|
27-Mar-2012 |
Sự đổ lỗi Phật giáo làm mất miền Nam là một trò hề vô cùng
lố bịch của thời đại. Tiêu biểu cho những trò hề này, hung
hăng nhất, trơ trẽn nhất, ngang ngược nhất, lố lăng và lỗ
mãng nhất không ai khác hơn là đám dư đảng Cần Lao Thiên
Chúa giáo Vatican La mã mũi tẹt da vàng Vietnamese không
hơn không kém.
Nguyên nhân dẫn đến những sự đổ lỗi bất lương bất chánh này,
căn bản là do bởi phong trào tranh đấu của Phật giáo năm 1963
nhằm phản đối chế độ ông Ngô Đình Diệm đã cho thi hành một
chính sách bất công về quyền bình đẳng tôn giáo. Cụ thể nhất
mà những trang sử ngày nay vẫn còn lưu lại cho đời là việc
triệt hạ giáo kỳ Phật giáo trong mùa Phật Đản PL 2507 (1963),
tấn công chiến dịch nước lũ vào chùa chiền trên toàn cõi Nam
Việt Nam vào đêm 20.8.1963 mà anh em ông Ngô Đình Diệm đã thảo
luận, khẳng định rằng việc mấy ông ấy làm là “vì Chúa, vì Giáo
hội” (xem “Đảng Cần Lao” của Chu Bằng Lĩnh!).
Nhìn tổng quát hành tung anh em ông Ngô Đình Diệm đã cho thi
thố suốt thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1954 đến 1963
thì không thể phủ bác về những tính chất bao hàm các thứ độc
tài Gia đình trị, Thiên Chúa giáo trị và độc
đảng Cần Lao trị. Ai có thể chỉ ra, có một đảng phái chính trị nào khác với Đảng
Cần Lao đương thời lúc bấy giờ mà có thể có được trạng thái
bằng khung cảnh tự do để hoạt động trong mô thức tự
do đa nguyên đa đảng thì chỉ ra xem? Các đảng phái, các tôn giáo khác với
Đảng Cần Lao, khác với đạo Thiên Chúa Vatican La mã lúc bấy
giờ đều bị chế độ Ngô triều lên kế hoạch để sẽ lần lần triệt
tiêu. Những chính khách nào dám chỉ trích, phê bình, lên án,
hay âm mưu đảo chánh thì bị mạng lưới Công An Mật Vụ âm thầm
bắt cóc thủ tiêu vô cùng dã man, tàn bạo.
Danh từ đạo “Công
Giáo” áp đặt nhét vào miệng nhân dân miền Nam cũng là thời
kỳ này. Chứ ngay từ hồi Giáo sĩ Đắc Lộ giảng đạo bằng tiếng
Việt, chữ Việt thì ông ta cũng đâu đã dám ngạo mạn dùng hai
chữ “Công Giáo”! Phải chăng vì lẽ chính bản thân ông ấy có
lúc còn bị triều đình Việt Nam đuổi cổ thì làm sao dám “công”!?
Phật giáo thì bị lâm cảnh phong ba bão tố vô tiền khoáng hậu
đối với lịch sử như đã thoáng sơ qua. Cao Đài thì Đức Hộ Pháp
Phạm Công Tắc suýt chút bị táng mạng, nếu Ngài không thoát
thân được sớm để chạy lánh nạn sang Cao Miên. Lực lượng Hòa
Hảo thì tướng Ba Cụt Lê Quang Vinh bị gạt ra hợp tác, sáp nhập
quân đội vào với quân đội Quốc Gia rồi phục kích bắt cóc, đưa
ra tòa, chém đầu. Không cho gia đình nhận xác đem về mai táng.
Vậy mà ông Lâm Lễ Trinh (LLT), người nhận nhiệm vụ từ ông Diệm
làm Biện Lý buộc tội Lê Quang Vinh sau này nói chuyện gian
dối, vô trách nhiệm là “chỉ có trời đất biết”. Ông LLT thừa
sức biết tất cả mọi việc đều do mệnh lệnh anh em ông Diệm
(nhưng giấu giếm, đố dám nói thật?) chứ “trời đất” gì? Cho
nên có người đã phê phán ngay: Tư Pháp, Tòa Án, Hồ Sơ, Chánh
Án, Biện Lý, Công Tố, Bồi Thẩm Đoàn gì mà lại có thể ném
qua ý nghĩa để cho “trời đất biết” vậy hả? (xem Những
Bí Ẩn Lịch Sử Dưới Chế Độ Ngô Đình Diệm của Lê Trọng Văn).
Những tay dư đảng Cần Lao ngày nay, sau hàng mấy mươi năm ngậm
miệng, vụt ồn lên đổ lỗi Phật giáo, chửi rủa tướng lãnh đảo
chánh, điêu ngoa nỗ lực bào gọt, hy vọng cho trơn những lầm
lẫn vô tình hoặc cố ý mà chế độ ông Diệm đã gây ra cảnh thất
sách, tội ác lên nhân dân miền Nam. Nhưng đâu có được? Đâu
có đơn giản vậy?
Riêng Phật giáo, những tay ôm mộng chạy tội ảo bằng cách nói
rằng thời ông Diệm giúp xây chùa, nhiều trường Bồ Đề được thành
lập này nọ là che mắt được lịch sử về hành vi bất minh bất
chính mà anh em ông Diệm đã làm “vì Chúa, vì Giáo Hội”? Chạy
được tội trước tổ quốc, trước nhân dân đồng bào về việc ông
Tổng Thống Diệm tuyên bố đem dâng nước Việt Nam cho một người
đàn bà Do Thái “đồng trinh nhưng sinh được con.”
Nhưng, những điều dựng chuyện ba xạo đó (nói rằng ông Diệm
giúp xây chùa Vĩnh Nghiêm, Xá Lợi…) đã sớm bị bác bỏ bằng
những sự kiện không thể phủ bác qua bài "Ông
Ngô Đình Diệm Có Giúp Cho Phật Giáo Trong Việc Xây Cất Chùa
Chiền Không?" (http://sachhiem.net/LICHSU/TR/TQD08.php) cùng
tác giả. Đơn giản chỉ vì đó là những
sự thật mà thôi.
Nếu đám dư đảng Cần Lao viện lẽ dưới triều ông Diệm những chùa
nào đã được xây dựng để biện minh rằng ông Diệm “tốt” với Phật
giáo (việc này càng gợi ra thì càng hiện rõ sự trớ trêu
cay đắng)? Vậy thì, so với những chùa chiền, thậm chí thành
những quần thể khu du lịch cho khách thập phương dưới thời
CHXHCNVN hiện nay là điều khích lệ chứ không làm sao có thể
tố cáo họ đàn áp được?! Nói tới chuyện “giúp đỡ” chùa chiền
đối với những tay “thần dân của thành Rome” là làm tôi nhớ
đến bối cảnh bi lụy, khốn nạn cho quê hương, cho Phật giáo
Việt Nam về việc đám lính Gia Tô từ Bùi Chu Phát Diệm xuống
Hà Nội lén đặt mìn phá hủy công trình kiến trúc Phật giáo
có từ thời nhà Lý vào đêm 10.9.1954, đó là chùa Diên Hựu.
Còn gọi là Chùa Một Cột.
Bây giờ, chúng ta thử ôn lại đôi nét về những diễn biến trên
hoạn trường quan lộ, nhân sự và tình hình chính trị miền Nam
trước đây xem sao, việc những tay hoài Ngô muốn đổ lỗi cho
Phật giáo về việc mất miền Nam có hợp lý hay không.
Các tướng lãnh đảo chánh và những biến cố nghiêm trọng dưới
triều ông Diệm.
“Lần thứ nhất, Tướng Nguyễn Văn Hinh cuối năm 1954 bao vây
Dinh Độc Lập, chiếm đài phát thanh, chỉ hằng ngày cho phát
thanh chửi rủa gia đình họ Ngô nhưng không làm gì hơn nữa nên
người ta gọi “đó là cuộc đảo chánh rùa bò”.
Lần thứ hai, Tướng Nguyễn Văn Vỹ đảo chánh ngày 1-1-1955.
Lấn thứ ba, ông Hà Minh Trí (Cao Đài) ám sát hụt Tổng Thống
Diệm ngày 21-2-1957 tại Hội Chợ Buôn Mê Thuột.
Lần thứ tư, Nguyễn Chánh Thi và Vương Văn Đông trong cuộc
đảo chánh ngày 11-11-1960.
Lần thứ năm, hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử
lái chiến đấu cơ giội bom xuống Dinh Độc Lập sáng ngày 27-2-1962.
Lần thứ sáu, đảo chánh thành công bởi một tập đoàn tướng
lãnh hùng hậu nhất từ trước, bắt đầu từ chiều ngày 1-11-1963
đến sáng ngày 2-11-1963 thì kết thúc chế độ.” (Theo Trương
Thanh Tân trên trang www.trungdao.net).
SH phụ đính: Một vài hình ảnh trong giai đoạn Phật giáo bị đàn áp và chống đối năm 1963
cho đến lúc cách mạng thành công
Sinh viên trường Khoa Học và Sư Phạm biểu tình phản đối
chính phủ, và... bị bắt
Đoạn trích nêu trên, cho dù là của ai thì những sự kiện đó
vẫn là sự thật đã xảy ra vào khung thời gian 9 năm anh em ông
Ngô Đình Diệm cầm quyền. Trong sáu biến cố nghiêm trọng dẫn
trên, không có cái nào là do Phật giáo, do mấy ông thầy, mà
đó là do tướng lãnh, quân nhân, chí sĩ của miền Nam lúc bấy
giờ.
Tình hình sau năm 1963
Đảo chánh xong chế độ ông Ngô Đình Diệm ngày 2.11.1963, thì
đến ngày 30.1.1964 tướng Nguyễn Khánh đảo chánh lần nữa, gọi
là “chỉnh lý”. Bắt nhốt hết mấy ông tướng nòng cốt lúc móc
nối, đứng ra đảo chánh ông Diệm như Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim,
Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân và bắt luôn người cận vệ tướng
Dương Văn Minh (nhưng ông Minh không dám can thiệp, che chở)
là Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung (cho rằng là tay súng đã ám sát
ông Diệm ông Nhu). Sau đó Nguyễn Văn Nhung chết.
Chúng ta hãy thử theo dõi đoạn này của vị cựu Tổng Tham Mưu
Trưởng QLVNCH qua hai thời kỳ Đệ Nhất và cuối thời kỳ Đệ Nhị
VNCH, Trung Tướng Trần Văn Đôn mô tả trong Hồi Ký Việt Nam
Nhân Chứng của ông, do Nhà Xuất Bản Xuân Thu, năm 1989 tại
Hoa Kỳ, từ trang 367 đến 369 :
“Sau cuộc chỉnh lý, Nguyễn Khánh lên cầm quyền được các
giới chức Mỹ ủng hộ. Tổng Thống Johnson gởi một thơ viết tay
cho Nguyễn Khánh khen ngợi và hứa sẽ ủng hộ triệt để vì Nguyễn
Khánh là người đang lãnh đạo Việt Nam chống Cộng đắc lực. Khối
Thiên Chúa giáo coi ông như người của chế độ cũ ra chỉnh lý
để trả thù cho ông Diệm. Với Phật giáo thì ông Khánh cho nha
sĩ Châu là anh em bạn rể đến chùa Ấn Quang lân la phục vụ Thầy
Trí Quang. Trong quân đội thì Nguyễn Khánh thăng cấp cho nhiều
sĩ quan trong đó có Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Có… lên Trung
Tướng và Nguyễn Cao Kỳ lên Thiếu Tướng. (Như vậy, với cấp
bậc quân hàm cuối cùng là Trung Tướng và Thiếu Tướng của ông
Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ là do Nguyễn Khánh ban cho
- tqd).
Lúc đầu Nguyễn Khánh được Tổng Trưởng Quốc Phòng Mỹ McNamara
triệt để ủng hộ. Sau ông nầy thấy tham vọng của Khánh và kết
quả của những việc ông ta làm nên thất vọng không nói gì đến
Nguyễn Khánh nữa. Đến lúc Mỹ không những không tin tưởng mà
còn đem lại nhiều khó khăn nên ông ta xoay qua liên lạc với
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam." (Y chang anh em ông
Diệm! - tqd).
Vợ Huỳnh Tấn Phát bị bắt, Nguyễn Khánh ra lệnh thả và viết
thư riêng gởi cho Huỳnh Tấn Phát. Sau đó họ trả lời với Nguyễn
Khánh là sẵn sàng đón tiếp về trong hàng ngũ của họ những người
như Khánh. (Tháng 1 năm 1965 Khánh đến thăm tôi tại nhà 205
Hồng Bàng Chợ Lớn, có khoe và đưa tôi đọc thư của Huỳnh Tấn
Phát.)
Tình báo Mỹ biết nên Nguyễn Khánh phải ra đi ngày 25 tháng
2 năm 1965.
Trước đó Nguyễn Khánh là Chủ Tịch Hội Đồng Quân Lực. Khánh
ra đi, Hội Đồng Quân Lực phải lựa người để đưa lên làm Chủ
Tịch. Lẽ ra người đó phải là ông Dương Văn Minh – thâm niên
nhất – nhưng ông minh đang lưu vong. Không ai dại gì dâng chức
vụ cho ông ta khi họ nghĩ mình có thể nắm được. Vì vậy khi
ông Dương Văn Minh về đến Bangkok thì người có thế lực lúc
đó là các ông Thiệu, Kỳ không cho về nên phải lưu vong ở Bangkok.
Những tướng trẻ đang dùng thì giờ làm những gì cần thiết để
nắm chánh quyền. Tháng 4 năm 1965, nhóm tướng trẻ kéo nhau
lại nhà Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu để yêu cầu ông cho về hưu
tất cả Tướng Tá quân nhân đã hơn 25 năm ở trong quân đội tính
luôn thời gian ở trong quân đội Pháp. Lúc đầu ông Sửu đắn đo
không ký nhưng về sau ông phải ký vì áp lực quá nặng. Vậy là
tôi và Lê Văn Kim bị loại luôn. (Lúc ông Đôn là ông Tướng
chỉ mới ở tuổi 48 – sinh năm 1917. Trong khi biết bao nhiêu
Tướng, Tá Bắc Việt họ còn lớn tuổi hơn ông Đôn nhưng người
ta vẫn đương nhiệm kinh nghiệm xông pha chỉ huy nơi chiến trường?
- tqd).
Xong vấn đề nhân sự, còn lại là vấn đề thời thế và tình
hình trong nước. Lúc đó ở thôn quê Việt Cộng gia tăng tấn
công với những trận chiến khốc liệt. Trong thành phố lại biểu
tình, biểu dương lực lượng mà hầu hết những vụ xuống đường
này là phía Thiên Chúa giáo phản đối chính quyền yếu kém.
(Đây là đám “thần dân của thành Rome” gây náo loạn trên đất
nước Việt Nam! – tqd).
Ngày 5 tháng 6 năm 1965, Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ
Tướng Phan Huy Quát cảm thấy bất lực trong việc ổn định tình
thế nên đã từ chức trao quyền điều khiển Quốc gia lại cho Quân
Đội.”
Nhận xét:
Đặc điểm một: Nguyễn Khánh chỉnh lý bắt nhốt hết những ông
Tướng lúc đảo chánh ông Diệm như Lê Văn Kim, Trần Văn Đôn,
Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân … và sau đó thì nhóm tướng trẻ
áp lực nặng nề đòi Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu loại bỏ những
Tướng, Tá có 25 năm kinh nghiệm quân ngũ.
Đặc điểm hai: “Lúc đó (1965 – tqd)
ở thôn quê Việt Cộng gia tăng tấn công với những trận chiến
khốc liệt. Trong thành phố lại biểu tình, biểu dương lực lượng
mà hầu hết những vụ xuống đường này là phía Thiên Chúa giáo
phản đối chính quyền yếu kém.”
Vậy mà, ngày nay, những tay hoài Ngô vì cái hồn ma của Ngô
Đình Diệm mà họ không tiếc lời đổ thừa, rủa sả những vụ xuống
đường biểu tình là chỉ có Phật giáo? Họ chửi rủa luôn những
Tướng lãnh làm đảo chánh ông Diệm là làm loạn, là “bọn côn
đồ”.
Và sau khi Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu, Thủ Tướng Phan Huy Quát
từ chức, thì tới người nhận vai trò Thủ Tướng với danh xưng
là Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương là ông Nguyễn Cao Kỳ
mà ông Trần Văn Đôn đã viết:
“Hội Đồng (Quân Lực – tqd) cũng bầu một người nhận
vai trò Thủ Tướng với danh xưng Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung
Ương. Trong phiên họp đó thoạt đầu có người đề nghị Nguyễn
Chanh Thi nhưng Đại Tá Phạm Văn Liễu bàn với Nguyễn Chánh Thi
không nên nhận bây giờ vì tình hình chưa được ổn định vì vậy
nên Nguyễn Chánh Thi từ chối. Hội Đồng mới bầu Nguyễn Cao Kỳ
vào chức vụ này.” (TVĐ, sđd, tr 369. Từ đây người ta hay
gọi là “Nội Các Chiến Tranh của Nguyễn Cao Kỳ”, ra đời vào
ngày 19.6.1965 - tqd).
Ông Đôn, trang 370:
“Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương Nguyễn Cao Kỳ cho
dựng năm trụ cột trước chợ Bến Thành để xử tử những người làm
hại quốc gia. Năm cột đó dành cho:
. Thương gia, đầu cơ tích trử lũng đoạn kinh tế,
. Công chức tham nhũng,
. Quân nhân tham ô,
. Tỉnh trưởng bóc lột,
. Ăn cơm quốc gia hoạt động cho cộng sản.
Nhưng rồi Nguyễn Cao Kỳ chỉ cho bắn mỗi một mình Tạ Vinh
người buôn bán gạo chợ đen và một Việt cộng đã có án tử hình.
Mỹ (Do Thái? – tqd) cho rằng bắn người công khai là
vô nhân đạo nên bắt phải dẹp mấy cột đó."
Biến Động Miền Trung:
"Suốt tháng 3 năm 1966 Miền Trung
thật sôi động không những Phật giáo đồ mà dân chúng và các
anh em quân nhân thuộc Quân Đoàn I cũng chống nhóm Nguyễn Văn
Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Hữu Có (1). Cuộc biến động Miền Trung càng
lúc càng trầm trọng. Lúc đó Nguyễn Cao Kỳ đã lôi kéo được Thầy
Tâm Châu ủng hộ Chính Phủ, nên khối Phật giáo chia làm hai
là khối Ấn Quang và khối Vĩnh Nghiêm. Tháng 5 năm 1966, Thầy
Thích Tâm Châu cho người đến chiếm Việt Nam Quốc Tự (nên gọi
là Khối Việt Nam Quốc Tự), vì vậy mà hành động tranh đấu của
Phật giáo không thống nhứt như lúc năm 1963" (2).
Quần
chúng Phật giáo Miền Trung và Thừa Thiên-Huế xuống đường năm
1966
Có thể nói, tình hình chính trị, nhân sự thì quân phiệt, độc
tài, ép Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Phan Huy Quát
chịu không thấu để phải từ chức; loại các sĩ quan thâm niên
kinh nghiệm; thọc tay gây phân hóa nội bộ Phật giáo v.v… (tôi
đang nắm một số văn kiện gốc ngay giai đoạn đương thời lúc
bấy giờ 1966, 1967 về việc gây phân hóa nội bộ Phật giáo này
ra sao khi người PG lúc đó lên tiếng).
Là một quốc gia VNCH thì phải có nền dân chủ Hiến Định qua
trưng cầu dân ý, bầu cử để bầu lên một Tổng Thống và soạn thảo
Hiến Pháp chứ không thể chỉ để một Hội Đồng Quân Lực và một
Nội Các Chiến Tranh của Nguyễn Cao Kỳ đóng vai Chủ Tịch Ủy
Ban Hành Pháp Trung Ương mãi mãi được. Đấy là lý do Phật giáo,
Thượng tọa Thích Trí Quang, nhân dân, đồng bào Phật tử và anh
em quân nhân miền Trung Quân Đoàn I đòi hỏi.
Ông Đôn viết về điều đó:
"Cuộc tranh đấu của Phật giáo và
và dân quân miền Trung là đòi hỏi Chính Phủ quân nhân của Nguyễn
Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ phải thành lập Quốc Hội Lập Hiến để
có Hiến Pháp cho Miền Nam Việt Nam.”
“Kết quả vụ biến động miền Trung là Thiệu, Kỳ đồng ý
lập một Quốc Hội Lập Hiến để soạn thảo hiến pháp cho nước nhà.
Quốc Hội Lập Hiến ra đời vào tháng 6 năm 1966, tháng 12 năm
1966 thì soạn xong Hiến Pháp.” (Trần Văn Đôn
sđd, tr 372, 373).
Vậy mà, biến động Miền Trung đã phải gây ra những vụ đàn áp
khốc liệt, đưa đến có trên “200 người vừa chết vừa bị thương.
Khoảng 6,000 sĩ quan, hạ sĩ quan và quân nhân đào ngũ, một
số người không lối thoát phải chạy lên chiến khu của Việt Cộng.”
(TVĐ, sđd, cũng trang 372).
Đọc tiếp Trần Văn Đôn mô tả:
“Lúc đó Tướng Nguyễn Chánh Thi đang điều khiển Quân Đoàn
I cùng một số đông anh em quân nhân công chức yểm trợ cuộc
tranh đấu của đồng bào và Phật tử Miền Trung. Thị trưởng
Đà Nẵng là Bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn, tín đồ Thiên Chúa giáo nhưng
thấy nguyện vọng tranh đấu của đồng bào và Phật tử hợp lý nên
ủng hộ nhiệt tình. Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ
gạt mời Nguyễn Chánh Thi vô họp rồi bắt giam giữ lại ở Sài
gòn.” (TVĐ, sđd, tr 371)
Tiếp theo, Sài gòn cứ gởi tướng nào ra miền Trung để thu xếp
cho êm thắm, thì những tướng như Tôn Thất Đính, Huỳnh Văn Cao
khi ra đấy thì ông nào cũng thấy nguyện vọng hợp lý của đồng
bào, Phật tử, anh em quân nhân Quân Đoàn I cho nên không ông
nào làm gì được, bèn xông vô Bộ Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến
Mỹ ở Đà Nẵng xin tị nạn chính trị. Xin tị nạn chính trị như
vậy nghĩa là Huỳnh Văn Cao và Tôn Thất Đính không thể trở lại
Sài gòn chứ gì?
Cuối cùng, một cuộc tấn công khốc liệt từ Sài gòn thì do đâu?
Cũng theo Trần Văn Đôn, tr 371:
“Mỹ cho một số máy bay (cũng Mỹ nữa! – tqd) để Nguyễn
Cao Kỳ và Tướng Cao Văn Viên Tổng Tham Mưu Trưởng đổ quân ra
chiếm Đà Nẵng (đặng đến 1975 thì bỏ quân, bỏ nước, bỏ cả
đồng bào mà dzọt êm thắm mất? – tqd) rồi từ Đà Nẵng tiến
ra Huế cùng lúc đó không quân yểm trợ bắn chiếm các chùa.
Thầy Trí Quang mới ra lệnh tất cả Phật tử đưa bàn thờ Phật
ra đường để ngăn quân xa. Một số anh em Đuân Đoàn I cùng Phật
tử và dân chúng kháng cự lại nhưng trước sự đàn áp thẳng tay
của chính quyền Sài gòn, trước xe tăng và phi pháo thi nhau
khạc đạn, những người lãnh đạo Miền Trung không muốn gây thêm
chết chóc nên khuyên những ổ kháng cự của dân quân buông súng.”
(3)
Đưa bàn thờ Phật ra đường là hình thức tranh đấu bất bạo
động. Nhưng bàn thờ Phật có ngăn chặn được quân xa, chiến đấu
cơ giội bomb và nòng súng khạc đạn hay không mà ngày nay nhóm
Liên Thành và đám dư đảng Cần Lao cứ nhai tới nhai lui mãi? Bộ
đám này luyến tiếc không còn cơ hội một thở tung hoành ngang
dọc, làm mưa làm gió giết hại nhân dân đồng bào miền Trung
qua lịnh của ông cậu Cẩn rồi đâm ra hậm hực mãi?
Chỗ đó, làm tôi tưởng, phải chi mà ông Viên, ông Kỳ, Mỹ
cùng nhịp nhàng, thủy chung đến những ngày cuối của năm 1975
cương quyết yểm trợ chiến đấu cơ, cho súng khạc đạn như đã
tấn công bắn phá chùa ở Đà Nẵng, Huế năm 1966 thì miền Nam
không mất, khỏi đổ thừa?
Sau biến động Miền Trung năm 1966, Phật giáo, TT Thích Trí
Quang không làm gì đáng ngại nữa (Hiến Pháp Đệ Nhị VNCH đã
ra đời). Ông Thiệu, ông Viên, ông Kỳ cứ mà lãnh đạo Đệ Nhị
VNCH suốt 10 năm, không có ai ra tranh cử Tổng Thống với mình,
nghĩa là “độc diễn”. Mỹ đổ qua lần lần trên nửa triệu quân,
một triệu quân VNCH, quân Nam Triều Tiên, Thái Lan, Úc, Tân
Tây nữa mà để cho thua thì thôi chứ sao lại đổ thừa cho Phật
giáo?
Anh em ông Diệm (Đệ Nhất VNCH) liên lạc với CS; ông Khánh
(người thăng chức Trung Tướng và Thiếu Tướng cho ông Thiệu,
ông Kỳ) cũng liên lạc với CS; ông Thiệu, ông Viên cầm viết
kẽ lên bản đồ là sẽ giữ VNCH từ Ninh Hòa trở vào Nam nhưng
cuối cùng lại sớm từ chức, được CIA Mỹ thu xếp co giò nhảy
sớm thì thôi chứ sao lại đổ thừa cho Phật giáo? Thời
Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu, Thủ Tướng Phan Huy Quát, những “thần
dân của thành Rome” là Thiên Chúa giáo biểu tình chống “chính
quyền yếu kém”; thời ông Nguyễn Văn Thiệu năm 1974 Thiên Chúa
giáo – Lm Trần Hữu Thanh cũng biểu tình “chống” chính quyền
“tham nhũng” sao không chịu đổ thừa vậy hả?
Mỹ “Do Thái” biết anh em ông Diệm liên lạc, móc nối với MTGPMN
(ngoài chuyện giả dạng săn bắn để vô rừng là nhà của ông Tàu
Chệt Mã Tuyên nằm ngay Chợ Lớn cho nên Mỹ “bật đèn xanh” cho
đảo chánh. Ông Nguyễn Khánh cũng liên lạc với MTGPMN cho nên
Mỹ biết, Mỹ cho lưu vong ra hải ngoại. Chính Mỹ là kẻ phát
hiện ra Vũ Ngọc Nhạ v.v… Mỹ rất dữ. Vậy mà, ông TT Thích Trí
Quang lại được Mỹ bảo vệ cho tị nạn suốt mấy tháng trời, từ
đêm 20.8.1963 cho đến sau ngày 1.11.1963 lẫn cả thời gian chạy
dài đến ngày Mỹ cuốn cờ rời khỏi miền Nam VN thì, Mỹ cũng không
hề nói rằng ông TT Thích Trí Quang là “đồng chí” theo kiểu
cách, theo luận điệu của những tay Cần Lao hoài Ngô vác thánh
giá bao giờ. CSVN cũng không thể có lương phạn gì cho ông thầy
Thích Trí Quang. Vì ông ta có công gì đâu? CS Bắc Việt rất
thích để cho quân phiệt (không có chính phủ dân cử, không có
Hiến Pháp) lãnh đạo miền Nam thì lòng dân càng nhanh chóng
biến thành nhân dân của chính phủ CMLTCHMNVN nhiều hơn. Nhưng,
ông thầy Thích Trí Quang lại làm hỏng mất ý muốn của họ nữa
là khác. Cho nên, kẻ nào sử dụng hai chữ “đồng chí” để gán
vào cho ông thầy Thích Trí Quang thì chỉ là trò hề kệnh cỡm,
lố bịch.
Hai bên bờ giới tuyến:
Trong cuộc chiến tranh tương tàn dã man, khốc liệt bởi các
thế lực tài phiệt và siêu cương quốc tế chỉ biết có quyền lợi
của họ là trên hết, tôi không loại trừ có những thành phần
Phật giáo lẫn Thiên Chúa giáo đều có ngã sang phe phái ở hai
bên bời vĩ tuyến. Tuy nhiên, riêng trường hợp ông thầy Thích
Trí Quang mà có kẻ bảo ông là “đồng chí” thì tôi phản đối quyết
liệt.
Đơn cử:
Miền Nam thì cả hai tôn giáo lớn là Phật giáo và Thiên
Chúa giáo đều có tu sĩ tham gia ngành Tuyên Úy, có lương, có xe,
có súng, có quân phục, có cận vệ v.v… Miền Bắc thì có những
ông sư là đảng viên, cán bộ. MTGPMNVN thì có những ông sư như
Thích Minh Nguyệt, Thích Thiện Hào đã từng là “Chủ Tịch Hội
Phật Giáo Cứu Quốc Nam Bộ” – Thích Minh Nguyệt, lúc mà toàn
dân nghe theo tiếng gọi “dậy mà đi hỡi đồng bào ơi” trong thời
kháng chiến chống Pháp cứu nước. Có điều, ông thầy Thích Minh
Nguyệt hoàn toàn là một nhà sư đi tu từ nhỏ, có tham gia phong
trào Việt Minh chống Pháp rồi trở thành hàng ngũ của họ và
bị bắt đày đi Côn Đảo cho đến năm 1974 thì trao đổi tù binh
tại Lộc Ninh chứ không phải là "Đỗ Tấn Hời thợ hớt tóc" như
Trần Trung Quân nói bậy ở sách “Trong Lòng Địch”. Ông sư Minh
Nguyệt sinh năm 1907 tại Thủ Dầu Một, Bình Dương, khi mà Ngài
Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN Thích Huyền Quang mới 15 tuổi thì
nhà sư Thích Minh Nguyệt này đã là cây viết chuyên nghiệp phụ
trách tiết mục “Khởi Nguyên của Thiên Thai Thiền Giáo Tông”
đăng trên Tạp Chí Bát Nhã Âm xuất bản năm 1935 lận cơ.
Nhân đây, tôi cũng muốn góp ý với tác giả Vũ Ánh ở Oakland,
CA trong một bài viết gần đây được phổ biến trên các diễn đàn
bằng chủ đề “Thuong Toa Thich Quang Long” (Thượng Tọa Thích
Quảng Long?). Có lẽ tác giả muốn nói về Thượng Tọa Thích Thanh
Long, quyền Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật giáo sau khi TT Thích
Tâm Giác (Giám Đốc) viên tịch/qua đời, nhưng ông Vũ Ánh lại
viết lầm là “Thích Quảng Long” (người tham gia Nội Các của
chính phủ Nguyễn Bá Cẩn năm 1975).
Điểm thứ hai mà tác giả Vũ Ánh đã lầm là đoạn này: “
“Trong thời gian mới bị giam giữ, một hôm thầy (Thích
Thanh Long? –tqd) được gọi ra làm việc để gặp hai vị sư
quốc doanh là Thượng Tọa Thích Minh Nguyệt và Thích Thiện Siêu.
Hai vị này ra sức thuyết phục và chiêu dụ thầy để thầy ủng
hộ phong trào “Phật giáo yêu nước”, và nói sẽ bảo lãnh cho
thầy ra khỏi tù ngay để nhờ thầy góp công góp sức xây dựng
phong trào Phật Giáo Yêu Nước này. Hai vị sư này chính là người
mà Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đã bắt
giam trước năm 1975 vì hoạt động cho Cộng Sản.”
Tôi nghĩ hai ông thầy mà tác giả Vũ Ánh đề cập ở đây là
ông chỉ đúng có một là nhà sư Thích Minh Nguyệt. Còn nhà sư Thích
Thiện Siêu mà Vũ Ánh muốn nói có lẽ Vũ Ánh đã lầm với nhà sư
Thích Thiện Hào, sinh quán ở An Phú Đông, Gò Vấp, Gia Định.
Hai ông Thích Minh Nguyệt và Thích Thiện Hào là cùng sư với
nhau và tham gia từ thuở phong trào Việt Minh kháng Pháp cứu
quốc. Hai ông sư Thích Minh Nguyệt và Thích Thiện Hào mới là
những người đứng ra thành lập "Ban Liên Lạc Phật Giáo
Yêu Nước" (BLLPGYN) chứ không phải Hòa thượng Thích Thiện
Siêu. Nhà sư Thích Thiện Siêu cũng chưa bao giờ bị Cảnh Sát
Đặc Biệt VNCH bắt lần nào trước năm 1975 vì hoạt động cho Cộng
Sản.
Chỉ từ Thích Thanh Long mà tác giả Vũ Ánh đã lầm sang Thích
Quảng Long thì làm sao bảo đảm để ông có thể không lầm về nhà
sư Thích Thiện Siêu này!
Ngôi chùa Giác Ngạn tọa lạc trên đường Trương Minh Ký trước
năm 1975 (hiện nay là đường Lê Văn Sĩ) mà Thượng tọa Thích
Thanh Long trụ trì là ngôi chùa mà trước đó nhà sư Thích Thiện
Hào làm tọa chủ trước khi ông được người ta “đưa vào chiến
khu an toàn” rồi chuyển ra Bắc. Nhà sư Thích Thiện Hào cũng
có một vị đệ tử là Đại Úy Tuyên Úy Phật giáo, đó là thầy Thích
Tâm Đạt. Sau năm 1975 cũng phải đi tù “cải tạo” như bao nhiêu
người khác.
Kinh nghiệm về một cuộc chiến khốn nạn đã tàn, thì cả hai bên
bờ vĩ tuyến một thời mà anh em, cha con, họ hàng ruột thịt
và nghĩa đồng bào thi nhau bóp cò cho nòng súng khạc đạn vào
mỗi khi màn đêm buông xuống. Bây giờ, con người cho dù có nung
nấu, phun mửa lòng hận thù tới đâu đi chăng nữa cũng chẳng
giải quyết được gì. Một ngày nào đó
xã hội Việt Nam cho dù có thay đổi ra sao thì thiết nghĩ không
một chính phủ đương hành nào lại có thể ngu ngốc cho phép con
người tiếp tục lao vào con đường nồi da xáo thịt. Quốc tế,
Liên Hiệp Quốc, lương tâm nhân loại ở thời đại văn minh nào
lại cho phép chúng ta làm điều đó, phải không vậy hả?
Mong rằng, những người Việt Nam, nhất là những người
Việt Nam theo đạo Thiên Chúa giáo Vatican La Mã, điều tốt
nhất là quý vị hãy nên xác định vị trí đứng của mình cho
rõ, lựa chọn giữa con
dân Việt Nam với
“thần dân của thành Rome” trước khi quý vị có thể hung
hăng mắng nhiếc về bất cứ nhà sư Phật giáo Việt Nam nào, một
đồng bào Việt Nam nào đã sinh ra và trưởng thành trên xứ mẹ
đã từng hệ lụy trong hai cuộc chiến tranh trong thời cận đại. Quân
viễn chinh thực dân xâm lăng Pháp và cuộc chiến tranh tương
tàn về hai chủ nghĩa Quốc, Cộng mà kẻ cầm cân điều hành là
những bàn tay, những cái vòi sút tu bạch tuộc tài phiệt và
siêu cường quốc tế gây nên, trong đó có Vatican La Mã.
Chính tôi đã từng cảm động với nỗi bùi ngùi nhắc lại qua
những lời nhạc trong bài “Thành Phố Sau Lưng” của nhạc sĩ
Hàn Châu: “Hằng đêm quê hương đạn bay súng nổ”. Không
một ai, không một tuổi trẻ nào có thể không ước mơ khung
cảnh thanh bình lên quê hương, và cương quyết phản đối, chống
lại hiểm họa nồi da xáo thịt vì lý do gì đó mà nó có thể
phải bị lập lại.
Vào một dạo nào đó trong các đạo binh mà con người hùng hổ
lao vào con đường chém giết, ở đấy, cả hai bên thì phía nào
cũng có một vị Linh mục cầu nguyện cho đạo quân của phe mình
bình an cho đến khi ca khúc khải hoàn thắng trận. Hoàn cảnh
oái oăm nghiệt ngã và trái khoáy như vậy, người ta không thể
biết được là Chúa sẽ đang đứng về phía nào? Nếu Chúa đứng ở
hai bên thì con người sao lại có thể chém giết được? Còn bằng
như Chúa mà thiên vị thì làm sao có thể nói được là “Thiên
Chúa công bằng”, “Thiên Chúa lòng lành vô cùng”?
Hy vọng những “thần dân của thành Rome” có gốc cội cha ông
của họ là dòng dõi Việt Nam sớm quay về với chính quê hương
dân tộc và nghĩa đồng bào (một bọc) để khả dĩ vơi đi bớt lòng
thù hận vô lý mà xem ra đa phần người ta chỉ có biết vâng phục
vào đấng “thánh cha” “bề trên” ngồi trong một góc nhỏ bên khung
trời nước Ý. Trước đây, Linh mục Hoàng Quỳnh đã từng khẳng
khái: “Thà
mất nước chứ không thà (để cho) mất Chúa”. Thật không
biết hổ thẹn cho một người dân sống trên đất nước Việt Nam!
Trần Quang Diệu
1) Nguyễn Khánh chỉnh lý bắt nhốt một số tướng lãnh làm đảo
chánh lật đổ ông Diệm (để rồi sau này liên lạc với MTGPMN như
anh em ông Ngô Đình Diệm trước đó đã làm) như đã nêu trong
bài. Còn mấy ông này cũng vậy thôi: Ông Thiệu thì Tư Lệnh Sư
Đoàn 5 Thuỷ Quân Lục Chiến bao vây tấn công Thành Cộng Hòa
và Dinh Gia Long. Ông Nguyễn Cao Kỳ thì nắm đơn vị Không Quân,
chiến đấu cơ cho quân đảo chánh. Ông Nguyễn Hữu Có thì ra lệnh
lính của Sư Đoàn 7 kéo hết tàu bè từ phía Bến Tre sang bên
Mỹ Tho, làm cho lính sư đoàn 9 của Huỳnh Văn Cao và Đại Tá
Bùi Dinh đùn ở Bến Tre, không qua sông để về Sài gòn cứu giá
cho chúa Ngô Đình Diệm được.
2) Vậy mà ngày nay cỏ kẻ chỉ nghe lóm cho nên họ mới tố cáo
bậy là mấy ông thầy Ấn Quang chiếm Việt Nam Quốc Tự. Rồi đặt
đĩa máu lên trên bàn để đe dọa Thầy Tâm Châu. Phải chăng đĩa
máu ấy là do những bàn tay du côn, lông lá đã ném đá giấu tay,
giở thủ đoạn gây nghi ngờ cho nội bộ Phật giáo mà chính Thầy
Tâm Châu cũng không ngờ để mới có thể viết đại vào “Bạch Thư”
gì đó rồi đám dư đảng Cần Lao mới khoái mà chụp lấy để rêu
rao bêu rếu? Tại sao ông Nhu đã cho có đến 200 Mật Vụ cạo đầu
làm sư (theo Quốc Tuệ trong sách Phật giáo Tranh Đấu 1963)
để len lỏi phá hoại nội bộ Phật giáo được mà một đĩa máu với
một con dao mà bọn ma mãnh chính trị không có thể làm được?
3) Vị cựu Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH đều có can dự chức vụ
tương tự trong hai thời kỳ Đệ Nhất và Đệ Nhị VNCH, Trung Tướng
Trần Văn Đôn cho ra đời Hồi Ký của ông năm 1989 trong lúc mà
gần như hầu hết những nhân vật trọng yếu mà tập Hồi Ký đề cập
đều còn sống và đang có mặt ở hải ngoại, nhất là tại Hoa Kỳ.
Chúng ta cũng không thấy ai phản ứng gì đáng kể về những nội
dung mà “Việt Nam Nhân Chứng” của ông Trần Văn Đôn ghi xuống.
Do đó, mức độ khả tín phải nói là rất cao.