cho ông biết hai người họ bàn chuyện gì không? Đáp: Lúc ấy thì không. Chỉ biết chúng tôi cùng đến Quận Tánh Linh ở đây có một vùng do Cộng quân kiểm soát. Ban đầu cứ tưởng đi săn cọp như mọi khi. Nhưng đến nơi ông Nhu bảo chúng tôi ở ngoài, còn ông đi về phía trước độ vài trăm mét. Có Phạm Hùng chờ ở đó. Sau này về nhà tôi cũng không tiện hỏi ông Nhu. Nhưng qua những gì ông tự ý nói ra vào một lúc nào đó thì, nội dung câu chuyện trên một tiếng đồng hồ, gồm nhiều điều cho đến nay vẫn chưa được tiết lộ. Có một điều mà phía họ rất quan ngại, nếu không bảo là sợ, rất sợ chương trình Ấp Chiến Lược. Họ yêu cầu cho biết ai là người chủ trương và mục đích để làm gì? Ông Nhu trả lời: đó chỉ là một chủ trương của chính phủ nhằm bảo vệ sinh mạng và tài sản của người dân, ngăn ngừa sự xâm nhập, phá phách của du kích các ông… Các ông bảo cán bộ đừng tìm cách đánh phá làng xã, thì chúng tôi sẽ bỏ luật 10/59. Cán bộ các ông có thể về sống với dân lành tại các ấp… Về các điều kiện để hiệp thương thì nhiều lần Tổng Thống Diệm đã nói, phải có 6 giai đoạn: - Bắt đầu bằng việc cho dân hai miền trao đổi thư tín tự do. - Rồi cho dân qua lại tự do - Thứ 3 là cho dân hai bên được tự do chọn đinh cư sang bên kia nếu muốn - Thứ 4 mới đến giai đoạn trao đổi kinh tế. Ví dụ miền Nam đổi gạo lấy than đá của miền Bắc chẳng hạn. - Qua được các giai đoạn đó rồi mới tiến tới hiệp thương. - Và sau cùng là tổng tuyển cử. Có lần ông Nhu tính với chúng tôi: Ông dự đoán rằng, nếu cho dân tự do chọn nơi định cư, thì căn cứ theo tình trạng về tự do dân chủ tồi tệ và kinh tế kiệt quệ của miền Bắc lúc ấy, sẽ có khoảng 3 triệu người dân sẽ dần dần vào định cư ở miền Nam. Vì vậy “mình” phải chuẩn bị đất cho dân. Ông cũng tính rằng hiện dân số miền Bắc có tới 23 triệu, trong khi dân số miền Nam chỉ có 17 triệu. Nếu có được 3 triệu dân Bắc vào định cư ở miền Nam thì dân số 2 bên sẽ cân bằng. Bầu cử tự do, với sự giám sát của Quốc Tế thì chắc mình sẽ thắng. 20. Hỏi: Lần ông tháp tùng ông Nhu đi dự lễ đăng quang của quốc vương Ma-rốc năm 1962, ông có cho biết là sau đó các ông đến Paris gặp ông Pinay, đại diện Tổng Thống Charles De Gaulle, bàn chuyện hiệp thương với ông Hồ. Lúc ấy có mặt giáo sư Bửu Hội không? Đáp: Dĩ nhiên là có. Vì Giáo sư Bửu Hội là đại sứ của VNCH ở Ma-rốc, và là bạn học với ông Nhu ở bên Pháp. Ông Bửu Hội lại từng là cố vấn cho Hồ Chí Minh. Nên trong việc này, có thể nói vai trò của ông Bửu Hội cũng quan trọng không kém ông Nhu. Ông Nhu và chúng tôi ở khách sạn Grillon cả tháng. Cuộc tiếp xúc xảy ra nhiều lần mà hầu như lần nào cũng có sự hiện diện của giáo sư Bửu Hội. Ông Nhu cho biết lúc ấy ông Hồ Chí Minh đã nhờ ông Jean Sainteny xin Tổng Thống De Gaulle giúp. Ông Hồ biết là ông De Gaulle đang có chủ trương trung lập Đông Dương, lại hận Mỹ đã “hất cẳng” Pháp. Ông Hồ nhờ Sainteny xin Tổng Thống De Gaulle can thiệp để tiếp xúc với Sài Gòn. Tổng Thống Pháp rất sốt sắng trong việc này. Sau chuyến đi này ít tháng thì xảy ra vụ ông Nhu “đi săn cọp” ở Tánh Linh. 21. Hỏi: Gần ngày đảo chính đại sứ Cabot Lodge có điện đàm với Tổng Thống Diệm. Lúc đó ông có ở bên cạnh Tổng Thống không? Đáp: Không. 22. Hỏi: Trong cuốn Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cựu đại tá Nguyễn Hữu Duệ viết rằng ông ta xin phép Tổng Thống đem xe tăng thiết giáp lên bộ tổng Tham Mưu để bắt các tướng và dẹp đảo chính. Nhưng Tổng Thống không cho. Ông có biết chuyện này không? Đáp: Lúc ấy tôi đang ở bên Tổng Thống Diệm và ông Nhu tại dinh Gia Long. Chính tôi nghe điện thoại của ông Duệ và trình lên Tổng Thống. Tổng Thống la tôi: Các anh muốn gì?Ở với tôi bấy lâu mà không hiểu ý tôi sao? Dân Nghệ An các anh chỉ thích làm loạn. Đem quân đội chống quân đội là cách bảo vệ tổ quốc hả? Tôi thưa: Nhưng người ta đánh mình thì mình phải đánh lại chứ Tổng Thống. Chẳng lẽ để phải chết sao? Ông quát lên: Chết thì đã sao. Đúng, đối với ông chết thì đã sao. Nhưng đối với chúng ta thì cái chết của ông là cái chết dần của miền Nam. Ông còn nói quân đội là để bảo vệ tổ quốc chứ không phải để bảo vệ cá nhân Tổng Thống. Ông bảo tôi liên lạc với ông Trương Vĩnh Lễ, chủ tịch Quốc Hội yêu cầu cho triệu tập Quốc Hội để ông ra từ chức trước Quốc Hội, hòng tránh cảnh đổ máu. Nhưng tôi gọi ông Lễ 4 lần không được. Lúc ấy không phải chỉ có Lữ Đoàn xin lên tấn công tổng hành dinh của nhóm đảo chính. Mà còn có cả một đại đội biệt kích thuộc Lực Lượng Đặc Biệt đi hành quân ở Tây Ninh vừa về đến Sài Gòn cũng báo cáo là lực lượng phòng vệ của các tướng đảo chính ở Tổng Tham Mưu rất yếu, đại đội biệt kích xin phối hợp với 2 tiểu đoàn của Lữ Đoàn Phòng Vệ phủ Tổng Thống để đột kích vào bắt hết các tướng đảo chính. Tướng Nguyễn Văn Phú, lúc ấy còn là Thiếu Tá đã tiếp xúc với tôi về việc này. Nhưng như vừa nói. Tổng Thống không chấp thuận. Viên đại úy đại đội trưởng Biệt Kích đề nghị cho lực lượng của Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống có xe bọc thép dẫn đầu tiến tới bao vây bộ Tổng Tham Mưu, còn đại đội của anh ta sẽ đột kích bọc hậu từ phía sân vận động vào bắt sống các tướng. Tôi rất buồn bực và lấy làm khó hiểu tại sao ông cụ lại không cho đánh. Ông Nhu ngồi cạnh đó cũng chẳng nói gì. 23. Hỏi: Theo ông trong số các tướng lãnh lúc ấy ai có khả năng nhất? Đáp: Tôi hầu như không tiếp xúc với các tướng. Ngay cả Phó Tổng Thống cũng vậy. Hầu như chẳng bao giờ gặp. Nhưng tôi có nghe ông Nhu nói ông Nguyễn Văn Thiệu, lúc ấy mang lon đại tá, là một tư lệnh (sư đoàn 5) giỏi nhất. Ông Nhu có nhận xét đó sau khi nghe ông Thiệu thuyết trình ở hội trường Suối Lồ Ồ. Còn các tướng thì rất sợ Tổng Thống Diệm mỗi khi phải thuyết trình cho ông về tình hình an ninh. Bởi vì ông nắm vững tình hình và nhất là địa hình địa vật… địa lý của từng vùng. Kiến thức về quân sự của ông cũng rất uyên bác. Tôi được biết, khi mới về nước làm thủ tướng, ông đã yêu cầu tổng lãnh sự ở Hồng Kông mua cho ông tất cả tác phẩm của Mao Trạch Đông, Chu Đức, Lâm Bưu, Bành Đức Hoài để đọc và bắt ông Nhu phân tích nghiên cứu trình lên. 24. Hỏi: Nghe nói ông bà Nhu có một biệt thự đẹp lắm ở Đà Lạt. Ông có tới đó bao giờ không? Đáp: Ông nói đến cái biệt thự này, tôi lại nhớ tới cái ông luật sư Trương Phú Thứ ở Seattle . Ông ấy muốn tìm cách phỏng vấn bà Ngô Đình Nhu mà không sao được. Chẳng rõ tại sao ông ta biết nhà tôi, tìm đến xin tôi giới thiệu với bà Nhu. Tôi biết đã từ lâu bà ấy ẩn dật không muốn báo chí nhắc tới. Nhưng tôi biết bà ấy hãy còn quyến luyến ngôi nhà hai phòng ngủ của một người Pháp, bỏ hoang đã lâu mà anh em chúng tôi hùn tiền mua cho ông bà ấy vào khoảng năm 1960, mà hông đủ tiền sửa chữa, cho nên đến khi ông Nhu bị sát hại và bà Nhu sống lưu vong, cũng mới chỉ sửa được phân nửa. Tôi bảo ông Thứ hãy về Việt Nam, lên Đà Lạt chụp ảnh ngôi nhà ấy rồi mang theo sang Pháp, tìm cách đưa tấm hình đó tận tay bà Nhu thì may ra bà ấy cho gặp. Thì quả thật chắc ông đã biết, ông Thứ đã viết một bài cho tờ Văn Nghệ Tiền Phong nói về bà Nhu ở tuổi gần bát tuần sống như một nhà tu ở Paris. Tôi mong ông Thứ có dịp phổ biến tấm hình này để độc giả thấy cái “ngôi biệt thự xinh đẹp” của ông bà Nhu. 25. Hỏi: Thống tướng Maxwell Taylor, Đại sứ Frederick Nolting và nữ ký giả Marguerite Higgins đều nói được Tổng Thống Diệm tiếp hơn kém khoảng 5 giờ đồng hồ. Ông có biết điều đó và có ý kiến gì không? Đáp: Lúc ấy nhiều người nói tổng thống tiếp khách lâu quá. Tôi có trình ông, bảo người ta phê bình tổng thống độc thoại! Ông cười. Ông bảo: Người Mỹ họ ít hiểu về dân tôc mình về lịch sử của nước mình. Mình phải lợi dụng lúc họ chịu nghe để nói cho họ hiểu chứ. Mấy người này đều chăm chú nghe tôi và đặt nhiều câu hỏi. tôi phải trả lời cho họ chứ. 26. Hỏi: Gần ngày đảo chính Tổng Thống có mời ông bà Đại Sứ Mỹ lên Đà Lạt nghỉ tại biệt điện của Tổng Thống và dự dạ tiệc thân mật. Ông có biết họ thảo luận về việc gì không? Đáp: Tôi có biết và nhớ là Tổng Thống đề nghị chính phủ Mỹ thông cảm những khó khăn của miền Nam và đừng ép ông phải cải cách gấp rút. Ông cũng hứa sẽ xem xét những đề nghị của chính phủ Mỹ một cách nghiêm chỉnh. Nhưng cần phải có thời gian. Phía ông Lodge thì nằng nặc đòi Tổng Thống phải đưa ngay ông Nhu ra ngoại quốc. Nhưng dĩ nhiên không bao giờ Tổng Thống nhượng bộ điều này được. 27. Hỏi: Xin ông tha lỗi, ông là Phật tử chứ ạ? Và trong vụ Phật Giáo có ai nhờ ông làm trung gian để thương lượng giàn xếp giữa chính quyền và bên Phật Giáo đấu tranh không? Đáp: Phải, tôi là Phật tử đã quy y… – Ông vào phòng lấy ra một cuộn giấy mở cho tôi thấy tờ PHÁI QUY Y rồi nói tiếp – Tôi quy y với thầy Thích Minh Châu. Khi vụ Phật Giáo xảy ra tôi có ra Huế gặp thầy Thích Trí Thủ để nhờ thầy can thiệp với Thượng Tọa Thích Trí Quang… nhưng Hòa Thượng Trí Thủ nói bây giờ các thầy trẻ học thức nhiều, họ có đường lối riêng, các sư già chúng tôi nói họ không nghe. Nên không kết quả. Nhiều người khác cũng can thiệp nhiều ngả khác, cũng không hơn gì. Hồi ấy còn cả một ủy ban của chính phủ gồm nhiều Phật tử đứng đầu là phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ cố gắng dàn xếp. Nhưng bên Phật Giáo tranh đấu chỉ muốn lật đổ chính phủ thôi. Nên họ cố đưa ra những yêu sách không cách nào làm được. Tôi rất ân hận là không giúp gì được với tư cách là một Phật tử. 28. Hỏi: Theo ông thì ai cố ý giết hai ông? Đáp: Theo tôi thì người ra lệnh trực tiếp là tướng Dương Văn Minh. Còn ông Minh có nhận lệnh ở trên nào không thì không biết. Sở dĩ tôi dám quả quyết ông Minh, là vì chính ông Minh sai cận vệ của ông ta là đại úy Nguyễn Văn Nhung cùng đi với tướng Mai Hữu Xuân, để “thi hành nhiệm vụ”(!). Và Nhung đã leo lên xe bọc thép trong đó có hai anh em Tổng Thống. Nhung là một tay giết người không gớm tay, y còn khắc dấu vào cán dao găm mỗi lần giết được một người. Ngay tối mồng hai y còn khoe “con dao lịch sử” của y với con của tướng Đôn cơ mà. Đó là theo chính lời của tướng Đôn thuật lại trong Việt Nam Nhân Chứng. Còn tướng Xuân thì khi “đi đón ông cụ” về và ông cụ đã chết rồi, đã tới trước Dương Văn Minh giơ tay làm dấu, miệng nói: “Mission accomplie” (Nhiệm vụ hoàn thành). Cứ theo những lời trên của tướng Đôn, thì không nghi ngờ gì người chủ trương và ra lệnh giết hai ông là tướng Big Minh. 29. Hỏi: Thời gian quấy rầy ông đã quá dài. Nhất là trong lúc ông còn bịnh nhiều. Xin cám ơn ông đã mất công trả lời những câu hỏi của chúng tôi. Và nếu có thể được xin ông cho một cảm tưởng chung về Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu. Đáp: Tôi cũng xin cám ơn ông đã tốn công đi từ xa đến để cho tôi được có dịp nói lên vài điều trong số những gì mình còn nhớ được về thời gian dài phục vụ Đất Nước bên cạnh hai nhân vật lịch sử mà tôi hằng kính mến. Cứ mỗi lần nhớ đến hai cụ, tôi đều ngậm ngùi xót xa. Nhất là đối với cụ Diệm. Ông quá ngay thẳng, quá quân tử, quá rộng lượng, lúc nào cũng nghĩ tới làm cho dân được ấm no hơn. Vậy mà người ta nỡ hãm hại ông. Không phải chỉ có những ngày giỗ hai ông tôi mới khóc. Cụ Vỹ dằn cơn xúc động bắt tay tôi khi tôi từ biệt ra về... 1 Như đã trình bày trong bài “Ba giờ nghe một nhân chứng”. Minh Võ, San Diego
Các bài của tác giả Trần Quang Diệu
▪ Đôi hàng về ông Cao Xuân Vỹ - Trần Quang Diệu | ||
Trang Lịch Sử |