Một Trong Ba Thứ
Trần Chung Ngọc
http://sachhiem.net/TCN/TCNts/TCNts31.php
29 tháng 12, 2008
TẢN MẠN VỀ :
VIỆT GIAN – VIỆT CỘNG – VIỆT KIỀU
LTS: Trong các diễn đàn e-mail hải ngoại, người ta thường bắt gặp những danh từ "Việt Gian, Việt Cộng, Việt Kiều"
cho nhiều trường hợp, lắm khi sai lạc, và áp dụng sai đối tượng. Cụm từ "Việt gian" và "Việt Cộng" bị lạm dụng tệ hại nhất. Bài phân tích sau đây sẽ giúp làm sáng tỏ ý nghĩa của các cụm từ trên. Có nhiều người viết câu "Việt Gian, Việt Cộng, Việt Kiều, Cả ba thứ đó tiêu điều nước Nam." Nhưng nhiều người không đồng ý như thế, trong đó hẳn có tác giả Trần Chung Ngọc, và cho rằng chỉ có một thứ. Vậy ta sẽ tìm xem "thứ Việt nào" làm cho tiêu điều nước ta.
Ca Dao Thời Đại Mới:
“ Việt gian, Việt cộng, Việt kiều :
Một trong ba thứ tiêu điều nước Nam”
Luận về Việt Gian, Việt Cộng, Việt Kiều, chúng ta cần
định nghĩa rõ thế nào là Việt Gian, Việt Cộng, Việt Kiều.
Việt Gian:
Chắc người Việt chúng ta ai
cũng hiểu Việt Gian là những người Việt có những hành động phản bội quốc gia như
“vi phạm sự trung thành đối với quốc gia hay chủ quyền quốc gia của mình”
(violation of allegiance toward one’s country or sovereign), “làm tay
sai cho ngoại quốc và có những hành động phản bội dân tộc, thí dụ như những hành
động với ý thức và chủ tâm giúp những kẻ thù của quốc gia” (consciously
and purposely acting to aid its ennemies).
Trong bài
"Những Kẻ Gian" đăng trên sachhiem.net có định nghĩa Việt gian như sau:
Từ "gian" nếu
đi kèm theo tên một quốc gia như Việt gian, Hán gian,... thường có ý nghĩa về tư
cách "không trung thành", "chống lại" quyền lợi của quốc gia mà người đó mang
quốc tịch.
Lịch sử Việt Nam có ghi nhiều
Việt gian. Khi xưa thì có Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc cõng rắn cắn gà nhà nên
bị liệt vào hạng Việt gian.
Trong những cuộc Bắc xâm,
chắc chắn cũng có nhiều Việt gian theo Tàu phản bội quốc gia nhưng tên tuổi
không rõ vì thường là thứ dân.
Những khuôn mặt Việt gian thì
rõ ràng hơn nhiều kể từ khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta. Sau đây là vài tài
liệu về những khuôn mặt Việt gian cận đại và hiện đại.
Trong bài: “Hồ Sơ Tội Ác
của Hội Thừa Sai Paris và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam trong lịch sử mất nước
hồi cuối thế kỷ 19”, Charlie Nguyễn, một trí thức Công giáo viết:
Trong
công cuộc xâm chiếm và bình định Việt Nam, thực dân Pháp đã được giáo hội Công
giáo Việt Nam hỗ trợ tích cực mọi mặt. Trong số các tín đồ Việt gian,
có những nhân vật rất nổi tiếng sau
đây :
1. Tổng Đốc Phương, tức Đỗ hữu Phương, sinh năm 1844 tại Saigon, nguyên
chủng sinh tại Penang, thông thạo tiếng Pháp, được Pháp chọn tham gia phái đoàn
của Pháp trong cuộc thương lượng với triều đình Huế năm 1868. Sau đó Phương tham
gia các cuộc tảo thanh chống Nguyễn Trung Trực tại Rạch Giá. Năm 1872, Phương
được Pháp thăng chức tổng đốc Saigon.
2. Trần Bá Lộc, sinh năm 1834 trong một gia đình Công giáo tại Long
Xuyên. Lộc xin vào đoàn quân Công giáo do Charner tổ chức chuyên việc lùng quét
các nhóm quân kháng chiến. Sau khi tham gia nhiều trận đánh tái chiếm Rạch Giá,
Lộc được Pháp phong chức tổng đốc Rạch Giá. Y là tên đại Việt gian được Pháp tín
nhiệm trao nhiệm vụ triệt hạ phong trào kháng chiến từ Quảng Nam đến Phan Thiết.
Với nhiệm vụ này, Trần Bá Lộc đã giết hại khoảng 25 ngàn người Việt yêu nước.
3. Trần Tử Ca, nguyên là một người bên lương, sinh trưởng tại Gò Vấp. Lúc
đầu y đi theo kháng chiến, nhưng sau đó y theo đạo, rời bỏ hàng ngũ kháng chiến
theo giặc chống lại Tổ Quốc. Năm 1862, Ca được Pháp bổ làm tri huyện Hóc Môn.
Năm 1865, y đi theo quân đội Pháp càn quét các tỉnh miền Tây. Đêm 9-2-1885, Ca
bị nghĩa quân giết chết .
4. Huỳnh Công
Tấn là một người Công giáo trong hàng ngũ nghĩa quân của Trương Công Định
từ 1861. Ngày 20-8-1864, Tấn phản bội, bất thần phục kích giết chết Trương Định
tại Gò Công. Ngày 19-9-1868, Huỳnh Công Tấn cùng với 127 lính tập Công giáo vây
bắt Nguyễn Trung Trực tại đảo Phú Quốc. Như vậy, riêng một mình y đã sát hại
được hai nhà cách mạng kháng chiến nổi tiếng tại Nam Kỳ. Y được Pháp trao tặng
Bắc Đẩu Bội Tinh cho hai chiến công lớn này !
5. Tạ Văn Phụng, tức Phêrô Lê Duy Phụng, nguyên chủng sinh tại Penang,
lấy danh nghĩa là con cháu nhà Lê dấy binh khởi nghĩa tại Bắc Kỳ chống triều
đình Huế năm 1858. Tạ Văn Phụng nhờ các giáo sĩ liên lạc với chính phủ Pháp để
xin giúp đỡ. Napoleon III đồng ý, và cử tên gián điệp Duval sang Việt Nam giúp
Phụng với mục đích biến Bắc Kỳ thành một xứ Công giáo với một chính quyền Công
giáo. Duval đi Macao mua vũ khí và giúp Phụng thành lập những đoàn quân gồm đa
số là giáo dân. Trong các tháng 6 và 7-1863, Phụng khởi quân đánh chiếm một vùng
rộng lớn ở đồng bằng Bắc Bộ gồn 3 tỉnh Quảng Yên, Hải Dương và Nam Định.Triều
đình Huế cử Nguyễn Tri Phương đem quân ra Bắc dẹp loạn. Tạ Văn Phụng bị bắt đem
về Huế xử tử.
Chúng ta
cũng không nên quên là trong “hội thánh Công giáo” ở Việt Nam còn có một “đại
Việt gian” là Linh Mục Trần Lục, người đã đem 5000 giáo dân và các phương
tiện khác hỗ trợ quân xâm lăng Pháp để hạ chiến khu kháng chiến Ba Đình của Đinh
Công Tráng. Và sau này, khi thực dân Pháp trở lại Việt Nam để tái lập nền đô
hộ trên đất nước Việt Nam, và trong khi toàn dân kháng chiến, thì ở Bùi Chu và
Phát Diệm, hai đại Việt Gian là Giám mục Lê Hữu Từ và Linh mục Hoàng Quỳnh
đã nhận vũ khí của Pháp, lập những khu gọi là “tự trị” dưới quyền Pháp, huy động
giáo dân đi săn lùng và giết hại kháng chiến quân để chống Cộng cho Chúa theo
lệnh của Giáo Hoàng Pius XII. Người Việt Nam chắc chưa ai quên câu nói ô nhục
đã ghi vào sử sách của Linh mục Việt Gian Hoàng Quỳnh: “Thà mất nước chứ
chẳng thà mất Chúa”. Chúng ta cũng không nên quên rằng Chúa của Hoàng Quỳnh
chỉ là một người thường Do Thái được nền thần học Ki Tô Giáo đôn lên làm Chúa
Cứu Thế, chứ thực ra không có gì có thể gọi là Chúa Cứu Thế, vì ông ta đã chết
và táng xác cách đây gần 2000 năm. Tuy rằng nền thần học Ki Tô Giáo bịa chuyện
là ông ta đã sống lại và bay lên trời, hiện đang ngồi bên tay phải của Thượng
đế, nhưng những điều này nay đã không còn giá trị trong phần lớn nhân loại vì
những hiểu biết của con người ngày nay về vũ trụ và nguồn gốc loài người. Hơn
nữa người ta đã tìm thấy “bộ xương cứu thế” của Chúa trong một tiểu quách ở
Jerusalem. Chúng ta thấy chỉ vì mù quáng tin vào một điều hoang đường của nền
thần học Ki Tô Giáo mà một số người Công giáo Việt Nam đã trở thành “Việt gian”,
lưu xú vạn niên.
Gần đây, Giáo
sư Nguyễn Mạnh Quang đã liệt Tổng Thống Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm
thuộc gia đình “ba đời làm Việt gian” [tam đại Việt gian]. Ông giải thích cụm
từ “tam đại Việt gian” như sau:
http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH63_1c.php :
Ở thế hệ thứ nhất của gia đình ông
Diệm - trong lá thư đề ngày 21/8/1944 gửi cho Toàn Quyền Jean Decoux, Giám-mục
Ngô Đình Thục khẳng định rằng thân phụ ông, tức là ông Ngô Đình Khả “đã phục
vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An Nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho
nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, dưới quyền của Nguyễn
Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ An và Hà
Tĩnh.” Xin xem
lá thư của Giám Mục Ngô ĐìnhThục gửi Tòan Quyền Decoux ở bài trên.
Để độc giả có
đầy đủ tài liệu, tôi xin để vào đây bài dịch lá thư của GM Ngô Đình Thục viết
bằng tiếng Pháp.
Bút tích của
GM có thể thấy trong:
http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH63_1b.php
“Tòa Truyền Giáo Vĩnh Long ngày 21 tháng 8 năm
1944
Vĩnh Long (Nam Kỳ),
Thưa Đô Đốc,
Một linh mục từ bổn Tòa được phái đi Sàigòn để lo việc
cho chủng viện vừa cho tôi biết rằng hai người em của tôi đang bị truy tố tại
Huế. Vì đã lâu không nhận được tin tức gì từ Huế, tôi không biết là điều tôi
được báo cáo có đúng sự thực hay không.
Tuy nhiên, nghĩ đến nỗi đau đớn và sự
bất nhẫn rất đúng mà chắc là Đô Đốc đã cảm thấy - nếu sự truy tố các em tôi là
có thật, tôi vội viết thư này để bày tỏ với Đô Đốc nỗi đau đớn lớn lao của tôi
về việc này.
Nếu hoạt động của hai em tôi được
chứng tỏ là có hại cho quyền lợi nước Pháp thì - với tư cách của một giám mục,
của một người An Nam, và với tư cách là con của một gia đình mà phụ thân đã
phục vụ nước Pháp ngay từ khi mới tới An Nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho
nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, dưới quyền của Nguyễn
Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ An và Hà
Tĩnh – tôi, tự đáy lòng, không chấp nhận [hoạt động của các em tôi].
Thưa Đô Đốc, tôi tuyên bố như vậy
không phải với mục đích bảo toàn địa vị cá nhân của tôi: bởi vì nếu xét rằng cá
nhân hèn mọn của tôi có thể phương hại đến quyền lợi của đạo [Thiên Chúa], tôi
sẽ vui vẻ rời khỏi Tòa Giám Mục này ngay.
Lời tuyên bố của tôi chỉ có mục đích
là tỏ cho Đô Đốc thấy rằng lòng tin tưởng trìu mến của Đô Đốc [đối với tôi] đã
không đặt vào một kẻ bất xứng hay vô ơn.
Thưa Đô Đốc, tôi chưa bao giờ tiếc là
đã xa Huế như thế này. Giá có mặt ở đấy, thì tôi đã có thể khuyên răn các em
tôi tốt hơn, và khi chuyện xẩy ra, tôi đã có thể chống lại các chủ đích của em
tôi, nếu quả thật các em tôi có nghĩ đến những dự định có thể gây hại cho quyền
lợi của nước Pháp.
Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô
Đốc, tôi xin thú thực là không tin – cho đến khi được chứng minh ngược
lại - rằng các em tôi đã phản lại truyền thống của gia đình chúng tôi đến như
thế, một gia đình đã tự mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi
ông cha của những quan lại bây giờ hầu hết đều chống Pháp và chỉ quyết định
thiên về Pháp khi thấy có lợi.
Ngay chính các em tôi đã từng liên tục
đưa mạng sống ra vì nước Pháp trong cuộc nổi loạn của Cộng Sản. Diệm, người em
kế tôi, suýt đã phải ngã gục dưới những phát súng của một Hoa Kiều Chợ Lớn được
phái đến Phan Rang với mục đích hại Diệm, Phan Rang là nơi mà Diệm đã mãnh liệt
chống giữ lối xâm nhập vào An Nam của các cán bộ Cộng Sản từ Nam Kỳ phái đến.
Lẽ tất nhiên, sự tận tụy của các em
tôi trong quá khứ không phải là điều nêu ra để làm cớ mà biện hộ cho hoạt động
bất cẩn của họ ngày hôm nay, nếu sự bất cẩn này được chứng tỏ là điều đã gây nên
tội. Tuy nhiên, tôi không nghĩ là tôi đã làm chuyện vô ích khi kêu gọi đến sự
khoan hồng đầy xót thương của Đô Đốc hầu xét với hảo ý trường hợp các em tôi. Đô
Đốc không phải là người chỉ xét đến hiện tại mà lại bỏ quên đi quá khứ. Tôi nêu
ra điều này khi xét thấy rằng Thân phụ tôi là Ngô Đình Khả đã từng được vinh
dự phục vụ nước Pháp dù sinh mạng bị hiểm nguy, và khi xét đến quá trình lâu
dài của các em tôi đối với nước Pháp, mà không sợ phải hy sinh mạng sống của
mình cho nước Pháp.
Thưa Đố Đốc, một lần nữa bày tỏ với
Đô Đốc tất cả niềm đau đớn của tôi trong vụ này, tôi xin Đô Đốc vui lòng nhận
nơi đây lời kính chào trân trọng nhất của tôi.- Ký tên: Ngô Đình Thục.”
Sang thế hệ thứ hai, Ngô Đình Khôi
là đứa con đầu lòng của Ngô Đình Khả cũng làm quan cho liên minh giặc Pháp -
Vatican đến chức Tuần Vũ Quảng Ngãi vào năm 1926, Tổng Đốc Quảng Nam vào năm
1930, và từ năm 1933 được thăng lên chức Kinh Lược các tỉnh miền Nam Trung Kỳ.
Riêng bản thân Ngô Đình Diệm được
quan thày Pháp – Vatican cho nắm giữ chức tri huyện huyện Hải Lăng vào năm 1922.
Năm 1928, ông được thăng lên chức Tuần Vũ Bình Thuận, và năm 1933, ông được
thăng lên chức Lại Bộ Thượng Thư tại triều đình bù nhìn Huế.
Thế hệ thứ ba còn có Ngô Đình Huân,
con trai của Ngô Đình Khôi làm mật vụ đắc lực cho giặc Nhật và được cho làm bí
thư cho Đại Sứ Nhật Yokoyama tại Huế.[ii]
Một sự kiện cần phải biết là lịch
sử đã khẳng định rằng (1) Liên Minh Pháp – Vatican là một thế lực xâm lăng cưỡng
chiếm nước ta làm thuộc địa, và (2) nhân dân ta đã liên tục nổi lên tổ chức
những lực lượng nghĩa quân để đánh đuổi liên minh giặc xâm lăng này từ năm 1858
cho đến năm 1954. Như vậy, những người Việt Nam làm tay sai hay làm quan
phục vụ cho chính sách xâm lăng của ngoại nhân đều bị lên án là phản quốc và gọi
là Việt gian.
Hoàng Gia Mô làm tri huyện Vĩnh Bảo
(Hải Dương)bị Việt Nam Quốc Dân Đảng dưới quyền lãnh đạo của nhà ái quốc Nguyễn
Thái Học lên án là phản quốc và gọi là Việt gian. Tên Việt gian này và bị xử tử
vào đêm ngày 15/2/1930.
Không phải chỉ có một mình Hoàng
Gia-Mô mới bị lên án là phản quốc và gọi là Việt gian, mà tất cả những người
làm quan hay làm việc đắc lực cho giặc như Trần Bá Lộc, Lê Hoan, Ngô Đình
Khả. Linh-mục Trần Lục, Hoàng Cao Khải, Lê Phát Đạt, Đỗ Hữu Phương, Hoàng Trọng
Phu, Nguyễn Duy Hàn, Petrus Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Bá Tòng,
Nguyễn Hữu Bài, Cung Đình Vận, Vi Văn Định, v.v… đều bị người Việt Nam và
lịch sử lên án là phản quốc và gọi là Việt gian.
Nhìn vào thành tích làm tay sai cho
liên minh giặc xâm lăng Pháp – Vatican và giặc Nhật của ông Ngô Đình Khả, các
con của ông Khả là Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, và người cháu
của ông ta là Ngô Đình Huân, chúng ta có thể khẳng định rằng gia đình họ Ngô
Đình có tới ba đời nối tiếp nhau làm Việt gian bán nước cho quân cướp ngoại thù.
Cho dù các văn nô và gia nô dưới trướng trong thời đại của ông có tôn kính ông
Diệm với bao nhiêu mỹ từ đi nữa, với những thành tích lưu xú vạn niên kể trên,
ông Diệm cần phải được nhắc đến với đại danh từ "tên" hay "thằng." Cho nên, đối
với lịch sử dân tộc, Ngô Đình Diệm phải chịu mang tiếng là thằng “tam đại
Việt gian”.
Bộ mặt Việt
Gian của Công giáo thể hiện rõ rệt trong vài vụ việc gần đây ở Việt Nam.
Thứ nhất là
vụ TGM Ngô Quang Kiệt huy động giáo dân ngu muội đi đòi đất Tòa Khâm Sứ cướp
được của Phật Giáo khi xưa, với búa, kìm, xà beng và làm ngăn trở giao thông
công cộng, gây ồn ào phiền nhiễu cho các đồng bào quanh vùng, và cắm đại cây
thập ác cùng dựng tượng một người đàn bà Do Thái ở những nơi không được phép.
Thứ nhì là ông
TGM Ngô Quang Kiệt tuyên bố một câu xanh rờn có tính cách xúc phạm đến cả dân
tộc Việt Nam: “Cảm thấy nhục nhã khi cầm tấm hộ chiếu Việt Nam”
Thứ ba
là vụ làm loạn ở giáo xứ Thái Hà. Theo văn thư của Ủy Ban Nhân Dân TP Hà Nội
gửi Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế thì:
Một số giáo sĩ tại nhà thờ Thái Hà
không những không ý thức được trách nhiệm công dân, không làm tốt chức phận của
mình, mà còn có những lời nói, việc làm cổ súy, khuyến khích các hành vi vi phạm
pháp luật…
Do đó Ủy Ban
Nhân Dân TP Hà Nội yêu cầu Giáo hội điều chuyển một số giáo sĩ ra khỏi địa phận
Hà Nội [Thật là vớ vẩn, vi phạm luật pháp thì bắt phạt và giáo huấn, chứ sao
lại thuyên chuyển đi nơi khác đề tiếp tục vi phạm luật pháp ở nơi khác hay sao,
giống như các linh mục loạn dâm ở Mỹ, vi phạm ở địa phương này, thì “bề trên”
lại thuyên chuyển tới địa phương khác để tiếp tục loạn dâm. Giáo sĩ hay bất cứ
ai, ở chức vụ nào, cũng đếu là công dân nước Việt. Nhà Nước có bổn phận phải
trừng phạt, giáo huấn những hạng người vi phạm luật pháp này, không thể đối xử
đặc biệt vì họ theo đạo Công giáo]
Trước yêu cầu
khoan nhượng và hợp lý của Ủy Ban Nhân Dân TP Hà Nội, chúng ta hãy đọc một đoạn
trong thư trả lời của Dòng Chúa Cứu Thế [Gọi vậy cho vui chứ chẳng có Chúa nào
gọi là Chúa Cứu Thế cả, những nghiên cứu của giới học giả Âu Mỹ trong vòng 200
năm nay đã đưa đến một điểm đồng thuận: Giê-su chẳng khác nào là một người
thường sống với một hoang tưởng, và giới thức giả đã dạy điều này cho các linh
mục, mục sư biết, nhưng vì quyền lợi thế tục nên đám linh mục, mục sư này không
dám dạy điều đó cho con chiên, và vẫn tiếp tục giữ họ trong bóng tối của tù ngục
tâm linh (Xin đọc Gospel Truth của Russell Shorto)]:
Chúng tôi thấy rằng xét theo
Giáo Luật của Hội Thánh Công Giáo, Hiến Pháp và Quy Luật của Dòng Chúa Cứu Thế,
đồng thời cũng xét về phương diện mục vụ, các linh mục….không vi phạm điều gì để
phải bị “phê phán và giáo dục” và bị “điều chuyển khỏi địa phận thành phố Hà
Nội”.
Tại sao Dòng
Chúa Cứu Thế lại có thể viết một cách ngu xuẩn trịch thượng như vậy. Giáo
luật và hiến pháp hay gì gì nữa của Công giáo thì chỉ có giá trị trong Công giáo
và không ai, nhất là Nhà Nước Việt Nam, phải tôn trọng những giáo luật và hiến
pháp của một tổ chức tôn giáo thiểu số trên thế giới, nhất là khi tôn giáo đó đã
mang tội việt gian phản quốc như lịch sử đã ghi rõ. Như vậy là giáo luật
Công giáo đứng trên luật pháp của Nhà Nước hay sao. Đúng là cái truyền thống
“Việt Gian” mới có thể viết lên những câu coi thường phản bội quốc gia như vậy.
Mở mắt ra mà coi ở Mỹ xem có bao nhiêu ông Linh mục đi tù vì tội loạn dâm với
con trẻ và nữ tín đồ. Nếu theo Giáo luật của Công giáo thì chỉ có Tòa Thánh mới
có quyền xử đoán các Linh mục trong giáo hội Công giáo.
Một sự hiểu biết thấp kém khác của mấy ông giám
mục, linh mục ở Việt Nam là tuyên bố bậy bạ, sẵn sàng đi tù thay cho những ai bị
bắt đi tù. Tại sao mấy “Chúa thứ hai” ở Việt Nam lại đần đến độ không hiểu được
là trong những xã hội tân tiến ngày nay, tội của ai thì người ấy phải chịu, chứ
không ai có thể chịu tội thay cho người khác. Vấn đề gánh tội thay cho người
khác là cái lý thuyết thần học chuộc tội ngu xuẩn trong thời bán khai của dân
du mục Do Thái trong thời đồ đồng bán khai, chứ đối với các xã hội tân tiến ngày
nay thì ai làm tội người ấy chịu, chứ không ai được phép chịu tội thay thế cho
người có tội, khoan kể là cái gọi là “tội tổ tông” đó đã bị thế giới ngày nay,
kể cả những bậc lãnh đạo trong Công Giáo, từ Giáo hoàng trở xuống, vứt bỏ đi
rồi. Tuy nhiên ở Việt Nam thì mấy ông Giám Mục, Linh Mục ngày nay mà vẫn ngu
ngơ đòi đi tù thay cho các giáo dân bị bắt. Luật Pháp nào cho phép các ông “hi
sinh” như vậy. Tôi cho rằng không phải là các ông không biết vậy, nhưng nói cho
ra vẻ “bề trên” hi sinh cho con chiên, chứ biết rõ rằng không bao giờ có thể
thực hiện được lời mình nói. Nhà Nước đâu có ngu mà để cho các ông đi tù thay,
để các ông lại rêu rao là Nhà Nước đàn áp tôn giáo, bắt người vô tội.
Tôi đề nghị
với Nhà Nước Việt Nam hãy viết thư thẳng cho Giáo hoàng Benedict XVI, bảo ông ta
phải dạy dỗ đàn con chiên ngu muội của ông ta ở Việt Nam phải hành xử làm sao
cho xứng đáng là một công dân của một quốc gia độc lập Việt Nam, chứ không thể
dựa thế Vatican để làm càn, vi phạm luật pháp của Việt Nam. Việc phải làm thì
cứ làm, chứ còn ông ấy có nghe theo hay không thì là chuyện của ông đó. Cần
phải ý thức được rằng, Vatican bây giờ chỉ là con cọp giấy, vì những thanh gươm
và bó củi đã tước ra khỏi những bàn tay đẫm máu của Giáo hội. Ngày nay, giáo
hoàng có nói gì thì chỉ có đám con chiên ngu ngơ ngốc nghếch nghe theo và ca
tụng, chứ những con chiên có đầu óc ở Âu Mỹ thì chẳng coi những lời phán của ông
ta ra cái gì, nhiều khi còn lên tiếng thẳng thắn phê bình chống đối. Chính Giáo
hoàng Benedict XVI đã nhiều lần thú nhận là Công giáo ở Âu Châu suy thoái không
cơ cứu vãn, Âu Châu sống như là không có Thiên Chúa mà cũng chẳng màng đến cái
gọi là “ơn cứu rỗi” của Giê-su. Nhà Nước phải dạy cho giáo dân biết rõ về tôn
giáo của họ, dạy họ bớt cuồng tín, và trở lại làm người theo đúng nghĩa là một
con người, con người Việt Nam. Người Công giáo, nhất là Công giáo Việt Nam, chỉ
sợ sự thật, và tìm mọi cách kể cả đút lót, mua chuộc để che dấu sự thật. Tất cả
những sự thật trong giáo hội mẹ, như Giáo hoàng John Paul II khuyên răn các con
chiên phải ăn năn thống hối trước một thiên niên kỷ mới, hay sự kiện giáo hội
xưng thú 7 núi tội ác của giáo hội với thế giới, hay Giáo hoàng tuyên bố công
nhận thuyết Tiến Hóa, không làm gì có thiên đường trên các từng mây cũng như
không làm gì có hỏa ngục dưới lòng đất, vụ trên 5000 linh mục can tội loạn dâm,
và vụ các linh mục đã cưỡng bách tình dục các “sơ” trên 23 quốc gia v..v.., các
giáo dân Việt Nam đều bị bưng bít, rất ít người biết. Do đó Nhà Nước có bổn
phận phải giáo dục giáo dân để họ biết về những sự thật trong tôn giáo của họ.
Người Công giáo Việt Nam có vẻ như không đủ trí tuệ để hiểu rằng, họ càng có
những hành động vô lối, coi thường quốc gia bao nhiêu thì càng để lộ trình độ
hiểu biết thấp kém và bộ mặt “Việt gian” của họ bấy nhiêu. Với những sự thật về
Công giáo càng ngày càng được phơi bày, và trước những hành động phi pháp của
Công giáo có hại cho dân tộc, ngày nay người dân không còn e dè nể nang nữa, tôi
hi vọng người dân Việt Nam sẽ ý thức được cái hiểm họa của Công giáo và phải lên
tiếng giáo dục họ nếu họ không chịu thay đổi tư duy để đồng hành với đại bộ phận
dân tộc.
Nay chúng ta
đã hiểu tại sao Charlie Nguyễn, một tín đồ đạo gốc Công Giáo, sau khi tỉnh ngộ
đã viết lên những sự thực về bản chất phi dân tộc của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
như sau:
Hội đồng Giám mục
hiện nay gồm các hồng y, tổng giám mục và giám mục do Vatican tuyển chọn kỹ
càng. Hội đồng này là cơ quan lãnh đạo đầu não của giáo hội Công giáo VN, đồng
thời cũng là ban tham mưu tối cao của đạo quân thứ năm nằm vùng trong nước, luôn
luôn sẵn sàng tuân hành mọi chỉ thị phát ra từ Vatican.
Muốn vô hiệu hóa
cái vòi xâm lược của con Bạch tuộc vatican, việc cần thiết phải thực hiện là
giải tán Hội đồng Giám mục VN… Giải tán Hội đồng Giám mục là bước đầu tiên phải
có trước khi tiến tới việc thành lập Giáo hội Công giáo VN tự trị. Nói cách
khác, Giáo hội Công giáo Việt Nam tự trị sẽ trở nên vô nghĩa khi Hội đồng Giám
mục do Vatican lập nên vẫn còn tồn tại và vẫn tiếp tục lãnh đạo giáo hội. Giải
tán Hội đồng Giám mục chính là một hành động thực tiễn phá bỏ cái mắt xích trọng
yếu trong guồng máy xâm lược của Vatican để bảo tồn sinh mạng dân tộc Việt Nam.
Giáo hội Công giáo VN từ xưa đến
nay chưa bao giờ từ bỏ truyền thống phản quốc cố hữu của họ. Đúng như hai tác
giả Nhật Nam và Hồng Hà LTV nhận xét trong các bài tham luận nói trên : “Bảy
triệu tín đồ Công giáo là một loại ung thư cực kỳ nguy hiểm trên cơ thể quốc
gia, do đó cần phải tìm cách cô lập chặt chẽ để giới hạn tối đa sức bành trướng
của nó”. Đúng vậy, nếu không có phương cách ngăn chận sự bành trướng của căn
bệnh ung thư Công giáo và Tin lành thì căn bệnh nguy hiểm này có thể gây tử vong
cho Tổ quốc Việt Nam.
Cần đặt nặng vấn đề giáo dục để cải
hóa 7 triệu tín đồ Công giáo VN nhằm giúp họ phản tỉnh trở về với dân tộc.
Người Công giáo không thể cùng một
lúc vừa trung thành với Vatican vừa trung thành với Tổ quốc. Bất cứ một tín đồ
nào trung thành với Vatican đều đương nhiên trở thành kẻ phản quốc. Đây là một
sự thật hiển nhiên có thể được kiểm chứng dễ dàng bằng lịch sử thế giới và bằng
lịch sử Việt Nam.
Ở trong nước
thì như vậy, ở hải ngoại thì sao? Theo định nghĩa về Việt gian ở trên thì ở hải
ngoại chúng ta cũng không thiếu gì Việt gian. Đọc trên những trang nhà như
dongduongthoibao.net hay nhandanvietnam.org chúng ta thấy cả một danh
sách và chân dung một số Việt gian nổi tiếng, có hạng nhất và có hạng hai. Đứng
đầu hạng nhất thì không ai có thể qua mặt vị thế vững vàng như bốn chân của Võ
Văn Ái, con nội trùng của Phật Giáo Việt Nam, và của đồng chủ tịch hạng nhất
Nguyễn Gia Kiểng. Các khuôn mặt Việt gian cũng không thiếu trên các diễn đàn
Tiếng Nói Giáo Dân hay VietCatholic. Tuy nhiên, những hạng người này không đáng
để chúng ta phải quan tâm vì tư cách và khả năng của chúng không có gì. Đọc
Nguyễn Văn Lục, Nguyễn Anh Tuấn, Chu Tất Tiến, Đinh Xuân Minh v..v.. chúng ta
thấy rõ như vậy.
Nguồn:
http://nhandanvietnam.org/view.php?storyid=280
http://www.dongduongthoibao.net/view.php?storyid=231
Việt Cộng:
Theo http://en.wikipedia.org/wiki/Viet_Cong
thì từ Việt Cộng xuất hiện lần đầu tiên trong báo chí ở Saigon năm 1956 để chỉ
những người trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Người Mỹ dùng từ Việt Cộng bắt
đầu từ năm 1957. Lính Mỹ gọi những người trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam là
“Victor Charlie” hay VC. Do đó, dùng danh từ Việt Cộng để chỉ tất cả những
người Cộng sản là sai, nhưng danh từ này đã bị lạm dụng tràn ngập ở hải ngoại.
Từ đâu mà có
Việt Cộng. Tài liệu Ngũ Giác Đài đã viết rõ. Chúng ta có thể đọc trong The
Pentagon Papers, Gravel Edition, Volume 1, Chapter 5, "Origins of the
Insurgency in South Vietnam, 1954-1960" (Boston: Beacon Press, 1971), Mục G.
THE VIET CONG; 1. Diem and Communists, vài đoạn như sau:
Ngô Đình Diệm
nắm quyền trong một quốc gia mà dù tất cả những hứa hẹn trên đầu môi chót lưỡi
là cho tự do cá nhân và theo kiểu chính phủ Mỹ, vẫn chỉ là một chế độ độc đảng,
một tập đoàn đầu sỏ chính trị gia đình trị trong đó không có sự thực thi dân chủ
cũng như những điều kiện tiên quyết để cho dân chủ. Ngày 11 tháng 1, 1956,
trong sắc lệnh CPVN số 6, Tổng thống Diệm ban bố những biện pháp rộng rãi của
chính phủ nhằm “bảo vệ quốc gia và trật tự công cộng”, gồm quyền bắt giam “những
cá nhân bị coi là nguy hiểm cho quốc gia” hoặc cho “quốc phòng và an ninh chung”
trong những trung tâm cải tạo. Một tháng sau ngày Hiệp Định Geneva quy định
toàn dân bỏ phiếu trong cuộc tổng tuyển cử vào ngày 21 tháng 8, 1956, chính phủ
VN tuyên bố sắc lệnh số 47, định nghĩa sự vi phạm luật có thể bị xử tử hình bất
cứ hành động nào của ai hỗ trợ cho bất cứ tổ chức nào bị chỉ định là Cộng sản.
Hơn nữa, chính phủ VN bắt buộc phải dùng bạo lực để củng cố quyền lực trong vùng
thôn quê.
Một bài trong
tờ Foreign Affairs vào tháng 1, 1957, một phân tích gia Mỹ đã viết rõ như sau:
Nam Việt Nam
nay là một quốc gia-cảnh sát tùy tiện bắt giữ và cầm tù, kiểm duyệt báo chí chặt
chẽ và không có một lực lượng chống đối chính trị hữu hiệu… Tất cả những kỹ
thuật về chiến tranh chính trị và tâm lý cũng như là các chiến dịch bình định
bởi những cuộc hành quân quân sự rộng lớn là dùng để chống những đối lập ngầm.
[Ngo Dinh Diem presided over a
state which, for all the lip service it paid to individual freedom and American
style government, remained a one party, highly centralized familial oligarchy in
which neither operating democracy, nor the prerequisites for such existed. On 11
January, 1956, in GVN Ordinance Number 6, President Diem decreed broad
governmental measures providing for "the defense of the state and public order,"
including authority to detain "individuals considered a danger to the state" or
to "national defense and common security" at re-education centers. One month
after the date of the scheduled Geneva plebescite, on 21 August 1956, the
Government of Vietnam proclaimed Ordinance Number 47, which defined as a breach
of law punishable by death any deed performed in or for any organization
designated as "Communist." Moreover, the GVN was forced to use violence to
establish itself in its own rural areas.
In an article published in the
January, 1957, Foreign Affairs, an American analyst stated that:
South Viet Nam is today a quasi-police
state characterized by arbitrary arrests and imprisonment, strict censorship of
the press and the absence of an effective political opposition. . . . All the
techniques of political and psychological warfare, as well as pacification
campaigns involving extensive military operations have been brought to bear
against the underground.]
Chúng ta đã biết, những sắc
lệnh trên của chính phủ Diệm đã hợp pháp hóa chính sách tố Cộng bừa bãi của Diệm
và nằm trong mưu đồ Công giáo hóa miền Nam với kết quả là trên 300000 (300 ngàn)
người dân Việt đã bị giết hại, vừa để chiếm hữu tài sản, vừa để cưỡng ép vào đạo
v..v.. mà phần lớn những nạn nhân không phải là “Việt Cộng”. Cái mũ “Cộng sản”
đã được Ngô Đình Cẩn ở miền Trung chụp lên đầu những thương gia có máu mặt ở Huế
để cướp tài sản của họ. Với những tài liệu như trên mà ngày nay những người
Công giáo vẫn ra công lên án là ở Việt Nam hiện nay không có tự do, không có
nhân quyền, không có tự do tôn giáo.. Trong thời Diệm, không có một ông Linh
mục hay một trí thức Công giáo nào lên tiếng đòi đa nguyên đa đảng, tự do báo
chí hay “quyền làm người ở Nam Việt Nam”. Quan niệm về tự do, dân chủ, nhân
quyền của những người Công Giáo Việt Nam từ xưa tới nay là “tự do, dân chủ, nhân
quyền của những con chiên nô lệ Vatican, gói ghém trong giáo lý “hãy tuyệt đối
tuân theo “đức vâng lời””, hãy “quên mình trong vâng phục”. Đó là thứ tự
do, dân chủ, nhân quyền mà họ muốn tranh đấu cho toàn thể dân tộc Việt Nam.
Đọc một số diễn đàn thông tin
điện tử thuộc thế lực đen ở ngoại quốc chúng ta thấy họ, phần lớn thuộc truyền
thống của tập đoàn Việt gian, vẫn ồn ào lên tiếng cả vú lấp miệng em, dùng một
từ rất ngu xuẩn là “Việt gian Cộng sản”. Phải chăng như vậy là để che đậy cái
bản chất “Việt gian” của chính mình. Bất kể Cộng sản là cái gì khác nhưng không
thể dùng hai chữ “Việt gian” để gán cho Cộng sản được. Trong khi các thế lực
làm tay sai cho ngoại quốc có không ít thì nhiều sắc thái của Việt gian thì
“Cộng sản” nói chung, “Việt cộng” nói riêng, đã có công vận động toàn dân đứng
lên chấm dứt chế độ thực dân Pháp ở Việt Nam và hoàn thành sự thống nhất cho
toàn lãnh thổ, thực hiện hoài bão của bao nhiêu người yêu nước lớp trước như
Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học v..v... Đó là những gì Cộng sản
đã làm cho đất nước bất kể ngày nay Cộng sản đã biến chất như thế nào. Mặt
khác, hãy mở mắt ra nhìn đất nước hồi trước và ngay sau 1975 và so với đất nước
ngày nay để thấy như thế nào. Chúng ta ở phía Quốc-Gia có quyền không hài lòng
với kết quả của cuộc chiến và có quyền không đồng ý với một số biện pháp chính
trị, xã hội của Cộng sản trong thời hậu chiến, nhưng chúng ta không thể bảo họ
là “Việt gian”.
Có điều lạ là, theo như báo
chí và trên các diễn đàn thông tin điện tử ở hải ngoại thì, “Việt Cộng” có mặt
khắp nơi và nhiều vô số kể ở hải ngoại. Trừ những người Công giáo nô lệ Vatican
không phải là quốc doanh ra, thì hầu như ai cũng là Việt Cộng cả. Có người
[phluu21@yahoo.com] đã lập danh sách những “Tên VC đặc công tuyên vận”
[sic] gồm ngót nghét 70 người có tên tuổi thuộc các thành phần trí thức như bác
sĩ, giáo sư đại học, nhà văn v…v… Ông Tú Gàn, alias Lữ Giang, alias Nguyễn Cần,
người Công giáo, không thỏa mãn với danh sách trên, nhưng cũng ngu như nhiều
người Công giáo khác, vẫn dùng cụm từ “Việt Gian Cộng sản” để gọi những người mà
ông ta cho là… “Việt gian Cộng sản” trong bài “Còn Thiếu Nhiều”. Ông ta cho
thêm vào danh sách trên một lô những tên tuổi khác, toàn là những tai to mặt lớn
trong cộng đồng người Việt di cư, nhưng ông quên mất chính ông, vì đã có người
lên án ông ta là Việt Cộng.. Có điều lạ nữa là tại sao họ lại bỏ sót tên Trần
Chung Ngọc, có lẽ họ biết rõ rằng ai sợ thì sợ chứ tôi chẳng bao giờ coi cái mũ
“Việt gian cộng sản” là cái gì, chẳng qua chỉ là cái mũ của những kẻ vô trình
độ, ngu xuẩn và thiếu học vấn, cho nên chỉ đáng mặt làm nghề buôn nón cối chứ
không thể len vào giới trí thức. Bao nhiêu bài viết của tôi, viết cả về “Cụ Hồ”
và “Cụ Diệm”, và khá nhiều về Công giáo, nhưng có ai lên tiếng phản bác gì đâu.
Làm sao mà phản bác được những bài thuộc loại nghiên cứu với đầy đủ tài liệu.
Cho nên nhiều nhất là chụp đại lên đầu tôi vài cái mũ. Nhưng đối với tôi, vì ở
xứ lạnh, mấy hôm trước nhiệt độ xuống dưới 0 độ F, với Wind chill là –30o
F, nên càng có nhiều mũ đội càng ấm.
Có thể nói, như là một “tiêu
chuẩn trí thức” [sic] ở hải ngoại là: “Tôi không đồng ý với anh, hoặc anh nổi
tiếng hơn tôi, hoặc anh kiếm nhiều tiền hơn tôi, hoặc báo của anh bán chạy hơn
báo của tôi v..v.., thì tất nhiên anh phải là “Việt Cộng”” Nhưng những
người dùng cái tiêu chuẩn chụp mũ này đần đến độ không hiểu rằng, cái mũ “Việt
Cộng” ngày nay chẳng có giá trị gì, nó chỉ chứng tỏ những người dùng nó đều ngu
xuẩn và thiếu học vấn, theo như tờ OCRegister trước đây [stupid and
uneducated]. Biết rằng nó không còn giá trị mà vẫn dùng thì đúng là ngu xuẩn và
thiếu học vấn. Sau đây chúng ta sẽ sang vấn đề Việt Kiều xem họ nghĩ sao về
Việt Cộng.
Việt kiều:
Việt Kiều là người Việt định cư ở nước ngoài.
Người Việt nào sống ở nước nào thì thường mang quốc tịch của nước đó. Cho nên
trên thực tế Việt Kiều là những người gốc Việt mang quốc tịch Mỹ, Pháp, Úc
v..v.. Những người Việt xuất cảnh đi làm việc ở nước ngoài, ngắn hạn hay dài
hạn, không được kể là Việt Kiều. Có khoảng trên dưới 2.5 triệu người Việt sống
ở nước ngoài. Cộng đồng Việt Kiều rất phức tạp, có đủ mọi loại, mọi thành phần
như một tiểu quốc: bác sĩ, nha sĩ [một số gian lận để lấy tiền của chính phủ],
kỹ sư, luật sư, nhà khoa học [có người làm bom áp nhiệt để giết người], nhà giáo
dục, ăn trộm, ăn cướp, giết người, buôn lậuv..v… Nhưng đặc tính của một số Việt
Kiều chống Cộng năng nổ nhất mà phần lớn là người Công giáo là giống như những
con bò mộng Tây Ban Nha, chỉ nhìn thấy màu đỏ là húc càn, bất kể lý lẽ, bất kể
sự thực. Một đặc tính khác của nhóm người này là, theo Lữ Giang:
Gần như ngày nào trên các diễn đàn
Internet và website của "người Việt chống cộng" cũng có bài tố cáo người này
người kia hay nhóm nọ nhóm kia là đặc công cộng sản nằm vùng. Tiêu chuẩn để phân
biệt "địch" và "ta" được rập khuôn: "Nói hay làm theo ta là quốc gia, nói hay
làm trái lại là cộng sản nằm vùng".
Tương đối, giới trẻ Việt Kiều trong nhiều gia
đình, không phải là tất cả, rất thành công ở nước ngoài, thành công trong mọi
lãnh vực, nhất là về giáo dục. Lớp trẻ này đa số không quan tâm đến vấn đề thù
nghịch giữa quốc gia và cộng sản, vì thực ra họ không có những kinh nghiệm bản
thân và không biết gì về quốc gia hay cộng sản. Tuy nhiên, có một thiểu số được
cha ông truyền lại mối thù hận một chiều của lớp trước, cho nên họ cũng tham gia
những hành động chống Cộng một cách không cần dùng mấy đến đầu óc. Điều này
chúng ta có thể thấy rõ trong một bài viết trên
http://www.lyhuong.net/web/modules/edito/content.php?id=22 của Trần Bình.
Sau đây là vài đoạn trong đó. Chúng ta nên để ý là những nhận xét của tác giả
là về những thành phần chống Cộng năng nổ mà phần lớn thuộc thế lực đen và già
nua chứ không phải là về tập thể người Việt hải ngoại nói chung.
Gửi các bạn ở hải
ngoại: Các bạn chửi Cộng Sản 32 năm nay chưa thỏa lòng sao? Đã hơn 32 năm, các
bạn cứ tiếp tục chửi bới, và chế độ hà khắc ở VN vẫn tiếp tục tồn tại…
Như vậy, rõ ràng là
thất bại không phải là do "địch" mạnh, mà do "ta" yếu. Nói rõ hơn, dân trí Việt
Kiều, nhất là trong số những người hay về VN, quá yếu kém nên đã không thể thúc
đẩy một phong trào dân chủ toàn dân ở trong nước.
Một sự thật đáng
buồn: ngoại trừ một số ít trí thức hiếm hoi (tỉ lệ cao hơn ở các nước Châu Âu)
[không hẳn vậy. TCN] có thể viết lách, lý luận và còn chút ưu tư đất nước, còn
lại đa số Việt Kiều [chống Cộng. TCN] mặc dù đã tiếp cận với nền văn minh dân
chủ Phương Tây đã lâu nhưng đã chẳng học hỏi được gì, bởi đa số họ vốn xuất thân
từ một lối sống èo uột nửa Tây nửa phong kiến, khi ra được nước ngoài (dù là
vượt biên, HO, con lai hay diện ODP) đều chỉ biết có một mục tiêu duy nhất là
đồng tiền chứ không biết trau dồi tri thức (lười đọc sách, chỉ nghe nhạc hoặc
xem Video)…
Họ sợ lớp trẻ quên tiếng Việt nhưng
lại không biết lo rằng coi chừng tiếng Anh của chúng chưa đủ để tiếp cận tinh
hoa văn hóa của phương Tây. [Điều này tác giả nhận định sai vì lớp trẻ không có
vấn đề với tiếng Anh và tiếp cận tinh hoa văn hóa Tây phương rất mau, dù rằng có
nhiều trường hợp chỉ tiếp cận những rác rưởi trong nền văn hóa đó, mà chỉ có vấn
đề với tiếng Việt. Do đó mối lo ngại lớp trẻ quên tiếng Việt là chính đáng.
Đây cũng là điều khác giữa người Việt và người Trung Quốc. Trẻ con trong các
gia đình Trung Quốc đều bắt buộc phải học tiếng Trung Quốc và sinh hoạt văn hóa
Trung Quốc những ngày chủ nhật. TCN] Họ còn thích nghe những bản nhạc than khóc
não nùng èo uột muôn thưở kiểu Việt Nam vốn có khả năng làm con người mềm yếu,
mất tính chiến đấu (kiểu băng nhạc TN Paris) mà trước năm 1975 đã góp phần vào
sự bại trận của miền Nam. [Điều này chỉ đúng với lớp người đã lớn tuổi. Tôi là
một biệt lệ vì chưa bao giờ bỏ tiền ra mua băng nhạc Thúy Nga hay tham dự những
buổi văn nghệ của cộng đồng. TCN]
Ngoại ngữ kém cỏi (tiếng Mỹ,
Pháp...) cũng là một đặc điểm nữa của cộng đồng [người lớn] Việt Kiều. Không
phải là điều đáng ngạc nhiên khi dư luận Mỹ (và ở các quốc gia Châu Âu khác) cho
tới giờ này vẫn biết rất ít về công cuộc đấu tranh dân chủ của người Việt hải
ngoại. Bởi vì trong đa số VK, khả năng viết, nói và đọc ngoại ngữ rất kém, cho
nên không thể trao đổi tư tưởng hoặc truyền đạt thông điệp của mình cho người
bản xứ.
Có một sự việc đáng
buồn nhưng ít ai biết từ mấy chục năm qua, đến gần đây mới lộ ra. Ở New Orleans,
US, nếu không có cơn bão Katrina vừa rồi, thì đâu có ai biết là rất nhiều người
Việt định cư ở New Orleans không biết nói tiếng Anh và không thể tiếp xúc với
Cảnh Sát khi có việc cần. (đây là những người qua đây từ 1975 đã có cơ nghiệp
vững vàng, chứ không phải những người mới qua).
Ở những nơi tập trung
đông người Việt như California, Georgia, Texas, và vùng Washington DC, mọi giao
dịch đều dùng tiếng Việt, kết quả là trình độ ngoại ngữ của người Việt rất kém.
Đã không tiến bộ, thì
phải thụt lùi. Lối tư duy, lý luận và cách hành xử của Việt Kiều giờ này chẳng
khá hơn bao nhiêu khi còn ở Việt Nam. Hãy xem xét những hoạt động "văn hóa" của
Việt Kiều ở hải ngoại. Có mấy ai đọc sách, suy tư, hoặc viết lách khi rảnh rang.
Họ chỉ biết, từ năm này qua năm khác (1984 đến giờ) khi rảnh thì đón mua băng TN
Paris để nghe đi nghe lại những bài nhạc "quê hương" cũ rích chỉ thay đổi có ca
sĩ trình bày và để nghe ông NNNgạn và cô "đào" dài chân mặc váy ngắn (và rất ưa
"phô" nó ra) NCK Duyen nhai đi nhai lại ba cái chuyện đàn ông đàn bà ghen tuông
nhảm nhí, thiếu vắng chiều sâu về tâm lý xã hội cũng như nghệ thuật hài hước.
Tương tự như vậy,
giới Việt Kiều rất "mê" HLinh và VSơn với những trò hề rẻ tiền được lập đi lập
lại muôn thuở: ỏng ẹo giả gái, giả giọng Phú Yên, giọng Bắc, giọng Quảng, lời lẽ
chợ trời thô tục…
Những kẻ ngày xưa đã từng lớn tiếng
tự nhận là "tị nạn chính trị" phải hy sinh cả tính mạng bản thân và gia đình để
"đi tìm bến bờ tự do", giờ này chỉ biết chạy đôn chạy đáo kiếm tiền, cơm ngày 3
bữa no nê nằm ễnh ngửa trên sa lông thưởng thức những băng nhạc hề nhảm nhí,
những bản nhạc than khóc hay ca tụng (rỗng tuyếch) quê hương đất nước và hễ có
dăm ba ngày nghỉ và dư vài ngàn đô là đem về VN "thả", xây nhà cất cửa, du lịch,
ăn nhậu - đàn bà thì khoe khoang đồ trang sức quần áo, đàn ông thanh niên thì đi
tìm gái, lấy vợ "hai, hoặc ba".
Mỗi năm, hàng triệu
người Việt về thăm quê, ngoại trừ một vài trường hợp hiếm hoi chuyển tải một số
tài liệu dân chủ vào trong nước, còn đại đa số là về VN để vung tiền đô la, khoe
khoang, hưởng thụ, giải trí. Thậm chí còn buôn lậu nữ trang hoặc ma túy. Khi về
VN, họ cố tình ăn mặc cho "ra vẻ VK", họ đòi hỏi tiện nghi này nọ, chê bai đường
sá, nhà cửa ở VN thiếu tiện nghi. Chẳng trách sao người Việt trong nước vẫn đang
nhìn Việt Kiều qua lăng kính "đô la". Dưới mắt họ, Việt Kiều là những "chủng
loại" lạ lùng chẳng giống ai từ nước ngoài về, có rất nhiều tiền đô và cách ăn
mặc, cư xử, dáng dấp ngoại hình không giống người trong nước (mập, trắng trẻo,
xem "sang" hơn, hay đeo cái "bao tử (túi đựng tiền xu) ở bụng, đeo nhiều vòng
vàng nữ trang hơn...), khi nói chuyện thì giả bộ quên tiếng Việt hoặc bập bẹ vài
chữ tiếng Anh cho ra vẻ…
Không bắt buộc mỗi Việt Kiều về nước phải là một "chiến
sĩ dân chủ". Nhiều Việt Kiều bây giờ không màng đến chuyện chính trị vì lý do
này khác. Đây là tự do cá nhân của họ, ta không thể bắt buộc.,,
Một bài viết đưa ra những sự
thực đau lòng về những thành phần thấp kém trong cộng đồng Việt Kiều hỗn tạp
hiển nhiên không làm hài lòng một số người vẫn tự cho mình là những vô thượng
thiên tài về chính trị, về nhân quyền, về dân chủ v…v… Nhưng chúng ta không nên
quên rằng phần lớn những hoạt động chống Cộng, đúng ra là chống Việt Nam, của họ
đều bắt nguồn từ những tâm cảnh không biết gì là dân chủ với nhân quyền. Họ
hoảng sợ trước một ca sĩ, một nghệ sĩ, một thầy tu v..v.. từ trong nước sang và
có những hành động của băng đảng thuộc loại côn đồ cuồng tín phi dân chủ, phi
nhân quyền đối với những người này bất kể liêm sỉ, bất kể lẽ phải, và cho đó là
những hoạt động tranh đấu cho nhân quyền, cho tự do, cho dân chủ, và là những
chiến thắng lẫy lừng để vinh danh cờ vàng. Họ nghĩ rằng ai cũng ngu như họ, sợ
bóng sợ gió một ca sĩ, một nghệ sĩ, một ông thầy tu đi ra nước ngoài chỉ để phục
vụ nghệt thuật, hay hoằng dương Đạo Pháp, trong khi nội bộ của họ thì có đầy
những “VC đặc công tuyên vận”. Tuyệt đại đa số Việt Kiều thầm lặng lấy làm xấu
hổ đối với người ngoại quốc trước những hành động càn rỡ vô trí này, nhưng không
muốn lên tiếng vì không muốn gây chuyện với bọn vô lại. Vì thế chúng cứ tự do
múa gậy vườn hoang bất kể sự khinh khi của đa số Việt Kiều.
Có một số tự cho là trí thức,
nhà văn v..v.. nhưng chẳng làm nên nghề ngỗng gì cho ra hồn, lăn vào nghề viết
bài, viết báo chống Cộng và được các diễn đàn Công giáo đăng bài của mình, tưởng
như vậy là bảnh lắm, nhưng không biết rằng đối với giới trí thức hiểu biết thì
những bài thuộc loại chống Cộng đó rất là ấu trĩ vì đầy thiên kiến, xuyên tạc sự
kiện, nhìn mọi sự ở trong nước với cặp kính đen, và mù mịt trước những hiện thực
ở trong nước. Đối với những người này thì bất cứ sự kiện nào tích cực ở trong
nước họ cũng diễn giải theo chiều hướng tiêu cực. Họ đổ những tệ đoan xã hội ở
Việt Nam, những điều mà một đất nước đang phát triển kinh tế không thể tránh
được, lên đầu Cộng sản. Trong khi nước Mỹ, nơi họ ở, tệ đoan xã hội chiếm giải
quán quân trên thế giới, thì họ không dám thốt lên lời nào. Họ vui mừng làm bất
cứ điều gì mà họ nghĩ thiệt hại cho Việt Nam, từ tuyên truyền bịa đặt không mua
hàng Việt Nam, không về du lịch ở Việt Nam, không gửi tiền về Việt Nam. Họ nói
là chống Cộng nhưng thực sự họ chống tuyệt đại đa số người dân Việt Nam, họ
không muốn người dân có công ăn việc làm, họ không muốn cho nước nhà phát triển
kinh tế, họ không muốn cải tiến đời sống vật chất của người dân. Họ chỉ muốn
Việt Nam là nước đói khổ, tụt hậu nhất thế giới, như họ thường rêu rao trên báo
chí, trên các diễn đàn điện tử, và hi vọng vì đó mà Cộng sản phải giải thể để
cho Công giáo lên thay thế và đưa người dân vào vòng nô lệ Vatican. Nhưng kết
quả mưu đồ hại nước hại dân của những người có truyền thống cha truyền con nối
làm “Việt gian” này ra sao, chúng ta đã biết.
Trên
http://giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=3153 có một bài của Nhật
Anh, viết theo tờ Wall Street Journal, về chủ đề: Việt kiều đổ về
nước làm ăn, đăng ngày 18/12/2008. Vì là một bài nói về những
đóng góp của Việt Kiều cho quốc gia Việt Nam, tôi xin phép trang nhà Giao Điểm
được đang lại trong bài viết này:
Việt Kiều Đổ Về Nước Làm Ăn [Nhật
Anh viết theo Wall Street Journal]:
Việt Kiều và những ảnh hưởng to lớn đến sự
phát triển của Việt Nam
Xu hướng Việt kiều quay về sinh sống
và đầu tư kinh tế ở Việt Nam đã bắt đầu từ những năm 1990. Với bộ luật năm 1994
quy định về chính sách nhập cư và khuyến khích người Việt Nam sống ở nước ngoài
về đầu tư tại quê hương đã lôi cuốn rất nhiều Việt kiều về nước làm việc và sinh
sống, đặc biệt là những người có năng lực làm việc, có thể cống hiến cho tương
lai đất nước.
Dù là những người chủ các quán rượu,
các câu lạc bộ đêm các phòng trưng bày nghệ thuật, các cửa hàng thời trang, các
công ty kiến trúc hay các xưởng phim,… thì tất cả họ đều mang một phong cách làm
việc mới, một tiêu chuẩn quốc tế và một sự pha trộn văn hóa vào Việt Nam để giúp
Việt Nam ngày càng hiện đại hơn.
“Việt Kiều đã mang lại những ảnh hưởng
to lớn tới hầu hết các lĩnh vực trong đời sống ở Việt Nam” kể từ năm 1986, khi
đất nước bắt đầu thực hiện chính sách đổi mới, và mở cửa nền kinh tế, chuyên gia
nghiên cứu về Việt Nam, ông MarkSidel, một giáo sư luật học tại trường Đại Học
Iowa nói.
Bên cạnh việc đầu tư vào kinh tế, giáo
sư Sidel cũng nói thêm rằng Việt kiều đã đem lại những ý tưởng mới và hàng loạt
những kĩ năng chuyên nghiệp vào Việt Nam, đó chính là chìa khóa để đổi mới và
xây dựng quốc gia.
“Việt Nam vẫn phải thận trọng với một
số ít Việt Kiều thuộc các nhóm phản động ở nước ngoài về Việt Nam với mục đích
chống phá chính phủ, để thiết lập nền chính trị của họ ở Việt Nam”, giáo sư
MarkSidel nhấn mạnh. Nhưng hầu hết Việt Kiều trở về nước đều không quan tâm
đến chính trị, và “họ được chào đón ở tất cả mọi lĩnh vực của đời sống”.
Phát triển nghệ thuật
Henri Trần Anh Dũng, một Việt kiều 40 tuổi đã trở về sống
và đầu tư ở Việt Nam. Ông là người sáng lập Công ty Sud-Est Production, một công
ty chuyên làm quảng cáo và phim tại Thành phố Hồ Chí Minh. “Tôi đã khám phá ra
rằng tôi chưa bao giờ hiểu biết và cống hiến thực sự cho đất nước mình, đó là
một lỗi lầm rất lớn”, ông nói.
Bố mẹ ông là người Việt Nam, nhưng ông
được sinh ra ở Lào và theo cha mẹ sang sống ở Pháp từ năm 1975. Đầu những năm
1990, ông trở về Việt Nam để làm bộ phim “Xích lô” (Cyclo), một bộ phim do anh
trai của ông làm đạo diễn, ông Trần Anh Hùng, người đã được đề cử giải Oscar cho
bộ phim “Mùi đu đủ xanh” (The Scent of Green Papaya).
Sau thành công của “Xích lô”, ông Dũng rất mong muốn được
làm việc ở Việt Nam và đã quyết định thành lập Công ty Sud-Est Production. “Đó
là một sự quay trở về tuyệt vời”, ông Dũng nói. “Tôi lớn lên không bị ảnh hưởng
hoàn toàn bởi người Pháp và cũng không ảnh hưởng nhiều bởi người Việt. Con người
tôi là một sự hòa trộn”.
Phạm Quỳnh, 35 tuổi, một nhà nghệ
thuật đã quay trở về Việt Nam 10 năm trước đây. Sinh ra ở Đà Nẵng, di cư sang Mỹ
năm 1975 và lớn lên ở San Diego, bà đã trở về và mở phòng triển lãm Galerie
Quynh ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đó là một trong những phòng triển lãm hàng đầu về
nghệ thuật Việt Nam đương đại, chuyên trưng bày những tác phẩm của các họa sĩ
trẻ người Việt, đặc biệt là những tác phẩm của người Việt xa xứ. “Phòng trưng
bày của tôi bao gồm nhiều tác phẩm của Việt Kiều hơn là của người Việt Nam”, bà
nói.
“Những họa sĩ này nhận bằng Đại Học sáng tạo nghệ thuật ở
nước ngoài và trở về Việt Nam với rất nhiều ý tưởng và phong cách sáng tạo nghệ
thuật đa dạng, độc đáo”. Bà Quỳnh nói thêm.
Kinh doanh nhà hàng
Nghệ thuật nấu ăn và sáng tạo các món
ăn cũng là nét văn hóa đặc sắc của người Việt tạo nên những ấn tượng rất riêng
cho các Việt kiều.
David Thai là người sáng lập ra thương
hiệu Cà Phê Highlands. Từ một đại lý nhỏ lẻ ở Thành phố Hồ Chí Minh năm 2002,
giờ đây công ty đã lớn mạnh với một loạt các cửa hàng và hơn 60 đại lý trên khắp
cả nước.
Sinh ra ở Sài Gòn nhưng ông đã theo
gia đình định cư ở Seattle năm 1978. Thành công của một loạt công ty cà phê ở
đây đã khiến ông nghĩ đến việc kinh doanh tương tự ở Việt Nam. Năm 1996, ông về
Hà Nội học tiếng Việt trước khi mở quán cà phê đầu tiên, quán Âu Lạc ở hồ Hoàn
Kiếm.
Cùng mới việc mở rộng các cửa hàng cà
phê Highlands, ông Thai, 36 tuổi còn xuất khẩu những gói cà phê bột ra nước
ngoài và xuất cho các siêu thị trong nước.
Ở phố cổ Hà Nội, hẳn ai cũng biết đến
một nhà hàng rất đặc biệt có tên gọi Green Tangerine với người đầu bếp tài ba
Stephane Yvin. Nhà hàng được xây dựng lại từ một ngôi biệt thự thời thuộc địa
Pháp năm 1928, với những cánh cửa màu xanh đặc trưng.
Ông Yvin cho biết, thực đơn ở đây được
thay đổi liên tục, sử dụng “những gia vị của người Việt qua cách pha chế của
người Pháp”. Ông Yvin lớn lên ở Pháp, và trở về Việt nam năm 1993. Năm 2003, ông
Yvin và người vợ Việt Nam của mình đã mở Green Tangerine, một nhà hàng nổi tiếng
với tầng lớp trung lưu ở Hà Nội cũng như khách du lịch nước ngoài.
Ở Thành phố Hồ Chí Minh, bà Nguyễn
Phương Anh, 43 tuổi là một trong những Việt kiều gặt hái được nhiều thành công
trong kinh doanh các quán bar và các câu lạc bộ đêm sớm nhất ở Việt Nam.
Năm 1978, bà Phương Anh và gia đình đã
rời khỏi Việt Nam tới California và định cư ở Pasadena. Từ Mỹ về, bà cùng với
một người bạn người Việt đã mở quán bar Q Bar Saigon với kiểu kiến trúc Pháp tao
nhã. Sau một thời gian làm ăn và sinh sống ở Việt Nam, bà Nguyễn nói rằng “tôi
cảm thấy yêu mến và gắn bó với đất nước Việt Nam và đã quyết định ở lại”.
Ông Andrew Lam, một nhà soạn sách, một
người bạn của bà Phương Anh đã bày tỏ niềm tin rằng người bạn của mình – bà
Phương Anh sẽ “đem lại sức sống mới cho các quán rượu ở Việt Nam”.
Một Việt kiều khác cũng rất thành công
trong kinh doanh quán rượu ở Việt Nam – đó là ông Nguyễn Biên. Định cư ở Perth,
miền Tây Australia ba thập kỉ trước, Ông Nguyễn Biên đã quay trở về quê hương
Việt Nam để tìm kiếm thị trường và phát triển kinh doanh nhà hàng và quán rượu.
Ông là một doanh nhân trẻ 30 tuổi và là một trong hàng trăm, hàng ngàn Việt kiều
quyết tâm quay về tìm lại cội nguồn và làm giàu trên quê hương mình.
Ông Biên đã mở một nhà hàng và quán cà
phê nổi tiếng ở Thành phố Hồ Chí Minh – Xu. Xu được thiết kế bởi những mảnh gỗ
không gọt giũa và những ngọn đèn treo rất đẹp. Xu được mệnh danh là nhà hàng “mở
ra cách nấu nướng hiện đại cho Việt Nam”.
Sau khi gặt hái được một số thành công
với Xu, ông Biên mở thêm một loạt các nhà hàng bún bò và bún huế ở Thành phố Hồ
Chí Minh.
De Phạm Phú và vợ ông, bà Thảo sau một
thời gian dài sống ở miền Tây Nam nước Pháp cũng đã quay trở về Việt Nam, mở một
cửa hàng tên là Dong Pho, một nhà hàng được xây dựng lại từ một ngôi nhà của một
gia đình người Pháp thời thuộc địa.
Được khôi phục và hiện đại hóa một
cách hoàn hảo với một khu vườn dành để uống rượu, nhà hàng của họ là điểm đến lý
tưởng của du khách với những thực đơn hấp dẫn. Các món ăn chính là các món đặc
sản của huế cùng với những món ăn pha trộn giữa Pháp và châu Âu.
Hiện có rất nhiều Việt kiều mong muốn
được trở về quê hương: “Chúng tôi luôn tự hào là người Việt Nam. Sống ở nước
ngoài, chúng tôi chưa bao giờ thực sự cảm nhận được “ngôi nhà của chính mình”,
bà Phạm Phú nói. “Bây giờ chúng tôi dự định sẽ sống ở Việt Nam cho đến hết đời”.
Đây chỉ là vài trường hợp điển hình. Tôi cũng biết có
Việt Kiều ở Pháp, lấy việc về làm ở Việt Nam [outsource] vừa rẻ, vừa giúp cho
một số người Việt có công ăn việc làm, và rất thành công. Chúng ta thấy trong
khi giới trẻ Việt kiều có nhiều người tha thiết với sự đóng góp để phát triển
quốc gia thì một số người vẫn đi buôn thù hận và nhắm mắt nhắm mũi chống Cộng
một cách rất cuồng tín. Có ông linh mục Đinh Xuân Minh ở bên Đức còn khuyến
khích giáo dân hãy mang “Chúa Thánh Thần” ra mà chống Cộng, hay “Chống Cộng theo
gương David” [không biết rằng David chỉ là một tên tướng cướp rồi lên làm Vua,
trở thành một hôn quân, bạo Chúa, hoang dâm vô độ] hay Michael gì gì đó. Thật
là không biết nhục, không biết xấu hổ.
Sau bao năm năng nổ vận động như: ngăn
cản bỏ cấm vận, cản trở việc thông qua quy chế PNTR cho Việt Nam, cản trở Việt
Nam gia nhập WTO, van xin ông Bush lợi dụng dịp APEC để ép Việt Nam về nhân
quyền, khoa trương mấy cái nghị quyết ấm ớ của hạ viện Mỹ, của quốc hội Âu Châu
v…v… với mục đích để “Đen về thay thế Đỏ” mà không mang lại một kết quả nhỏ nhoi
nào. Hàng năm vẫn có nhiều trăm ngàn “Việt Kiều” về thăm quê hương đất tổ, và
không chỉ về có một lần, vẫn gửi cả mấy tỷ bạc về Việt Nam, vẫn mua hàng của
Việt Nam. Hàng năm, đến Tết, vẫn có cả trăm ngàn “Việt kiều” về quê ăn Tết.
Đối với những người đã về thăm quê hương thì họ thấy rõ sự thực về Việt Nam hơn
ai hết, cho nên tất cả những lời lẽ xuyên tạc, bịa đặt v..v.. về Việt Nam ở hải
ngoại chẳng còn một giá trị nào, chỉ có thể lừa bịp được những kẻ ngu ngơ ngốc
nghếch. Nhân dịp cái gọi là lễ “giáng sinh” năm nay, chúng tôi vẫn chọn hàng
xuất cảng từ Việt Nam, điển hình là quần áo v..v.. để mua quà cho con cháu,
không phải để ăn mừng giáng sinh, mà là dịp người đi làm được nghỉ, học trò cũng
được nghỉ, nghỉ xả hơi mùa Đông (Winter Break) cho nên rất thuận tiện để gia
đình xum họp. Cho nên có thể nói, họ muốn nói gì thì nói, “la caravane” vẫn
“passe”.
Điều khôi hài nhất là Việt
Kiều đã về đóng góp cho đất nước từ đầu thập niên 1990, chứ đâu có chờ đến Nghị
Quyết 36 của Việt Nam ký ngày 26/3/2004. Vậy mà gần đây, những người máy chống
Cộng vẫn hoảng sợ và ra công chống phá Nghị Quyết 36, cho rằng Nghị Quyết đó ban
hành để lừa bịp Việt Kiều. Họ không biết rằng Nghị Quyết 36 chỉ để cải tiến thủ
tục, tạo một bầu không khí thuận lợi và thoải mái cho những Việt Kiều muốn tham
gia đóng góp cho đất nước chứ chẳng có một lời nào để gây sự chia rẽ giữa những
công đồng Việt Kiều. Sự chia rẽ là do số người máy chống Cộng hoang tưởng và tự
đặt mình vào sự chia rẽ. Nhưnghọ đã chống Nghị Quyết đó như thế nào để ba năm
sau ban hành Nghị Quyết chúng ta có thể đọc được bản tin ngày 04/10/2007 những
đoạn như sau:
Sau 3 năm thực hiện Nghị
quyết 36 của Bộ Chính trị, công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài đã có
nhiều chuyển biến tích cực về tư duy và hành động, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng
Ngoại giao Phạm Gia Khiêm khẳng định.
Số Việt kiều về
thăm quê hương, tìm hiểu điều kiện đầu tư ngày càng tăng, từ 300.000 người năm
2003 lên hơn nửa triệu người trong năm 2006. Tính đến hết năm 2006, có 2.050 dự
án của người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư về nước, với số vốn là 14.500 tỷ đồng.
Lượng kiều hối bà con gửi về nước năm sau cao hơn năm trước, từ 2,7 tỉ USD năm
2003 lên 4,8 tỉ USD năm 2006.
Hàng năm có
hàng trăm lượt chuyên gia trí thức về nước nghiên cứu, giảng dạy, hợp tác với
các trường đại học, các viện nghiên cứu; nhiều hội, đoàn và các tổ chức nghề
nghiệp của người Việt, đặc biệt là ở các nước phát triển đã thực hiện các hoạt
động, các dự án hợp tác khoa học, công nghệ và các hoạt động mang tính nhân đạo
trợ giúp đồng bào trong nước.
Kết Luận:
Qua các phần trên, chúng ta
cần trở lại câu ca dao thời đại: “Việt Gian, Việt Cộng, Việt Kiều: Một trong
ba thứ tiêu điều nước Nam”.
Cái “Một trong ba thứ” ở đây
chính là Việt Gian. Việt Gian có những hành động gì? Họ vẫn đang tiếp tục
chống phá quốc gia dưới các món hàng xuất cảng của Âu Mỹ: tự do, dân chủ, nhân
quyền v..v.., hoặc dưới mỹ danh “Chống Cộng Cho Chúa”. Họ van xin cầu cạnh mấy
dân biểu cắc ké của Mỹ, mấy nghị viên Quốc Hội Âu Châu, can thiệp vào những
chuyện nội bộ Việt Nam. Quá khứ của Âu Châu cũng như của Mỹ không có tư cách gì
để xía vào những chuyện nội bộ của Việt Nam. Bà Tôn Nữ Thị Ninh đã dạy cho họ
một bài học về đối ngoại mà họ vẫn chưa chịu mở mắt ra: “Đừng có xía vào
chuyện nội bộ của Việt Nam.Chúng tôi chỉ tin tưởng vào một nền dân chủ do chính
mình tạo dựng, và đã qua lâu rồi thời kỳ những nước đang phát triển cần các nước
phát triển đến khai sáng và cứu rỗi.”
Những điều hoang tưởng vọng
ngoại như “Cha đã tiên phong góp phần giải phóng quê hương Cha, và tiếp đến
sẽ là quê hương chúng con” (Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng, trang 11), hoặc
“Ủy ban Nhân Quyền Quốc Tế cho rằng...” hay “Tổ Chức Ân Xá Hoa Kỳ tố cáo
rằng..”, “Dư luận cả thế giới và nhất là Quốc Hội Mỹ đều tập trung xoáy
vào điểm...”, hay ca tụng “Nghị Quyết của Hạ Viện Mỹ”, “Luật về tự
do tôn giáo thế giới của Mỹ” v..v.. để ép Việt Nam, đều nói lên những tâm
cảnh đặc thù “Việt gian”, đồng thời tỏ rõ sự yếu kém của những tổ chức tranh đấu
hải ngoại, tự mình không thể làm nên trò trống gì, cứ phải dựa hơi những tổ
chức, cơ quan ngoại quốc mà thực chất chẳng có ảnh hưởng gì trên quốc tế, nhất
là đối với các nước Á Đông. Chúng ta có quyền không đồng ý với một số chính
sách nào đó của chính quyền, nhưng nếu chúng ta không đủ thực lực và hậu thuẫn
của quần chúng để thay đổi theo chiều hướng mà chúng ta muốn, khoan nói chiều
hướng chúng ta muốn chưa chắc đã là đúng hay tốt hơn, mà cứ phải cầu cạnh đến
ngoại bang trong khi biết rõ rằng ngoại bang chẳng bao giờ thương xót Việt Nam,
thì đó đúng là những hoạt động trong tâm cảnh của “Việt gian”.
Nếu Nhà Nước không cương
quyết trong chính sách đối ngoại, tuyệt đối không để cho cá nhân cũng như quốc
gia nào can thiệp vào những chuyện nội bộ của nước nhà, không quan tâm đề phòng
những kẻ mượn danh tôn giáo và những quan niệm về dân chủ, nhân quyền của Tây
phương để chống phá quốc gia, và không để tâm giáo dục quần chúng người dân ý
thức được hiểm họa của Việt Gian thì thứ Việt này sẽ làm cho quốc gia tiêu điều.
“Việt Cộng” chỉ là cái bung
xung mà thế lực đen dùng để gây thù hận và theo chủ trương của Hoàng Quỳnh: “Thà
mất nước chẳng thà mất Chúa”. Trong quá khứ, “Việt Cộng” đã được sự ủng hộ của
đa số người dân Việt Nam và đã thành công đánh đuổi được quân xâm lược của hai
cường quốc Pháp và Mỹ, mang lại độc lập và thống nhất cho nước nhà. Nhưng thời
gian qua, xã hội thay đổi, nên ngày nay không còn “Việt Cộng”. Hãy về trong
nước xem có còn cái gì đích thực la “Cộng” không? Nếu là Cộng thật thì làm gì
có những Nguyễn Văn Lý, Ngô Quang Kiệt, Lê Quốc Quân, Nguyễn Thanh Giang, Hà Sĩ
Phu v…v… Và người Công Giáo chẳng vẫn rêu rao là “Đức Thánh Cha” của họ đã làm
cho Cộng sản tiêu tùng từ năm 1989, vậy phải chăng Cộng sản đã chết rồi lại sống
lại như anh Do Thái Giê-su ngày xưa? Cho nên “Việt Cộng” ngày nay chỉ là cái
hồn ma ám ảnh những người Công giáo và những kẻ “ngu xuẩn và thiếu học vấn” mà
thôi [Theo OCRegister: Stupid and uneducated]
Còn “Việt Kiều”? Rất khó
nói. Vì Việt kiều rất hỗn tạp. Một số có những hành động làm nhục lây đến đến
cộng đồng người Việt hải ngoại. Một số có những thành quả ngoạn mục, từ học
sinh Trung Học đến những thương gia, chuyên gia, đã vinh danh người Việt không
ít. Đa số thầm lặng không màng đến chính trị, sống cuộc sống bình thường hàng
ngày. Nhưng dù sao thì “Việt Kiều”, bỏ các “Việt Gian” ra ngoài, cũng không
làm gì để có thể nói là làm “tiêu điều nước Nam”, trái lại nhiều người còn mong
ước cho Việt Nam càng ngày càng phát triển, tiến bộ để không thua kém gì các
nước đã phát triển trên thế giới.. Và tôi hi vọng Nhà Nước sẽ có một chính sách
cởi mở hơn, thoáng hơn, để “Việt kiều” có thể đóng góp nhiều hơn cho việc xây
dựng, cải tiến quốc gia, mở mang dân trí. Tôi nghĩ trong cộng đồng “Việt kiều”
có rất nhiều người yêu nước, muốn đóng góp công sức cho Quốc Gia Việt Nam. Điều
mà những “Việt Kiều” này cần, không phải là vấn đề tiền bạc, lương cao, chức vụ
lớn, mà là một khung cảnh làm việc thoải mái theo khả năng, một sự đãi ngộ bình
đẳng, và một sự ghi nhận (appreciation) những đóng góp của họ. Cũng nên hiểu
rằng, đối với các chuyên gia đã sống ở các nước Âu Mỹ, và đã làm việc cho các
Công Ty lớn ở Tây phương, hay trong các trường đại học, thì vấn đề phát biểu
những ý kiến rất là tự nhiên, và những thái độ như phải khúm núm, quỵ lụy đối
với cấp trên, hay ngay cả đối với những giới chức quyền cao chức trọng trong
chính quyền, cũng không phải là cách ứng xử giữa con người với con người.
Grayslake, Illinois
Trước thềm Năm Mới, 2009.

Phụ Lục: bổ túc ngày 04Jan09
LTS: Phần bổ túc sau đây được thêm vào sau khi có một số đọc giả yêu cầu. Đó là vì có những người nghi ngờ một sự thật quá mức phũ phàng, mà bầy tôi khó chấp nhận, và không muốn chấp nhận. Nhân đây TS sachhiem.net thành khẩn mong các đọc giả tìm mọi cách để chứng minh, kể cả giảo nghiệm các bút tích để xác nhận các tài liệu đăng trong sachhiem.net, và mong nhận được kết quả hồi báo để cải chính nếu cần. Riêng bút tích phần lá thư này đã được in trong nhiều tài liệu khả tín, trong đó có quyển Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Westminster, CA: Văn Nghệ, 1993, tác giả Đỗ Mậu, trang 1042-1044)
Xác minh một Văn kiện
Trần Chung Ngọc
Sau khi sachhiem.net đăng bài “Tản Mạn Về: Việt
Gian – Việt Cộng – Việt Kiều” tôi nhận được từ một thân hữu forward cho một
E-mail nguyên văn như sau và hỏi tôi có thể xác minh bức thư của TGM Ngô Đình
Thục không.
---------- Forwarded message ----------
From: Le Ho <nov2514@yahoo.com>
Date: 2009/1/4
Subject: Nho xac minh
To:
yenminh7@yahoo.com
Kính thưa ông cựu dân biểu,
Cám ơn ông đã có bài phản bác lại ông Trần Chung Ngọc.
Ông TCN trưng dẫn lá thư tổng giám mục Ngô Đình Thục, viết: tài liệu này
lưu trử của văn khố Pháp để chứng minh tổng thống Ngô Đình Diệm thuộc
"tam đại Việt gian"; nhưng tôi tin tài liệu này không có thực. Ông TCN
dựng đứng tài liệu để quật ngã danh giá gia đình cụ Ngô.
Ông cựu dân biểu đang ở Pháp, dễ dàng xác minh chuyện này.
Xin ông vì :
- Danh dự gia đình cụ Ngô.
- Và nhất là vì danh dự của giáo hội Công giáo VN .
Xin ông bỏ chút thì giờ làm việc xác minh này, rồi công bố lên báo chí ,
đài phát thanh và truyền hình của người Việt hải ngoại.
Trân trọng cám ơn ông.
Phan Thuong. |
Thật tình tôi chẳng muốn xác minh một sự kiện đã rất
rõ ràng đối với những người đọc sách và quan tâm đến những vấn đề thuộc gia đình
họ Ngô Đình. Nhưng có vẻ như những người lên tiếng đặt nghi vấn về bức thư của
Ngô Đình Thục gửi Toàn Quyền Decoux không chịu tìm hiểu trước khi đặt nghi vấn
và ông “Phan Thuong” (trong dia chi Le Ho
nov2514@yahoo.com ) cũng không đọc kỹ bài của tôi hoặc là cố ý hạ thấp tư
cách cá nhân của tôi qua câu: “Ông TCN dựng đứng tài liệu để quật ngã danh
giá gia đình cụ Ngô.” Nếu ông Le Ho biết đọc một bài cho rành rẽ thì phải
thấy rằng tôi không hề “dựng đứng tài liệu” mà lấy tài liệu đó trong bài của
Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang, và tôi cũng đã ghi rõ là phóng ảnh bức thư với bút
tích của GM Ngô Đình Thục có thể thấy trên
http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH63_1b.php.
Bức thư này đã được đăng trên
vài diễn đàn thông tin điện tử như sau:
http://duyviet.org/tailieu/ngodinhthucdecoux.htm
http://www.x-cafevn.org/forum/showthread.php?t=19081
http://blog.360.yahoo.com/blog-W9O_JlI_c6fsTi3tp47SgoC4Awpq4GQ-?cq=1&p=346
http://www.chuyenluan.net/2003/200311/LichSu/BK_NDDiem.htm
http://www.tagvn.com/Lich-su-Viet-Nam/Thu-Giam-muc-Ngo-dinh-Thuc-goi-cho-thuc-dan-Phap/
Bức thư này được Tiến Sĩ sử
học Vũ Ngự Chiêu, trong một chuyến du khảo nghiên cứu sử ở Pháp, đã lấy ra từ
văn khố của Pháp ở Aix-en-Provence và đăng phóng ảnh một phần đầu và phần cuối
của bức thư nơi trang 172 trong cuốn “Paris: Xuân 96” của tác giả, NXB
Văn Hóa (Houston, Texas) phát hành năm 1997. Tôi xin phép được trích dẫn một
đoạn ngắn của Tiến sĩ Vũ Ngự Chiêu trong cuốn này, trang 159:
Thực tế, Ngô Đình Khả cũng như Nguyễn Thân, Hoàng cao Khải, Trần Bá Lộc, Nguyễn
Hữu Độ, Trần Lục, Tạ Duy Phụng v..v.. khó thoát khỏi lời cáo buộc tội nhân
của lịch sử [có nghĩa là Việt gian - TCN]. Ông Ngô Đình Diệm cùng
anh cả là Ngô Đình Khôi cũng phục vụ đắc lực cho Pháp suốt bao năm dài. Đã biết
bao máu xương người Việt vô tội đổ xuống để các ông Khôi và Diệm bước lên đài
danh vọng, xây dựng dinh cơ, sự nghiệp. Nhiều người không tin, hoặc có thể
không muốn tin. Nhưng sự thực chỉ là sự thực. Lá thư của ông Ngô Đình Thục
gửi Toàn quyền Jean Decoux, đề ngày 21/8/ 1944, còn đó. Thưa vâng, Giám mục Ngô
Đình Thục của giáo phận Vĩnh Long, và sau này Tổng Giám mục giáo phận Huế. Một
giáo sĩ cao cấp như ông Thục chẳng lẽ lại, không nói thành có, bịa đặt “thành
tích” trung thành với mẫu quốc của cha ruột mình và gia đình mình để chạy tội
cho các em?
Nguyên văn bức thư của Giám mục gửi Toàn quyền Decoux
đăng trên một số diễn đàn điện tử cũng như một số báo chí ở hải ngoại như sau:
Source: ( Văn khố Pháp ):
CAOM (Aix), PA 14, c.
Vicariat Apostolique de Vinh Long
(Cochinchine)
Vinh Long, le 21 Aout 1944
Amiral,
Je viens d’apprendre par un prêtre de ma Mission, envoyé à Saigon pour les
affaires du séminaire, que deux de mes frères ont été l’objet de poursuites
judiciaires à Hué. N’ayant recu de Hué depuis longtemps aucune nouvelle, je ne
sais si ce qu’on m’a rapporté corespondait à la vérité.
Mais, en pensant à la peine immense et à la juste indignation que vous avez du
éprouvées, si ce qu’on leur imposait était fondé, je m’empresse de vous écrire,
pour vous exprimer, Amiral, ma grande douleur en l’occurence.
S’il était prouvé que leur activité a pu nuire aux intérêts de la France, je la
désapprouve du fond du coeur, comme évêque, comme annamite, et comme membre
d’une famille dont le père a servi la France dès sa première venue en Annam et a
exposé maintes fois sa vie pour elle dans les expéditions memées, comme
lieutenant de Nguyễn Thân, contre les rebelles commandés par Phan Đình Phùng à
Nghệ An et Hà Tịnh.
Cette déclaration n’a pas pour but, Amiral, de sauvegarder ma situation
personnelle: car ce sera avec joie que je quitterai mon évêché si tôt qu’il sera
constaté que mon humble personne pourrait porter préjudice aux intérêts de la
Religion.
Elle n’a pour objet que de vous montrer que vous n’avez pas accordé votre
bienveillante confiance à un indigne ou à un ingrat. Amiral, je n’ai jamais tant
regretté mon éloignement de Hué. Là j’aurais pu mieux conseiller mes frères et,
à, l’occasion, m’opposer à leur desseins, si vraiment ils en ont concu de
nuisibles aux intérêts de la France .
Je puis hélas me tromper, mais je vous confesse, Amiral, que je ne puis croire,
jusqu’à preuve du contraire, qu’ils se sont montrés si rebelles aus traditions
de notre famille, qui s’était attachée à la France dès le début, tandis que les
aieux et les pères des mandarins actuels, presque tous, combattaient contre
elle, et ne s’étaient décidés pour elle que lorsqu’il n’avait plus que profit à
le faire.
Mes frères eux-mêmes ont exposé leur vie continuellement pour la France lors de
la révolte communiste. Mon cadet Diệm a failli tomber sous les coups de révolver
d’un chinois de Cholon envoyé à cet effet à Phan Rang où Diệm défendait
énergiquement l’entrée de l’Annam aux émissaires communistes envoyés de la
Cochinchine.
Certes, leur dévouement dans le passé n’est pas l’excuse de leur imprudences
actuelles; s’il est prouvé qu’elle est coupable. Mais je crois ne pas faire en
vain appel à votre miséricordieuse clémence en leur faveur, qui juge du présent
sans pourtant oublier le passé. Celà en considération des services que mon père
Ngô Đình Khả a eu l’honneur de rendre à la France au péril de sa vie, et de la
longue conduite de mes frères faite d’un dévouement sans bornes à la France ,
sans peur de sacrifier leur vie pour elle.
En vous exprimant de nouveau, Amiral, toute la douleur que je ressens dans cette
affaire, je vous prie d’agréer mes hommages les plus respectueux.
NGO DINH THUC
Vậy, bây giờ chứng cớ đã rõ
ràng, hi vọng ông Phan Thuong / Le Ho và ông dân biểu nào đó trong E-mail của
ông Le Ho, cũng như các độc giả, hãy đánh giá 2 điều sau đây được nêu lên trong
E-mail của ông Le Ho:
- Danh dự
gia đình cụ Ngô.
- Và nhất
là vì danh dự của giáo hội Công giáo VN .
Happy New Year !!
Trần Chung Ngọc
Các bài thời sự cùng tác giả
▪
22 Năm Giao Điểm: Trừ Tà - Hiển Chánh và Độ Sinh -
Trần Chung Ngọc
▪
Chủ Nghĩa Khủng Bố và Diệt Chủng -
Trần Chung Ngọc
▪
Cuốn Triumph Forsaken của Mark Moyar -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Người Máy Chống Cộng -
Trần Chung Ngọc
▪
Tại Sao Những Người Tin Chúa Lại Thù Ghét Những Người Vô Th -
Trần Chung Ngọc
▪
Tản Mạn về Chống Cộng -
Trần Chung Ngọc
▪
Ăn Cơm Quốc Gia Thờ Ma Cộng Sản - Một Câu Chữ Của Những Kẻ U Mê -
Trần Chung Ngọc
▪
ĐĐ Thích Nhật Từ và Các Xóm Đạo Washington D.C. -
Trần Chung Ngọc
▪
Đọc "Món Hàng Xuất Cảng Làm Chết Người Nhất Của Mỹ: DÂN CHỦ" -
Trần Chung Ngọc
▪
Avro Manhattan: Cơn Ác Mộng Của Một Quốc Gia -
Trần Chung Ngọc
▪
BA MƯƠI THÁNG TƯ VÀ TÔI TỪ KIẾN THỨC ĐẾN LẬP TRƯỜNG -
Trần Chung Ngọc
▪
Bang Giao "Bắc Kinh-Vatican" (?) Một Kinh Nghiệm Quý Giá Cho Việt Nam -
Trần Chung Ngọc
▪
Bang Giao Với Vatican? Bang Giao Như Thế Nào ?? -
Trần Chung Ngọc
▪
Công Nghiệp Cuối Cùng -
Vài Suy Tư Xung Quanh Sự Ra Đi Của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp -
Trần Chung Ngọc
▪
Cựu Tổng Thống Mỹ Jimmy Carter & Liên Hiệp Quốc Lên Án Mỹ Vi Phạm Quốc Tế Nhân Quyền -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Phịa Thời Sự: Tin Vịt Truyền Thông -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Thời Sự Về Bức Thư “Chê Chúa” Của Einstein -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện Thời Sự - Về Bức Thư “Chê Chúa” Của Einstein -
Trần Chung Ngọc
▪
Kiến Thức 30/4 Qua Các Danh Nhân - Tại Sao Chúng Ta Thua ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Kiến Thức 30/4 Qua Các Danh Nhân - Tại Sao Chúng Ta Thua ? -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 ▪
>>>