Chân Dung "Người Việt Quốc Gia"
Và Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ
Nguyễn Mạnh Quang
http://sachhiem.net/NMQ/ChanDungVNCH/QMN08a.php
bản in
mục lục 30 tháng 8, 2008
Toàn tập: Dàn bài
Chương 8: 1 2
CHƯƠNG 8
Chính Sách Ngu Dân
Ở Miền Nam Trong Những Năm 1954-1975
(tiếp theo)
KẾ SÁCH II.- Làm cho tín đồ và người dân
dưới quyền không biết sử dụng lý trí để tìm hiểu sự vật
Kế sách
này có mục đích làm cho tín đồ và nhân dân dưới quyền không biết sử dụng
lý trí để tìm hiểu sự vật, tức là làm cho họ không biết sử dụng lý trí
để phân tích và tìm hiểu tín lý Ki-tô, tìm hiểu những giáo lý, những lời
dạy và những truyền thống của Giáo Hội hầu có thể nhìn ra (a) những tính
cách hoang đường, phi lý, phản khoa học, phản nhân luân trong đức tin
Ki-tô, (b) tính cách chuyên chế độc đoán và phản dân chủ của giáo luật,
và (c) tính cách phỉnh gạt, bịp bợm, lưu manh, lấn lướt và vơ vào trong
những lời dạy của Giáo Hội. Như vậy, đối với Vatican, kế sách này còn
quan trọng hơn Kế Sách I rất nhiều.
Nếu để cho tín đồ
Ca-tô biết sử dụng lý trí để phân tách và tìm hiểu những điều nêu ra
trong các đề mục (a), (b) và (c) trên đây, chắc chắn là họ sẽ nhìn ra bộ
mặt thật cực kỳ ghê tởm của Giáo Hội La Mã, khi đó họ sẽ không những sẽ
giã từ Giáo Hội mà còn ghê tởm và khinh bỉ Giáo Hội giống như học giả
Henri Guillemin đã ghê tởm và khinh bỉ và đã phải gọi Giáo Hội là “cái
giáo hội khốn nạn”, như văn hào Voltaire gọi là “cái tôn
giáo ác ôn” và như học giả Charlie Nguyễn gọi là “đạo
máu” va “đạo bịp”[14].
Để có thể làm cho tín
đồ không còn co khả năng lý trí để nhìn ra những điều như đã nói ở
trên,, Vatican quyết định rằng tín đồ Ca-tô phải được rèn luyện bằng mọi
giá để họ trở thành những người cực kỳ ngu dốt, chỉ biết cúi đầu “ngoan
ngoãn vâng lời Giáo Hội” giống như con cừu hay con bò ngoan ngoãn
nghe lời những người chủ chăn của chúng. Cũng vì thế mà Giáo Hội mới sử
dụng từ “con chiên” để nói về tín đồ Ca-tô và dùng từ “chủ chăn” để nói
về bọn cán bộ tay sai quản lý tín đồ (đàn chiên) của Vatican. Có như
vậy, Vatican mới cảm thấy an toàn và yên trí rằng tín đồ sẽ không thể
nào nhận thức được (a) tính cách hoang đường láo khoét, vừa bịp bợm, vừa
nặng tính cách khủng bố tinh thần trong các tín lý Ki-tô, và (b) tính
cách lưu manh như phỉnh gạt, khủng bố và vơ vào trong các giáo luật cũng
như trong những lời dạy của Giáo Hội. Để có thể đạt được mục đích như
vậy, Giáo Hội phải triệt để thi hành các sách lược:
1.- Dùng phương pháp
sư phạm độc thoại để giảng bài.-
Phương pháp giảng bài theo kiểu này giống như các nhà truyền
giáo rao truyền giáo lý Ki-tô ở ngoài đường phố mà chúng ta thường gặp
trong xã hội Hoa Kỳ hay giống như các ông linh mục thuyết giảng trong
những giờ lễ ở trong các nhà thờ. Tình trạng này hoàn toàn trái ngược
với phương pháp sư phạm đối thoại mà các trường học ở Hoa Kỳ đã và đang
áp dụng trong việc giảng dạy các môn học Social Sciences. Cũng nên biết,
theo phương pháp đối thoại trong việc giảng bài (các môn khoa học xã hội
như môn Sử, Địa và Công Dân chẳng hạn) như ở Hoa Kỳ, giờ đầu tiên trong
một khóa học, học sinh được ông thày phát cho (cho mượn, hết khóa học
phải trả lại) ít nhất là một cuốn sách giáo khoa và một tờ giấy trong đố
có ghi những lời chỉ dẫn nói rõ các bài học ở trong sách sẽ được giảng
dạy vào những ngày tháng nào. Nhờ vậy, học sinh có thể đọc trước và
vào thư viện tham khảo trước, rồi đến giờ học, học sinh cứ việc đưa ra
những thắc mắc, nếu có, để cho ông thày giải đáp và cả lớp cùng thảo
luận.
2.- Không dạy cho học
sinh vận dụng lý trí để phân biệt sự khác nhau giữa
một bên là sự kiện (facts) và một bên là ý kiến (opinions). Vì không
được học điều này, khi các học sinh này lớn lên vào học đại học, rồi ra
đời làm việc, nắm giữ chức vụ này, chức vụ nọ trong chính quyền hay trở
thành sĩ quan trong quân đội, họ vẫn còn lẫn lộn, không biết sự khác
nhau giữa ý kiến (opinions) và sự kiện (facts). Cũng vì thế mà ngày nay
đọc các bài viết hay các tác phẩm của nhà văn người Việt hải ngoại,
chúng ta thấy toàn những ý kiến chủ quan của họ mà họ cứ tưởng là những
sự kiện lịch sử.
3.- Không dạy cho học sinh và sinh viên biết phương cách viết một bài
khảo luận.
Hậu quả: Những người tiếp nhận học vấn qua những phương cách dạy như
trên là sẽ rơi vào tình trạng loang quạng trong việc viết lách, rồi
phóng ngôn dùng những hoa ngôn xảo ngữ và viết bừa bãi, viết láo, viết
ẩu tả, đưa ra toàn những lời võ đoán “ thiễu logic”. Viết lách ẩu tả
như vậy khiến cho họ rơi vào tình trạng câu sau đá ngược câu trước. Đây
là tình trậng của rất nhiều viên chức cao cấp trong chính quyền miền Nam
Việt Nam hay sĩ quan cấp úy, cấp tá, và cấp tướng trong quân đội, hoặc
là các ông bác sĩ (nhan nhản trong cộng đồng người Việt hảu ngoại),
luật sư (như ông Nguyễn Văn Chức), thẩm phán (như ông Lữ Giang), giáo sư
(như ông Lâm Lễ Trinh và Tôn Thất Thiện).
Đồng thời, vì không
được học phương cách viết các bải khảo luận, học viên trở thành dốt
nát, không biết rằng có nhiều phương cách viết một tác phẩm:
a.- Có loại tác phẩm
viết theo lối tự thuật hay kể chuyện như loại sách hồi ký (ghi lại những
chuyện đã xẩy ra mà tác giả là tác nhân hay chứng nhân.)
b.- Có loại viết theo
phương pháp khảo luận (ghi lại những điều biết được quan việc tham khảo
các tư liệu hay tài liệu) như các bài viết hay tác phẩm về một đề tài
hay một giai đoạn lịch sử có thể gây tranh luận.
c.- Có loại tác phẩm
viết vừa theo lối viết tự thuật như hồi ký vừa viết theo phương pháp
khảo luận. Do đó, chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy ông Ca-tô
người Việt Quốc Gia Phát Diệm Nguyễn Văn Chức, có bằng cử nhân luật và
đã hành nghề luật sư trong nhiều năm ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975
mà vẫn dốt nát về vấn đề này. Vì thế ông ta mới viết rằng:
“Cuốn VNMLQHT (Việt
Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi) không phải là cuốn hồi ký. Đúng hơn, nó là
một tạp ghi, cóp nhặt quan điểm của nhiều người khác và nhiều tác giả.
93 cuốn sách và 52 tạp chí được trích dẫn. Bản thân ông Đỗ Mậu chỉ xuất
hiện đó đây như một loại giây leo còm cõi sống bám vào những cái chất
liệu cóp nhặt.”[15]
Tóm lại, chủ đích của
Kế Sách II này là làm cho tín đồ và nhân dân dưới quyền ngu đi. Đây là
cốt lõi của chính sách ngu dân (obscurantism) của Giáo Hội. Như vậy, với
kế sách I và Kế Sách II, Giáo Hội đã có thể làm cho tín đồ và nhân dân
dưới quyền vừa dốt vừa ngu. Kinh nghiệm cho thấy rằng những kẻ vừa ngu
vừa dốt thường hay rơi vào tình trạng thiển cận hẹp hòi, mê tín, dễ
dàng tin vào những chuyên ma quỷ và thần thánh trong thế giới thần linh,
chuyện “được mặc khải”, những chuyện Đức Mẹ hiện ra như chúng ta thường
thấy trong cộng đồng người Việt Ca-tô hiện nay ơ hải ngoại cũng như ở
trong nước. Cũng vì thế mà họ dễ dàng bị Giáo Hội mê hoặc bằng những tín
lý Ki-tô láo khoét, dễ dàng bị Vatican phỉnh gạt bằng những lời dạy lưu
manh nặng tính cách lừa bịp và vơ vào. Một khi đã bị Giáo Hội mê hoặc
rồi, thì họ dễ dàng trở thành người cuồng tín cực kỳ hung ác, mất hết
tính người, biến thành loài dã thú, có khi còn dữ hơn cả loài dã thú,
hăng say lao vào những cuộc chém giết những nhóm dân thuộc các tôn giáo
khác mà Giáo Hội đã làm cho họ tin rằng đó là những kẻ thù của Chúa, và
càng chém giết được nhiều kẻ thù của Chúa là họ càng cảm thấy sung sướng
đã làm tròn nghĩa vụ “làm sáng danh Chúa”. Đây là sự thật mà Giáo Hội đã
làm từ thế kỷ 4 cho đến ngày nay.
KẾ SÁCH III.- Làm cho tín đồ và người dân
dưới quyền không biết gì về những rặng núi tội ác của Giáo Hội La Mã từ
thế kỷ 4 cho đến ngày nay
Như đã nói ở trên, Kế Sách I và Kế Sách
II đã làm cho tín đồ Ki-tô và nhân dân dưới quyền vừa ngu vừa dốt. Vì
ngu dốt, cho nên dễ tin và dễ bị mệ hoặc. Vì đã bị mê hoặc, cho nên họ
dễ dàng bị Giáo Hội phỉnh gạt và dễ dàng lầm tưởng rằng Giáo Hội La Mã
là “Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”,
rằng “ngoài Giáo Hội không thể có cứu rỗi.” Lý do cũng rất đơn
giản: Họ càng không biết gì về những rặng núi tội ác của Giáo Hội trong
gần hai ngàn năm qua, thì họ càng tin tưởng mãnh liệt rằng Giáo Hội là
một tổ chức đại diện duy nhất của Chúa ở trên trái đất này, và càng cho
rằng tất cả những gì của hay thuộc về Giáo Hội đều là thánh thiện cả. Vì
thế mới có “những linh mục nói rằng Tòa Thánh đánh rắm cũng thơm.”
Để đạt được mục đích này, Giáo Hội, sử dụng những quái chiêu dưới đây:
1.- Ra khẩu lệnh cho
các chính quyền đạo phiệt tay sai của Giáo Hội phải kiểm soát gắt gao
tất cả những ấn phẩm về lịch sử, không để cho các tác phẩm có một câu
nào nói lên những sự thật mà sự thật đó để lộ ra một hay nhiều việc làm
bất chính của Giáo Hội, như Giáo Hội đã làm trong thời chế độ đạo phiệt
Ca-tô Ngô Đình Diệm (1954-1963) đối với ông Nguyễn Hiến Lê và bộ sách
Lịch Sử Thế Giới của (đã mói ở trên).
2.- Nếu hoàn cảnh
thuận lợi, dùng các đội biệt kích thập tự để khủng bố (ám sát, bắc cóc,
thủ tiêu) theo sách lược “sát nhất nhân, vạn nhân cụ.”
Ở miền Nam Việt Nam
trog những năm 1954-1975.- Những người đã sống ở miền Nam
Việt Nam trong những năm 1954-1975, đặc biệt là trong thời chế độ đạo
phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm (1954-1963) đều chứng mộ số những kiến sự
kiện:
a.- Tờ báo Thời Luận
do ông Nghiêm Xuân Thiện làm chủ bút bị chính quyền Ngô Đình Diệm tay
sai của Vatican khủng bố, trụ sở bị đập phá và ông Nghiệm Xuân Thiện bị
truy lùng.
b.-Tờ báo Xuân Canh Tý
1960 của tờ Nhật Báo Tự Do có in một bức hí họa trong đó, có một đàn
chuột gồm 6 cuốn tranh nhau gặm nhắm một trái dưa hấu đỏ có hình giống
như bản đồ miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ (đúng hơn là trong những năm
1954-1975). Ngay sau khi tờ báo vừa được phát hành, văn phòng trụ sở của
tờ Nhật Báo Tự Do bị mật vụ của chính quyền Ngô Đình Diệm đập phá tan
tành, ban biên tập bị truy lùng, có một số bị bắt giam. Riêng tác giả
bức hí họa này là họa sĩ Phạm Tăng phải chạy thục mạng trốn sang Cao Mên
qua ngả Tây Ninh, rồi sang sống lưu vong ở Ý kể từ đó. Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1993), tr. 264.
c.- Trong số hơn 300
ngàn nạn nhân bị sát hại và thủ tiêu trong những năm 1954-1963, rất có
thể có một só đông những người cầm bút có tác phẩm hay bài viết có nội
dung nói lên sự thật về những việc làm bất chính, đại gian và đại ác của
Vatican cũng như của chế độ đạo phiệt Ca-tô Ngô dến nay.-Đình Diệm.
Ở hải ngoại từ năm
1976: Nói
về những tội ác khủng bố giết ngưởi của các đội biệt kích Ca-tô ở Bắc
Mỹ này, tác giả Nick Schou ghi nhận trong một bài viết có tựa đề là Lịch
Sử Bạo Động Của Giới Chống Cộng Tại Mỹ cùng một số khá nhiều trường hơp
được người viết sưu tầm và sẽ được ghi lại đầy đủ ở trong Chương 13
với tựa đề là “Thành Tích Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ”. Xin đọc chương sách này để
biết rõ thành tích tội ác khủng bố của chính sách khủng bố của Giáo Hội
La Mã đối với những người cầm bút chân chính nói lên sự thật lịch sử và
sự thật về những sự việc xẩy ra hàng ngày.
3.- Dùng bộ máy tuyên
truyền với những đội ngũ văn, sử và báo nô phóng ra những chiến dịch
tung ra những ấn phẩm hay những bài viết với nội dung duy nhất là để sỉ
nhục bằng cách bới móc đời tư và vu khống đủ điều để bêu riếu, chừi bới
những tác giả có tác phẩm nói lên những việc làm tội ác của Giáo Hội,
của giới tu sĩ Ca-tô và của các chính quyền đạo phiệt Ca-tô tay sai
của Giáo Hội. Tất cả những việc làm này đều được tiến hành theo sách
lược “Tăng Sâm giết người” (nhắc đi nhắc lại nhiều lần) và “Cả
vú lấp miệt em” (ồ ạt, rầm rộ), làm lấn át tất cả những tác phẩm hay
những bài báo có nội dung nói ngược lại với nội dung của những tác phẩm
hay các bài báo của bộ máy tuyền truyền của Vatican đưa ra. Điển hifng
chó quái chiêu này là chiến dịch khủng bố tinh thần và sỉ nhục cụ Đỗ
Mậu, tác giả cuốn Việt Nam Máu Lửa Quên Hương Tôi (California: TXB,
1986) được tiên hành ở hải ngọai kể từ năm 1987 cho đến ngày nay vẫn
còn tiếp (nhưng cường độ đã giảm đi nhiều).
Nói về tài nghệ siêu
việt của bộ máy tuyên truyền của Giáo Hội La Mã, học giả Ca-tô Phan Đình
Diệm ghi nhận như sau:
“Hàng ngàn năm,
để bung bít và che giấu 7 chương tội đối ngoại và 1 chương đối nội là
8, nghệ thuật tuyên truyền của Giáo Hội Roma phải đạt đến chỗ cực kỳ ảo
diệu, thiên biến vạn hóa, một nghệ thuật tuyên truyền thần thánh, một
nghệ thuật tuyên truyền nhồi sọ tuyệt vời: Giáo Hội là Thánh, Giáo Hội
là Mầu Nhiệm, Giáo Hội là Bí Tích, Giáo Hội là Hiền Thê Đức Giê-su, Giáo
Hội là Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền, Giáo Hội là
Vương Quốc Thiên Chúa…. Giáo Hội tự cho mình hết tất cả những khái niệm
cao cả thánh thiện, vừa linh thiêng siêu hình, vừa hữu hình thế tục,
chẳng bỏ sót một phạm trù nào! Ngoài nghệ thuật tuyên truyền, Giáo Hội
vẫn phải xây “vạn lý trường thành đức tin” và buông bức “màn sắt
thần học” lên đầu đoàn chiên. Mỗi tòa giảng là một cái loa tuyên truyền,
dựa vào khoa thần học phù phép, ảo thuật, Giáo Hội đã biến “núi tội
thành con
chuột”, “kẻ cướp mặc áo thày tu” và “quỷ Satan người thành có diện
mạo ông thánh.”[16]
Một khi đã
làm cho tín đồ và nhân dân dưới quyền tin rằng Giáo Hội là “Hội Thánh
duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”, tin rằng “tất
cả những gì thuộc về hay thuộc về Giáo Hội đều thánh thiện và tốt đẹp hết”
và “tất cả những gì không phải của hay không thuộc về Giáo Hội đều là
xấu xa và tội ác cả”, thì khi đó họ sẽ trở thành cực kỳ mù quáng,
không thể nào nhìn ra được thấy rặng núi tội ác của Giáo Hội chống lại
nhân loại trong gần hai ngàn năm qua. Câu nói “có những linh mục nói
rằng Tòa Thánh đánh rắm cũng khen thơm” ở trên nói lên cái thực
trạng này của tu sĩ và tín đồ Ca-tô đối với Giáo Hội La Mã.
KẾ SÁCH
IV.- Nhồi nhét vào đầu óc tín đồ những tín lý Ki-tô nặng tính cách vừa
hoang tưởng vừa bịp bợm vừa hù dọa cũng những lời dạy của Giáo Hội nặng
tính cách lưu manh, phỉnh gạt và khủng bố tinh thần.
Tín đồ Ca-tô có bị nhồi sọ như
vậy thì họ càng bận rộn với những thứ đó và càng dễ dàng cam phận tôi
đòi hèn mọn làm nô lệ cho Giáo Hội. Đối tượng được nhắm vào để nhồi sọ
được chia ra
làm hai loại: Đối tượng thứ nhất là các trẻ em vị thành niên và
đối tượng thứ hai là những người đã ở vào tuổi thành niên.
Vì nhờ có
bạo lực của nhà nước do việc liên kết chặt chẽ với cường quyền cũng như
với các đế quốc thực dân xâm lược và vì tình trạng còn ngây thơ của các
trẻ em cũng như tình trạng dốt nát của tín đồ, cho nên việc nhồi nhét
hay cấy vào đầu óc họ những thứ tư tưởng láo khoét lưu manh này tương
đối được dễ dàng và xuôi xả. Thảng hoặc, nếu có một vài trường hợp bị
học viên cật vấn về tính cách hoang đường, loạn luân trong các tín lý
Ki-tô, hoặc là đặt vấn đề về tính cách chuyên chính, vơ vào, lưu manh,
phỉnh gạt và lừa bịp tín đồ trong những giáo lý và lời dạy của Giáo Hội,
thì giảng viên cũng có thể giải quyết bằng cách sử dụng những lời nói
bóng gió hay nói trắng ra rằng, “hãy coi chừng!”, nếu cứ tiếp tục chống
đối, thì sẽ bị sẽ gặp rất nhiều điều bất lợi cho chính bản thân và cho
cả thân nhân ruột thịt nữa. [Thực tế là họ sẽ bị chính quyền tay sai của
Giáo Hội trừng phạt (bằng nhiều hình thức khác nhau) mà bọn tín đồ cuồng
tín hiểu là bị Chúa phạt vì tội đã chống Chúa (vì đã dám nghi ngờ lời
dạy của Giáo Hội.)]
A.- Đối
với trẻ em vị thành niên.- Đối với lớp người trẻ này, việc
nhồi sọ những tín lý Ki-tô láo khoét được trao phó cho các trường học vì
môn giáo lý là môn học bắt buộc trong các trường đạo. Phần lớn, mới đầu
các trẻ em thường chán ngấy cái môn học quái đản này, nhưng thét rồi
cũng quen. Nhờ vậy mà Giáo Hội thành công. Sự kiện này được Giáo-sư Lý
Chánh Trung kể lại kinh nghiệm bản thân của ông trong cuốn Tìm Về Dân
Tộc như sau:
“Bây giờ, vào trường Taberd là thế giới của đạo
giáo. Đạo giáo bao trùm đời sống và việc học. Kinh kệ khởi đầu và kết
thúc mỗi hoạt động. Mỗi buổi sáng, nửa giờ đầu luôn luôn dành cho giáo
lý.
Phương pháp là học và trả thuộc lòng. Ông thày chỉ một chú học trò và gõ
thước cái cốp, chú này đứng dậy trả câu thứ nhất: "Hỏi: Đức Chúa Trời là
gì? - Thưa: Đức Chúa Trời là đấng tạo nên trời đất muôn vật..." (bằng
tiếng Pháp). Thước lại gõ cái cốp và chú học sinh thứ hai đứng dậy...
cho đến khi hết bài. Tôi là thằng làm biếng tổ, sáng nào cũng co rúm
người, cố làm cho mình nhỏ lại như hột cát để thoát khỏi cái nhìn của Sư
huynh.
Nhưng cái cực hình
kinh khủng nhất là đầu lớp học buổi trưa, học sinh phải lần nguyên một
chuỗi tràng hạt. Trời nóng như thiêu, giọng kinh trầm trầm kéo dài như
không bao giờ dứt, đứng yên một chỗ không cục cựa, tôi cảm thấy tứ chi
ngứa ngáy như có trăm ngàn con kiến đang bò lên.
Nhưng riết rồi cũng
quen và một khi đã thuộc kinh tôi cũng ê-a hằng giờ với mấy đứa kia,
không còn bực bội nữa: Tiên học lễ, hậu học."[17]
B.-
Đối với những người đã ở vào tuổi thành niên.- Đây là những người tân tòng.
(Nếu là những dân đạo gốc, thì họ đã ở vào trường A trên đây rồi.) Những
người này phải theo học các lớp giáo lý để chuẩn bị rửa tội theo đạo vì
nhiều lý do khác nhau:
1.- Đi
đạo lấy gạo mà ăn (Rice Christians). Đây là trường hợp những người
nghèo khổ lại có máu tham lợi được những người “đưa mối bán vé lên thiên
đường” dùng miếng mồi vật chất để câu nhử hay dụ khị theo đạo. Điển
hình cho những người này là một số những người tân tòng ở trong các
tỉnh thuộc Liên Khu 5 trong thời chế độ đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm.
Xem tiểu mục số 4 ở dưới.
2.- Theo
đạo để tạo danh đời như trường hợp các ông Tướng Lâm Văn Phát, Nguyễn
Văn Thiệu, Đặng Văn Quang Đại Tá, Nguyễn Văn Y và các ông Huỳnh Hữu
Nghĩa, Nguyễn Đình Thuần và Trần Văn Lắm, Lâm Lễ Trinh, v.v…
3.- Bị
cưỡng bách hay bị chèn ép phải theo đạo để được an toàn trong việc thành
hôn với người yêu là tín đồ Ca-tô, nếu không, cái mộng đắp chăn chung
với người yêu sẽ bị gia đình của người yêu hay nhà thờ nghiền nát.
4.- Bị cưỡng bách
phải theo đạo để được bảo đảm an ninh hay khỏi bị các ông mật vụ, cảnh
sát, công an hay an ninh quân đội kiếm chuyện. Sự thật ghê tởm này được
chính một người trong cuộc là Linh-mục Trần Tam Tỉnh kể lại nơi các
trang 129-130 mà chũng tôi đã ghi lại trong Chương 7, “Những Đặc Tính”,
tiểu mục số 12 ở trên.
Những
người này bị đòi hỏi phải ghi danh theo học các lớp giáo lý để được nhồi
nhét vào đầu óc những thứ tín lý hoang đường, loạn luân, phi luân và
bịp bợm cũng như những lời dạy phỉnh gạt lưu manh của Giáo Hội. Thường
thường, bề ngoài họ tỏ ra rất nhiệt thành và siêng năng học hỏi với hy
vọng sớm sớm được cấp cho cái giấy chứng nhận đã hoàn tất lớp giáo lý để
trình lên cho các đấng bề trên (linh mục hay cha/mẹ đỡ đầu). Có như vậy
thì những giấc mộng “đi đạo lấy gạo để ăn”, “theo đạo để tạo
danh đời”, “theo đạo để giấc mộng thành hôn với người khỏi bị
nhà thờ phá vỡ” hoặc là “đi đạo để khỏi bị các ông công an, mật
vụ quấy nhiễu” mới đước xuôi xả.
Nhờ có
tinh thần nhiệt thành và siêng năng học hỏi của các học viên mà các ông
giảng viên các lớp giáo lý này không những cảm thấy vô cùng thoải mái,
hết sức sung sướng mà lại còn nhận được rất nhiều quà cáp hậu hĩ nữa.
Chuyện đem quà cáp hậu hĩ đến dâng cho các đấng bề trên hay các ngài
đại diên Chúa rất là thịnh hành trong giới người đang tính chuyện “đi
đạo để tạo danh đời” ở trong các chế độ đạo phiệt Ca-tô, chẳng hạn như ở
miền Nam trong những năm 1954-1975. Một trong những chuyện này được nhà
văn Ca-tô Nguyễn Ngọc Ngạn kể lại trong cuốn Xóm Đạo văn như sau:
“Cũng giống như
nhiều vị công chức cao cấp khác, ông quận trưởng tự cảm thấy rằng, thời
này là thời của đạo Thiên Chúa, bởi vì gia đình Ngô Tổng Thống rất sùng
đạo! Cái ghế của ông có vững hay không, tương lai của ông ta có leo lên
được nữa hay không, đều tùy thuộc cách xử sự khéo léo của ông, chứ không
phải nhờ tài năng hay đức độ. Nhà ông đời đời theo Phật giáo. Nhưng
người khôn ngoan lúc này phải biết thức thời, bỏ đạo Phật để rửa tội
theo Công Giáo thì mới được Ngô Tổng Thống tín nhiệm! Ông tin như thế,
cho nên ông hay tìm đến làm thân với các vị linh mục, những người mà ông
cho là cửa ngõ thênh thang nhất để giắt ông trên đường danh vọng. Một
tiếng nói, một đề nghị của một linh mục, sẽ có sức mạnh gấp trăm lần ý
kiến của quan trên! Tương tự như thế, một lời dèm pha của một linh mục,
có thể làm ông bay chức trong nháy mắt! Cái thành kiến ấy nằm sâu trong
đầu ông, cho nên ông đã từng trợ giúp vật liệu cho cha Xuân lúc xây nhà
thờ, từng xuống dự lễ Noel, quì mỏi gối chung với giáo dân ở trại, và
hai năm liên tiếp ngồi ghế quận trưởng, cứ mỗi độ xuân về, ông đều không
quên sai lính chở xuống tặng nhà xứ một cành mai thật lớn!…”
[18]
SỰ
THÀNH CÔNG CỦA VATICAN TRONG VIỆC
THI
HÀNH CHÍNH SÁCH NGU DÂN Ở VIỆT NAM
Chúng ta
biết rằng, dụng cụ làm bằng sắt nếu không được sử dụng trong nhiều ngày
và không được bảo trì đúng mức thì sẽ bị sét dỉ, và nếu tình trạng này
kéo dài trong nhiều năm, thì các dụng cụ đó sẽ hư hại, không còn sử dụng
được nữa. Trí óc người ta cũng tương tự như vậy. Nếu lâu ngày không vận
dụng trí óc vào việc suy nghĩ, phân tách và lý luận, thì các tế bảo lý
trí trong não bộ sẽ bị èo ọt, còm cõi hư hại. Những người ở vào tình
trạng này sẽ trở nên lười suy nghĩ, nếu cố gắng suy nghĩ thì họ sẽ bị
nhức đầu. Nếu là tín đồ Ca-tô, họ chỉ còn biết nghe theo và tuân hành
những lệnh truyền của những người chỉ huy họ, giống như một con chó được
nhà bác học Pavlov sử dụng làm con vật thí nghiệm. Những người ở vào
tình trạng này được gọi là những người “bị điều kiện hóa”.
Nếu con
chó bị điều kiện hóa bằng một phương pháp thí nghiệm của nhà bác học
Pavlov, thì những tín đồ Da-tô cũng bị điều kiện hóa giống y như con chó
Pavlov bằng một phương pháp riêng của Giáo Hội La Mã. Các nhà sử học và
các nhà giáo dục gọi phương pháp này của Giáo Hội là chính sách ngu dân
và giáo dục nhồi sọ. Cũng nên biết rằng “bị điều kiện hóa” có nghĩa là
bị biến thành hạng người cực kỳ ngu xuẩn, chỉ biết phát ngôn và hành
động theo lệnh truyền của các đấng bề trên của họ.
Chủ đích của chính
sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Giáo Hội La Mã là làm cho tín đồ
Ca-tô và nhân dân dưới quyền trở thành những người cuồng tín, siêu ngu
xuẩn nhưng cũng là những hạng người siêu ích kỷ, siêu hám lợi, siêu háo
danh, cực kỳ thèm khát quyền lực và đặc biệt là mất hết tính người
(human characters), tức là mất hết những đặc tính thiên bẩm như “nhân
chi sơ, tính bản thiện”, “công bằng”, “công lý”, “dĩ hòa vi quý” và “kỷ
sở bất dục, vật thi ư nhân”, “tế nhị”, v.v…Vì đã mất hết nhân tính, tín
đồ Ca-tô Việt Nam trở thành những người ngược ngạo, hiếu thắng, hiếu
chiến, hung hăng, dữ tợn, đa sát, khát máu, giết người không biết gớm
tay và uống máu người không biết tanh, giống như những tín đồ Ca-tô
người Tây Ban và người lính thập tự Âu Châu trong thời trung cổ. Những
đặc tính ngược ngạo, hung dữ và man rợ này của họ đã được thể hiện ra
thành những hành động ở bất cứ nơi nào có bàn tay quyền lực của Liên
Minh Pháp – Vatican và Liên Minh Mỹ - Vatican Mỹ trong suốt chiều dài
lịch sử từ năm 1858 cho đến ngày 30/4/1975 và đều được các tư liệu hay
sách sử ghi lại rõ ràng. Người viết cũng đã trình bày vấn đề này trong
Chương 7, Phần II, sách Người Việt Nam và Đạo Giê-su do hai tác giả Trần
Chung Ngọc và Nguyễn Mạnh Quang đồng soạn. Sách này đã được đưa lên
sachhiem.net từ tháng 1/2008. Tiêu biểu cho tín đồ Ca-tô người Việt với
những đặc tính ghê tởm này là ông Ca-tô Ngô Đình Diệm. Con người cuồng
tín bạo ngược dã man như đã trình bày nơi Chương 7, mục “Những Đặc
Tính” ở trên.
Cái đặc tính ghê tởm
trên đây của tín đồ Ca-tô người Việt cũng được Linh-mục Trần Tạm Tình
nói rõ trong cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm bằng một câu văn như sau:
“các linh mục đã
thề biến Giáo dân hiền lành vô tội đó thành những tên sát nhân cuồng
nhiệt.”
[19]
Đoạn văn sử trên đây của Linh-mục Trần Tam Tỉnh cùng với
đoạn văn cử sử gia Bernard B. Fall trong The Two Vietnams (New York:
Frederick A. Praeger, 1964, tr. 236) nói về đặc tính cuồng tính của ông
Ca-tô Ngô Đình Diệm như “a spiritual son of a fiercely aggressive and
militant faith” cho chúng ta thấy Giáo Hội La Mã đã thành công biến
người Việt Nam thành hạng người “hung hăng dữ tợn, háo chiến” và
“những tên sát nhân cuồng nhiệt”.
Những tín đồ Ca-tô người Việt với những đặc tính “hung
hăng dữ tợn, háo chiến” và “những tên sát nhân cuồng nhiệt”
này đã trở thành nguồn nhân lực cho Giáo Hội tổ chức thành những đạo
quân thứ 5 và toán lính đạo nằm tiềm phục trong các họ đạo hoặc xóm đạo
hay làng đạo nằm dưới quyền chỉ huy của các linh mục quản nhiệm để sằn
sàng thi hành lệnh truyền của Giáo Hội nổi lên chống lại chính quyền bản
địa nếu chính quyền này không chịu khuất phục hay không thỏa mãn những
yêu sách của Tòa Thánh Vatican. Đây là sự thật lịch sử. Sự thật này đã
xẩy ra trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại
từ năm 1784 cho đến ngày 30/4/1975 và hiện nay vẫn còn tiếp tục xẩy ra
ở Việt Nam. Không những thế Giáo Hội còn thành công biến tín đồ thành
một hạng người cực kỳ ngu xuẩn. Đặc tính ngu xẩn này được người trong
chăn Ca-tô là nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn ghi lại trong cuốn Xóm Đạo như
sau:
“Toàn trại này, dường như ai cũng sùng đạo như nhau, và sự sùng đạo ấy
được thể hiện qua việc cầu nguyện và đi lễ. Buổi sáng, năm giờ chuông đổ
lần thứ nhất, họ đã lục tục đánh thức cả nhà cùng dậy. Việc đầu tiên khi
chưa bước chân xuống đất, là phải làm dấu thánh giá và đọc vài kinh nhật
tụng. Sau đó, đánh răng rửa mặt, thay quần áo đi lễ. Trên đường đến nhà
thờ, họ không bỏ phí thì giờ, lấy tràng hạt ra vừa lần chuỗi vừa cầu
xin. Vào nhà thờ đọc kinh chung cả tiếng đồng hồ rồi mời tham dự thánh
lễ mà dường như vẫn chưa thấy đủ, họ còn quì nán lại đọc kinh thêm cho
đến lúc tới giờ đi làm. Buổi trưa, đúng giờ ngọ, chuông nhà thờ lại cất
lên, nhắc họ dù đang làm gì, dù đang ở đâu, cũng phải tạm ngưng tay để
làm dấu thánh giá và cầu nguyện. Tối về, cơm nước xong lại vội vã đến
nhà thờ. Và khoảng 9 giờ tối, trước khi đi ngủ, mọi gia đình đều tụ tập
trước bàn thờ để đọc thêm một loạt kinh nữa trước khi lên giường! Nói
chung, một ngày không biết bao nhiêu lần nhớ đến Chúa. Ăn củ khoai cũng
làm dấu thánh giá. Nửa đêm mất ngủ cũng ngồi lên lần tràng hạt! Vui cũng
cám ơn Chúa, mà buồn cũng coi là thánh giá Chúa trao cho mình gánh vác!
Niềm tin mãnh liệt như thế, cho nên chẳng lạ gì….”[20]
“Từ thuở chưa có trí khôn, cũng giống như bao nhiêu người Công Giáo
khác, anh (Thông) đã được nuôi dưỡng trong bầu không khí thượng tôn tín
ngưỡng, bằng những giáo điều bất di bất dịch, theo thời gian ngấm dần
vào trí óc anh, khiến anh làm cái gì cũng sợ tội, sợ Chúa trừng phạt.”[21]
Bản văn trên đây nói
lên thực trạng cực kỳ ngu xuần của tín đồ Ki-tô ngoan đạo người Việt
Nam. Thực trạng này cho chúng ta thấy rõ chính sách ngu dân và giáo dục
nhồi sọ cùng với nghệ thuật tuyên truyền của Vatican quả thật là cực kỳ
siêu việt. Nó đã biến con người “nhân chi sơ, tính bản thiện” vốn có
sẵn tinh thần “dĩ hòa vi quý” với bộ óc siêu việt thành những tên sát
nhân cuồng nhiệt, những con người cực kỳ dã man đối với những người
thuộc các tôn giáo khác. Cũng vì thế mà nhà báo Long Ân đã ghi nhận:
"Con người đã nhân
danh tôn giáo để làm những chuyện điên cuồng nhất, đã nhân danh tôn giáo
để biện minh cho quyền lực phi nhân áp đặt lên đầu kẻ khác. Con người
đã phản lại tôn giáo, đã chặt đứt cây cầu đưa đến cuộc tìm kiếm chính
mình đã cúi đầu trên bốn chân để từ con người trở về với con người súc
sinh."[22]
BƯNG BÍT, KHÔNG CHO
PHỔ BIẾN
NHỮNG SỰ THẬT LỊCH SỬ
TRONG
CÁC CỘNG ĐỒNG NGƯỜI
VIỆT HẢI NGOẠI
Đồng thời, người của
Vatican được lệnh tìm đủ mọi phương cách khống chế và lũng đoạn các cơ
quan truyền thống bằng tiếng Việt ở trong nước (nếu có thể) cũng như ở
hải ngoại (từ cuối năm 1975 cho đến nay) rồi dùng các phượng tiện này phải tùy theo hoàn cảnh để
hoặc là phủ nhân hoặc là tránh né, lờ đi không nói gì đến những sự kiện:
1.- Chính quyền đạo
phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm theo đuổi kế hoạch Ki-tô hóa miền Nam bằng bạo
lực và bách hại Phật Giáo một cách cực kỳ man rợ, sát hại tới hơn 300
ngàn người. Đây là nguyên nhân khiến cho:
2.- Tình hình nhân dân
Hoa Kỳ và nhân dân thế giới cực lực lên án chính quyền Ngô Đình Diệm,
đòi chính quyền Hoa Kỳ phải có trách nhiệm về hành động dã man này của
chính quyền đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm và đòi hỏi phải có biện pháp
mạnh để trừng tri cái chế độ bạo ngược quái đản này do chính Hoa Kỳ dựng
nên.
3.- Việc nẩy sinh ra
cuộc khủng hoảng chính trị giữa chính quyền Hoa Kỳ và chính quyền đạo
phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm. Cuộc khủng hoảng này đưa đến cơ hội cho quân
dân Việt Nam vùng lên đạp đổ chế độ đạo phiệt khốn nạn này và lôi cố hai
tên bạo chúa Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu ra đập chết và khoảng 7 giờ
sáng ngày 2/11/1963, và xử bắn tên bạo chúa Ngô Đình Cẩn vào sáng sớm
ngày 9/5/1964. Nếu có nói đến sự kiện này thì phải tìm các bóp méo sự
thật, đổ lỗi cho Hoa Kỳ
4.- Nhà viết sử Nigel
Cawthorne khẳng định rằng Ngô Đình Diệm là một trong số 100 tên báo chúa
ác độc nhất trong lịch sử nhân loại.[23]
Tình trạng này khiến cho tất cả những tín đồ Ca-tô và những người Việt
tiếp nhân sở học ở Việt Nam trong thời kỳ 1885-1954 và ở miền Nam Việt
Nam trong những 1954-1975 và tín đồ Ca-tô sinh sống ở hải ngoại từ năm
1975 không biết gì về những sự kiện lịch sử đã nói ở trên
Chú Thích
[14]
Charlie
Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm,
2001, tr. 228 và 272.
[15]Nguyễn Văn
Chức, Việt Nam Chính Sử (Virginia, Fall Church: Alpha,
1992), tr.1.
[16]
Phan Đình
Diêm.“Mea Culpa Bai 3 – Giáo Hội Công Giáo Roma La-tinh Cáo Thú
Tội Lỗi Ngàn Năm” Kitohoc.com/BaiNet066.html Ngày 5/5/2000.
[17]
Lý Chánh Trung, Tìm Về Dân
Tộc (Sàigòn: Lửa Thiêng, 1972), tr 25-26.
[18] Nguyễn Ngọc Ngạn,Sđd., tr 152-53.
[19]
Trần Tam
Tỉnh, sđd., tr 104.
[20]Nguyễn Ngọc
Ngạn, Sđd., tr 148.
[21]
Nguyễn Ngọc
Ngạn, Sđd., tr 71.
[22]
Nguyễn Mạnh
Quang, Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000), tr. 340.
[23]
Nigel
Cawthorne, Tyrants History’s 100 Most Evil Despots &
Dictators (London: Arcturus, 2004), pp.167-168.
Các bài trong tập sách Chân Dung VNCH
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 02: Tính Cách Thuận Lý của Chính Quyền -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 02a: Tính Cách Thuận Lý của Chính Quyền -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 02b: Tính Cách Thuận Lý của Chính Quyền -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 07a: Đặc Tính -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 02c: Tính Cách Thuận Lý của Chính Quyền -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03a: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03b: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03c: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03d: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 05: Đại Việt, Lập Hiến Đông Dương và Việt Nam Qu -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 06: Việt Quốc và Việt Cách -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 06a: Phụ Bản -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 07: Đặc Tính -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 07b: Không Dám Đối Đầu Sự Thật -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 08: Chính Sách Ngu Dân Và Giáo Dục Nhồi Sọ -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 08a: Chính Sách Ngu Dân Và Nhồi Sọ -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 09: Tác Dụng Của Chính Sách Ngu Dân -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 10: Di Lụy Của Chính Sách Ngu Dân -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 10a: Di Lụy Của Chính Sách Ngu Dân -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 1
2 ▪
>>>