|
07-Nov-2011 |
LTS: Một số những người thọ ân của chế độ nhà Ngô thỉnh thoảng
góp nhặt những ý kiến cá nhân cho là có thể tô vẽ cho một chế
độ mà đa số người dân lẫn thế giới đều khinh miệt. Bài phỏng vấn
Cao Xuân Vỹ của ông Minh Võ (xem dưới cùng) là một trong những nỗ
lực đó. Trong khi miền Bắc cơ cực dồn cả nỗ lực để mong giành độc
lập cho đất nước, thì ở miền Nam chính quyền làm những việc gì ngoài
việc gom quyền lực cho riêng một gia đình, lo áp đặt tôn giáo, và
tiêu diệt người anh em trong những chiến dịch tố cộng? Chúng tôi ghi
lại một vài lá thư nhận xét ngoài các diễn đàn điện tử như của ông Trần
Quang Diệu và Góp Gió, cùng với nhận xét của chính bạn để xem giá
trị của những ý kiến cá nhân trong bài phỏng vấn có giá trị được
bao nhiêu. (SH)
Ông Cao Xuân Vỹ trả lời trong bài "phỏng vấn" này (SH: xem ở dưới cùng) thì tôi không đọc
hết mà chỉ kéo con chuột lên xuống 2 lần. Tôi chỉ tò mò dừng lại đọc thử
mấy đoạn mà tác giả (?) đã highlight.
Thông thường, ai cũng hiểu ra, cái nào đã highlight thì được
xem như đoạn đó
là quan trọng, hay, và cần thiết. Nhưng, cái quan trọng, sự cần thiết ở đây
tôi nhận ra có sự dối gian!
Tôi sẽ chỉ dẫn thưa một đoạn duy nhứt, trong toàn bài của Minh Võ.
Minh Võ thuật lời ông Vỹ (or Vĩ) thế này:
"Hồi ấy còn cả một ủy ban của chính phủ gồm nhiều
Phật tử đứng đầu là phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ cố gắng dàn xếp.
Nhưng bên Phật Giáo tranh đấu chỉ muốn lật đổ chính phủ thôi. Nên họ cố
đưa ra những yêu sách không cách nào làm được."
Sự gian dối này thì không thể chấp nhận!
Tôi bác bỏ thái độ bóp méo sự thật trong hành vi này của ông Cao
Xuân Vỹ khi ông vu cho là "Phật Giáo tranh đấu chỉ muốn lật đổ
chính phủ thôi. Nên họ cố đưa ra những yêu sách không cách nào làm được."
Nguyên nhân gì đầu tiên để rồi phải có sự "cố gắng dàn xếp" thì
dưới "cặp mắt thần" và "kiếng chiếu yêu" của giới trí
thức và nhân dân Việt Nam chân chính, họ đã thấy tuốt luốt cái bản chất âm
mưu thực thi thủ đoạn "diệt trừ ma quỉ" (tiêu diệt PG và các
tôn giáo dân tộc) của anh em ông Ngô Đình Diệm mà Giám mục Thục đã
khẳng định, được ghi trong sách Đảng Cần Lao của Chu Bằng
Lĩnh là "việc chúng tôi làm (tấn công chùa chiền đêm
20.8.1963) là vì Chúa, vì Giáo Hội".
Phật tử bị ức ép đến phải giằng co với quân đội
Ông Cao Xuân Vỹ làm sao phủ nhận được điều đó trong suốt
thời Đệ Nhất VNCH?
Xin hỏi ông Cao Xuân Vỹ rằng Phật giáo đã "cố đưa ra những yêu
sách" ra sao để rồi chính phủ ông Ngô Đình Diệm "không
cách nào làm được"? Chính phủ của một "đại anh hùng dân tộc" đâu
mà dở, đâu mà đơn giản quá vậy?
Sau đêm 8.5.1963, lúc xảy ra thương vong ở trước cửa đài
phát thanh Thừa Thiên - Huế, Phật giáo chỉ yêu cầu chính phủ đáp ứng
5 nguyện vọng như sau:
"1. Yêu cầu Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thu hồi vĩnh viễn công điện
triệt hạ giáo kỳ Phật giáo.
2. Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng một chế độ đặc
biệt như các Hội truyền giáo Thiên chúa đã được ghi trong đạo
dụ số 10.
3. Yêu cầu Chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ
Phật giáo.
4. Yêu cầu cho Tăng và Tín đồ Phật giáo được hưởng tự do truyền đạo
và hành đạo.
5. Yêu cầu chính phủ đền bồi một cách xứng đáng cho những kẻ
bị giết oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền bồi đúng mức." (1)
Là một chính phủ, lại là chính phủ do một "đại anh hùng dân tộc" lãnh đạo
mà chỉ 5 nguyện vọng như vậy của một tôn giáo đã có mặt và song hành
cùng dân tộc có đến hai nghìn năm (so với những kẻ tân tòng!) mà lại
không giải quyết được thì "anh hùng" cái gì? Nó có chi mà "những
yêu sách không cách nào làm được" như ông Cao Xuân Vỹ thuật
lại như vậy? Ngoại trừ anh em ông Diệm đã mang dã tâm quyết tiêu
diệt Phật giáo! Âm mưu như thế đã được anh em ông Diệm thể hiện lúc cầm quyền
và lưu vết tích rất nhiều chứ không còn là chuyện suy đoán.
5 nguyện vọng như trên khi Phật giáo yêu cầu mà chẳng được. Đến
khi cái chết của Nhất Linh xảy ra; vụ tự châm lửa thiêu thân của ngài Hòa
thượng Thích Quảng Đức lan đi khắp thế giới, thì anh em ông
Ngô Đình Diệm mới hoảng hốt lên, nhưng cũng vẫn giữ nguyên chích sách
độc tài nhằm xoa dịu dư luận, mới chỉ thị cho 3 ông Nguyễn Ngọc Thơ,
Nguyễn Đình Thuần và Bùi Văn Lương đóng vai Ủy ban Liên bộ, gọi là "dàn
xếp" chứ "phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ cố gắng dàn xếp" cái
gì?
Cụ thể nhất trong việc "phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ dàn xếp" là
một "Thông Cáo Chung" giữa Ủy ban Liên bộ (của Chính phủ)
và Ủy ban Liên phái (của Phật giáo) thì làm sao ông Vỹ có thể nói
là "không cách nào làm được"?
Mở đầu cuộc "dàn xếp" xảy ra vào lúc 9 giờ sáng ngày 14 tháng
6 năm 1963 cho đến 1 giờ đêm ngày 16 tháng 6 năm 1963 thì hai bên đã
thõa thuận đưa ra được "Thông Cáo Chung" đó. "Thông
Cáo Chung" có đệ lên cho Tổng thống duyệt y (duyệt và ký, thông
qua, cho thi hành). Bên Phật giáo cũng có chữ ký đồng thuận của Hòa
thượng Hội chủ Tổng Hội Phật giáo Việt Nam Thích Tịnh Khiết thì sao ông Vỹ
có thể kết án là "không cách nào làm được"? Phải chăng, đó
chỉ là thái độ muốn bóp méo nhằm khỏa lấp trước lịch sử về một chế độ độc
tài gia đình trị lẫn tôn giáo ngoại bang trị, rồi đâm ra kỳ thị với các tôn
giáo dân tộc? Nhưng ông Vỹ cũng như bất kỳ ai nữa thì thiết thưởng:
đừng có hòng mà chạy tội!
"Thông Cáo Chung" cũng đã đưa ra được năm điều:
"I: Về Quốc kỳ và Đạo kỳ.
II: Về Dụ số 10. (2)
III: Vấn đề bắt bớ và giam giữ Phật giáo đồ.
IV: Tự do truyền đạo và hành đạo.
V: Trách nhiệm và trợ giúp." (3)
5 điều nêu trên chưa ráo mực. Anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm
chỉ hứa cuội cho qua búa rìu dư luận trong lúc lòng người đang phẫn
uất lên cao độ về cái chết của nhà văn Nhất Linh và ngọn lửa của Hòa thượng
Thích Quảng Đức. (4)
Ông Cao Xuân Vỹ nói "Phật Giáo tranh đấu chỉ muốn
lật đổ chính phủ thôi" là hoàn toàn bịa đặt để vu khống!
Sau khi 5 nguyện vọng (đã nêu trong phần đầu!) của Ủy ban Liên phái
Bảo vệ Phật giáo không được chính phủ Ngô Đình Diệm đếm xỉa.
Phật giáo liền ra một "Bản Tuyên Ngôn". Sau bản Tuyên Ngôn, có
kèm theo một "Bản Phụ Đính" do vị đứng đầu Phong trào Tranh
đấu là Hòa thượng Thích Tịnh Khiết ký ngày 23.5.1963.
Khẳng định lập trường trong phần "Phụ Đính" cho "Bản
Tuyên Ngôn" đó là thế này:
"Đối với Chính phủ.- Chúng tôi không chủ trương lật đổ,
chúng tôi chỉ có nguyện vọng "cải thiện chính sách". Chúng
tôi không nói vấn đề người." (5)
Từ đây, mời độc giả theo dõi những gì đã xảy ra sau "Thông
Cáo Chung":
"PHONG TRÀO HỌC SINH, SINH VIÊN VÀ TRÍ THỨC
CHỐNG CHẾ ĐỘ ĐỘC
TÀI
I. Ngoại trưởng Vũ văn Mẫu từ chức và cạo đầu.
Người đi tiên phong trong hàng ngũ trí thức chống chế độ độc
tài sau khi các chùa bị phá là Giáo sư Vũ văn Mẫu, Bộ trưởng Ngoại giao.
Trong mưu kế đánh chiếm các chùa và bắt giam Tăng, Ni, anh em ông
Diệm chỉ phổ biến kế hoạch này trong nội bộ gia đình, một số Bộ trưởng
thân tín, và những người có nhiệm vụ trực tiếp điều khiển mật vụ,
cảnh sát và lực lượng đặc biệt mà thôi.
Chính ngay Phó Tổng Thống Nguyễn ngọc Thơ cũng không được biết kế
hoạch này.
Cho mãi tới 5 giờ 30 sáng ngày 21.8.1963, khi bọn mật vụ đã thanh
toán xong các chùa, ông Diệm mới triệu tập hàng ngũ Bộ trưởng để
cho biết quyết định thiết quân luật trên lãnh thổ. Ngay trong buổi
họp của Hội đồng chính phủ này. Giáo sư Vũ văn Mẫu đã bất mãn
về lý do "Vì Cộng sản xâm nhập các Châu thành và vùng phụ cận Sài
gòn nên phải thiết quân luật" của ông Diệm.
Mẫu nhận thấy lời nói này hoàn toàn giả dối nên ông có phản ứng
ngay, bằng câu "Nếu quả thực có sự đột nhập của Việt Cộng vào
ngoại ô Sài gòn thì đã đủ lý do để giải thích sự việc
này". Nghĩa là ông Mẫu muốn vạch rõ thái độ quanh co, thiếu
thành thực của ông Diệm trước hội đồng chính phủ.
Một vị nguyên thủ quốc gia báo cho các hàng Bộ trưởng biết "...Cộng
sản đã xâm nhập...". Vậy mà một ông Bộ trưởng Ngoại giao
lại đứng ra nói "Nếu quả thực có như vậy..." tức là Ông
Bộ trưởng này không tin lời nói của vị nguyên thủ và cố ý nhấn mạnh
tiếng "Nếu" để mọi người hiểu được sự thực không phải
như vậy.
Hơn nữa, ông Vũ văn Mẫu còn bất mãn về việc ông Diệm chỉ hỏi ý
kiến ông sau khi lệnh thiết quân luật đã ban hành và nhất là
lúc chính quyền đã đánh chiếm xong các chùa và bắt hết Tăng,
Ni.
Bởi vậy, phản ứng đầu tiên của ông Mẫu sau buổi họp tại
dinh Gia Long là cạo đầu để thể hiện lập trường của mình và gởi đơn
từ chức Bộ trưởng Ngoại giao.
Sau đó, ông Mẫu, một mình với chiếc đầu nhẵn bóng lái
xe đi tìm gặp các ông Khoa trưởng, Giáo sư Đại học, đồng
nghiệp của mình, để vận động một phong trào trí thức chống độc
tài.
Đa số các Giáo sư tại Sài gòn đều hưởng ứng lời hô hào của ông
Vũ văn Mẫu.
Nhưng với sự đe dọa, khủng bố điên cuồng của Mật vụ do Ngô đình
Nhu điều khiển, làm cho mọi người phải thủ thế, bằng cách tạm nén
những uất hận trong lòng, chờ cơ hội thuận tiện đứng ra hoạt động.
Một số Giáo sư khác, vì quá lo sợ nên đã lánh mặt khi ông Mẫu
tìm gặp. Người ta hình dung ông Mẫu như một bó đuốc đang
cháy tưng bừng và bó đuốc này tràn tới đâu là khiến thành cháy
vạ lây.
Hành động cương quyết, quả cảm của Giáo sư Vũ văn Mẫu là một tấm
gương sáng chói trong hàng ngũ trí thức và tấm gương này đã châm ngòi
cho một phong trào sinh viên học sinh vùng dậy tranh đấu chống bạo
quyền.
Học sinh, sinh viên vốn đang hoang mang và xúc động trước sự
việc chùa chiền bị triệt hạ, Tăng, Ni bị giam cầm thì nay, một Giáo sư
danh tiếng đã đi tiên phong, khơi nguồn, vạch đường chỉ
lối cho họ. Bởi vậy những người thanh niên thanh nữ đầy nhiệt huyết,
những người nắm vận mệnh quốc gia trong tương lai này đã nhất quyết
lao mình vào đám lửa đỏ để giành lại những ngày tươi sáng cho
dân tộc, tự do cho muôn người.
II. Sinh viên các phân khoa Đại học nổi dậy.
Dẫn đầu phong trào chống đối công khai của sinh viên là tất
cả sinh viên thuộc Trung tâm Kỹ thuật Phú Thọ bãi khóa vào ngay chiều ngày
có lệnh thiết quân luật, 21.8.1963, Giáo sư Lê sĩ Ngạc không những tán
thành việc làm của sinh viên Kỹ thuật mà còn tỏ lập trường chống chính
quyền tàn bạo và cổ động sinh viên tiếp tay tranh đấu cho chính
nghĩa Phật giáo.
Chiều ngày 22.8.1963, Bác sĩ Phạm biểu Tâm, Khoa trưởng Đại học
Y khoa Sài gòn gởi đơn từ chức và sáng hôm sau, Bác sĩ bị chính quyền
Ngô đình Diệm bắt giam.
Việc này đã gây xúc động và làm xôn xao trong hàng ngũ sinh
viên. Bởi vậy, ngay ngày hôm đó, các sinh viên Đại học Y khoa
Sài gòn, không phân biệt trường, kéo nhau tới tập trung tại trường Y khoa để
theo dõi tin tức về Bác sĩ Phạm biểu Tâm.
Sinh viên tới quá đông, họ đứng chật sân trường, tràn ra ngoài
cổng và phủ kín cả mặt đường. Họ bàn tán, tranh luận huyên náo; mặt
người nào cũng đỏ gay. Có người quá hăng hái, lớn tiếng mạt sát chính
quyền Ngô đình Diệm trước mặt mấy nhân viên Cảnh sát. Những người
Cảnh sát này giả đò không nghe thấy, quay đi. Không rõ họ cũng đồng
tình hay khiếp sợ không dàm ho he, phản ứng.
Sinh viên bàn tán kế hoạch cứu Bác sĩ Phạm biểu Tâm. Có người nêu ý
kiến, sinh viên nếu chia ra ừng tốp tới gặp các Khoa trưởng, Giáo
sư Đại học, yêu cầu các vị này từ chức đồng loạt để gây
một áp lực mạnh mẽ đối với chính quyền và nếu Bác sĩ Phạm biểu
Tâm đã có đồng minh, không cô lập và đỡ lo bị hãm hại.
Người khác lại góp ý thêm: song hành với việc vận động Khoa
trưởng, Giáo sư từ chức, ngay bây giờ phải tổ chức biểu tình phản đối
chính phủ...
Và chiều ngày 23.8.1963, giữa lúc một nhóm sinh viên kín đáo ra
về để kiếm vải viết biểu ngữ cho cuộc biểu tình dự định tổ chức
vào giờ tan sở, thì Bác sĩ Phạm biểu Tâm cũng vừa được trả tự do.
Tuy lý do của cuộc biểu tình không còn, nhưng chiều hôm đó, sinh
viên các phân khoa vẫn tới tập trung đông đảo tại trường Y khoa để
mừng Bác sĩ Phạm biểu Tâm và vận động thành lập Ủy ban chỉ đạo
Sinh viên Liên khoa.
Trong buổi họp mặt này, một sinh viên năm thứ tư Y khoa đã đứng
ra hỏi Bác sĩ Phạm biểu Tâm:
"Trong những ngày thực tập tại bệnh viện, Sinh viên đã được
lệnh của chính quyền, không chữa bệnh cho những Tăng, Ni, Phật tử bị
thương trong các cuộc biểu tình. Việc này trái với lương tâm và lý tưởng
của người thầy thuốc, là chữa bệnh cho cả kẻ thù mình. Hơn nữa, Phật
giáo đồ đâu phải là kẻ thù? Vậy xin thầy cho biết lập trường
và thái độ của Sinh viên lúc này phải như thế nào?"
Bác sĩ Phạm biểu Tâm trả lời:
"Tôi xem các anh như những người lớn, các anh có thể làm những gì
các anh muốn làm; tuy nhiên cũng đừng quá khích và hãy tôn trọng luật
lệ hiện hành".
Sở dĩ Bác sĩ Phạm biểu Tâm khuyến nhủ sinh viên với những lời dè dặt
như vậy, một phần bởi bản tính hiếu hòa, nhân từ của Bác sĩ, phần khác
cũng vì tuy được trả tự do, nhưng Bác sĩ lại bị chính quyền quản thúc,
chung quanh luôn luôn có mật vụ kèm sát theo dõi.
Giữa lúc sinh viên đang sôi sục căm hờn chế độ, lời nói "...các
anh có thể làm những gì các anh muốn làm" của Bác sĩ Phạm biểu Tâm
có giá trị như một lời cổ võ.
Bởi vậy, sinh viên đã hò reo hoan hô Bác sĩ Phạm biểu Tâm rồi kéo
nhau tới giảng đường hội họp để thành lập Ủy ban chỉ đạo
Sinh viên Liên khoa.
Trong buổi họp này, một sinh viên Cao học Luật khoa, Luật sư Tòa Thượng
thẩm Sài gòn tuyên bố:
"Nhận thấy cuộc tranh đấu của Phật giáo phù hợp với điều
18 của bản tuyên ngôn nhân quyền quốc tế và điều 17 của Hiến pháp
Việt Nam Cộng Hòa, nên tôi không ngần ngại tham gia vào ban chỉ đạo...".
Một sinh viên khác, cảm động gần như muốn khóc đã phát biểu:
"Làm thế nào tôi có thể sống được, khi cả nhà tôi không ai ăn
cơm, mẹ và chị tôi khóc suốt từ hôm các chùa bị đập phá"...
Thế rồi, các sinh viên đồng thanh la lớn "Nous sommes
dépour-vus du tous". Và, trong cảnh huyên náo của một phong trào sinh
viên với nhiệt khí tràn đầy huyết quản, Ủy ban chỉ đạo Sinh
viên Liên Khoa ra đời với 18 nam 1 nữ. Trong đó có đầy đủ
thành phần đại diện cho mọi phân khoa.
(...)
Riêng anh Tô lai Chánh, Chủ tịch Sinh viên Luật Khoa là người có công
nhiều nhất trong phong trào vận động Sinh viên Liên hiệp chống chính
phủ độc tài Nhu - Diệm.
Ngay từ khi mới bước chân vào đời sống sinh viên, Tô lai Chánh đã
từng trăn trối, đau xót trước cảnh Tổng hội Sinh viên Việt Nam
bị gạt ra ngoài tổ chức Comité de contrôle, một tổ chức quyền hành và nằm
trên cấp bực cao nhất của Tổng hội Sinh viên thế giới. Còn gì điếm
nhục cho xứ sở bằng Tổng hội Sinh viên Việt Nam bị đuổi ra khỏi tổ
chức Sinh viên của các nước tự do (C.I.E)? Nguyên nhân chỉ vì trong lần đại
hội lần thứ 9 họp tại Klostus (Suisse), trong lúc sinh viên thế giới đang
bàn đến việc tranh đấu cho lý tưởng cao đẹp của thế hệ thanh
niên trí thức hiện tại như: Bác ái, công bình xã hội, tự do cho mọi
người và nhất là đánh đổ chế độ độc tài, thu hồi nền độc
lập cho các nước thuộc địa như Algérie chẳng hạn, thì phái đoàn đại
biểu Sinh viên Việt Nam gồm một ông một bà do Ngô đình Nhu và
Trần kim Tuyến chỉ định với sứ mạng kêu gào cho Sinh viên thế giới
biết: "chế độ hiện hữu tại Việt Nam không phải là chế độ độc
tài". Và, một ông một bà đại biểu này khi tới Klostus chẳng
thèm bàn đến lý tưởng của Sinh viên mà chỉ nói tới chuyện chơi bời, ăn,
nhảy, nên bị sinh viên thế giới tẩy chay.
Tủi hổ cho sinh viên Việt Nam biết bao! Vậy mà Trần kim Tuyến còn hiến
kế với Ngô đình Nhu: "Đối với Tổng hội Sinh viên Việt Nam, nếu
không dẫn dắt được họ đi theo đường lối của ta thì nên bóp
chết nó đi, trừ tiệt hậu hoạn".
Thế rồi, mật vụ được tung vào hoạt động trong Tổng hội Sinh
viên Việt Nam làm cho biết bao thanh niên trí thức ôm những hoài bão
lớn lao bị bó tay. Tô lai Chánh cũng chung một số phận như vậy. Nhưng anh
không khiếp sợ, không chạy trốn mà đưa đầu ra lăn xả vào hoạt động
mong sao giành lại quyền chủ động cho sinh viên, độc lập cho tổng
hội và cứu vãn thể diện sinh viên Việt Nam trên bình diện quốc tế.
Tô lai Chánh, con người có một quan niệm tín ngưỡng phóng khoáng, anh
có thể hiện tinh thần đoàn kết tôn giáo qua công việc làm của anh.
Sinh trưởng trong một gia đình Phật giáo, Tô lai Chánh đã từng
giữ chức Chủ tịch Sinh viên ; Ủy viên kiểm soát ban chấp hành Câu
Lạc Bộ Phục Hưng rồi Chủ tịch Sinh viên Câu Lạc Bộ Phục Hưng. Câu Lạc Bộ
Phục Hưng là trung tâm sinh hoạt của sinh viên Công giáo. Nơi này qui tụ
nhiều tài năng non trẻ, nhiều đầu não cấp tiến chống chính phủ cổ điển,
quan liêu và lạc hậu Ngô đình Diệm. Nương vào tổ chức này, với sự đỡ đầu
gần như bất khả xâm phạm của các Linh mục đầy uy tín, Tô lai Chánh đã
liên hiệp các Sinh viên có nhiều tâm huyết, chống lại một tổng hội sinh
viên đang biến hình thành một công cụ của gia đình họ Ngô.
Lần đầu tiên trong lịch sử sinh viên Công giáo và cũng là lần đầu
tiên trong lịch sử Câu Lạc Bộ Phục Hưng, một sinh viên không Công giáo
nắm giữ một tổ chức thuần túy Công giáo. Nhờ vậy, Tô lai Chánh đã
ngang nhiên hoạt động chống Tổng hội Sinh viên bù nhìn tức là gián
tiếp chống chính quyền Ngô đình Diệm trong suốt hai năm gần đây.
Khi thấy chính phủ Diệm đánh phá các chùa, noi gương Giáo sư Vũ
văn Mẫu. Tô lai Chánh đã cạo đầu rồi tích cực vận động để Ủy
ban Chỉ đạo Sinh viên Liên khoa chóng được thành lập.
Cũng trong chiều ngày 23.8.1963, tại trường Đại học Y khoa, Tô lai
Chánh cùng với 18 sinh viên đại diện cho các phân khoa soạn thảo bản
tuyên ngôn chung của học sinh sinh viên để đọc vào ngày sáng
hôm sau tại trường Luật; đồng thời cũng lập một bản kiến nghị gởi
lên Tổng thống Ngô đình Diệm đòi hỏi chính phủ phải phóng thích
Tăng, Ni, Phật tử, Giáo sư, Sinh viên... và giải tỏa các chùa trên toàn
quốc.
Ủy ban chỉ đạo Sinh viên Liên khoa hoạt động dưới danh nghĩa
chống bạo quyền, chống chế độ độc tài gia đình trị đã được
hầu hết các giáo sư và toàn thể sinh viên nhiệt liệt ủng hộ.
Bởi vậy, chỉ trong một thời gian ngắn. Ủy ban này đã có đầy đủ
sức mạnh làm rung chuyển cả hệ thống học đường và tạo được uy
tín lớn lao đối với quốc tế, đánh dấu một giai đoạn lịch
sử hào hùng của sinh viên đối với dân tộc.
Phong trào bãi khóa của sinh viên như một vết dầu loang xuất phát từ
Trung tâm Kỹ thuật Phú thọ, qua trường Y, trường Luật, trường Dược, trường
Khoa học, trường Mỹ thuật v.v...rồi, lan tràn khắp các phân khoa và các
trường trung học.
Sáng ngày 24.8.1963, sinh viên Liên khoa và học sinh đô thành vào
khoảng trên 3000 người tập trung tại trường Luật để đón tiếp
Giáo sư Vũ văn Mẫu vừa cạo đầu từ chức Bộ trưởng Ngoại giao và dự định
qua Ấn Độ viếng thăm các thắng tích Phật giáo.
Trong buổi họp sáng này, một số sinh viên đã lên chất vấn ông
Khoa trưởng Luật khoa Vũ quốc Thúc, đòi hỏi ông này phải có lập trường
rõ rệt, đồng thời sinh viên cũng chỉ trích thái độ thiếu chính đáng
của nhà trường đã đe dọa cảnh cáo các sinh viên đứng đầu
trong việc bãi khóa.
Cũng trong buổi sáng ngày hôm đó, Giáo sư Nguyễn văn Bông được
sinh viên hoan hô nhiệt liệt, vì ông, trước hơn ai hết tại trường
Luật đã hòa mình trong hàng ngũ sinh viên chống chế độ độc
tài hiện hữu. Nhưng khi chiếc đầu nhẵn bóng của ông Vũ văn
Mẫu hiện ra giữa cổng trường, thì một làn sóng người cuồng nhiệt ào
lên, tiếng hoan hô xen lẫn tiếng vỗ tay vang dội. Sinh
viên nhảy múa, reo hò; chào mừng Giáo sư Vũ văn Mẫu như mừng một viên đại
tướng vừa ca khúc khải hoàn.
Sau đó, một bảng tuyên ngôn được đọc lên, xác định ý
chí của sinh viên học sinh, quyết tâm chống đối đàn áp,
chống độc tài vô nhân đạo." (6)
Như trên, đó là vài trang trong quyển sách dày trên 500 trang với chữ
nhỏ rí, ra đời rất sớm vào năm 1964 sau khi chế độ ông Ngô Đình
Diệm vừa sụp đổ.
Chỉ một ngạch đoàn thể học đường như vậy, mọi người đều thấy rằng,
chế độ ông Ngô Đình Diệm đã không những mất lòng tin
mà nó còn gây phẫn nộ, bất bình cho hầu hết mọi giới (mà nhất là quân đội...!)
dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa chứ không riêng chỉ Phật giáo.
Với phong trào sinh viên học sinh, bằng một "Ủy ban chỉ đạo Liên
Khoa" như vậy, những người nói họ nghe thì phải là những Giáo sư!
Môi trường học đường, Giáo sư, giới trí thức, sinh viên học sinh mà
như thế, tất nó lôi cuốn hết mọi thành phần khác trong cộng đồng xã
hội lúc bấy giờ vào chung "một lối".
Đến nước đó thì ông Ngô Đình Diệm có là vị "đại anh hùng dân tộc" theo
kiểu nào đấy như hiện nay có người tôn xưng lên tận cổng thiên đàng
thì cũng đành phải xếp giáp bó tay.
Trân trọng,
Trần Quang Diệu
---------------------------
1) Quốc Tuệ - Vũ Ngự Chiêu "Công cuộc tranh đấu của Phật Giáo Việt Nam,
in lần thứ nhất 1964 tại Sài gòn. In lần thứ hai tại Pháp 1987, trang 49,
50.
2) Có mấy tay, cho đến giờ này (2011) còn hạch xách bảo ngưới khác
phải chứng minh văn bản Dụ số 10, thì xem ra họ đã thóa mạ vào Ủy ban
Liên bộ của chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa không biết gì về Dụ số 10 này?
3) Trợ giúp những gia đình của các nạn nhân bị giết trước cửa đài
phát thanh Thừa Thiên - Huế.
4) Ngọn lửa nầy mà không đâu đó rõ ràng thì nhà Ngô đã buộc
tội PG ngay lúc còn mấy tháng cầm quyền chứ không đợi tới ngoài 40 năm
sau những kẻ "hoài Ngô" làm trò vu khống để chạy tội được
bao nhiêu thì hay bấy nhiêu về một chế độ bạo tàn.
5) Sđd, tr 51.
6) Sđd, từ trang 412 đến 420.
Von: "Gop gio" <gopgionews@yahoo.com>
Gesendet: 06.11.2011 01:57:09
Betreff: [ChinhNghiaViet] Đôi hàng về ông Cao Xuân Vỹ.
Đôi hàng về ông Cao Xuân Vỹ.
Sự kiện không có gì ngạc nhiên khi ông Minh
Võ phỏng vấn ông Cao Xuân Vỹ. Cả hai ông đều là phần tử hoài Ngô, dĩ nhiên
là tìm cách “chạy tội” cho ông Diệm. Lấy lý do rằng vì Phật giáo đòi hỏi
quá đáng nên không chấp thuận được là nói láo.
Bằng chứng ngày 16-6-1963 Ủy Ban Liên
Phái hai bên đã đạt xong thoả thuận tạm ngưng thi hành Dụ số 10. Ngày 19-6-1963 Quốc
hội họp xét Dụ số 10. Nhưng rồi im luôn… không đưa ra kết quả
nào. Lý do vợ chồng Nhu chống đối Thông Cáo Chung. Và đêm 20-8-1963 Diệm ra lịnh cho
LLĐB tổng tấn công càn quét toàn thể các chùa Phật giáo trên toàn quốc bắt
đi hàng ngàn tăng, ni. Hành động này khiến LHQ phẫn nộ, cử phái đoàn đến
Sài Gòn điều tra.
Có thể nói, đây là giọt nước làm tràn ly, khiến các
Tướng Lãnh quyết tâm đoàn kết lật đổ một chế độ tàn ác phi nhân.
Xin hỏi ông Cao Xuân Vỹ : Có phải vào
chiều tối ngày 1-11-1963 ông đã “thừa lệnh” của tướng Trần Thiện Khiêm lái
chiếc traction 2 CV vào cỗng sau Dinh Gia Long để đón hai ông Diệm-Nhu
đưa vào nhà Hoa kiều Mã Tuyên ở Chợ Lớn hay không ?
Có những dấu hiệu cho thấy tướng Khiêm đã ra lịnh
cho Đại tá Nguyễn Văn Thiệu “bỏ ngỏ” không tấn công Dinh Gia Long vào buổi
chiều 1-11-1963. Bởi vì Hội Đồng Tướng Lãnh đã đồng ý bắt sống cả 2 ông. Tướng
Khiêm trong cương vị Tham Mưu Trưởng Liên Quân điều động toàn bộ cuộc hành
quân đã nhận chỉ thị này. Nếu thi hành đúng kế hoạch tấn công Dinh Gia Long
cùng lúc với tấn công Thành Cộng Hoà thì bắt buộc phải bắt sống 2 ông Diệm-Nhu ?
Nhưng vì ông Khiêm đã được Đại tá Conein bàn thảo phải “giết” cả 2
ông Diệm-Nhu. Nếu
thi hành đúng kế hoạch thì làm sao có cơ hội để giết ?
Do đó, Tướng Khiêm ra lịnh cho Đại tá Thiệu
bỏ ngỏ Dinh Gia Long. (Không có toán quân nào được lịnh tấn công
Dinh Gia Long chiều ngày 1-11-19630. Ông Vỹ được lịnh ông Khiêm vào Dinh
Gia Long bằng lối sau đưa 2 ông Diệm-Nhu tới nhà Mã Tuyên.
Sau đó ông Vỹ quay về báo cáo với Tướng Khiêm.
Theo sách Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi của
Đỗ Mậu còn cho biết, khi nghe 2 ông Diệm-Nhu đã tới nhà Mã Tuyên, Tướng
Khiêm liền sai Đại tá Phạm Ngọc Thảo đưa một toán quân tới nhà Mã Tuyên bắt
Diệm-Nhu. Nhưng lúc đó 2 ông Diệm-Nhu đã vào nhà thờ cha Tam ! Đại tá Thảo
đành quay trở về không. Bị hụt hẫng, Tướng Khiêm liền vạch ra kế hoạch dùng xe M113
đón 2 ông Diệm-Nhu để giết như đã xảy ra !
Xin lưu ý : Theo Đỗ Thọ, vào buổi tối ngày
1-11-1963, tùy viên Đại úy Lê Công Hoàn đã điện thoại báo cho Tướng Khiêm biết
2 ông Diệm-Nhu đã rời Dinh Gia Long rồi, nhưng Tướng Khiêm đã “giữ kín”
không thông báo cho HĐTL hay cho tới sáng 2-11-1963 chính ông Diệm gọi
báo cho HĐTL ! Đây rõ ràng là một bằng chứng không chối cãi
là Tướng
Khiêm đã có kế hoạch giết 2 ông Diệm-Nhu.
Mấy năm trước đây, một độc giả của Góp Gió là Bác
sĩ HVĐ, là một bạn rất thân của tướng Trần Thiện Khiêm, khi đọc những bài viết
của chúng tôi nói tướng Khiêm là người chủ mưu giết ông Diệm. Bác sĩ HVĐ đã
điện thoại hỏi tướng Khiêm, và tướng Khiêm đã xác nhận là đúng : “Người
Mỹ đã muốn giết. Không giết sẽ gặp hậu hoạ.” Bác sĩ HVĐ là bạn với tướng Khiêm
khi ông Diệm mới lên làm Tổng thống. Lúc đó ông Khiêm là Đại úy, còn Bác sĩ
HVĐ là Trung úy Y-sĩ cùng đơn vị. Bác sĩ HVĐ khen ông Khiêm là người rất đàng
hoàng, thẳng thắn. Khi Bác sĩ HVĐ nhận được hồ sơ xin gia nhập “Đảng Cần
Lao”, ông có hỏi ý kiến ông Khiêm. Ông Khiêm nói :
“Moa là sĩ quan tác chiến, nếu muốn cầm quân chỉ
huy và thăng cấp thì phải gia nhập Đảng CL. Còn toa là bác sĩ, sau này giải
ngũ cũng vẫn là bác sĩ. Vậy xin vô làm chi ?”
Trở lại vụ ông Cao Xuân Vỹ.
Qua những diễn tiến vừa kể, chúng tôi tin rằng ông
Cao Xuân Vỹ đã có quan hệ mật thiết với Tướng Trần Thiện Khiêm, và ông ta
đã hợp tác với tướng Khiêm trong cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963.
Khoảng 8, 9 năm về trước, tôi có nói chuyện với GS
Cao Thế Dung chuyện ông Vỹ hợp tác với Tướng Khiêm làm đảo chảnh 1-11-1963.
GS Dung không tin, Ông hứa sẽ hỏi lại ông Vỹ. Nhưng rồi ông im luôn !
Quý vị hoài Ngô đã lầm ông Cao Xuân Vỹ.
GÓP
GIÓ 6-11-2011
From: PHS-Gmail <phamhungson@gmail.com>
Date:
2011/11/4
Subject: ÔNG CAO XUÂN VĨ KỂ VIỆC NGÔ ĐÌNH NHU BÍ MẬT GẶP ÔNG
PHẠM HÙNG Ở KHU RỪNG TÁNH LINH-BÌNH TUYTo: ÔNG CAO XUÂN VĨ KỂ VIỆC
NGÔ ĐÌNH NHU BÍ MẬT GẶP ÔNG PHẠM HÙNG Ở KHU RỪNG TÁNH LINH-BÌNH TUY
Như đã hứa, ( 1) ông Cao Xuân Vỹ, sau ba lần vào cấp
cứu và điều trị tại bệnh viện, đã vui lòng dành cho chúng tôi một cuộc
phỏng vấn để cống hiến bạn đọc một số hồi ức và kỷ niệm của ông trong
thời gian đi theo Việt Minh kháng chiến rồi về hợp tác với chính phủ
Ngô Đình Diệm với tư cách là người phụ tá thân cận của ông Ngô Đình
Nhu, bào đệ và là cố vấn chính trị của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
1. Hỏi: Thưa ông, nghe nói ông cùng quê Nghệ An với
ông Hồ Chí Minh?
Đáp: Phải. Tôi người làng Thịnh Mỹ, phủ Diễn Châu ở
về phía biển, còn ông Hồ ở xã Kim Liên huyện Nam Đàn về phía núi.
2. Hỏi: Ông có thể cho biết gia đình ông có liên
hệ gì với gia đình ông Hồ không?
Đáp: Tôi được biết ông cố tôi là cụ Cao Xuân Dục, thượng
thư bộ học thuộc triều đình Huế có giúp đỡ thân phụ ông Hồ là Nguyễn
Sinh Sắc về tài chính và khuyến khích, giúp đỡ ông ấy nhiều trong việc
học hành để có thể đi thi và đậu phó bảng. Một phần vì ông Nguyễn Sinh
Sắc là bạn học với ông nội tôi là Cao Xuân Tiếu. Đây là hình căn nhà
ông nội tôi cho ông cử Sắc. (Ông Vỹ đưa xem hình căn nhà.)
3. Hỏi: Có tài liệu của phía Cộng Sản, như của Sơn
Tùng và Nguyễn Đắc Xuân nói, khi thấy ông Nguyễn Sinh Sắc thi hỏng
khoa Ất Mùi, (năm 1895), ông Cao Xuân Dục đã giúp cho ông Nguyễn
Sinh Sắc được vào Huế, để có phương tiện và đủ sách vở hầu tiếp tục
việc học và có thể thành đạt. Điều này có đúng không?
Đáp: Đúng. Ông cố tôi còn can thiệp để cho ông Nguyễn
Sinh Sắc, dù không phải là con quan cũng được vào học ở Quốc Tử Giám.
Đến khoa thi năm Tân Sửu (1901) chánh chủ khảo Cao Xuân Dục thấy khóa
sinh Sắc không trúng tuyển đã cho lệnh xét lại bài thi của 4 thí sinh
để rồi xin vua Thành Thái cho ông ta đậu phó bảng. Khóa ấy có 9 tiến
sĩ, 13 phó bảng. Ông Sắc đậu phó bảng thứ 11.
4. Hỏi: Hồi còn nhỏ ông có biết về hoạt động của
Cộng sản ở quê nhà và có chứng kiến các cuộc nổi dậy của Cộng Sản
thường được gọi là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh không?
Đáp: Có. Phong trào này mạnh nhất ở hai huyện Nam Đàn
và Thanh Chương. Nhiều người bị chết oan. Cộng Sản đã giết hai tri
phủ. Vì thế phản ứng của chính quyền bảo hộ cũng rất quyết liệt. Pháp
đem bom thả cũng giết nhiều người, trong số ấy có cả Cộng Sản lẫn thường
dân. Cha tôi có kể lại rằng để đối phó với phong trào này, ông Nguyễn
Hữu Bài, thượng thư bộ Lại của Triều Đình Huế, (tương đương với chức
thủ tướng thời nay), đã cho áp dụng một kế hoạch chiêu dụ Cộng Sản
khá thành công. Lúc ấy ông cố tôi cùng ở trong nội các Nguyễn Hữu Bài.
5. Hỏi: Khi Việt Minh cướp chính quyền ông ở đâu?
và có ủng hộ họ không?
Đáp: Lúc ấy tôi đang học ở Hà Nội. Tôi nhớ là mấy tháng
trước khi Việt Minh cướp chính quyền, thanh niên sinh viên Hà Nội chúng
tôi rất hăng hái ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim, vì là chính phủ của
Việt Nam độc lập đầu tiên, dù phải nhờ có người Nhật lật đổ người Pháp.
Nhưng chúng tôi rất phấn khởi và đã ủng hộ hết mình. Tiếc rằng bỗng
nhiên chính phủ này từ chức ngày 7 tháng 8 (1945). Thật khó hiểu. Tuy
từ chức nhưng chính phủ Trần Trọng Kim vẫn xử lý theo lệnh nhà vua.
Khi mà Việt Minh tới trám vào chỗ trống chính trị này thì chúng tôi
đã đi theo Việt Minh. Chúng tôi không biết Việt Minh là Cộng Sản. Thực
ra lúc ấy chả mấy người biết Việt Minh là Cộng Sản.
6. Hỏi: Ông có gặp ông Hồ bao giờ không?
Đáp: Có. Hồi ấy tôi ở trong phong trào thanh niên sinh
viên tranh đấu. Chúng tôi được hai ông Hoàng Minh Giám và Phan Mỹ giới
thiệu để gặp ông Hồ ở Bắc Bộ Phủ. Lúc ấy ông ấy có cái vẻ bề ngoài
rất ân cần và dễ mến. Về sau tôi mới hiểu tại sao ông ấy đã chiêu dụ
được nhiều người đi theo ủng hộ Việt Minh. Cho đến giờ này tôi vẫn
nghĩ ông ta thật là thông minh và xảo quyệt. Lại được tay Võ Nguyên
Giáp cũng rất thông minh trợ tá đắc lực. Tôi học với Võ Nguyễn Giáp
4 năm, Tôi biết ông ta rất rõ. Ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường
đã tỏ ra sắc sảo và quả đoán… Rất “độc tài”. Nhưng dầu sao Võ Nguyên
Giáp không thể sánh được với Ngô Đình Nhu. Còn Phạm Văn Đồng thì không
đáng là học trò Ngô Đình Nhu.
7. Hỏi: Rồi tại sao ông lại bỏ Việt Minh?
Đáp: Vì chúng tôi kết án ông Hồ đã ký thỏa ước mồng
6 tháng 3, nhượng bộ Pháp quá nhiều. Hơn nữa họ đã hãm hại nhiều người
yêu nước bất đồng chính kiến. Chúng tôi chạy sang phía Việt Cách của
các ông Nguyễn Hải Thần và Nghiêm Kế Tổ…
8. Hỏi: Khi nào thì các ông rời Hà Nội?
Đáp: Liền khi cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp bùng
nổ ngày 19-12-46. Lúc ấy ông Hồ và đại bộ phận Việt Minh chạy lên Việt
Bắc kháng chiến. Thì chúng tôi gồm 36 nhà trí thức và thanh niên sinh
viên tranh đấu chạy vào khu Tư, gồm Thanh Nghê Tĩnh, để cùng với một
số Việt Minh ôn hòa lập một phòng tuyến mới phi Cộng Sản chống thực
dân và giúp dân mở mang về kinh tế và văn hóa. Có thể nói Liên Khu
Tư lúc ấy như là một khu tự trị.
9. Hỏi: Ông có thể cho biết tên một số trong 36 nhà
trí thức mà ông bảo đã rời Hà Nội vào Liên Khu Tư sau kháng chiến
bùng nổ không?
Đáp: Tôi còn nhớ chẳng hạn có Luật Sư Trần Chánh Thành,
các ông Trần Hữu Dương, Hồ Đắc Điềm, Phạm Thành Vinh, sau này trở thành
rể của ông Hồ Đắc Điềm, ông Nguyễn Duy Quang, người của ông Bảo Đại,
ông Phan Huy Xương, anh của bác sĩ Phan Huy Đán tức Phan Quang Đán,
ông Tôn Thất Trạch v.v… Các ông này về sau đã hợp tác với thủ tướng
Ngô Đình Diệm. Ông Trần Chánh Thành từng là bộ trưởng phủ thủ tướng,
với ông Tôn Thất Trạch là đổng lý văn phòng. Ngoài ra, về phía thường
dân tôi nhớ còn có bà Hòa Tường là một thương gia giầu có ở phố Hàng
Đào cũng đi theo.
Tôi xin nói thêm ông biết điều này, là những vị này và tôi hồi đầu
theo Việt Minh. Nhưng tất cả đều không phải Cộng Sản. Và ngay từ 1930
thì đã có hai phe cùng chống Pháp một bên là Đảng Cộng Sản, lúc ấy
chưa có Việt Minh. Một bên là các nhân vật và tổ chức quốc gia phi
Cộng Sản trong đó ngoài những người như ông Ngô Đình Diệm đã bắt đầu
hoạt động từ đó, còn có các chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng, mà đảng
trưởng là Nguyễn Thái Học và 13 đồng chí đã bị Pháp xử bắn.
10. Hỏi: Khi nào ông rời Liên Khu Tư vào Sài Gòn
và gặp ông Ngô Đình Nhu?
Đáp: Chúng tôi rời Liên Khu Tư ra Hà Nội. Chứ chưa vào
Sài Gòn. Lúc ấy là vào khoảng đầu năm 1953. Ông Hồ Chí Minh theo lệnh
Stalin và Mao Trạch Đông khỉ sự chuẩn bị mở chiến dịch Giảm Tô và cải
cách ruộng đất. Có người thân trong Việt Minh cho chúng tôi biết. Nên
tìm đường chạy trước. Về sau trong họ tôi có nhiều người có chút tư
điền bị đem ra đấu tố. Chị ruột tôi cũng bị giết. Tôi “dinh Tề” qua
ngả Phúc Nhạc, Phát Diệm là khu an toàn tự trị dưới quyền trông coi
của giám mục Lê Hữu Từ. Khó khăn lắm mới tới được Hà Nội. Hà Nội lúc
ấy đang sống an bình dưới chính quyền Bảo Đại. Tôi đi thoát được là
nhờ có người chú họ ở trong tổ chức Việt Minh cấp cho một giấy thông
hành. Ở Hà Nội tôi gặp lại các ông Đặng Văn Sung, Phan Huy Quát từng
hoạt động chung với chúng tôi thời 1945.
Trong thời gian còn ở Liên Khu Tư chúng tôi nghe biết cán bộ Cộng Sản
trong tổ chức Việt Minh chịu ảnh hưởng rất lớn bởi cán bộ Trung Cộng.
Sau khi Mao Trạch Đông chiếm trọn lục địa vào cuối năm 1949, ông ta
đã bắt Hồ Chí Minh gửi một số lớn cán bộ Việt Cộng sang Tầu để tẩy
não, cải tạo tư tưởng, bắt học tập chủ nghĩa Mao-ít. Vì cái chủ nghĩa
này mà các chiến dịch giảm tô và cải cách ruộng đất đã đẫm máu với
những vụ con tố cha, vợ tố chồng và nông dân tàn sát lẫn nhau thật
rùng rợn. Làng tôi có ông hàn Lương biết mình sắp bị đưa ra đấu tố
đã nhảy xuống giếng tự tử, vậy mà đội cải cách đã lôi xác ông lên để
đấu cái thây ma. Chúng đánh nát bấy cái thây ấy. Tôi mong có người
thâu thập những tin tức khắp nước về cuộc Cải Cách Ruộng Đất thời gian
đó để cho mọi người biết Cộng Sản dã man chừng nào.
11. Hỏi: Khi nào thì ông gặp ông Ngô Đình Nhu?
Đáp: Cuối năm 1953. Tôi vào Sài Gòn thì gặp lại ông
Trần Chánh Thành. Ông Thành giới thiệu tôi với ông Nhu. Ông Thành vào
Sài Gòn năm 1952 cùng một lượt với phần lớn trong số 36 nhà trí thức
đã vào Liên Khu Tư để kháng chiến chống Pháp nhưng bất hợp tác với
Việt Minh. Lúc gặp lại tôi thì ông Thành đang làm cho tờ báo Xã Hội
của ông Nhu, đồng thời tập sự luật sư với Luật Sư Trương Đình Du...
12. Hỏi: Theo chỗ chúng tôi biết thì ông Ngô Đình
Nhu từng có 5 nhiệm vụ quan trọng: một là dân biểu Quốc Hội, hai
là Cố Vấn Chính Trị của Tổng Thống, ba là thủ lãnh Thanh Niên Cộng
Hòa, bốn là Tổng Bí Thư đảng Cần Lao Nhân Vị, và sau hết vào năm
cuối cùng ông còn là chủ tịch ủy ban liên bộ về Ấp Chiến Lược. Vậy
ông ấy có một lực lượng nhân sự nào đáng kể để giúp thi hành chừng
ấy nhiệm vụ không? Ví dụ ông ấy có mấy văn phòng? Có bao nhiêu nhân
viên được ăn lương?
Đáp: Ông ấy chỉ có một mình thiếu tá Phạm Thu Đường
làm chánh văn phòng, thường được gọi là chánh văn phòng ông Cố Vấn.
Và dưới quyền thiếu tá Đường chỉ có 5 nhân viên, hầu hết tự túc. Không
có ngân khoản nào dành cho ông Cố Vấn. Và phải nói thực khó hiểu là
chính chức Cố Vấn này cũng chẳng được một văn kiện nào bổ nhiệm hay
quy định nhiệm vụ. Thực tế ông Nhu chỉ giúp việc cho riêng ông Diệm
với tư cách là phụ tá cho Tổng Thống. Người ta thấy việc ông làm thì
gọi ông là Cố Vấn vậy thôi. Vì thế ông không có quyền hạn và nhiệm
vụ gì chính thức.
Còn về thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, thì ông chỉ thị cho chúng tôi,
phải tự túc. Mọi đoàn viên đều tự nguyện và tự túc theo tinh thần cách
mạng. Cho nên cũng chẳng có quyền lợi gì.
Về văn phòng dân biểu, ông cũng không có. Thực ra ông ấy rất ít đi
họp Quốc Hội. Chỉ khi nào có vấn đề chính sách quan trọng như Ấp Chiến
Lược chẳng hạn, hay vấn đề “Giáo Dục nhân bản”, vấn đề “kinh tế tư
hữu cơ bản” v.v.. thì ông mới tới trình bày mà thôi. Cho nên mọi thứ
một mình ông cáng đáng. Tôi thật phục sức làm việc của ông Nhu.
13. Hỏi: Thế còn chức chủ tịch ủy ban liên bộ về
Ấp Chiến Lược thì sao? Có văn thư nào quy định không?
Đáp: Chức này thì có. Nhưng cũng chỉ là một thông tư
của phủ Tổng Thống gửi đến các bộ, để việc ông chủ tọa các phiên họp
Ủy Ban Liên Bộ được danh chính ngôn thuận. Ông Nhu quan niệm chương
trình Ấp Chiến Lược là một cuộc cách mạng xã hội và chính trị, chứ
không phải chỉ là một chiến lược để đối phó với sự xâm nhập và khủng
bố của Cộng Sản mà thôi. Ông thúc đẩy các tỉnh trưởng khai hóa người
dân quê theo tinh thần tam túc, nghĩa là tự túc về tư tưởng, tự túc
về tổ chức và tự túc về kỹ thuật, để có thể làm chủ cuộc đời mình,
làm chủ được xã hội, không bị lệ thuộc vào bên ngoài, vào ngoại bang.
Ông để rất nhiều thì giờ đích thân soạn những bài thuyết trình có tính
lý luận cao dành cho các cấp lãnh đạo chính phủ và cán bộ cao cấp,
chỉ cho họ cách thức đưa những tư tưởng cao vào đầu óc thường dân qua
những hình ảnh và ngôn ngữ bình dân dễ hiểu. Mục đích của ông là tiến
dần tới một xã hội có tổ chức cao, có đầy đủ các phương tiện truyền
thông, giao tế, kinh tế, văn hóa cao trong đó mỗi con người, “mỗi nhân
vị”, đều được quan tâm đồng đều, chứ không biến con người thành những
“cái đinh, con ốc” trong một guồng máy xã hội theo kiểu Cộng Sản. Ông
tin tưởng rằng phương pháp đó về lâu về dài sẽ làm cho CS phải đầu
hàng. Chứ không phải chỉ dựa vào những hàng rào giây kẽm gai. Dĩ nhiên
ban đầu thì việc rào ấp là cần thiết để giữ cho Ấp Chiến Lược được
an toàn trước sự phá hoại và tấn công của du kích CS. Quốc sách Ấp
Chiến Lược mà thành công thì Cộng Sản sẽ thành cá bị tát ra khỏi ao,
nằm trên đất.
14. Hỏi: Về đảng Cần Lao Nhân Vị, nó thành hình ra
sao, và ai là những đồng chí cốt cán nhất của ông Nhu?
Đáp: Hai người cùng với ông Nhu sáng lập ra đảng Cần
Lao Nhân Vị là các ông Trần Quốc Bửu và Huỳnh Hữu Nghĩa. Nhưng ban
đầu các ông không gọi tên đảng là Cần Lao mà gọi là đảng Công Nông.
Nhưng vì không muốn gợi ý về cái liên minh công nông của Cộng Sản,
nên về sau các ông đổi ra là Cần Lao. Còn vế Nhân Vị thì sau nữa mới
thêm vào theo đề nghị của ông Nhu. Ông Bửu, chủ tịch Liên Đoàn Lao
Công có kinh nghiệm về đấu tranh nghiệp đoàn, đã quen ông Nhu khi còn
ở bên Pháp. Và ông Huỳnh Hữu Nghĩa một tín đồ Cao Đài, là cố vấn chính
trị của tướng Trình Minh Thế. Ông Nghĩa đã giúp ông Nhu chinh phục
được tướng Thế, chứ không phải như có người Mỹ cho rằng ông Nhu có
được ông Thế là nhờ đại tá Edward Lansdale. Ông Lansdale có can thiệp
để quân của tướng Thế được hợp thức hóa và trả lương như Quân Đội Quốc
Gia thì đúng. Người nào bảo Lansdale dùng tiền mua Tướng Thế là cố
tình xuyên tạc để hạ uy tín của một vị tướng kiên cường anh dũng, thanh
liêm mà anh em ông Diệm rất quý trọng. Khi nghe tin tướng Thế tử trận
Tổng Thống Diệm đã ngất xỉu. Điều này tướng Lansdale có ghi trong hồi
ký.
Văn phòng Tổng Bí Thư đảng Cần Lao cũng do một mình Thiếu Tá Phạm Thu
Đường quán xuyến, kiêm nhiệm.
15. Hỏi: Ông Ngô Đình Diệm có giữ vai trò gì trong
đảng Cần Lao không?
Đáp: Không. Ông ấy hoàn toàn ở ngoài và trên đảng Cần
Lao. Với ông Diệm chỉ có Tổ Quốc và Quốc Dân. Tôi còn nhớ khoảng năm
1956, Tổng Thống gọi tôi vào bảo tôi lên cao nguyên đèo heo hút gió
để quan sát nghiên cứu tìm ra những địa điểm thích hợp để lập các khu
dinh điền, hòng đưa người kinh lên trấn giữ địa điểm mà ông bảo là
vô cùng quan trọng về mặt chiến lước. Tôi thấy mình đi thì ông Nhu
thiếu một trợ lý. Lại cũng hơi ngán cảnh cô đơn ở nơi xa lạ. Tôi bèn
thưa với Tổng Thống: Công tác đoàn thể của ông Cố Vấn đang thiếu người.
Tổng Thống nói: Đoàn thể gì. Dẹp. Tuy nhiên rồi ông cũng đấu dịu. Cứ
đi đi. Thỉnh thoảng tôi sẽ lên với anh… Cũng cần thêm rằng ông Diệm
rất quan tâm đến vùng cao nguyên. Ông thường nói: giữ được cao nguyên
thì giữ được miền Nam. Và ông tìm cách đưa nhiều cán bộ và những người
dân có kinh nghiệm với Cộng Sản lên đó lập nghiệp.
16. Hỏi: Ông nghĩ gì về việc chính phủ Ngô Đình Diệm
tổ chức trưng cầu dân ý truất phế ông Bảo Đại?
Đáp: Nhiều người chê ông Diệm, là nhà Nho mà bất trung,
không giữ lời thề trung thành với cựu hoàng. Nhưng tôi thấy không đúng.
Trước hết chính cựu hoàng bảo ông Diệm chỉ thề trước Thánh Giá trung
thành với Tổ Quốc. Thứ nữa, khi cựu hoàng triệu ông sang Pháp, ông
Diệm đã sẵn sàng lên đường, dù biết sang đó sẽ mất chức thủ tướng.
Nhưng chính nhóm liên khu Tư chúng tôi đã thuyết phục ông, gần như
làm áp lực với ông, để ông bỏ ý định sang Cannes . Chúng tôi xúm vào
yêu cầu ông ở lại lấy cớ tình hình không cho phép vắng mặt. Chúng tôi
phải nói với thủ tướng rằng nếu Cụ bỏ chúng tôi lại mà đi một mình
thì sinh mệnh chúng tôi ai sẽ lo? Chúng tôi đã bỏ tất cả vào đây là
vì cụ, vì tin cụ sẽ bảo vệ phần đất tự do còn lại này, bảo vệ chúng
tôi. Nay cụ nỡ lòng nào bỏ chúng tôi, bỏ đất nước này cho Thực dân,
Cộng Sản? Rồi nhiều đoàn thể họp nhau lại đặt ông Diệm trước sự việc
đã rồi là tự ý hạ bệ ông Bảo Đại. Cuộc trưng cầu dân ý của chính phủ
Ngô Đình Diệm tổ chức sau đó chỉ là để hợp pháp hóa hành động của chúng
tôi.
17. Hỏi: Có sử gia Mỹ bảo ngày 22 tháng 8 năm 1963,
Thanh Niên Cộng Hòa đã tấn công chùa Xá Lợi cùng với Cảnh Sát và
Lực Lượng Đặc Biệt. Điều này có đúng không?
Đáp: Hoàn toàn bịa đặt. Tổ chức này không phải để dùng
vào những việc như vậy. Nó là tổ chức phi vũ trang mà.
18. Hỏi: Sử gia Mark Mayor viết trong tác phẩm Triumph Forsaken
rằng gần ngày đảo chính, tỉnh trưởng Định Tường báo cáo với ông Nhu rằng đại
tá Có là phụ tá của tướng Đính rủ ông ta làm đảo chính. Ông Nhu hỏi lại tướng
Đính, thì tướng Đính xin đi chém đầu Có. Ông có biết vụ này không?
Đáp: Không cần tỉnh trưởng Định Tường báo cáo thì ông Nhu đã
biết rồi. Nhưng ông muốn cứ để vậy để theo dõi.
19. Hỏi: Khi ông cùng ông Nhu đi gặp Phạm Hùng ở
Bình Tuy, ông Nhu có cho ông biết hai người họ bàn chuyện gì không?
Đáp: Lúc ấy thì không. Chỉ biết chúng tôi cùng đến Quận
Tánh Linh ở đây có một vùng do Cộng quân kiểm soát. Ban đầu cứ tưởng
đi săn cọp như mọi khi. Nhưng đến nơi ông Nhu bảo chúng tôi ở ngoài,
còn ông đi về phía trước độ vài trăm mét. Có Phạm Hùng chờ ở đó. Sau
này về nhà tôi cũng không tiện hỏi ông Nhu. Nhưng qua những gì ông
tự ý nói ra vào một lúc nào đó thì, nội dung câu chuyện trên một tiếng
đồng hồ, gồm nhiều điều cho đến nay vẫn chưa được tiết lộ. Có một điều
mà phía họ rất quan ngại, nếu không bảo là sợ, rất sợ chương trình
Ấp Chiến Lược. Họ yêu cầu cho biết ai là người chủ trương và mục đích
để làm gì? Ông Nhu trả lời: đó chỉ là một chủ trương của chính phủ
nhằm bảo vệ sinh mạng và tài sản của người dân, ngăn ngừa sự xâm nhập,
phá phách của du kích các ông… Các ông bảo cán bộ đừng tìm cách đánh
phá làng xã, thì chúng tôi sẽ bỏ luật 10/59. Cán bộ các ông có thể
về sống với dân lành tại các ấp…
Về các điều kiện để hiệp thương thì nhiều lần Tổng Thống Diệm đã nói,
phải có 6 giai đoạn:
- Bắt đầu bằng việc cho dân hai miền trao đổi thư tín tự do.
- Rồi cho dân qua lại tự do
- Thứ 3 là cho dân hai bên được tự do chọn đinh cư sang bên kia nếu
muốn
- Thứ 4 mới đến giai đoạn trao đổi kinh tế. Ví dụ miền Nam đổi gạo
lấy than đá của miền Bắc chẳng hạn.
- Qua được các giai đoạn đó rồi mới tiến tới hiệp thương.
- Và sau cùng là tổng tuyển cử.
Có lần ông Nhu tính với chúng tôi: Ông dự đoán rằng, nếu cho dân tự
do chọn nơi định cư, thì căn cứ theo tình trạng về tự do dân chủ tồi
tệ và kinh tế kiệt quệ của miền Bắc lúc ấy, sẽ có khoảng 3 triệu người
dân sẽ dần dần vào định cư ở miền Nam. Vì vậy “mình” phải chuẩn bị
đất cho dân. Ông cũng tính rằng hiện dân số miền Bắc có tới 23 triệu,
trong khi dân số miền Nam chỉ có 17 triệu. Nếu có được 3 triệu dân
Bắc vào định cư ở miền Nam thì dân số 2 bên sẽ cân bằng. Bầu cử tự
do, với sự giám sát của Quốc Tế thì chắc mình sẽ thắng.
20. Hỏi: Lần ông tháp tùng ông Nhu đi dự lễ đăng
quang của quốc vương Ma-rốc năm 1962, ông có cho biết là sau đó các
ông đến Paris gặp ông Pinay, đại diện Tổng Thống Charles De Gaulle,
bàn chuyện hiệp thương với ông Hồ. Lúc ấy có mặt giáo sư Bửu Hội
không?
Đáp: Dĩ nhiên là có. Vì Giáo sư Bửu Hội là đại sứ của
VNCH ở Ma-rốc, và là bạn học với ông Nhu ở bên Pháp. Ông Bửu Hội lại
từng là cố vấn cho Hồ Chí Minh. Nên trong việc này, có thể nói vai
trò của ông Bửu Hội cũng quan trọng không kém ông Nhu. Ông Nhu và chúng
tôi ở khách sạn Grillon cả tháng. Cuộc tiếp xúc xảy ra nhiều lần mà
hầu như lần nào cũng có sự hiện diện của giáo sư Bửu Hội. Ông Nhu cho
biết lúc ấy ông Hồ Chí Minh đã nhờ ông Jean Sainteny xin Tổng Thống
De Gaulle giúp. Ông Hồ biết là ông De Gaulle đang có chủ trương trung
lập Đông Dương, lại hận Mỹ đã “hất cẳng” Pháp. Ông Hồ nhờ Sainteny
xin Tổng Thống De Gaulle can thiệp để tiếp xúc với Sài Gòn. Tổng Thống
Pháp rất sốt sắng trong việc này. Sau chuyến đi này ít tháng thì xảy
ra vụ ông Nhu “đi săn cọp” ở Tánh Linh.
21. Hỏi: Gần ngày đảo chính đại sứ Cabot Lodge có
điện đàm với Tổng Thống Diệm. Lúc đó ông có ở bên cạnh Tổng Thống
không?
Đáp: Không.
22. Hỏi: Trong cuốn Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng
Thống Ngô Đình Diệm, cựu đại tá Nguyễn Hữu Duệ viết rằng ông ta xin
phép Tổng Thống đem xe tăng thiết giáp lên bộ tổng Tham Mưu để bắt
các tướng và dẹp đảo chính. Nhưng Tổng Thống không cho. Ông có biết
chuyện này không?
Đáp: Lúc ấy tôi đang ở bên Tổng Thống Diệm và ông Nhu
tại dinh Gia Long. Chính tôi nghe điện thoại của ông Duệ và trình lên
Tổng Thống.
Tổng Thống la tôi: Các anh muốn gì?Ở với tôi bấy lâu mà không hiểu
ý tôi sao? Dân Nghệ An các anh chỉ thích làm loạn. Đem quân đội chống
quân đội là cách bảo vệ tổ quốc hả?
Tôi thưa: Nhưng người ta đánh mình thì mình phải đánh lại chứ Tổng
Thống. Chẳng lẽ để phải chết sao?
Ông quát lên: Chết thì đã sao.
Đúng, đối với ông chết thì đã sao. Nhưng đối với chúng ta thì cái chết
của ông là cái chết dần của miền Nam. Ông còn nói quân đội là để bảo
vệ tổ quốc chứ không phải để bảo vệ cá nhân Tổng Thống.
Ông bảo tôi liên lạc với ông Trương Vĩnh Lễ, chủ tịch Quốc Hội yêu
cầu cho triệu tập Quốc Hội để ông ra từ chức trước Quốc Hội, hòng tránh
cảnh đổ máu. Nhưng tôi gọi ông Lễ 4 lần không được.
Lúc ấy không phải chỉ có Lữ Đoàn xin lên tấn công tổng hành dinh của
nhóm đảo chính. Mà còn có cả một đại đội biệt kích thuộc Lực Lượng
Đặc Biệt đi hành quân ở Tây Ninh vừa về đến Sài Gòn cũng báo cáo là
lực lượng phòng vệ của các tướng đảo chính ở Tổng Tham Mưu rất yếu,
đại đội biệt kích xin phối hợp với 2 tiểu đoàn của Lữ Đoàn Phòng Vệ
phủ Tổng Thống để đột kích vào bắt hết các tướng đảo chính. Tướng Nguyễn
Văn Phú, lúc ấy còn là Thiếu Tá đã tiếp xúc với tôi về việc này. Nhưng
như vừa nói. Tổng Thống không chấp thuận.
Viên đại úy đại đội trưởng Biệt Kích đề nghị cho lực lượng của Lữ Đoàn
Phòng Vệ Phủ Tổng Thống có xe bọc thép dẫn đầu tiến tới bao vây bộ
Tổng Tham Mưu, còn đại đội của anh ta sẽ đột kích bọc hậu từ phía sân
vận động vào bắt sống các tướng. Tôi rất buồn bực và lấy làm khó hiểu
tại sao ông cụ lại không cho đánh. Ông Nhu ngồi cạnh đó cũng chẳng
nói gì.
23. Hỏi: Theo ông trong số các tướng lãnh lúc ấy
ai có khả năng nhất?
Đáp: Tôi hầu như không tiếp xúc với các tướng. Ngay
cả Phó Tổng Thống cũng vậy. Hầu như chẳng bao giờ gặp. Nhưng tôi có
nghe ông Nhu nói ông Nguyễn Văn Thiệu, lúc ấy mang lon đại tá, là một
tư lệnh (sư đoàn 5) giỏi nhất. Ông Nhu có nhận xét đó sau khi nghe
ông Thiệu thuyết trình ở hội trường Suối Lồ Ồ.
Còn các tướng thì rất sợ Tổng Thống Diệm mỗi khi phải thuyết trình
cho ông về tình hình an ninh. Bởi vì ông nắm vững tình hình và nhất
là địa hình địa vật… địa lý của từng vùng. Kiến thức về quân sự của
ông cũng rất uyên bác. Tôi được biết, khi mới về nước làm thủ tướng,
ông đã yêu cầu tổng lãnh sự ở Hồng Kông mua cho ông tất cả tác phẩm
của Mao Trạch Đông, Chu Đức, Lâm Bưu, Bành Đức Hoài để đọc và bắt ông
Nhu phân tích nghiên cứu trình lên.
24. Hỏi: Nghe nói ông bà Nhu có một biệt thự đẹp
lắm ở Đà Lạt. Ông có tới đó bao giờ không?
Đáp: Ông nói đến cái biệt thự này, tôi lại nhớ tới cái
ông luật sư Trương Phú Thứ ở Seattle . Ông ấy muốn tìm cách phỏng vấn
bà Ngô Đình Nhu mà không sao được. Chẳng rõ tại sao ông ta biết nhà
tôi, tìm đến xin tôi giới thiệu với bà Nhu. Tôi biết đã từ lâu bà ấy
ẩn dật không muốn báo chí nhắc tới. Nhưng tôi biết bà ấy hãy còn quyến
luyến ngôi nhà hai phòng ngủ của một người Pháp, bỏ hoang đã lâu mà
anh em chúng tôi hùn tiền mua cho ông bà ấy vào khoảng năm 1960, mà
hông đủ tiền sửa chữa, cho nên đến khi ông Nhu bị sát hại và bà Nhu
sống lưu vong, cũng mới chỉ sửa được phân nửa.
Tôi bảo ông Thứ hãy về Việt Nam, lên Đà Lạt chụp ảnh ngôi nhà ấy rồi
mang theo sang Pháp, tìm cách đưa tấm hình đó tận tay bà Nhu thì may
ra bà ấy cho gặp. Thì quả thật chắc ông đã biết, ông Thứ đã viết một
bài cho tờ Văn Nghệ Tiền Phong nói về bà Nhu ở tuổi gần bát tuần sống
như một nhà tu ở Paris. Tôi mong ông Thứ có dịp phổ biến tấm hình này
để độc giả thấy cái “ngôi biệt thự xinh đẹp” của ông bà Nhu.
25. Hỏi: Thống tướng Maxwell Taylor, Đại sứ Frederick
Nolting và nữ ký giả Marguerite Higgins đều nói được Tổng Thống Diệm
tiếp hơn kém khoảng 5 giờ đồng hồ. Ông có biết điều đó và có ý kiến
gì không?
Đáp: Lúc ấy nhiều người nói tổng thống tiếp khách lâu
quá. Tôi có trình ông, bảo người ta phê bình tổng thống độc thoại!
Ông cười. Ông bảo: Người Mỹ họ ít hiểu về dân tôc mình về lịch sử
của nước mình. Mình phải lợi dụng lúc họ chịu nghe để nói cho họ hiểu
chứ. Mấy người này đều chăm chú nghe tôi và đặt nhiều câu hỏi. tôi
phải trả lời cho họ chứ.
26. Hỏi: Gần ngày đảo chính Tổng Thống có mời ông
bà Đại Sứ Mỹ lên Đà Lạt nghỉ tại biệt điện của Tổng Thống và dự dạ
tiệc thân mật. Ông có biết họ thảo luận về việc gì không?
Đáp: Tôi có biết và nhớ là Tổng Thống đề nghị chính
phủ Mỹ thông cảm những khó khăn của miền Nam và đừng ép ông phải cải
cách gấp rút. Ông cũng hứa sẽ xem xét những đề nghị của chính phủ Mỹ
một cách nghiêm chỉnh. Nhưng cần phải có thời gian. Phía ông Lodge
thì nằng nặc đòi Tổng Thống phải đưa ngay ông Nhu ra ngoại quốc. Nhưng
dĩ nhiên không bao giờ Tổng Thống nhượng bộ điều này được.
27. Hỏi: Xin ông tha lỗi, ông là Phật tử chứ ạ? Và
trong vụ Phật Giáo có ai nhờ ông làm trung gian để thương lượng giàn
xếp giữa chính quyền và bên Phật Giáo đấu tranh không?
Đáp: Phải, tôi là Phật tử đã quy y… – Ông vào phòng
lấy ra một cuộn giấy mở cho tôi thấy tờ PHÁI QUY Y rồi nói tiếp – Tôi
quy y với thầy Thích Minh Châu. Khi vụ Phật Giáo xảy ra tôi có ra Huế
gặp thầy Thích Trí Thủ để nhờ thầy can thiệp với Thượng Tọa Thích Trí
Quang… nhưng Hòa Thượng Trí Thủ nói bây giờ các thầy trẻ học thức nhiều,
họ có đường lối riêng, các sư già chúng tôi nói họ không nghe. Nên
không kết quả. Nhiều người khác cũng can thiệp nhiều ngả khác, cũng
không hơn gì. Hồi ấy còn cả một ủy ban của chính phủ gồm nhiều Phật
tử đứng đầu là phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ cố gắng dàn xếp. Nhưng
bên Phật Giáo tranh đấu chỉ muốn lật đổ chính phủ thôi. Nên họ cố đưa
ra những yêu sách không cách nào làm được. Tôi rất ân hận là không
giúp gì được với tư cách là một Phật tử.
28. Hỏi: Theo ông thì ai cố ý giết hai ông?
Đáp: Theo tôi thì người ra lệnh trực tiếp là tướng Dương
Văn Minh. Còn ông Minh có nhận lệnh ở trên nào không thì không biết.
Sở dĩ tôi dám quả quyết ông Minh, là vì chính ông Minh sai cận vệ của
ông ta là đại úy Nguyễn Văn Nhung cùng đi với tướng Mai Hữu Xuân, để
“thi hành nhiệm vụ”(!). Và Nhung đã leo lên xe bọc thép trong đó có
hai anh em Tổng Thống. Nhung là một tay giết người không gớm tay, y
còn khắc dấu vào cán dao găm mỗi lần giết được một người. Ngay tối
mồng hai y còn khoe “con dao lịch sử” của y với con của tướng Đôn cơ
mà. Đó là theo chính lời của tướng Đôn thuật lại trong Việt Nam
Nhân Chứng. Còn tướng Xuân thì khi “đi đón ông cụ” về và ông cụ
đã chết rồi, đã tới trước Dương Văn Minh giơ tay làm dấu, miệng nói:
“Mission accomplie” (Nhiệm vụ hoàn thành). Cứ theo những lời trên của
tướng Đôn, thì không nghi ngờ gì người chủ trương và ra lệnh giết hai
ông là tướng Big Minh.
29. Hỏi: Thời gian quấy rầy ông đã quá dài. Nhất
là trong lúc ông còn bịnh nhiều. Xin cám ơn ông đã mất công trả lời
những câu hỏi của chúng tôi. Và nếu có thể được xin ông cho một cảm
tưởng chung về Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu.
Đáp: Tôi cũng xin cám ơn ông đã tốn công đi từ xa đến
để cho tôi được có dịp nói lên vài điều trong số những gì mình còn
nhớ được về thời gian dài phục vụ Đất Nước bên cạnh hai nhân vật lịch
sử mà tôi hằng kính mến. Cứ mỗi lần nhớ đến hai cụ, tôi đều ngậm ngùi
xót xa. Nhất là đối với cụ Diệm. Ông quá ngay thẳng, quá quân tử, quá
rộng lượng, lúc nào cũng nghĩ tới làm cho dân được ấm no hơn. Vậy mà
người ta nỡ hãm hại ông. Không phải chỉ có những ngày giỗ hai ông tôi
mới khóc.
Cụ Vỹ dằn cơn xúc động bắt tay tôi khi tôi từ biệt ra về...
1 Như đã trình bày trong bài “Ba
giờ nghe một nhân chứng”.
Minh Võ, San Diego