Toàn tập: Dàn bài
Chương 7: 1 2
3
CHƯƠNG 7
Chân dung những người tự nhận là người Việt Quốc Gia
(tiếp theo)
D.- Không Dám Đối Đầu Với Sự Thật
Tìm hiểu những người
Việt Quốc Gia nói chung và tín đồ Ca-tô người Việt nói riêng, người viết
nhận thấy có một điểm đặc biệt là họ không có can đảm nhìn nhận sự thật
để chuẩn bị đương đầu hay sống thích nghi với thực tế. Họ sống trong ảo tưởng, và bị lừa bịp thường trực để rồi trở thành những tay tổ đại bịp. Dưới đây là một
số sự thật mà họ không dám nhìn nhận:
Sự thật là không làm gì có chuyện đem cục
đất sét nặn thành hình người rồi hà hơi vào mà trở thành con người với
đầy đủ những thất tình và lục dục giống như những con người bằng xương
bằng thịt được hình thành do sự làm tình giữa một cặp trai gái rồi sinh
ra. Đây là trường hợp ông Adam và bà Eva.
Sự thật là không bao giờ có tội tổ tông
huyễn hoặc, hoang đường, láo khét như đã nêu lên trong thánh kinh Do
Thái giáo.
Sự thật là không bao giờ có chuyện một
người bị xử tử như một tên tội đồ xã hội, đã chết cả ba ngày rồi lại
sống lại và bay lên trời như trường hợp ông Jesus.
Sự thật là không bao giờ có một người đàn
bà nào đã trải qua những cuộc mây mưa làm tình với ít nhất là hai người
đàn ông và đã hạ sinh tới 8 người con mà vẫn còn là một gái trinh để
rồi được tôn lên là Đức Mẹ Đồng Trinh như trường hợp bà Maria.
Sự thật là chẳng bao giờ có những chuyện
Đức Mẹ hiên ra như chuyện Đức Mẹ Fatima, Đức Mẹ Lộ Đức (Lourdes), Đức Mẹ
La Vang, v.v… Tất cả là những chuyện Đức Mẹ hiện ra chỉ là những chuyện
bịp vĩ đại được bịa đặt ra nhằm để lừa dối đám tín đồ Ca-tô cuồng tín
với mục moi tiền của họ bằng cách (1) thiết lập ở những nơi đó một hệ
thống cơ sở kinh tài, (2) rồi tổ chức những cuộc hành hương vĩ đại đến
đó hầu có thể làm tiền qua việc cho khách hành hương mướn phòng ngủ,
bán đồ ăn và nước uống, bán đồ dâng cúng với giá cắt cổ, đặc biệt là
bán nước lã và bảo rằng đó là nước thánh rất linh thiêng, có thể chữa
trị bá bệnh.
Cái quái chiêu bịa đặt
ra chuyện Đực Mẹ hiện ra coi bộ dễ dàng móc túi tín đồ được bộn bạc. Vì
thế mà cái mửng làm ăn theo kiểu này được Vatican và giới người mặc áo
chùng thâm tái diễn hoài hoài. Tin mới nhất cho biệt, chuyện làm ăn bịp
bợm kiểu này lại được các Ngài đại diện Chúa Bơ Jehovah, Chúa Con Jesus
và Chúa Mẹ Maria tại giáo Xứ Bạch Lâm, Gia - Kiệm, tỉnh Đồng Nai (cũ là
Long Khánh) cho tái diễn vào trung tuần tháng 8/2008 để móc túi tín đồ
Ca-tô cuồng tín. Chuyện này được ông Bernard Chang 555 kể lại với nguyên
văn như sau:
"Hôm qua, đài truyền hình tỉnh Đồng Nai có một
chương trình tổng kết về vụ hàng đám giáo dân tụ tập về cầu nguyện trước
tượng bà Maria bị chảy nước (không biết nước gì) ở Giáo xứ Bach lâm –
Gia Kiệm – Đồng Nai.
Mở TV xem giữa chương trình, đúng lúc phát
biểu của Linh mục Nguyễn Việt Tiến – quản hạt Gia Kiệm, nhưng BC tôi
thấy thương ông LM này quá. LM nói " . . . đức tin của họ đã đạt đến mức
mê tín, mù quáng; nói sao họ cũng không còn nghe thấy nữa, như bị thôi
miên . . . rồi đây người ta sẽ nhìn Giáo hội như thế nào đây . . ." ông
ấy nói như mếu. sau đó đến LM khác phát biểu " . . . như trước đây, họ
cứ bảo tương chúa jesus chảy máu, tôi cho người leo lên tận trên ấy cạo
lớp sơn ra, họ lại bảo chảy máu trên đầu, mà có thấy gì đâu, . . ." lắc
đầu ngao ngán.
Mặc dù 2 LM nói về giáo dân, con chiên của họ
như vậy. Hai LM đều tỏ thái độ thiện chí để bài trừ vấn nạn mê tín,
cuồng tín trong tập thể giáo dân của họ, họ cũng tỏ rỏ thái độ thẹn
thùng trước những tệ nạn mà nó sẽ làm xấu đi hình ảnh giáo hội
của họ. Họ xác định đây là những tin đồn bậy bạ, là niềm tin mù quáng
của những con cừu ngu si, kém trí.
Tuy nhiên, khi xem trên TV, nhà đài cho biết
ngay khi có tin bà Maria chảy nước, GX Bạch lâm đã thiết sẳn một bàn dài
để nhận quà của khách thập phương đến cống nạp cho Mẹ. Khi cái giỏ đầy
phong bì thì có người chờ sẳn để mang đi. Vậy là quá rỏ, vụ này chắc
chắn do một đấng chủ chăn đạo diễn.
TV cũng cho biết thêm, trước đây có một tin
đồn nước thánh rỉ ra từ hang đá có tượng đức mẹ ngự tại một GX thuộc
Huyện Nhơn Trạch – Đồng Nai. Quan sát qua TV, ta thấy nước rỉ ra qua
những khe đá từ hòn non bộ nhân tạo và có dựng tượng bà Maria trên đó.
Vậy thì nước thánh này được rỉ ra từ bộ phận nào trên cơ thể bà Maria
đây? Tội nghiệp cho đám giáo dân cứ thế nào bụm nước vào tay mà húp, húp
bất kể nước gì. Tuy nhiên khi cơ quan hữa quan tìm hiểu thì ngay trong
hòn non bộ nhân tạo, GX đã cho thiết kế sẳn một cái hồ ngầm chứa nước .
. . để rỉ khi cần.
Qua 2 sự việc mẹ Maria rỉ nước mà BC tôi được
xem trên truyền hình Đồng Nai, ai cũng thấy rỏ rằng Nhà thờ đã đạo diễn
nên tất cả. Để làm gì? Để củng cố sự mê tín trong đám giáo dân mà họ
chăn dắt. Đến một lúc nào đó, Nhà thờ có thể đồn lên rằng "công an mới
bắt mẹ Maria vì tội ngoại tình, mẹ đang khóc quá chừng" thế là đám giáo
dân sẳn sàng, bất chấp tất cả để bạo loạn.
Trong những năm gần đây, bà Maria khóc liên tù
tì trên toàn quốc – khóc ở Sài gòn, khóc ở Tà pao (Bình thuận), khóc ở
Hóc môn, khóc ở . . . bất kỳ nơi đâu mà mẹ đứng. Mỗi lần mẹ khóc thì thu
hút hàng đám con chiên đến cầu nguyện, dỗ dành mẹ, gây mất trật tự xã
hội. BC tôi có thể khẳng định rằng, mẹ khóc, mẹ mếu, mẹ chảy máu đều do
các cha nhà thờ biểu mẹ làm cả. Tới đây, mẹ có ị ra trong quần cũng là
lệnh của Vatican đấy thôi.
Cánh chóp bu thì luôn khai thác sự mê tín,
cuồng tín vốn có của con người nhằm thu lợi. Một tôn giáo mà chỉ có
những tin đồn mẹ chảy nước để củng cố niềm tin thì quả là nhục nhã hết
chổ trốn.
Vì sao mẹ khóc? Mẹ khóc vì chúa "phủ" xong rồi
bỏ mẹ vượt cạn một mình, bỏ mẹ với bao trò thế gian vùi dập, bỏ mẹ phải
đi thêm bước nữa rồi phải sinh thêm con đẻ thêm cái. Mẹ khóc vì chúa để
lại cho mẹ một thằng con bất hiếu, nó chối bỏ mẹ cho dù mẹ đã nuôi nó to
lên theo ý chúa.
Nếu mẹ còn buồn vì những sự oái ăm thế thì việc mẹ khóc sẽ
còn xãy ra dài dài, xãy ra cho đến khi đám chiên vàng gột rửa hết cái
chất ngu trong não bộ của họ, Công an cũng còn phải túc trực làm việc
mệt nghỉ đây.”
Bernard Chang 555. “Mẹ chảy nước di động.”
bernardzip555@gmail.com. Ngày
19-08-2008.
Những hành động cho
tái diễn hoài hoài quái chiêu bịa đặt Đức Mẹ hiện ta để làm tiền bất
chính của Giáo Hội và các Ngài đại diện Chúa được người trong chăn Ca-tô
ghi nhận trong cuốn Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm với nguyên văn như sau:
“Thông điệp chính yếu trong những lần “Đức Mẹ hiện ra”, nếu có thật là
khuyến cáo các tu sĩ, nhất là các linh mục, phải cải thiện đời sống để
cứu nguy Giáo Hội Công Giáo đang bên bờ diệt vong . Nhưng các tu sĩ hoàn
toàn làm ngơ trước những khuyến cáo này của Đức Mẹ. Trái lại, họ chỉ
biết chú tâm vào việc khai thác thương mại lòng sùng kính ngây thơ của
giáo dân dành cho Đức Mẹ, hiện thân của tình mẫu tử theo nhân tính tự
nhiên. Nếu Đức Mẹ đang hiện diện ở khắp mọi nơi, thì cần gì phải tổ chức
những cuộc hành hương rềnh ràng tốn phí mà những kẻ nhiều tiền lắm bạc
mới kham nổi. Từ nhiều năm qua, Dòng Đồng Công đã tổ chức nhiều cuộc
hành hương tới những địa danh nổi tiếng về phép lạ của Đức Mẹ Fatima ở
Bồ Đào Nha, Lộ Đức (Lourdes) ở Pháp, Núi Mẹ Sầu Bi tại Oregon. Hàng năm,
Dòng Đồng Công tổ chức “Đại Học Thánh Mẫu” thu hút năm, sáu chục ngàn
người từ khắp nơi qui tụ về “Thánh Địa “ Carthage – Missouri.
Đây là dịp cho các nhà thần học hoang tưởng về khoa học “Thánh Mẫu Học”
(Mariology) trổ tài hùng biện thuyết giảng về các phép lạ của Đức Mẹ để
thỏa mãn nhu cầu ham chuộng phép lạ vô bờ bến của giáo dân Việt Nam.
Trong số các chuyên gia về Thánh Mẫu Học nổi tiếng, chúng ta phải kể đến
“nhà văn” Phạm Đình Khiêm, tác giả cuốn “Đức Mẹ La Vang là Nữ Vương
Chiến Thắng”, Linh-muc Barnebê Nguyễn Đức Thiệp, cựu Giám Tỉnh Dòng Đồng
Công tại Hoa Kỳ, “nhà khảo cứu” Nguyễn Đức Tuyên, Giáo-sư Trần Ngọc Vân,
tức “nhà văn” Trần Phong Vũ. Trần Ngọc Vân là người đặt tên cho cuốn
sách mới toanh về Đức Mẹ là “Mẹ Maria Trong Ánh Sáng Đức Tin”, 285
trang, giá 10 đô, của tác giả Ngưỡng Nhân Lưu Âu Nhì, xuất bản tại Hoa
Kỳ tháng 10/2000. Nếu coi băng video của Câu Lạc Bộ Văn Hóa Tố Như,
chúng ta sẽ nghe được nhà thần học hoang tưởng trẻ măng là Linh-muc Phan
Hữu Ngọc, tiến sĩ Thánh Mẫu Học thuộc dòng Đồng Công thuyết giảng.
Cơ quan tuyên truyền chính yếu của Dòng Đồng Công là Nguyệt San Trái
Tim Đức Mẹ. P.O. Box 836, Carthage – MO 64836, phone (417) 358-8296.
Cũng theo báo này thì từ xưa đến nay, Đức Mẹ đã hiện ra ở khắp nơi
trên thế giới hơn 30.000 lần. Mỗi lần Người hiện ra đều có những
phép lạ khác nhau và mặc sắc phục khác nhau…”
[38]
“Theo báo Newsweek
ra ngày 26/8/1997, trong 19 thế kỷ qua, Vatican loan báo Đực Mẹ đã hiện
ra chỉ có vài lần. Nhưng trong thế kỷ 20, Vatican cho biết có tới 400
lần Đức Mẹ hiện ra tại khắp nơi trên thế giới. Những vụ Đức Mẹ hiện
ra dồn dập cho loài người thấy hình như rất là khẩn trương và là điềm
báo cho thấy ngày tận thế của Giáo Hội Satan đang trong tầm tay (The
Doomsday is at hand). Năm 1917 là năm Giáo Hội bị đe dọa nặng nề bởi
hiểm họa Cộng Sản. Nhưng hiện nay Giáo Hội Công Giáo mới thực sự đang
đứng trên miệng hố diệt vong.
Trong cuộc hiện ra tại Fatima năm 1917, Đức Mẹ hứa Trái Tim Mẹ sẽ chiến
thắng Cộng Sản và nước Nga sẽ ăn năn trở lại với Mẹ. Quả thật, chủ nghĩa
Cộng Sản đã bị sụp đổ, nhưng người Nga đã trở lại với Mẹ trong Chính
Thống Giáo, chứ không trở lại với Giáo Hội Satan là Vatican.
Trong tháng 8/1997, quốc hội Nga đã biểu quyết đạo luật và Tổng Thống
Yelsin ban hành xác nhận tự do tôn giáo trên nước Nga. Mọi tôn giáo, kể
cả đạo Phật và đạo Hồi đều được tự do truyền giáo và hành đạo tại Nga,
ngoại trừ Công Giáo La Mã và Tin Lành. Người Nga coi Công Giáo La Mã là
giáo hội thù địch vì Công Giáo là kẻ phản bội Chúa và Đức Mẹ…”[39]
Sự thật là
các ông giáo hoàng và tất cả các tu sĩ Ki-tô đều là những tên đại bịp.
Bằng chứng là tất cả các giáo hoàng và các ông tu sĩ Ki-tô đều luôn
luôn lớn tiếng rao truyền rằng “mọi sự ở trên cõi đời này đều do
Chúa an bài cả” và “nếu tin có Chúa hay tin vào Chúa thì
sẽ được Chúa che chở bảo vệ và sẽ được cho lên thiên đàng hưởng nhan
Chúa đời đời, sướng lắm!” Họ dạy giáo dân và người
đời là như vậy. Ấy thế mà họ lại có những hành động công khai KHÔNG
TIN VÀO “sự an bài của Chúa” và CŨNG KHÔNG TIN VÀO “sự che
chở và bảo vệ của Chúa” trước con mắt thiên hạ giữa thanh thiên bạch
nhật một cách hết sức trơ trẽn mà không biết ngượng. Bằng chứng
là mỗi lần thánh du ra khỏi nước Ý, cả Giáo Hoàng John Paul II
(1978-2005) và đương kim Giáo Hoàng Benedict XVI (2005 - ) đều phải sử
dụng chiếc xe chống đạn loại dành riềng cho giáo hoàng gọi là
Popemobile và đều có hàng hàng lớp lớp cảnh sát, công an, mật vụ của các
chính quyền địa phương đi theo bao quanh để bảo vệ. Sự kiện này chứng tỏ
các ông giáo hoàng và tất cả các giáo sĩ và tu sĩ Ki-tô đều là những
người nói láo, những tên đại bịp.
Trong khi đó, Đức Đạt Lai Lạt Ma của nước Tây Tạng, hoàn toàn không
tin tưởng vào sự an bài của Thượng Đế, hoàn toàn không tin tưởng vào sử
che chở và bảo vệ của Thượng Đế. mà chi tin vào luật nhân quả. Ông cho
rằng nếu ông không là việc bất nhân bất nghĩa, không làm việc ác, không
làm việc gì có thể gây hại cho người khác, không ăn gian nối dối,
không lường gạt và lừa bịp ai, thì tất nhiên không có ai thù ghét ông
đến nỗi phải mưu đồ ám hại ông. Vì thế mà ông đi đến đâu hay đi tham
quan ở bất kỳ quốc gia nào, ông không cần phải dùng loại xe chống đạn
loại đặc biệt để đề phòng bất trắc, có kẻ mưu đồ ám hại ông. Nhiều khi
ông đi bộ khơi khơi ở ngoài đường phố giữa chốn đông người mà chẳng hề
hấn gì cả.
Tương tự như Đức La Lai Lạt Ma của nước Tây Tạng, ông Mikkail
Gorbachev bí thư Đảng Cộng Sản kiểm chỉ tịch nhà nước Liên Sô, một nước
thù địch số 1 của Hoa Kỳ trong thời Chiến Tranh Lạnh, một người hoàn
toàn tin rằng KHÔNG CÓ ÔNG THƯỢNG ĐẾ NÀO CẢ có thể can thiệp vào đời
sống của con người, mà chi tin vào lẽ phải và lương tâm. Ông cho rằng
ông hành động theo lẽ phải và lương tâm, thì tất nhiên không có
người nào thù ghét ông đến độ phải mưu hại ông. Cũng vì thế mà vào giữa
thập niên 1980, ông đến thăm Hoa Kỳ, ở ngay trong thành phố New
York, có một lần ông đi bộ ở giữa đường phố đông người, không có một
người lính an ninh hay cảnh sát nào đi theo bảo vệ ông, và ông vẫn an
toàn, chẳng có ai mưu hại ông cả.
Nếu có liêm sỉ và lương tâm, Giáo Hoàng John Paul II và Giáo Hoàng
Benedict XVI nhìn thấy cái guơng hành xử của Đức Lạt Lai Lạt Ma và
của Mikkail Gorcbachev thì phải biết xấu hổ. Thế nhưng, trong suốt
chiều lịch sử gần hai ngàn năm của Giáo Hội La Mã, có nhà sử học nào tìm
thấy có một ông giáo hoàng của Giáo Hội La Mã có lương tâm hay liêm sỉ
bao giờ đâu. Bởi thấy chúng ta thấy họ đều là những thứ mặt trơi trán
bóng, trong đó ông Giáo Hoàng John Paul II và Benedict XVII là hai người
gần đây nhất mà chúng ta có thể kiểm chứng được. Cũng vì thế mà
chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy cả Giáo Hoàng John Paul II và
Giáo Hoàng Benedict XVI mỗi khi đi tham quan một quốc gia nào vẫn tiếp
tục sử dụng chiếc xe chống đạn Popemobile để đề phong bất trắc lỡ có người
mưu đồ ám hại và cần phải có các toán lính an ninh và cảnh sát đi theo để
bảo vệ.
Sự thật là lá cờ vàng có ba sọc đỏ hàm
chứa ý nghĩa biêu tựợng cho Chúa Ba Ngôi (Trinity, tam vị nhất thể, Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần) do chính Vatican chế ra với mục đích
để làm biểu tượng cho bọn Việt gian phản quốc mà hầu hết là tín đồ Ca-tô
người Việt đã và đang chiến đấu trong hàng ngũ liên minh giặc xâm lăng
Pháp–Vatican chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam trong thời Kháng
Chiến 1945-1954 để bảo vệ quyền lực của Vatican ở Việt Nam. Đồng thời,
lá cờ này cũng là để giúp cho bọn Việt gian bán nước cho Pháp không phải
là tín đồ Ca-tô dùng nó mà nhập nhằng cao rao là biểu tượng tranh đấu
cho lý tưởng Quốc Gia để lấp liếm tội ác phản quốc và phản dân tộc của
họ. Ngày nay, quyền lực của Vatican không còn tồn tại ở Việt Nam nữa,
tất nhiên cái lá cờ vàng ba sọc đỏ này cũng bị chính Vatican vứt vào sọt
rác. Ấy thế mà các ông người Việt Quốc Gia vẫn cứ ôm lấy nó, coi nó như
là biểu tượng cao quý và hò hét nhau làm những trò hề cho thiên hạ cưởi.
Một trong những trò hề này là những hành động tụ tập với nhau, trương nó
lên rồi kéo nhau đi biểu tình chống tờ báo Viet Weekly từ tháng 7/2007
cho đến nay và chống tờ báo Người Việt Cali từ tháng 1/2008. Ngược ngạo
hơn nữa, trong tháng 4/2008, các ông Người Việt Quốc Gia rủ nhau đến
trường USC, yêu sách ban giám đốc của nhà trường phải hạ quốc kỳ Việt
Nam là lá cờ đỏ sao vàng để thay thế bằng lá cờ vàng ba sọc đỏ. Những
hành động lố lăng và ngược ngao này đã khiến cho tờ báo điện tử
OCregister.com phải phản ứng bằng những lời lẽ như sau:
“Bạn có biết không.
Ngu xuẩn là chính danh. Pháp và sau đó là Mỹ đã huấn luyện
những người ngu dốt để phục vụ cho chúng. Công việc của họ là đánh
hơi ra những kẻ nào chống chủ của họ, cộng sản hay không. Họ gọi bất cứ
người nào chống lại sự thống trị của ngoại bang là “cộng sản” và cầm tù
và giết người đó đi. Đó là tại sao họ không được sự ủng hộ của dân
chúng. Đó là tại sao khi Mỹ tháo chạy thì họ cũng phải tháo chạy.
Chế độ Saigon không có ngay cả sự ủng hộ của binh sĩ của mình, đó là tại
sao mà chỉ có trong vòng 55 ngày mà quân đội miền Bắc có thể kiểm soát
hoàn toàn Nam Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Một điều
mà cái guồng máy chiến tranh lớn nhất trên thế giới không thể làm nổi dù
rằng đã giết cả triệu người, thả 8 triệu tấn bom và trải 70 triệu lít
chất khai quang màu cam.
Cho đến ngày nay, suốt cuộc đời của họ dính cứng vào cái trạng thái tâm
lý đó. Họ nghĩ rằng nếu họ cứ kiên trì hô to những khẩu hiệu trống
rỗng thì họ sẽ được sự ủng hộ để họ đi hiếp đáp những người khác ở trên
đất Mỹ này, và lạ lùng thay họ đã thành công. Điều này chứng tỏ một
điều. Còn rất nhiều người ngu trên đất Mỹ.
Những người biểu tình chống đối có biết rằng trong thế giới ngày nay mà
lên án một người nào là cộng sản thì thật là ngu xuẩn không? Nó đã quá
lỗi thời và chứng tỏ là các người thiếu giáo dục.”
1000 sinh viên Mỹ gốc Việt học ở USC đúng khi nói rằng lá cờ đỏ sao vàng
không đại diện cho họ. Đó là vì lá cờ ba màu đỏ, trắng, và xanh (cờ Mỹ)
đã đại diện cho họ ở mọi cơ sở liên bang, tiểu bang, quận, và các công
sự trong thị trấn.
Các người không có quyền bảo USC hay bất cứ ai về vấn đề lá cờ nào mà họ
muốn treo. Đó không phải là một đặc quyền mà là quyền đã tranh đấu để có
được. Nếu những người chống đối muốn lá cờ cũ của miền Nam Việt Nam được
treo thì các người phải ở lại trong nước và chiến đấu [nếu thắng thì
đương nhiên lá cờ đó là cờ của quốc gia Việt Nam]. Miền Bắc đã ở lại và
chiến đấu và họ đã được cái họ muốn. Sự kiện là điều này không xẩy ra
cho miền Nam và ngày nay chúng ta đang ở năm 2008.
Các người muốn gì nữa từ nước Mỹ? Các người muốn chúng tôi gây một cuộc
chiến khác với Việt Nam chăng?”
Nguyên văn: “You got it. Ignorant is the
word. France and later the US had trained these ignorant people to serve
them. Their job is sniffing out their own people who is against their
master, communists or not. They would call anyone who opposes foreign
domniation “communist” and jail and kill them. That’s why they didn’t
have any support from the population. That’s why when the US run, they
had to run too. The Saigon regime didn’t even have the support of its
own soldiers, that’s why it took only 55 days for the North Army to take
total control of South Vietnam in the Ho Chi Minh Campaign in 1975.
Something that the biggest war machine this world has ever seen
couldn’t do in ten years despite killing millions of people, dropping 8
million tons of bombs and 70 million liters of Agent Orange.
All their lives
until this day, they’re stuck in that mentality. They think if they
chant those empty slogans often enough they will get the support they
need to bully others here in the US, and surprisingly they did succeed.
That proves one thing. There’ re a lot of ignorant people in the US’
population.
Do you protestors
realize how ignorant it sounds to utilize and accuse someone of being a
communist in today’s world? It’s outdated and clearly demonstrates your
lack of education.
The 1000 US Vietnamese
students are correct to state that the Red flag with the star doesn’t
represent them. It is because the red, white and blue represents them in
every federal, state, county and city building.
You have no right to
tell USC or anyone of that matter to fly what flag they want to. It is
neither a privilege but a right that was given and fought for. If you
protestors wanted the old South Viet Nam flag to fly, you should have
stayed and fought. The North stayed and fought and they got what they
wanted. The facts remain for the South that didn’t occur and we here now
in 2008. What else do you want more from the US? Do you want us to wage
another war against Vietnam?”
[40]
Tất cả những điều nêu
lên trên đây đều là sự thật. Ấy thế mà tất cả tín đồ Ca-tô cũng như tín
đồ Tin Lành người Việt đều không dám đối diện với những sự thật trên
đây. Vì không dám đối diện với những sự thật trên đây, cho nên họ cứ
phải thường trực sống trong ảo tưởng, thường trực sống trong lừa dối và
bịp bợm để rồi chính bản thân họ không những tuyệt đối tin tưởng rằng những
thứ láo khoét hoang tưởng cực kỳ phi lý và bịp bợm đó là sự thật 100%,
mà còn luôn luôn có ý định cưỡng bách hay đòi hỏi những người khác phải
tin như vậy. Nếu cần và nếu có cơ hội, họ sử dụng cả bạo lực để cưỡng
bách người ta phải tin những thứ láo khoét và bịp bợm này. Rõ ràng là họ
đã trở thành nhữ tên đại bịp xấc xược và ngược ngạo đối với những người
thuộc các tôn giáo khác trong các cộng đồng địa phương tại Bắc Mỹ, tại Úc và tại nhiều nơi
khác.
Vì phải sống thường
trực sống trong ảo tưởng, lừa dối, bịp bợm và hành xử lừa dối, bịp bợm
như thế, vô hình chung lừa dối, bịp bợm đã trở thành nếp sống văn hóa và
đạo lý của họ. Nền văn hóa Ca-tô là như vậy. Từ ngày 5/6/1948 (ngày
chính quyền Quốc Gia và lá cờ vàng ba sọc đỏ được Vatican cho ra đời)
cho đến ngày 30/4/1975, những người tự nhận là người Việt Quốc Gia cũng
đã luôn luôn sống trong ảo tưởng Ca-tô, trong lừa gạt và bịp bợm giống y
hệt như tín đồ Ca-tô. Cứ thế, thét rồi chính họ cũng trở thành những
người chuyên nghề bịp bợm và lừa dối thiên hạ giống như các ông giáo
hoàng, giống như các ông làm cái nghề khoác áo chùng thâm, và giống như
tín đồ Ca-tô. Có thể tình trạng này là một trong những lý do khiến cho
học giả Charlie Nguyễn gọi Giáo Hội La Mã là một tổ chức đại bịp. Ông
viết rõ ràng như sau:
“Cho nên người ta
gọi đạo Công Giáo là đạo bịp hay đạo dối, thật không sai chút nào. Nếu
phải kể cho hết những chuyện bịp của Công Giáo chắc phải viết một tràng
thiên tiểu thuyết thì may ra mới tạm đủ. Riêng về chuyện Thánh Phêrô là
giáo hoàng đầu tiên cũng có hàng chục chuyện bịp. Chẳng hạn cái được gọi
là “Chiếc ghế Phêrô” (Chair of Peter) cốt để mọi người tin rằng Công
Giáo là đạo chính truyền của Chúa Jesus qua thánh Phêrô. Vào tháng
7/1968, một phái đoàn khoa học quốc tế đã đến tận Tòa Thánh giảo nghiệm
bằng phương pháp Carbon (Carbon dating method) đã xác nhận chiếc ghế này
được ngụy tạo trong thế kỷ 9. Còn tượng thánh Phêrô bằng đồng đen đã
được toàn Giáo Hội Công Giáo tôn kính nhiều thế kỷ với hàng triệu triệu
người đã quỳ mọp hôn chân tượng này. Các nhà khoa học và khảo cổ xác
định bức tượng này là tượng Thần Jupiter của hoàng đế thời cổ La Mã vài
thế kỷ trước khi Jesus ra đời! (Babylon Mystery, p. 78…”[41]
Về kỹ thuật và thành
tích bịp của Giáo Hội La Mã, người viết đã dành hẳn Chương 11 (Mục IV,
Phần II, trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã) để
nói về vấn đề này và đã được đưa lên sachhiem.net và giaodiemonline.com
từ tháng 9/2007. Mời độc giả vào hai trang nhà này đọc để
biết rõ bộ mặt thật của Giáo Hội La Mã ghê tởm và khủng khiếp như thế
nào!
Khi đã đọc hết phần
trình bày trên đây và chương sách đó, quý vị sẽ thấy rằng bất kỳ cái gì
của hay thuộc về Giáo Hội La Mã đều có liên hệ ít nhiều đến chuyện lừa
dối và bịp bợm, và bất cứ ở nơi nào có sự hiện diện hay người của Giáo
Hội La Mã là ở đó có sự lừa dối và bịp bợm.
Tín đồ Ca-tô người
Việt và người Việt Quốc gia đều là con đẻ của Giáo Hội La Mã, tất nhiên
là họ đều có một điểm chung là tuân phục những tín lý Ki-tô hoang đường
nặng tính cáh bịp bợm và những lời dạy lưu manh của Vatican dù là có một
số trường hợp khẩu phục nhưng tâm bất phục. Hầu hết những tín đồ Ca-tô
người Việt là những người “đí đạo lấy gạo mà ăn” (tham lợi) hay “theo
đạo để tạo danh đời” (háo danh hay thèm khát quyền lực” và con cháu của
hai loại người người này. Vì tham lợi, vì háo danh và thèm khát quyền
lực mà họ phải theo đạo. Theo đạo rồi, tất nhiên lại phải tuyệt đối vâng
lời Vatican để chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam như lịch sử đã cho
thấy rõ. Giống như tín đồ Ca-tô, các ông người Việt Quốc Gia cũng vì
tham lợi, háo danh và thèm khát quyền lực mà đành lòng chống lại tổ
quốc Việt Nam. Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Chính vì sự giống nhau này mà
những người tự nhận là người Việt Quốc Gia cấu kết với tín đồ Ca-tô
người Việt nói là để chống Cộng, nhưng sự thật là trong suốt chiều dài
lịch sử từ ngày 5/6/1948 cho đến ngày 30/4/1975, vì hy vọng có thể thỏa
mãn được tham vọng cá nhân bất chính của họ, họ đã đi theo Liên Minh Xâm
Lược Minh Pháp – Vatican và Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican chống lại
cuộc Kháng Chiến 1945-1954 giành độc lập cho tổ quốc và chống lại cuộc
chiến giải phóng miền Nam để thống nhất đất nước (1954-1975) của dân tộc
Việt Nam.
Ở bầu thì tròn, ống
thì dài. Từ chỗ cấu kết và đứng chung với tín đồ Ca-tô người Việt trong
cùng một chiến tuyến với danh nghĩa là chống Cộng theo sách lươc của
Vatican vạch ra và lãnh đạo để cùng chống lại quyền lợi tối thượng của
dân tộc và tổ quốc, những người tự nhận là người Việt Quốc Quốc Gia đã
quên hẳn nếp sống văn hóa cổ truyền của dân tộc là “kỷ sở bất dục vật
thi ư nhân” và cũng không cần biết đến việc phải tôn trọng các quyền
tự do của những người khác trong đó có quyền tư do tư tưởng và quyền tự
do ngôn luận: “tôi không đồng ý với những điều anh nói, nhưng cho đến
chết, tôi sẽ bảo vệ cái quyền anh được nói điều đó.” (I do not
agree with a word you say, but I will defend to the death your right you
say it.). Các quyền tự do quý báu này đã được ghi vào hiến pháp của cái
quốc gia mà họ đang sống ở trong đó. Vì quên hết nếp sống văn hóa cổ
truyền của dân tộc và không cần biết phải tôn trong các quyền tự do dân
chủ của những người khác, những người tự nhận là người Việt Quốc Gia
trở thành những người quen sống theo nếp sống văn hóa Ca-tô. Vì có thói
quen với nếp sống văn hóa Ca-tô, họ mới có những suy tư, thái độ, ngôn
ngữ, hành động và hành xử lố bịch, trịch thượng, xấc xược, ngược ngạo
và ưa thích sử dụng bạo lực giống như tín đồ Ca-tô của Vatican, nghĩa
là họ cũng ưa thích cưỡng bách những người Việt khác ở hải ngoại, nhất
là những người cùng địa phương với họ phải làm theo ý muốn của họ không
cần biết là trong thâm tâm nạn nhân của họ có thích hay không thích.
Bằng chứng không thể chối cãi được là họ đến các chùa cưỡng bách các nhà
sư phải treo cờ vàng ba sọc đỏ. Nếu chùa nào không làm theo ý muốn của
họ (không treo cờ vàng ba sọc đỏ), thì sẽ bị họ kiếm chuyện và làm cho
ngôi chùa đó khốn khốn đủ điều. Tình trạng này đã xẩy ra tại địa phương
của người viết vả ở nhiều địa phương khác ở Bắc Mỹ.
Cha nào con ấy. Vì
cùng là con đẻ của Giáo Hội La Mã, tín đồ Ca-tô và các ông người Việt
Quốc Gia tất nhiên là cũng mang dòng máu xấc xược, ngược ngạo, lừa dối
và bịp bợm giống như Giáo Hội La Mã. Do đó, ta cũng có thể nói, cái gì
của hay thuộc về tín đồ Ca-tô và cái gì của hay thuộc về các ông người
Việt Quốc Gia cũng đều có liên hệ ít nhiều đến những việc làm xấc xược,
ngược ngạo, lừa dối và bịp bợm, và ở đâu có sự hiện diện của tín đồ
Ca-tô người Việt hay các ông người Việt Quốc Gia là ở đó sớm hay muộn
cũng sẽ xẩy ra những chuyện xấc xược, ngược ngạo, lừa dối và bịp bơm.
Hành đồng bịp bợm và
lừa gạt nhân dân rõ rệt nhất là họ tự phong là người Việt Quốc Gia,
nhưng từ tháng 6/1948 cho đến ngày nay, từ suy tư, thái độ, ngôn ngữ và
hành động hay việc làm của họ, nhất nhất đều chống lại Quốc Gia và dân
tộc Việt Nam để phục vụ cho Vatican, cho Pháp và cho Mỹ.
Họ giải thích thế nào
về việc ông người Việt Quốc Gia đầu sỏ Bảo Đại ban hành Dụ số 10 vào ngày
6 tháng 8 năm 1950?
Họ giải thích thế nào
về việc ông người Việt Quốc Gia đầu sỏ Ca-tô Ngô Đình Diệm tổ chức đại lễ vô cùng long trọng tại
Vương Cung Thánh Đường Sàigòn vào tháng 2/1959, rồi cho mời vị Khâm Sứ
đại diện Vatican tại Sàigòn là Hồng Y Agagianian đến làm chủ tế của
buổi lễ dâng nước Việt Nam cho Vatican được ngụy tạo là “Đức Mẹ Vô
Nhiễm”?
Những người
tự xưng là người Việt Quốc Gia, khi thốt ra câu nói là đại diện cho cộng
đồng người Việt ở địa phương nào đó là họ đã có hành động lừa dối và
bịp bợm, tiếp theo là họ sẽ có những hành động xấc xược ngược ngạo, tự coi họ
như là những người lãnh đạo của một chính quyền chuyên chính đối với
người Việt tại địa phương đó giống như chính quyền đạo phiệt Ca-tô Ngô
Đình Diệm và chính quyền quân phiệt Ca-tô Nguyễn Văn Thiệu ở miền Nam Việt Nam trong
những năm 1954-1975. Ngược ngạo hơn nữa, họ còn đòi hỏi mọi người Việt tại
địa phương phải tuân hành những quy luật do họ tự đặt ra. Dĩ nhiên là
những người Việt có đủ thông minh sẽ coi họ như những thằng hề và
không thèm quan tâm đến họ. Việc cưỡng bách các ngôi chùa tại địa
phương phải treo cờ vàng ba sọc đỏ và sự kiện các ông Người Việt Quốc
Gia rủ nhau đến trường USC, yêu sách ban giám đốc của nhà trường phải hạ
quốc kỳ Việt Nam là lá cờ đỏ sao vàng để thay thế bằng lá cờ vàng ba sọc
đỏ như đã trình bày ở trên là bằng chứng rõ ràng nhất về bộ mặt thật cực
kỳ ghê tởm của những người tự nhận là người Việt Quốc Gia ở Bắc Mỹ này.
Sự thực, những người
tự phong là đại diện cộng đồng chỉ có mấy người cùng phe nhóm ngồi tán
gẫu với nhau, rồi hứng chí mà lập nên cái hội đồng chuột này và tuyên
xưng là đại diện cho cộng đồng người Việt tại địa phương của họ. Cũng vì
thế mà có nhiều địa phương có tới hai ba hội đồng chuột như vậy. Tiếu
làm hơn nữa, lại còn có hội đồng của hội đồng giống như một thứ chính
quyền trung ương. Tất cả các hội đồng chuột tại các địa phương cũng như
các hôi đồng của các hội đồng tại các tiểu bang ở Bắc Mỹ đều là những
trò hề bịp bợm để lừa dối thiên hạ của các ông người Việt Quốc Gia ở hải
ngoại. Đây chỉ là một trong muôn ngàn thủ đoạn lừa dối và bịp bợm của
họ.
Nói đến tính cách
chuyên nghề bịp bợm và lừa dối thiên hạ của các ông “người Việt Quốc
Gia” là phải nói đến những hành động bịp bợm và lừa dối của các ông lãnh
tụ chóp bu như Quốc Trưởng Bảo Đại, anh em ông Tổng Thống Ngô Đình Diệm,
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, các nhân vật
cao cấp trong chính quyền cũng như những thủ đoạn lừa bịp của các ông sĩ
quan cấp tướng, cấp tá và cấp úy trong quân đội miền Nam trong những năm
1954-1975.
Về ông
Bảo Đại,
chính quan thày của ông ta cũng phải gọi ông ta là “thằng ăn chơi đĩ
điếm.” “Bao Dai’s demand came as a surprise to the many Frenchmen who
looked upon him as nothing but a playboy”.[42]
Sách The
Politics of Heroin in Southeast Asia viết về sự cấu kết giữa ông Bảo Đại
và băng đảng ăn cướp Bình Xuyên như đã trình bày trong tiểu mục số 5,
Mục B (Thành Phần Xã Hội) ở trên.
Những sự kiên nêu ra
trên đây cho chúng ta thấy rõ ông Bảo Đại đã tuyên xưng là Quốc Trưởng,
lãnh đạo một chính quyền tranh đấu cho quyền lợi tối thương của đất nước
mà lại đi cấu kết với một tổ chức tội ác để được chia phần lời lấy tiền
chi phí cho cuộc đời đàng điếm tồi tệ như vậy. Rõ ràng ông ta đã làm
mất thể diện quốc gia và những người tự nhận là người Việt Quốc Gia đã
bị ông bịp và lừa dối. Ấy thế mà bộ máy tuyền truyền của Vatican lại lớn
tiếng ra rả lập đi lập lại rằng Quốc Trưởng Bảo Đại của họ quyết tâm
tranh đấu cho nền độc lập của đất nước rồi nêu ra câu nói “Dân vi quý,
xã tắc thứ chi, quân vi khinh” của ông Mạnh Tử để lừa dối nhân rằng ông
ta thực thi chế độ dân chủ ở Việt Nam.
Về anh em ông Tổng Thống Ngô Đình Diệm:
Những hành động bịp
bợm và lừa dối của anh em ông Ngô Đình Diệm và của những người
Việt Quốc Gia ca tụng chế độ đạo phiệt Ca-tô của anh em ông ta như là “một
chế độ chính trị hoàn hảo nhất trong lịch sử Việt Nam” và tôn vinh
ông ta lên hàng “chí sĩ yêu nước” và “nhà ái quốc đã chế vì
nước” sẽ được trình bày rõ ràng trong phần dưới đây:
Thời kỳ từ tháng 6/1954: Việc các ông người Việt Quốc Gia bịa đặt ra những thành
tích hoang tưởng với những danh xưng gồm những thuộc từ tốt đẹp nhất và
thánh thiện nhất để tô hồng chuốt lục cho thân thế và sự nghiệp của anh
em và gia đình ông Ngô Đình Diệm. Những việc làm gian dối này được khởi
đầu từ tháng 6 năm 1954, khi họ được biết ông Diệm sắp được Quốc Trưởng
Bảo Đại bổ nhậm làm thủ tương thay thế ông Bửu Lộc. Thôi thì không có ý
tưởng và lời lẽ tốt đẹp nào mà họ không gán ghép vào cái tên Ngô Đình
Diệm: Nào là ông ta thuộc về một gia đình danh gia vọng tộc. [Trong thực tế chí là một gia đình nghèo khổ phải “theo đạo để lấy gạo mà ăn”, rồi sau đó được Vatican nâng đỡ và trở thành “những người theo đạo tạo danh đời”]. Nào là thân phụ là Ngô Đình Khả là một vị quan đại thần
tại triều đình trong thời ông vua ái quốc Thành Thái (sic). [Xin xem lại Chương 4 để biết ông vua gố này vừa mang tội loạn luân vứa có những ngôn từ, cử chỉ và hành
động hèn hạ làm mất thể diện của dân tộc Việt Nam như thế nào!] Nào là ông ta là nhà ái quốc vừa thanh liêm (sic) đã treo ấn từ quan vì
chống Pháp.[Trong thực tế, ông Diệm bị cho về vườn vì thua tài và kém thế so với đối thủ
chính trị là ông Phạm Quỳnh, vì bị người Pháp thù ghét và
khinh bỉ vì theo Vatican. Còn
thanh liêm? Xin xem Mục XXI gồm ba chương sách, Phần
VI, trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã], nào là ông ta đã vì nước mà
phải “bao năm phải long đong lê gót nơi quê người”, vân vân và vân vân.
Cao độ nhất là vào
khoảng năm 1967, các ông người Việt Quốc Gia mà đa số là tín đồ Ca-tô hè
nhau lập ra cái gọi là “Phong Trào Phục Hưng Tinh Thần Ngô Đình Diệm”
để tôn vinh ông ta như là một người “đạo cao đức trọng” không ai sánh
bằng, và tôn vinh ông ta lên là “chí sĩ yêu nước”, “nhà ái quốc đã hy
sinh vì nước”. Kể từ đó, cứ mỗi năm vào cuối tháng 10, là họ lại ồ ạt
phóng ra những chiến dịch viết sách viết báo tôn vinh ông ta bằng cách
kể ra những thành tích lẫy lừng láo khoét của ông Diệm do chính họ
bịa đặt ra và tổ chức lễ giỗ ông ta hết sức rầm rộ và vô cùng long
trọng. Đồng thời, họ cũng phóng ra chiến dịch viết sách viết báo với nội
dung mạt sát và chửi bới tất cả những người đã tham gia vào các tổ chức
hay phong trào chống đối chế độ của ông ta, một chế độ đạo phiệt Ca-tô
bạo ngược nhất trong lịch sử Việt Nam và không kém gì các chế độ đạo
phiệt Ca-tô khác ở Âu Châu trong thời Trung Cổ, ở Croatia trong những
năm 1941-1945 và chế độ đạo phiệt Ca-tô của Giám-mục Augustin Misago ở
Rwanda (Phi Châu) trong năm 1994. Nạn nhân của họ là (1) nhóm 18 nhân sĩ
và trí thức gọi nhóm “Tự Do và Tiến Bộ” ký tên trong bản Tuyên Ngôn đề
ngày 26/4/1960 gửi Tổng Thống Ngô Đình Diêm, (2) những người tham gia và
ủng hộ cuộc chính biến 11/11/1960 do Đại Tá Nguyễn Chánh Thi và Trung Tá
Vương Văn Đông chỉ huy, (3) những người tham gia và ủng hộ việc hai sĩ
quan không quân Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử thi hành phi vụ dội bom xuống Dinh Độc Lập vào lúc 7 giờ 15 ngày 27/2/1962, (3) những người
tham gia và ủng hộ phòng trào tranh đấu của Phật giáo khởi phát từ
chiều ngày 8/5/1963, (4) những người chủ động, tham gia và ủng hộ cuộc
Cách Mạng 1/11/1963, và (5) và tất cả các tác giả của các sách và bài
báo có nội dụng nói lên tất cả những việc làm bất chính, bất nhân và tàn
ngược của “Triều Đại Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu.”
(Diem’s Dynasty and the Nhu Bandits).[43]
Gian manh hơn nữa, họ
còn dùng cả thủ đoạn lộn xòng nhập nhằng đánh lận con đen bằng cách nặn
óc biên soạn một cuốn ngụy thư có tựa đề là “Anh Hùng Nước Tôi” (San
Jose, CA: Đông Tiến, 1986) trong đó họ ghi lại tiểu sử của 65 nhà ái
quốc và anh hùng dân tộc rồi cho xen vào đó cái tên Ngô Đình Diệm và một
vài tên lính đánh thuê cho Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican trong những
năm 1945-1954 và Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican trong những năm
1954-1975 với dã tâm làm cho người đời và hậu thế tưởng lầm rằng ông
Diệm và mấy tên lính đánh thuê này thực sự là anh hùng dân tộc và xứng
đáng được ngồi ngang hàng với 65 nhà ái quốc và anh hùng dân tộc đáng
kính của nhân dân ta.
Về tốn phí,
từ năm 1954, tín đồ Ca-tô người Việt và bọn gia nô nhà Ngô đã tiêu xài
không biết bao nhiêu tiền của, công lao, thì giờ và giấy mực trong những
việc làm như vậy với mục đích duy nhất là bóp méo sự thật, xuyên tạc
lịch sử để lừa bịp người đời và hậu thế.
Về khối lượng, từ tháng 6 năm 1954, có tới hàng
ngàn cuốn ngụy thư và hàng trăm ngàn bài viết với mục đích duy nhất là
xuyên tạc sự thật và bóp méo lịch sử để lừa bịp người đời và hậu thế
bằng cách đánh bóng, tâng bốc ông Ngô Đình Diệm lên tới tận mây xanh.
Thế nhưng,
cốt khỉ vẫn hoàn cốt khỉ. Dù cho các ông người Việt Quốc Gia có trăm
phương ngàn kế dùng những thủ đoạn lưu manh như trên thì vải thưa cũng
vẫn không thể che được mắt thánh và những tên đại Việt gian phản quốc mà
họ suy tôn lên hàng anh hùng dân tộc cũng không thoát khỏi thanh gươm
lịch sử và vẫn bị nhân dân ta đời đời nguyền rủa.
Người viết xin miễn
nói đến mấy tên lính đánh thuê cho quân giặc xâm lăng Pháp và Vatican,
mà chỉ nói về anh em ông Diệm và chế độ của ông ta mà thôi. Sự thực về
anh em ông Diệm và chế độ của ông ta, thiết tưởng sách sử đều ghi lại
rõ ràng và hết sức trung thực. Trước hết, chúng tôi xin ghi lại những
tư liệu nói về cái nhìn của các nhà viết cũng như các nhà chính khách
đương thời đã từng có kinh nghiệm trực tiếp nói chuyện và giao tiếp hoặc
là đã làm việc với anh em ông ta. Dưới đây là một số trường hợp mà chúng
tôi được biết:
1.- Tướng Edward
G. Lansdale không nói trắng ra rằng ông Diệm là người gian trá, nhưng
bằng một cách bóng gió, ông nói rằng ông Diệm có tật hay nhìn trộm:
“Ông ta lùn, mập
tròn… Nhiều người không chú ý đến cặp mắt đen hay liếc trộm [snapping]
của ông ta mà chỉ chú ý đến cặp giò vừa đủ chạm mặt đất khi ngồi..”
[44].
2.- Người sĩ quan
tùy viên của ông Diệm là ông Đỗ Thọ ghi nhận về ông ta như sau:
"Ai cũng biết
Tổng Thống Diệm đi chân "chữ bát", lối đi đứng này xấu lắm. Có lẽ con
người nào có "tội" này thì trời phú cho đi nhanh để xóa cái "xấu" khi
người khác nhìn vào. Tổng Thống Diệm ở vào trường hợp này."[45]
Không biết khi viết
những dòng chữ trên đây, tác giả Đỗ Thọ muốn nhắc hai câu ca dao trong
thi ca Việt Nam:
Những người phinh
phính mặt mo,
Chân đi chữ bát có
cho chẳng thèm!
3.- Cụ Đỗ Mậu ghi
lại trong cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi với nguyên văn như sau:
"Tướng ông Diệm,
theo Đoàn Thêm, mới nhìn thoáng qua có vẻ đường bệ nhưng là thứ đường bệ
của các Tổng Đốc, Thượng Thư thời Pháp thuộc. Nhìn kỹ hơn thì thấy "thân
thể ông Diệm ngũ lục thất bát đoản, bộ đi lại lạch bạch, hai cánh tay
bơi như rùa, dễ đỏ mặt và hay ngượng nghịu trước đám đông". Đã thế ông
Diệm lại có "cặp mắt trắng nhãn, tròng trắng nhiều hơn tròng đen, bình
thường ít ngó thẳng người đối diện mà khi nóng giận thì đôi mắt đầy oán
hận, dung mạo dữ như người say rượu, đó là nhân dáng và tướng mạo của kẻ
tiểu nhân." [Xem "Những Ngày Chưa Quên" của Đoàn Thêm, trang
194-195, nhưng Cụ Đỗ Mạu ghi lầm là trang 223]".[46]
4.- Tổng Thống
Eisenhower coi ông Diệm như là “một thằng chột trong đám thằng mù.”[47] Xin hiểu trong “đám thằng
mù” là trong “đám người Việt Quốc Gia.”
5.- Ông đương kim
Đại-sứ Henry Cabot Lodge Hoa Kỳ tại Sàigòn vào cuối năm 1963 đã đưa ra
một nhận xét vô cùng chính xác về quan niệm vô cùng lạc hậu, cực kỳ phản
tiến hóa về chính quyền, về những hành động bất chính và về những thủ
đoạn gian ác của anh em ông Ngô Đình Diệm với nguyên văn như sau:
"Chủ yếu chúng
nó là một chế chuyên chính Á Châu thời Trung Cổ của loại gia đình cổ
điển, không hiểu gì cả hay rất ít, về các ngành nghề của chính
quyền vì dân. Chúng không thể ăn nói với dân chúng, không thể gây cảm
tình với báo chí, chúng không thể ủy thác quyền hành hay tạo ta niềm
tin, chúng không thể hiểu được tư tưởng chính phủ là công bộc của dân.
Chúng nó chỉ quan tâm đến an ninh vật chất và sự sống còn của chúng,
chống lại bất cứ mối đe dọa nào cộng sản hay không cộng sản."[48]
6.- Sử gia Bernard
B. Fall ghi lại trong cuốn The Two Vietnams như sau:
"Tính hiếu chiến
của ông Ngô Đình Diệm thuộc loại như thế này: Lòng tin đạo đã biến ông
ta thành con người hiếu chiến đến độ tàn nhẫn như một vị Đại Pháp
Quan của Tòa Án Dị Giáo trong thời Trung Cổ ở Tây Ban Nha. Quan điểm
của ông ta về chính quyền là hình ảnh của một bạo chúa theo truyền
thống quan lại phong kiến hơn là hình ảnh của một tổng thống theo hiến
định của một nước cộng hòa. Một người Pháp theo đạo Kitô La Mã khi nói
chuyện với ông ta cố ý cao giọng những tiếng "tín ngưỡng của chúng ta"
thì ông ta thản nhiên trả lời rằng: "Ông biết mà, tôi tự coi tôi như là
một tín hữu Kitô La Mã giống như người Kitô Tây Ban Nha," thế có nghĩa
ông ta là một đứa con tinh thần (của Giáo Hội La Mã) với niềm tin hung
hăng, dữ tợn và hiếu chiến hơn là một tín đồ dễ dãi và khoan dung giống
như người Pháp theo đạo Kitô La Mã." Nguyên văn: "Ngo Dinh Diem's militancy is
of that kind: His faith is made less of the kindness of the apostles,
than of the ruthless militancy of the Grand Inquisitor; and his view of
government is made less of the constitutional strength of a President of
the republic than of the petty tyranny of a tradition-bound mandarin. To
a French Catholic interlocutor who wanted to emphazise Diem's bond with
French culture by stressing "our common faith," Diem was reported to
have answered calmly: "You know, I consider myself rather as a Spanish
Catholic," i.e., a spiritual son of a fiercely aggressive and militant
faith rather than of the easygoing and tolerant approach of Gallican
Catholicism."[49]
7.- Ngày 21/8/1963, từ
Hawaii, ông Frederick Nolting, nguyên đại sứ Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam,
đánh điện tín gửi thẳng tới Dinh Gia Long mắng ông Diệm rằng:“Đây là lần đầu tiên Tổng Thống
đã tự phản bội với những lời hứa trước mặt tôi.”
[50]
8.- Ông Trần Văn Lý,
một nhân sĩ Thiên Chúa Giáo, lên án anh em ông Diệm là “những kẻ mang
mười chữ “bất”: Bất hiếu, bất trung, bất nhân, bất nghĩa,
bất tài, bất trí, bất công, bất
minh, bất tín và bất hòa.”
[51]
9.- Cụ An Khê
Nguyễn Bính Thinh ghi lại như sau:
“Khi ông làm tri
phủ Hòa Đa đã nổi tiếng là tay sai đắc lực của Pháp, lùng bắt và tra tấn
các nhà cách mạng rất dã man bằng cách xông lửa nến (đèn cày) dưới ghế
ngồi. Ông cho trói chặt người bị lấy khẩu cung vào ghế ngồi, mặt ghế có
khoét lỗ ở ngay hậu môn chỗ ngồi, bên dưới đốt ngọn đèn cầy cho lửa xông
lên, dần ruột gan, tim phổi người nọ (nạn nhân) bị sấy lửa, khô dần đi,
không chịu nổi, dù có khai để chấm dứt cực hình nhưng hậu quả về sau
không lường được. Lối tra tấn dã man này, ngay với các bót giam của
Pháp, như bót Catinat, cũng chưa dám dùng.”[52]
10.- Hai nhà viết
sử Bradley S.
O’ Leary & Edward Lee nói rõ, “Diệm, Nhu, Bà Nhu. Cả ba người
– cái bộ ba bạo chúa đầy hận thù này đang cùng lừa gạt cả nước Mỹ.”[53], và “Diệm là kẻ ăn cháo đái bát”[54]. Trong tác phẩm này, hai tác giả
trên đây nói rõ anh em Ngô Đình Diệm đã biến miền Nam Việt Nam thành một
nguồn thuốc phiện sống lớn nhất thế giới cung cấp cho trung tâm biến chế
thuốc phiên sống này thành bạch phiến ở Marseilles dưới quyền chỉ huy
của tên đầu nậu Antoine Guerini và những sản phẩm bạch phiến này sẽ được
chuyển sang trung tâm phân phối ở Mỹ Châu dưới quyền điều khiển của tên
đầu nậu Carlos Marcello để bán cho khách hàng Hoa Kỳ.
[55]
11.- Nhà viết sử
Alfred W. McCoy cho rằng thời Đệ Nhất Cộng Hòa là “Triều Đại Diệm và
Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu.” (Diem’s Dynasty and the Nhu
Bandits)[56], trong đó tác giả kể ra tội ác
của chế độ ăn cướp này về vấn đề dùng nhân viên bộ ngoai giao tại Ai Lao
và tổ chức mật vụ dưới sự điều khiển của Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến
để tiến hành những dịch vụ kinh tài độc quyền nhập cảng thuốc phiến sống
từ Ai Lao đưa về miền Nam Việt Nam rồi biến chế thành sản phẩm hút cho
dân nghiền và phân phối cho hệ thống gồm 2500 tiệm hút ở Sàigòn và Chợ
Lớn. Sau này các ông tướng Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Thiện
Khiêm, Đặng Văn Quang tranh giành nhau sử dụng hệ thống cơ sở kinh tài
bất chính này phát triển thêm để thu vơ lợi nhuận.[57]
12.- Ấy là chưa nói
tới những hành động dã man trong những chiến dịch làm sáng danh Chúa
trong kế hoạch dự trù biến toàn thể nhân dân miền Nam thành Công Giáo
hết trong vòng mười năm.[58], và những chiến dịch bách hại
Phật Giáo, truy lùng và tiêu diệt những người ủng hộn và tham gia các phong trào tranh đấu của Phật Giáo cũng như học sinh, sinh
viên từ chiếu tối ngày 8/5/1963 ở Huế rồi lan rộng ra khắp nơi trong
toàn miền Nam cho đến ngày 1/11/1963. Theo các tài liệu lịch sử, nạn
nhân bị sát hại trong những năm anh em ông Ngô Đình Diệm cầm quyền lên
tời ơn 300 ngàn người và miền Nam Việt Nam trở thành một nhà tù lớn nhất
trong lịch sử Việt Nạm và lớn nhất trên thế giới vào lúc bấy giờ.[59], và chưa nói tới việc ông ta hồ
hởi, và hí hửng và hăng say đồng thuân với:
“Quân đội Mỷ rải
77 triệu lít chất độc da cam xuống miền Nam và Trung Việt Nam, gây ảnh
hưởng và tác hại đến môi truờng của 2,630,000 mẫu Tây và gần 5 triệu
người sống trong 35,585 thôn ấp.”
[60]
13.- Vì lẽ này mà sử
gia Nigel Cawthorne khẳng định rằng “ông Ngô Đình Diệm là một trong
sô 100 tên bạo chúa ác độc nhất trong lịch sử nhân loại.”[61], và nhân dân miền Nam Việt Nam
mới ghê tởm và thù ghét chệ độ Diệm và băng đảng Cần Lao Công Giáo đến
tận xương tận tủy. Cũng vì thế mà cả Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu mới
bị quân dân ta lôi cổ ra đập chế vào sáng sớm ngày 2/11/1963 và thằng
bạo chúa Ngô Đình Cẩn củng bị xử tử vào sáng sớm ngày 9/5/1964.
Xem như thế, những
người tự nhận là người Việt Quốc Gia (trong đó hầu hết là tín đồ Ca-tô)
không thua gì người cha đẻ ra họ là Giáo Hội La Mã về những thủ đoạn
gian dối bóp méo sự thật, xuyên tạc lịch sử để đánh lừa người đời và
hậu thế.
Thời kỳ 1964-1975: Theo thời gian, tài nghệ bịp bợm và lừa dối người đời và hậu thế càng
trở nên điêu luyện hơn và cũng thô bạo hơn. Cũng vì thế mà sau khi chế
độ Diệm bị đạp đổ, tài nghệ ghê tởm này của họ càng trở nên siêu việt
hơn và càng trơ tráo hơn thời “Triều Đại Ngô Đình Diệm và Băng Đảng
Ăn Cướp Ngô Đình Nhu.” Bằng chứng là Phong trào Phục Hưng Tinh Thần
Ngô Đình Diêm được cho ra đời trong thời kỳ này. Cũng trong thời kỳ này,
có tới hàng trăm cuốn sách và hàng ngàn bài báo được biên soạn với mục
đích duy nhất là vừa để ca tụng, tôn vinh Giáo Hội La Mã và tên bạo chúa
phản thần tam đại Việt gian Ca-tô Ngô Đình Diệm như một nhà ái quốc đã
chết vì nước, vừa để chửi bới và hạ nhục những thành phần hay tổ chức mà
ho cho là chống đối Giáo Hội La Mã hay chống đối bạo quyền Ngô Đình
Diệm. Điển hình là mấy cuốn ngụy thư như cuốn Làm Thế Nào Để Giết Một
Tổng Thống của hai tác giả Ca-tô Cao Vị Hoàng tức Cao Thế Dung và Lương
Khải Minh, cuốn bên Dòng Lịch Sử của Linh-muc Cao Văn Luận, hai cuốn
Việt Nam Giáo Sử (Sàigòn, Cứu Thế Tùng Thư, 1965) của Linh-mục Phan Phát
Huồn, cuốn Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo (Sàigòn, Chân Lý, 1972) của
Linh-mục Bùi Đức Sinh và tờ nhật báo Hòa Bình của Linh Mục Trần Du và
hàng trăm bài viết được cho ra đời vào thời kỳ này.
Trong những bài viết
này, nổi bật nhất là bài viết của tên văn nô Ca-tô Phát Diệm Nguyễn Văn
Chức. Lúc đó, ông Chức đang là luật sư và cũng là thượng nghị sĩ trong
cái gọi là “Quốc Hội” miền Nam Việt Nam. Bài viết này đăng trong mục
chuyện phiếm của tờ nhật báo Hòa Bình của Linh Mục Trần Du. Dã tâm của
tác giả trong bài viết này là vu khống cho Tướng Dương Văn Minh “đã
tịch thu được rất nhiều vàng bạc và tiền mặt của Bình Xuyên, nhưng ÐT
nhưng không giao số chiến lợi phẩm này lại cho chính phủ Ngô Ðình Diệm,
mà lại tẩu tán làm của riêng.” Sự thực là cái khoản quý kim
20 kí vàng và tiền mặt 16 triệu 1/2 bạc này đã được trao cho chính
quyền của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm (có biên lai rõ ràng). Kế đó, ông Thủ
Tướng Diệm lại đem tặng cho Cô Nhi Viện Quốc Gia Thủ Đức (có biên lai rõ
ràng). Cô nhi viện này nằm dưới quyền quản lý của Giáo Hội La Mã. Đây là
một cách đem của cải tiền bạc của quốc gia dâng hiến cho Giáo Hội La
Mã, một đặc tính chung của những tín đồ Ca-tô khi họ nắm quyền lực chính
trị trong tay. Hành động viết bài viết này cho chúng ta thấy tên văn nô
Ca-tô Phát Diệm Nguyễn Văn Chức quả thực là thứ người “vừa ăn cướp vừa la làng”.
Muốn biết rõ sự thật này như thế nào, xin đọc bài viết “Chiến Dịch Hoàng Diệu và Sự Thật về Kho Vàng Bẩy Viễn hay Âm Mưu
Đánh Tráo Lịch Sử của Hai Luật Gia Lâm Lễ Trinh và Nguyễn Văn Chức” của tác giả Trịnh Bá Lộc. Bài viết này đã được đưa lên sachhiem.net từ
ngày 19/7/2008.
Một chuyện vu khống
hèn hạ khác nữa là chuyện thủ tiêu xác chết của ông Lê Quang Vinh tức Ba
Cụt sau khi thọ án đưa lên máy chém dưới quyền giám sát của ông Ca-tô
Lâm Lễ Trinh. Ông Ca-tô gia nô Lâm Lễ Trinh được chính quyền Ngô Đình
Diệm giao phó cho thi hành trách nhiệm này. Đáng lý ra, ngay sau khi ông
Ba Cụt bị hành hình, ông Lâm Lễ Trinh có trách nhiệm phải trao thi thể
của ông Ba Cụt cho gia đình người quá cố để lo việc chôn cất. Nhưng ông
Lâm Lễ Trinh đã không làm như vậy, mà lại đem đi thủ tiêu một cách vô
cùng man rợ vì sợ rằng nếu trao thi thể của ông Ba Cụt về cho thân
nhân chốn cất có mộ phần rõ ràng, thì tín đồ Hòa Hảo sẽ biến nơi đó
thành nơi thờ tự thiêng liêng và sẽ đến đó hành hương. Đây là điều tối
kị đối với cái tôn giáo mà văn hào Voltaire gọi là “cái tôn giáo ác ôn”.
Tôn giáo này không muốn cho bất kỳ một nạn nhân nào của nó trở thành một
vị thánh hay thần linh để cho người ta sùng kính và cũng lễ. Khốn nạn
hơn nữa, sau đó ông Ca-tô gia-nô Lâm Lễ Trinh lại còn ỡm ờ tung
ra tin ỡm ờ cho rằng Tướng Dương Văn Minh cho ông Đại Úy Nhung lấy thi thể của
ông Ba Cụt đem bằm nát rồi thủ tiêu luôn. Muốn biết rõ sự thực này như
thế nào, xin xem bài viết “Tại Sao TT Ngô Đình Diệm không cho tướng
tử tội Lê Quang Vinh được chết toàn thây và ai thủ tiêu thân xác của ông?”
của tác giả Trịnh Bá Lộc do ông Hoàng Thúc An
<hoangthucan@
gmail.com>phổ biến trên diễn
đàn
VN-Politics@yahoogroups.com vào
28/6/2008.
Cũng vì điều tối kị
này mà giữa thập niên 1890, ông Ca-tô Ngô Đình Khả, thân phụ của ông Ngô
Đình Diệm, cũng đã thủ tiêu xác chết của cụ Phan đình Phùng hết sức man rợ
bằng cách quật mồ lấy xác, đốt thành tro, lấy tro trộn vào thuốc súng
rồi bắn xuống sông Lam Giang. Việc làm dã man này là truyền thống trong đạo
Ca-tô đã có từ thời Trung Cổ ở Âu Châu. Sách Lòng Tin Âu Mỹ Đấy viết:
“Tòa án đạo Giê-su
theo đuổi trừng phạt cả những người bị kết tội tà đạo đã chết. Chẳng
hạn, năm 1329, Tòa án đạo Giê-su ở Carcassonne cho đào mả bẩy người phạm
tội tà đạo, móc xác lên đốt đi, của cải của họ bị tích thu, dòng dõi họ
bị trừng phạt.”
[62]
Ở trên, chúng ta thấy,
ông Ca-tô Phát Diệm Nguyễn Văn Chức diễn trò vu khống cho Tướng Dương
Văn Minh tẩu tán giữ làm của riêng “20 kí vàng và tiền mặt 16 triệu 1/2 bạc” tịch thu được
của Bẩy Viễn trong chiến dịch đánh vào Rằng Sát. Ở đây, chúng ta lại thấy ông Ca-tô Vĩnh Long
Lâm Lễ Trinh vu khống cho Tướng Dương Văn Minh cái việc làm man rợ do
chính ông ta làm hay liên hệ tới. Đem hành động đê tiện và man rợ này
của ông Ca-tô Vĩnh Long vớ hành động vu khống của ông Ca-tô Phát Diệm
Nguyễn Văn Chức ở trên, chúng ta thấy hành động vu khống của ông Ca-tô
Vĩnh Long cũng là một tuộc “vừa ăn cướp vừa la làng”, nhưng còn ghê gớm
và kinh tởm gấp bội phần vì rằng chính ông ta là thủ phạm cái tội ác ghê
tởm này rồi lại đổ cái tội ác đó cho người khác.
Những sự kiện trình bày trên đây cho chúng ta thấy rằng tên văn nô
Ca-tô Phát Diệm đạo gốc Nguyễn Văn Chức đã lưu manh, quỷ quyệt và thâm
độc thuộc hạng siêu việt, nhưng tên văn nô Ca-tô Vĩnh Long tân tòng
thuộc loại "theo đạo tạo danh đời" còn lưu manh, quỷ quyệt và
thâm độc diêu việt hơn gấp bội phần.
Thời kỳ sau 1975: Ngựa quen đường cũ. Sau năm 1975, các ông người Việt Quốc Gia sinh
sống ở hải ngoại tiếp tục trổ tài đua nhau bịp thiên hạ, rồi bịp lẫn
nhau. Họ thi nhau cặm cụi nặn óc để biên soạn những tập sách và
những bài viết với chủ tâm bóp méo sự thật, xuyên tạc lịch sử và lừa bịp
người đời hầu lấp liếm những rặng núi tội ác của Giáo Hội La Mã, của tu
sĩ và tín đồ Ca-tô đã chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam trong suốt
chiều dài lịch sử từ giữa thập niên 1780 cho đến ngày 30/4/1975. Tất cả
được thu gọn trong phần trình bầy trong mục E dưới đây.
E.- Phương Cách Bóp Méo Lịch Sử Để Lấp Liếm Tội Ác Phản Quốc, và Lừa Bịp.
Nói đến tín đồ Ca-tô
người Việt nói riêng và người Việt Quốc Gia mà không nói đến tài nghệ
bịp siêu việt của họ thì quả thật là không biết gì về họ. Vấn đề bịp
của Giáo Hội La Mã và tín đồ Ca-tô người Việt đã được chúng tôi trình
bày khá đầy đủ nơi Chương 11, Mục IV, Phần II trong bộ sách Lịch Sử và
Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã. Chương sách này đã được đưa lên
sachhiem.net và giaodiemonline.com từ tháng 9/2007. Nhưng đó cũng chỉ là
nói rất tổng quát. Ở đây, vấn đề này sẽ được trình bày một cách rõ ràng
hơn về một vài khía cạnh khác.
CHỦ ĐÍCH.- Tùy theo từng trường hợp, chủ đích bịp của họ quả thật là đa dạng, nhưng chung quy cũng không ra
ngoài 3 mục đích để:
1.- Lấp liếm những
rặng núi tội ác của Giáo Hội La Mã chống nhân loại trong gần hai ngàn
năm qua và những rặng núi tội ác của tu sĩ và tín đồ Ca-tô Người
Việt chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam từ thâp niên 1780 cho đến
ngày 30/4/1975.
2.- Tỏ ra ta đây cũng
là trí thức thuộc loại thông kim bác cổ để dễ dàng huênh hoang khoác
lác với đời.
3.- Để lừa gạt người
đời và lừa gạt nhau để bốc hốt cho đầy túi tham.
HÌNH THỨC.-
Những người chuyên môn bịp để theo đuổi bất cứ mục đích nào trên đây
cũng có thể hoặc là quy tụ thành từng nhóm có tổ chức để cùng bịp hoặc
là hành động riêng rẽ theo sáng kiến của từng cá nhân.
1.- Quy tụ với nhau thành từng nhóm
và theo đuổi một mục đích có sẵn:
a).- Lấp
liếm những rặng núi tội ác của Giáo Hội La Mã chống nhân loại trong gần
hai ngàn năm qua và những rặng núi tội ác của tu sĩ và tín đồ Ca-tô Người
Việt chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam từ thâp niên 1780 cho đến
ngày 30/4/1975: Đây là trường hợp nhóm tác giả biên soạn cuốn Trần Lục
(Montréal, Canada, TXB, 1996) gồm mấy ông tu sĩ và tín đồ Ca-tô Nguyễn
Gia Đệ, Lê Hữu Mục, Bằng Phong, Phạm Xuân Thu, Trần Trung Lương, nhóm Nghiên Cứu
Lịch Sử Dương Diên Nghị, Nguyễn Châu, Lương Văn Toàn, Lê Hữu Phú và
Hoàng Đức Phương biên soạn cuốn Việt Nam: Cuộc Chiến Tranh Quốc Gia -
Cộng Sản - Tập I (2002, nhóm văn nô biên soạn cuốn “Anh Hùng Nước Tôi”
(San Jose, CA: Đông Tiến, 1986), v.v…
b).- Lừa bịp thiên hạ và lừa bịp lẫn nhau để bốc hốt: Điển hình cho loại lừa bip này
là cái gọi là “Mặt Trận Quốc Gia Thống
Nhất Giải Phóng Việt Nam” ra đời
vào khoảng năm 1983 ở Hoa Kỳ do anh em Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh
làm đầu nậu, cái gọi là “Chính Phủ Tự Do” của ông người Việt Quốc Gia
Nguyễn Hữu Chánh, cái gọi là “Chính Phủ Lâm Thời” của ông Đào Minh Quân,
Đảng Việt Tân của anh em ông Hoàng Cơ Định và ông Lý Thái Hùng, nhóm
người chủ động vụ kiện Trường Đại Học Masachussetts gọi là vụ kiện William
Joiner Center do ông người Việt Quốc Gia Ca-tô Nguyễn
Hữu Luyện đứng đơn đại diện cho tổ chức khởi tố từ cuối năm
2000, tổ chức 8406 của hai ông Linh-muc Nguyễn Văn Lý, Phan Văn Lợi và
một số tín đồ Ca-tô được cho ra đời vào ngày 6/4/2006. v.v...
2.- Hoạt động riêng rẽ theo sáng kiến riêng của từng cá nhân: Những hoạt động
này cũng được chia ra làm hai loại, giống như hai loại hoạt động của
từng nhóm như đã nói ở trên:
a).- Lấp
liếm những rặng núi tội ác của Giáo Hội La Mã chống nhân loại trong gần
hai ngàn năm qua và những rặng núi tội ác của tu sĩ và tín đồ Ca-tô
Người Việt chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam từ thâp niên 1780 cho
đến ngày 30/4/1975: Đây là tác giả của những cuốn sách như bộ Việt Nam Tôn
Giáo Chính Trị Quan (1991) của Linh-mục Vũ Đình Hoạt, cuốn Việt Nam Chính
Sử (1992) của cựu luật-sư Nguyễn Văn Chức, hai cuốn Những Bí Ẩn Đàng Sau
Các Cuộc Thánh Chiến Tại Việt Nam (1994) và Những Bí Ẩn Lịch Sử Đàng Sau
Cuộc Chiến Việt Nam (1999) cùng với hàng ngàn bài viết đăng trên tờ
Sàigòn báo và nhiều tờ báo lá cải khác ở Bắc Mỹ của cựu Thẩm Phán
Nguyễn Cần (bút hiệu Lữ Giang và Tú Gàn), cuốn Bên Giòng Lịch Sử của Linh-mục Cao
Văn Luận, cuốn Huyết Lệ Sử (1996) của Cao Thế Dung, cuốn Những Ngày Cuối
Cùng Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm (1996) của Hoàng Ngọc Thành và Thân
Thị Nhân Đức, cuốn Những Huyền Thoại & Sự Thật Về Chế Độ Ngô Đình Diệm
(1998) của Vĩnh Phúc, cuốn Ngô Đình Diệm: Nỗ Lực Hòa Bình Dang Dở (1989)
của Nguyễn Văn Châu, bộ Việt Nam Giáo Sử (1965) của Linh-mục Phan Phát
Huồn, cuốn Tổ Quốc Ăn Năn (2001) của Nguyễn Gia Kiểng, cuốn Ngô Đình
Diệm Lời Khen Tiếng Chê (1998) của Minh Võ, cuốn Việt Nam Mất Lỗi Tại
Ai? (1993) của Nguyễn Đức Chiểu, cuốn Việt Nam 1945-1995 -Tập I (2004)
Lê Xuân Khoa, cuốn Đồng Minh Tháo Chạy (2005) của Tiến-sĩ Nguyễn Tiến
Hưng , v.v…
b).- Lừa bịp thiên
hạ và lừa bịp lẫn nhau để bốc hốt: Đây là hành động bịp của những người đã được Giáo
Hội La Mã huấn luyện rất chu đáo về tài nghệ bịp và đã được phong cho là
đại diện chúa, mặc áo chùng thâm và xưng là cha thiên hạ. Con số những
người này trổ tài bịp và lường gạt niềm tin của tín đồ nhiều lắm và
được người trong chăn Ca-tô là linh mục Nguyễn Thanh Sơn nêu đích danh
từng người một trong hai tờ Tận Thế số Ra Mắt phát hành ngày 15/6/2002 và Số 2 phát
hành ngày 15/7/2002. Trong số Ra Mắt ngày 15/6/200, nơi trang 27,
Linh-mục Sơn viết:
"Những ai đã biết,
đọc và nghe về những ác quỉ dưới đây mà còn cố tình bênh vực, bao che,
ủng hộ, ca tụng và đi xem lễ do chúng làm, sẽ bị Đức Mẹ nghiêm khắc
trừng phạt:.
A.- Nhóm ác quỉ thuộc Phụ tỉnh DCCT/VN hải ngoại: (Dòng Chúa Cứu Thế
Việt Nam hải ngoại): Nguyễn Đức Mầu, Châu Xuân Báu, Vũ Minh Nghiễm, Đinh
Ngọc Quế, Nguyễn Văn Phan, Phạm Quốc Hưng, Nguyễn Tất Hải, Đinh Minh
Hải, Phan Phát Huồn, Nguyễn Trường Luân, Trần Ngọc Bích, Nguyễn Đức
Thành, Bùi Quang Tuấn, và thầy bẩn moi và quịt: Nguyễn Văn Mới.
B.- Nhóm ác quỉ thuộc giáo phận Los Angeles: Trần Công Nghị, Nguyễn Văn Sang,
Nguyễn Quang Hòa, Lê Sơn Hà, Chu Quang Minh, Vũ Thế Toàn, v.v...
C.- Nhóm ác quỉ thuộc giáo phận Orange County: Nguyễn Đức Tiến, Mai Khải Hoàn,
Nguyễn Văn Tuyên, Phạm Ngọc Tuấn, Chu Vinh Quang, Nguyễn Văn Luân, Đỗ
Thanh Hà, Vũ Tuấn Tú, Ngô Văn Trọng, Mai Thành Hân, Xuân Nguyên Hồ, Trần
Văn Kiểm, Đinh Viết Thục, Bùi Công Minh, Nguyễn Trọng Tước, tức Nguyễn
Tầm Thường, v.v...
D.- Những ác quỉ ở nhiều nơi: Đinh Đức Đạo (Đức Ông giám đốc
văn phòng thờ quỷ Rôma), Phan Tấn Thành (giáo sư thờ quỉ Rôma), Cao Minh
Dung (Đức Ông, nhân viên Bộ Ngọai Giao tòa... quỷ!), Nguyễn Văn Phương
(Chủ Tịch Liên Đoàn thờ Qủy, Riverale, Georgia) Lê Xuân Thượng (Đức Ông
thờ quỷ cái Trần Thị Liễu, (Houston, Texas), Đào Quang Chính (Houston,
Texas), Nguyễn Ngọc Tư (Houston, Texas), Nguyễn An Ninh (Eastpointe,
MI), Hoàng Xuân Nghiêm (Tổng Thủ Quỹ Liên Đoàn Thờ Quỷ, (Wyoming, MI),
Phạm Văn Tuệ, Trần Cao Tường, Vũ Hân (Marrero, LA), Việt Châu (Chủ Nhiệm
Nguyệt San Thờ Quỷ, Gretna, LA), Nguyễn Đức Huyên (Giám Đốc đền thờ
Quỷ), Nguyễn Văn Dậu (giáo sư thờ Quỷ, Metairie, LA) Phạm Quốc Hùng
(Wichita, KS), Phan Đình Cho (Gíao-sư đại học thờ quỷ, Washington DC),
Nguyễn Thanh Long (Silver Spring, MD), Trần Quí Thiện (Arlington, VA),
Nguyễn Huy Quyền (Glen Ellyn, IL), Trịnh Thế Hùng (Chicago, IL), Đỗ
Quang Biên (hưu trí thờ quỉ cái: Mầu, San Diego, CA)... (Còn tiếp với vô
vàn vố số ác quỉ nằm trong Chi Dòng Đồng Công ở Carthage, MO, đã lợi
dụng Đức Mẹ để làm tiền trắng trợn từ 24 Đại Hội Thờ Quỷ Mammon, đã qua,
và Đại Hội thứ 25 sắp tới. Chính Đức Mẹ sẽ đánh tan đại hội bịp này.)"
Mẹ mang nhãn hiệu rỗng tuếch: "Sống Tin Giữa Dòng Đời", trên đài Little
Sàigon."[63]
Trong tờ Tận Thế Số 2,
nơi trang 31, Linh-mục Nguyễn Thanh Sơn viết:
"2.- Thật không ngờ
một linh mục bệnh hoạn có thể trở thành một con người viết những điều
mạnh mẽ như vậy, đó là chửi thẳng vào mặt ác quỷ Nguyễn Đức Mầu, kẻ dơ
bẩn đã ăn nằm với không dưới 100 đàn bà mất nết từ Việt Nam sang tới Hoa
Kỳ (đọc Thư LM Nguyễn Thanh Sơn gửi Cha Bề Trên Tổng Quyền Dòng Chúa Cứu
Thế ở Roma, trong "Quyền Năng Đức Mẹ Diệt Trừ Satan III") và
ác quỷ
Trần Công Nghị, kẻ dâm thú cũng đã "ăn nằm" với hàng trăm đàn bà hư đốn
trên 35 năm qua, từ Việt Nam sang Roma, tới Hoa Kỳ, trong số đó có hai
(2) ma nữ lõa lồ: CAO THỊ MỸ LỆ (từ năm 1975 tại Portland, Oregon), con
gái Cao Đăng Tường, cháu "yêu dấu" của Cao Đăng Minh, Dòng Chúa Cứu Thế
(tên này cũng đã có con trai khôn lớn), và hiện nay đang ăn nằm với "con
điếm nhớp nhúa nhất thủ đô tỵ nạn)" là DIAMOND BÍCH NGỌC. Đôi song ca đã
và đang hát rất mùi với nhau, trong chương trình lứa đôi Thiên Chúa và
Đức Mẹ mang nhãn hiệu rỗng tuếch: "Sống Tin Giữa Dòng Đời", trên đài
Little Sàigon."[64]
Xin quý vị độc giả tại
các địa phương của các ngài mặc áo chùng thâm được nêu đích danh tròng
hai bản văn trên
đây kiểm chứng những hành động và tư cách của họ xem có đúng như
Linh-mục Nguyễn Thanh Sơn đã tố cáo họ. Người viết và một số thân hữu tại
tiểu bang Washington và Oregon đã nhìn thấy rõ sự thật về ông Người Việt
Quốc Gia mặc áo chung thâm Cao Đăng Minh quả thật là thần sầu quỷ khốc.
Một độc giả ở New Orleans, Louisiana cũng cho biết sự thật kinh khủng về
ông người Việt Quốc Gia mặc ông chùng thâm Việt Châu. Các ông người Việt
Quốc Gia mặc áo chùng thâm Trịnh Thế Hùng ở Chicago và Đào Quang Chính ở
Houston, Texas cũng đều được các thân hữu của người viết tại đia phương
nói rõ về thành tích ghê gớm và ghê tởm của các ngài. Đặc biệt là ông
người Việt Quốc Gia Nguyễn Hữu Dụ đã bị cảnh sát Houston (Texas) bắt
gặp tại trận khi Ngài đang làm tinh với nữ tín đồ Nguyễn Thi Vui (khẩu
dâm: đưa cán cân tạo hóa vào miệng của người tình) ở một nơi công cộng
(bãi đậu xe) vào ngày 14/12/1994 và bị đưa ra Tòa án Harris County (Houston) case number 945013, phiên xử đầu tiên là ngày 21/12/1994. Số tiền
bail (tại ngoại hầu tra) là 4 ngàn Mỹ kim. Phiên xử lần thứ 2 được ấn
định là ngày 1/2/1995. Đương sự bị phạt một ngàn Mỹ kim. Điểm đặc biệt
là vào thời điểm khi hành dâm như vậy, đương sự đã xấp-xỉ 75 tuổi (sinh
ngày 20/3/1920). Có người cho biết khi bị đưa ra tòa, Ngài đại diện Chúa
này đã có với bà Vui một đứa con gái 16 tuổi. Có người cho biết bà Vui
sinh năm 1947.
Trên đây là nói về
những người Việt Quốc Gia mặc áo chùng thâm được giáo dân trân trọng
gọi là “cha” và cũng là những ngưỡi lãnh đạo tinh thần có nhiệm vụ hướng
dẫn họ sống theo “đức tin Ki-tô bịp” của cái đạo mà học già Charlie
Nguyễn gọi là “đạo bịp”. Còn nhiều vụ khác do những người Việt Quốc
Gia thế tục đã học được tài nghệ bịp của các nhà lãnh đạo tinh thần
của họ để “bịp” thiên hạ. Dưới đây là một số những vụ “bịp” và “lường
gạt” mà hầu như nhân dân Hoa Kỳ và người Việt hải ngoại ở Bắc Mỹ đều
biết cả. Đó là những vụ bịp như sau: Vu bịp của cái tổ chức gọi là Mặt
Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam của người Việt Quốc Gia do
anh em ông Hoàng Cơ Minh, Hoàng Cơ Long, Hoàng Cơ Trường, Hoàng Cơ Định
đạo dỉễn bùng nổ vào cuối năm 1983 kéo dài cho đến ngày nay và biến thể
thành đảng Việt Tân, vụ các ông bác sĩ
người Việt Quốc Gia ở California gian lận medical coupons bị báo chí Mỹ
khui ra vào năm 1984, vụ ông người Việt Quốc Gia Ca-tô Quy Nhơn Hồ Anh
T. ôm thùng tiền khoàng trên dưới 300 ngàn Mỹ kim về làm của
riêng trong vụ biểu tình chống ông Trần Trường ở Little Saigon,
Wesminster, California trong năm 1999, những vụ lừa bịp và gian lận
trong những chiến dịch quyên tiền ở tiểu bang Washington giúp nạn nhân
bão lụt Katrina tại tiểu bang Lousiana mất hết nhà cửa trong năm 2005,
vụ lừa bịp và gian lận trong chiến dịch quyên tiền giúp đồng bào nạn
nhân bão lụt Miền Tây miền Nam Viêt Nam trong năm 1999 và nhiều vụ lừa
bịp khác của ông Người Việt Quốc Gia Ca-tô Bùi Chu (được ông Ngô Quốc
Dân trình bày khá đầy đủ trong cuốn Lá Bài Lật Ngửa (Tacoma, WA: TXB, 2008), vân vân và vân vân.)
Chúng ta đã thấy ở đâu
có sự hiện diện của Giáo Hội La Mã là ở đó có những hành động xấc xược,
ngược ngạo, ưa thích sử dụng bạo lực để cưỡng bách những người thuộc các
tôn giáo khác phải làm theo ý muốn của Giáo Hội và sẽ có những trò “bịp”
diễn ra hết sức siêu việt và hết sức trắng trợn. Chúng ta cũng lại thấy,
các ông tự nhận là người Việt Quốc Gia có những hành động xấc xược ngược
ngao, ưa thích sử dụng bạo lực để cưỡng bách những người khác phải làm
theo ý muốn của họ và tài nghệ bịp siêu việt của họ ở Việt Nam trước năm
1975 và ở hải ngoại sau năm 1975 với tất cả kỹ thuật bịp không kém gì
hành động xấc xược ngược và kỹ thuật bịp của Giáo Hội La Mã trong gần
hai ngàn năm qua. Đúng là cha nào con ấy. Cho nên ta cũng có thể nói, ở
nơi nào có sự hiện diện của những người tự nhận là người Việt Quốc Gia
là ở đó sẽ những hành động xấc xược, ngược ngạo, cưỡng bách những người
khác phải làm theo ý muốn của họ và sẽ có những trò gian dối và bịp bợm
hết sức là siêu việt và hết sức trắng trợn.
F.- BẢN CÁO TRẠNG LỊCH
SỬ
Đối với xã hội theo
văn hóa cổ truyền Đông Phượng cũng như xã hội dân chủ tự do ở Tây Phương
và Bắc Mỹ, những hành động xấc xược, ngược ngạo, nhừng trò lừa gạt và bịp
bợm trên đây đều bị coi là những tội ác chống lại xã hội cần phải bị
trừng phạt nghiêm khắc. Có một điều hết sức ngạc nhiên là khi những
người tự nhận là người Việt Quốc Gia có những hành động xấc xược, ngược
ngạo và lừa bịp người đời để thủ thắng hay để thỏa mạn những tham vọng bất
chính của họ, họ đều biểt rõ là những hành động như vậy là ngược ngạo,
trái với công lý, trái với lương tâm, trái với lẽ phải và trái với pháp
luật, nhưng họ vẫn bất cần và vẫn làm như vậy. Họ thường nói với
nhau rằng, nếu không sử dụng “lý” được, thì phải “lì”.
Theo sự tìm hiểu và kinh nghiệm của người viết, dưới đây là một số trong
hàng ngàn sự kiện đã xẩy ra từ khi Giáo Hội La Mã cho ra đời cụm từ “nguời
Việt Quốc Gia” vào đầu tháng 6/1948 để cho các ông tín đô Ca-tô người
Việt và những người Việt gian khác bán nước cho Pháp và cho Vatican sử dụng
nhằm che đậy cái tội phản quốc của họ và cũng là làm cho người đời và
hậu thế lầm tưởng rằng họ là “người Việt theo lý tưởng
Quốc Gia”, chứ không phải là “Việt gian” hay “những
người bán tổ tiên kiếm kế sinh nhai” như sách sử đã lên án họ:
1.- Họ biết rõ đạo
Thiên Chúa La Mã hay Giáo Hội La Mã đã có một lịch sử tội ác kinh tởm
nhất trong lịch sử loài người đến nỗi bất kỳ quốc gia nào có sự hiện
diện của cái đạo này, thì nhân dân nước đó khinh bỉ và thù ghét đến tân
xương tận tủy. Khinh bỉ và thù ghét đến độ, theo các sách như Vicars of
Christ, Smokerscreens, The Decline And Fall Of The Roman Church, Babylon
Mystery Religion, Deceptions and Myths Of The Bibles, v.v…, thì các nhà
viết sử gọi Vatican là “con điếm” (The whore of the Revellation) và “con
rắn độc” (the Snake). Khinh bỉ và thù ghét đến độ văn hào Voltaire đã
phải gọi nó là “cái tôn giáo ác ôn”, học giả Henri Guillemin goi
là “cái Giáo Hội Khốn Nạn”, ông Charlie Nguyễn gọi là“đạo bịp” và
“đạo máu”.
Khinh bỉ và thù
ghét đến độ “nhân dân Âu Châu khiếp sợ và tránh xa nó như tránh hủi”.
Khinh bỉ và thù
ghét đến độ nước Anh phải dứt khoát nghỉ chơi với Vatican vào năm 1534,
chống lại Vatican, rồi vào năm 1691 lại ban hành đạo luật ổn định (the
Act of Settlement of 1691) cấm những tín đồ Ca-tô người Anh, không được
lên cầm quyền.
Khinh bỉ và thù
ghét đến độ nhân Pháp gọi các ông tu sĩ Ca-tô là “lũ quạ đen”
(les corebeaux noirs). Chính quyền Cách Mạng Pháp 1789 tịch thu toàn bộ
tài sản của Giáo Hội, tước bỏ tất cả những đặc quyền đặc lợi mà các chế
độ đạo phiết Ca-tô trước đó đã dành cho Giáo Hội, rồi lôi cổ “17 ngàn
linh mục, 30 ngàn nữ tu và 47 giám mục” ra hành hình, giải thể “tất
cả các tu viện, các dòng tu và các trường học của Giáo Hội” và
thiêu rụi “tất cả các thư viện của Giáo Hôi”.
Khinh bỉ và thù
ghét đến độ ngày 20/9/1870, chính quyền Cách Mạng Ý 1870 đem đại bác nã
vào Tòa Thánh Vatican khiến cho Giáo Hoàng Pius IX (1846-1878) phải kéo
cở trằng đầu hàng, tước bỏ rất nhiều quyền lợi mà trước đó Vatican đã
được đặc hưởng, và thu hẹp lãnh thổ của Vatican chỉ còn lại 0.4 cây số
vuông như ngày nay.
Khinh bỉ và thù ghét đến độ, năm 1936, nhân dân Tây
Ban Nha lôi cổ 4,184 tu sĩ Ca-tô đập chết.
Khinh bỉ và thù ghét
đến độ, nước Mỹ cắt đứt quan hệ ngoại giao, nghỉ chơi với Vatican từ năm
1867 cho đến năm 1884 mới nói chuyện với nhau vì nhu cầu chiến lược.
Khinh bỉ và thù
ghét đến độ năm 1638, tại Nagazaki (Nhật Bản) có vào khoảng 100
ngàn tín đồ Ca-tô, năm đó, triều đình Nhật sai “tướng Iemitsu mang
đại quân tới Nagazaki để "Bình Tây Sát Tả” và tàn sát tới 37,000
(37 ngàn) trong các đạo quân thứ 5 và đuổi hết “bọn quạ đen truyền đạo”
ra khỏi nước. Một sõ chạy trốn sang lánh nạn ở Hội An ở Việt Nam. Số còn
lại ăn ăn hối cải xin được sống trở lại làm người sống với lẽ phải và
lương tâm.
Khinh bỉ và thù đến
độ, nhân dân Trung Quốc gọi tín đồ Ca-tô là “đạo gạo” (Rice Christians),
Vua Khang Hi (1662-1722) cho “tóm cổ giáo sĩ Tournon nhốt trong khám
ở Macao và giam cho đến chết vào năm 1700", rồi nhà vua ra lệnh tất
cả bọn quạ đen truyền giáo phải đi khỏi nước và bút phê:
"Đọc ban tuyên bố
này [thánh lệnh của Giáo Hoàng] ta nhận thấy rằng người Tây phương thật
sự là nhỏ mọn. Không thể nào lý luận được với họ vì rằng họ không hiểu
nổi những đề tài rộng lớn hơn như ở Trung Hoa chúng ta thường hiểu.
Không có một người Tây phương nào có thể đọc và hiểu được sách của người
Trung Hoa, và những lời nhận xét của họ thường là khôi hài và không thể
nào tin được. Nhận xét từ bản tuyên bố (thánh lệnh) này, trẫm nhận thấy
tôn giáo của họ không khác gì các hệ phái nhỏ bé đầy mê tín của đạo Phật
hay đạo Lão. Trẫm chưa bao giờ thấy một tài liệu nào chứa đựng quá nhiều
điều vô nghĩa như thế này. Từ nay trở đi, không để cho người Tây Phương
đến truyền đạo ở Trung
Hoa nữa. và cũng sẽ không có gì là phiền toái cả." Nguyên văn: “Reading this proclamation [papal bull], I have
concluded that the Westeners are small indeed. It is impossible to
reason with them because they do not understand larger issue as we
understand in China. There is not a single Westerner who can read
Chinese books, and their remarks are often incredible and ridiculous.
Judging from this proclamation, it seems that their religion is no
different from other small bigoted sects of Buddhism or Taosim. I have
never seen a document which contains so much nonsense. From now on,
Westerners should not be allowed to preach in China, so there will be no
trouble."[65].
Khinh bỉ và thù ghét
đế độ tháng 8/1997, nước Nga ban hành đạo luật công nhận quyền tự
do tôn giáo của nhân dân Nga, đạo Phật, đạo Hồi đều được tự do
truyền giáo ở Nga, nhưng đạo Ca-tô và đạo Tin Lành lại bị nghiêm cấm.
Khinh bỉ và thù
ghét đến độ tất cả các quốc gia Hồi Giáo, Do Thái Giáo, Chính Thống
Giáo đều đuổi cổ hết bọn quạ đen truyền giáo ra khỏi nước và cấm
chúng không được bén mảng đến quốc gia của họ.
Khinh bỉ và thù
ghét đến độ tất cả các nước theo Phật Giáo, Ấn Độ Giáo, Khổng Giáo và
Thần Đạo (Nhật Bản) đều khinh rẻ Giáo Hội La Mã như là một tổ chức chính
trị giảo hoạt mượn danh nghĩa những tín lý bịp bợm để mê hoặc và lừa bp
người đời trong mưu đồ bành trướng chủ nghĩa bá quyền.
Khinh bỉ và thù
ghét đến độ tất cả các nước
theo chế độ dân chủ tự đó ở Tây Âu và Bắc Mỹ đều ghi vào hiến pháp của
họ điều khỏan tách rời tôn giáo ra khỏi chính quyền và cấm ngặt “bọn quạ
đen” và các tu sĩ thuộc các tôn giáo khác không được làm chính trị.
Khinh bỉ và thù
ghét đến độ, dân tộc Việt Nam coi Vatican như là kẻ thù nguy hiểm nhất,
thâm độc nhất, bám chặt lấy Việt Nam như loài đỉa đói, và tín đồ Ca-tô
bị coi như là hiện thân của những phường tham lợi, “bán tổ tiên kiếm
kế sinh nhai” hay “đi đạo lấy gạo mà ăn”, những hạng người
háo danh “theo đạo tạo danh đời” và là “những đứa con hoang
của thực dân xâm lược Pháp và con điếm Vatican.”
Sự thực
là như vậy! Ấy thế mà họ tôn vinh Giáo Hội La Mã là “Hội Thánh duy
nhât, thánh thiện, công giáo và tông truyền”, đi theo nó, nghe lệnh
nó để chống lại chính quyền và quân đội Việt Minh kháng chiến, một thế
lực quyết tâm chiến đấu giải phóng đất nước thoát khỏi ách thống trị bạo
tàn của chính nó và thực dân xâm lược Pháp.
2.- Họ
biết rõ Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican là hai thế lực cướp nước đã
khởi binh đánh chiếm Việt Nam từ năm 1858 và thống trị cho đến năm
1945, rồi lại đem quân tái chiếm Đông Dương vào năm 1945, và biết rõ
những người Việt đi theo hay làm việc cho hai thế lực xâm lăng này là mang
tội Việt gian phản quốc. Ấy thế mà họ vẫn đi theo Pháp và Vatican chống
lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam.
3.- Họ
biết rõ việc đưa Bảo Đại lên lãnh đạo cái gọi là “chính quyền Quốc Gia”
là do đề nghị của Vatican. Đề nghị này chỉ là bước đầu nằm trong chính
sách chia để trị, dùng người Việt đánh người Việt, dùng tín đồ Ca-tô cai
trị đại khối nhân dân thuộc tam giáo cổ truyền, rồi tiến hành kế-hoạch
Ki-tô hóa toàn dân ta bằng bạo lực càng nhanh càng tốt, đúng như lời
tuyên bố của tên Việt gian Ca-tô Ngô Đình Nhu:
“Tôi có
cả một chương trình đã bàn kỹ với Đức Giam Muc [Ngô Đình Thục] sẽ lần
hồi tiến tới chỗ mà Hội Truyền Giáo hoạt động một thế kỷ mới đạt tới,
còn chúng ta chỉ cầm quyền mười năm là cả miền Nam này sẽ theo Công Giáo
hết.”
[66]
Ấy thế mà
họ vẫn hồ hởi vồ vập lấy và nhiệt liệt ủng hộ đề nghị thâm độc này bằng
cách kêu gọi mọi người tham gia của cuộc biểu tình do họ tổ chức vào đầu
năm 1946 ở trước tòa nhà ông Bảo Đại cư ngụ tại Hà Nội để thỉnh mời ông
ta ra cầm quyền. Khi hành động như vậy, rõ ràng là họ đã cấu kết với
Vatican.
4.- Họ
biết rõ chế độ quân chủ là một chế độ chính trị chuyên chính phong kiến,
phi nhân, phản tiến hóa khiến cho nhân dân thế giới đã đào sâu chôn chặt
từ thời Cách Mạng Pháp 1789. Ấy thế mà vào năm 1948, gần hai thế kỷ sau,
họ vẫn đem nó áp đặt lên nhân dân Việt Nam để tái lập vương quyền cho
nhà Nguyễn, phục hồi quyền lực cho tên hôn quân Bảo Đại mà các nhà viết
sử gọi là một tên “ăn chơi đĩ điếm” (playboy) để cho họ được “vinh
thân phì gia”.
5.- Họ
biết rõ tên phản thần tam đại Việt gian Ca-tô Ngô Đình Diệm là một thiên
cổ tội nhân và sách sử đã ghi nhận là một trong số 100 tên bạo chúa ác
độc nhất trong lịch sử nhân loại và đã bị quân dân miền Nam lôi ra đập
chết vào sáng ngày 2/11/1963. Ấy thế mà họ vẫn suy tôn nó lên là một chí
sĩ yêu nước và một nhà ái quốc đã chết vì dân vì nước, và hàng năm, cứ
vào ngày 1 và 2 tháng 11 các, họ lại tổ chức lễ giố nó một cách hết sức
rầm rộ và hết sức linh đình. Đồng thời, cũng vào dịp này, họ mở một
chiến dịch viết sách, viết báo ca tụng nó, tôn vinh nó với những thành
tích láo khoét do họ tưởng tượng và bịa đăt ra, kèm theo những bản
văn chứa đựng toàn những lời chửi bới và ha nhục (1) tất cả các nhà trií
thức và nhân sĩ ký tên trong bản Tuyên Ngôn của thuộc nhóm
Tự Do Tiến Bộ gửi Tổng Thống Ngô Đình Diệm đề ngày 26/4/1960, (2) tất cả
những người đã tham gia và ủng hộ cuộc chính biến 11/11/1960, (3) tất
cả những người đã tham gia và ủng hộ vụ bỏ bom Dinh Độc Lập vào lúc
7:15 sáng ngày 27/2/1962, (4) tất cả những người tham gia và ủng hộ các
phong trào tranh đấu Phật giáo khởi phát từ chiều tối ngày 8/5/1963, (5)
tất cả các thành phần tham gia và ủng hộ các phong trào học sinh, sinh
viên chống chế độ đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm trong năm 1963, và (6)
tất cả các tác giả của các tác phẩm có nội dung nói lên sự thật về những
việc làm tội ác của Giáo Hội La Mã, của tín tu sĩ và tín đồ Ca-tô người
Việt từ thập niên 1780 cho đến ngày 30/4/1975 và của bạo quyền Ca-tô Ngô
Đình Diệm.
6.- Họ
biết rõ chế độ Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa hay thời ông Ngô Đình Diệm cầm
quyền (7/71954-1/11/1963) là chế độ độc tài Thiên Chúa Giáo La Mã đã
hành xử hết sức tàn ngược đối với nhân dân, giết hại tới hơn 300 ngàn
lương dân vô tội và các nhà ái quốc chống Pháp Chu Bằng Lĩnh, Đảng Cần
Lao (San Diego, CA: Mẹ Việt Nạm, 1993), tr. 133., biến miền Nam Việt
Nam thành một nhà tù lớn nhất trong lịch sử việt Nam và lớn nhất trên
thế giới lúc bấy giờ:
"Giữa năm
1955 và 1960, tối thiểu có tới 24 ngàn người bị thương, 80 ngàn người bị
hành hình hay bị sát hại bằng cách này hoặc bằng cách khác, 275 ngàn
người bị bắt tra vấn và giam giữ. Cuối cùng có tới 500 ngàn (khoảng nửa
triệu) người bị cầm tù tại các trại giam. Bộ máy đàn áp của
chính quyền Gia-tô (Công Giáo) trở nên hết sức ghê gớm và tàn bạo khiến
cho Hoa Kỳ đã phải vừa ngấm ngầm vừa công khai phản đối chính sách
Gia-tô hóa quá trơ trẽn của chính quyền Diệm. Nhiều tu sĩ Phật giáo theo
gương ni cô Thanh Quang quyết tâm phản đối chế độ đạo phiệt Gia-tô Ngô
Đình Diệm. Phải can đảm lắm người ta mới có thể chuẩn bị để tự thiêu cho
mục đích duy trì niềm tin tôn giáo. Các nam nữ tu sĩ Phật Giáo tự thiêu
đã làm sống lại tinh thần Phật Giáo của hàng triệu Phật Giáo đồ khiến
cho họ quyết tâm chống lại những luật lệ bất công của chính quyền Diệm.
Giáo Hội La Mã chẳng hề tỏ ra đau buồn hay kính phục những người tử đạo
Phật Giáo này." Nguyên văn:"Beetween 1955 and 1960 at least 24,000 were wounded,
while 80,000 people were executed or otherwise murdered, 275,000 had been detained or interrogated. Eventually, about
500,000 were sent to concentration or detention camps. The Catholic
state machinery of suppression became so overpowering and ruthless that
the US had to protest, privately and officially, the barefaced religious
character of Diem's Catholic policy. Many more Buddhist monks followed
the example Nun Nu Thanh Quang in protest against Diem's Catholic
regime. It took tremendous personal courage to prepare oneself for death
by fire in order to uphold one's own religious belief. The
self-immolation of Buddhist monks and nuns helped revive the religiosity
of millions of Buddhists, who became determined to resist the unjust
laws of Diem government. The Catholic Church never expressed any sorrow
or admiration for those Buddhist martyrs."[67]
Chính vì vậy mà hai
nhà viết sử Bradley S. O’ Leary & Edward Lee ghi nhận rằng ”Diệm, Nhu, Bà Nhu. Cả ba người –
cái bộ ba bạo chúa đầy hận thù này đang cùng lừa gạt cả nước Mỹ.” và sử gia Nigel Cawthorne khẳng định rằng “ông
Ngô Đình Diệm là một trong sô 100 tên bạo chúa ác độc nhất trong lịch sử
nhân loại”. Ấy thế mà họ lại cho rằng những năm thời ông Diệm cầm
quyền là những năm tốt đẹp nhất và hoàn hảo nhất trong lịch sử Việt Nam.
7.- Họ biết rõ anh em
Ngô Đình Diệm đã biến chính quyền miền Nam Việt Nam thành một “Triều Đại Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu.” (Diem’s Dynasty and the Nhu
Bandits), và biến miền Nam Việt Nam thị trường khổng lồ tiêu thụ thuộc
phiện đã biến chế cho 2500 tiệm hút và cũng là nguồn thuốc cung cấp thuôc phiện sống lớn nhất thế giới cho
trung tâm biến chế thuốc phiên sống này thành bạch phiến ở Marseilles
dưới quyền chỉ huy của tên đầu nậu Antoine Guerini và những sản phẩm
bạch phiến này sẽ được chuyển sang trung tâm phân phối ở Mỹ Châu dưới
quyền điều khiển của tên đầu nậu Carlos Marcello để bán cho khách hoàng
Hoa Kỳ (đã nói ở trên). Ấy thế mà họ cũng vẫn đem hết lời tâng bốc ông
Diệm “là người có lý tưởng, liêm khiết và can đảm.”[68]
8.- Họ biết rõ lá
cờ vàng ba sọc đỏ là do Giáo Hội La Mã chế ra trong đó ba sọc đỏ là biểu
tượng cho Chúa Ba Ngôi (được ngụy trang là biểu tượng cho ba miên Nam
Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ) để làm quốc kỳ cho người Việt Ca-tô và những tên
Việt gian khác giúp họ giảm bớt cái mặc cảm mang tội phản quốc chống lại
quê hương và dân tộc. Ấy thế mà họ vẫn sử dụng nó làm biểu tượng tranh
đấu bằng miệng cho cái mà họ gọi là “Cuộc chiến giữ vững lằn ranh Quốc –
Cộng”.
9.- Họ biết rõ
những ông cha và chính bản thân họ đã từng làm những công việc đưa đường
chỉ lối và làm công an chỉ điểm cho liên minh giặc xâm lược Pháp –
Vatican trong những chiến dịch tấn chiếm Việt Nam cũng như trong các
cuộc hành quân truy lùng và tiêu diệt các lực lương nghĩa quân kháng
chiến của nhân dân ta trong suốt chiều dài lịch sử từ năm 1858 cho đến
tháng 7/1954, tức là mang tội Việt gian phản quốc. Ấy thế mà họ không những
đã không ăn năn hối cải để trở về với dân tộc và tổ quốc, mà lại còn
viết sách viết báo vừa để lấp liếm những tội ác tầy đình này của họ, vừa
bịa đặt ra những chuyên xấu xa tưởng tượng để làm giảm uy tín và công
lao của các lực lượng kháng chiến và các nhà ái quốc đã hy sinh trọn đời
liều chết chiến đấu cho đại cuộc đòi lại quê hương cho dân tộc.
10.- Họ biết rõ
Hiệp Định Genève 1954 quy định Việt Nam tạm thời bị chia làm hai miền
Bắc, Nam và sẽ được thống nhất qua một cuộc tổng tuyển cử được tiến hành
vào tháng 7/1956. Thế nhưng, Hoa Kỳ và Vatican đã cấu kết với nhau cùng
ra lệnh cho chính quyền tay sai của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm (do hai thế
lực này dựng nên) chống lại việc tổ chức tổng tuyển cử với dã tâm duy
trì Việt Nam mãi mãi ở trong tình trạng chia đôi để vừa biến miền Nam
thành một quốc gia riêng biệt rồi tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa toàn thể
miền Nam như lời tuyên bố tên Việt gian Ca-tô Ngô Đình Nhu (đã nói ở
trên), vừa biến thành tiền đồn chống Cộng theo chính sách be bờ ngăn
chặn làn sóng Cộng Sản đang dâng tràn bao trùm phủ kín cả lục địa Trung
Hoa lan xuống vĩ tuyến 17 tại Việt Nam. Ấy thế mà họ vẫn viết sách viết
báo rêu rao rằng miền Nam Việt Nam là một quốc gia riêng biệt và phủ
nhận tính cách chính nghĩa của cuộc chiến đánh đưổi Liên Minh Xâm Lược
Mỹ - Vatican do miền Bắc phát động để đòi lại miền Nam cho tổ quốc và
thống nhất đất nước.
11.- Họ biết rõ
những hành động xấc xược ngược ngạo, dùng bạo lực để cưỡng bách các ngôi
chùa của người Việt ở Bắc Mỹ phải treo cờ vàng ba sọc đỏ là tội ác vi
phạm quyền tự do tư tưởng của người khác. Ây thế mà họ vẫn tiếp tục làm
như vậy.
12.- Họ biết rõ
việc tu tập với nhau trương cờ vàng ba sọc đỏ rồi cùng kéo đến trụ sở
của tờ báo Viet weekly để chống tờ báo này từ tháng 7/2007 là vi phạm
các quyền tự do ngôn luận và tư do tư tưởng của tờ báo này, là phản
tiến hóa, là xấc xược và người ngạo. Ấy thế mà họ vẫn làm.
13.- Họ biết rõ
việc kéo nhau đến gặp ban giám đốc trường USC để yêu sách sử dụng lá cờ vàng ba
sọc đỏ để thay thế cho lá cờ đỏ sao vàng đang được treo bên cạnh nhiều
quốc kỳ của nhiều quốc gia khác tại trường học này là một việc làm thiếu
văn hóa và trái với công lý. Ấy thế mà họ vẫn làm mà không biết ngượng.
14.- Họ bết rõ vu
khống cho những người mà họ thù ghét là một tội ác ghê tởm. Ấy thế mà họ
vẫn làm.
15.- Họ biết rõ việc
bịa đặt ra những điều tối đẹp để tô hồng chuốt lục cho chính cá nhân
mình, cho phe phái hay tôn giáo của mình là một hành động đáng phỉ nhổ.
Ấy thế mà họ vẫn làm.
16.- Ho biết rõ việc
bịa đặt ra nhưng chuyến xấu xa và tội ác tưởng tượng để gán cho những
người hay thế lực mà họ thù ghét là những việc làm mà bất cứ xã hội nào
cũng cho là hèn hạ, xấu xa, đê tiện và cũng là tội ác cực kỳ ghê tởm mà luật pháp
của bất cứ quốc gia nào cũng phải trừng phạt nghiêm khắc. Ấy thế mà họ
vẫn làm.
Còn nhiều lắm. Nếu
muốn nói cho hết, phải dùng đến cả hàng trăm trang giấy cũng chưa chắc
đã đủ.
Tiếp xúc với những cô gái giang
hồ, chúng ta thấy rằng họ còn ý thức được việc làm của họ là xấu xa, và
không muốn cho con cái của họ làm đĩ, làm điếm giống như họ. Tương tự
như vậy, những tên lưu manh, côn đồ chuyên sống bằng nghề cướp đường,
cướp chợ cũng vẫn còn ý thức được việc làm của chúng là xấu xa đê tiện,
và cũng không muốn con cái của chúng theo gương chúng để rồi trở thành
những quân côn đồ làm nghề cướp đường, cướp chợ giống như cuộc đời ăn
cướp của chúng.
Đem hai giới người cặn
bã này trong xã hội so sánh với các ông người Việt Quốc Gia ở hải ngoại
trên đây, chúng ta thấy những cô gái giang hồ và bọn lưu manh làm nghề
ăn cướp đường cướp chợ quả thật còn có tư cách hơn họ rất nhiều vì rằng
hai giới người này còn ý thức được việc làm của họ là xấu xa, và họ sẽ
từ bỏ cái nghề xấu xa này ngay khi hoàn cảnh của họ được cải thiện, và
đặc biệt hơn nữa, trong thâm tâm, họ không muốn cho con cái của họ đi
theo con đường tội ác mà chính bản thân họ đã vướng vào.
Trong khi đó thì các
ông người Việt Quốc Gia ở hải ngoại, như đã nói ở trên, biết rõ những
việc làm của họ là sai trái là tội ác, nhưng họ không hề ăn năn hối cải,
vẫn ngoan cố không chịu thức tỉnh để trở về với lương tâm sống theo lẽ
phải, họ vẫn tiếp tục sống theo cái bản chất xấc xược, ngược ngạo và hành
xử trịch thượng không cần biết đến công lý và nếp sống văn minh của xã
hội loài người trong thời thế ky 21 này. Tệ hơn nữa, họ còn dạy con
cháu họ cũng phải có những hành động xấc xược, ngược ngạo và trịch thượng
đối với những người bất đồng chính kiến với họ như họ đã làm.
Xem như thế, họ đã trở thành những hạng
người vô liêm sỉ, mất hết cả lương tâm mà lại không biết rằng họ đã trở
thành hạng người vô liêm sỉ và không biết rằng họ đã mất hết lương tâm.
Họ không có được cái liêm sỉ tối thiểu của những cô gái giang hồ và của
bọn lưu manh du côn sống bằng nghề cướp đường cướp chợ.
KẾT LUẬN:
Như đã trình
bày trong Mục Xuất Xứ, các ông người Việt Quốc Gia mà thành phần nòng
cốt và đông nhất là tín đồ Ca-tô hầu như đều có những hành động xấc xược,
ngược ngạo, thường hay có thái đô lối bịch và trịch thượng đối với những
người bất đồng chính kiến với họ, hầu hết (không phải tất cả) đều
ưa thích sử dụng bạo lực đế cưỡng bách những người khác phải làm theo ý
muốn của họ, và thường hay lừa bịp người đời không bằng cách này thì cũng
bằng cách khác. Dù là tín đồ Ca-tô hay không, tất cả những người tự nhận
là người Việt Quốc Gia đều là những người tiếp nhận sở học qua chính
sách ngu dân và nhồi sọ của Vatican, đều sống trong ảo tưởng của tín
điều Ki-tô và lới dạy lưu manh của Vatican, đều thường trực bị phỉnh
gạt và lừa bịp, đều sống theo quy luật ngược ngạo của nền văn hóa
Ca-tô. Chính vì tình trạng này mà họ trở thành những con người xấc xược,
ngược ngạo và những tên đại bịp giống như đạo Ki-tô La Mã mà người
trong chăn Ki-tô là học giả Charlie Nguyễn gọi là “đạo bịp”.
Nói cho gọn, tất cả
những hành động xấc xược, ngược ngạo và tài nghệ lừa bịp của các ông
người Việt Quốc Gia ở trong nước cũng như ở hải ngoại chằng qua chỉ là
sản phẩm do Giáo Hội La Mã sản xuất ra. Nếu Hồng Y Silvio Oddi đã nói
rằng “Vatican đã biến hành cái xưởng chế tạo thánh” (The Vatican
has become a saint factory.)[69], thì chúng ta cũng có thể nói
rằng, “Giáo Hội La Mã đã sản xuất những tên Việt gian đại bịp và được
Giáo Hội khoác cho chúng cái danh xưng tốt đẹp là “người Việt Quốc Gia”
để lừa gạt người đời và hậu thế và cũng là để cho chúng dùng làm bức
bình phong che giấu cái bản chất vong bản và tội ác phản quốc “cõng
con rắn độc Vatican, rắn Pháp và rắn Mỹ” về cắn gà nhà Việt Nam.
CHÚ THÍCH
[38]
Charlie
Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA:
Giao Điểm, 2001), tr. 297-299.
[39]
Charlie
Nguyễn, Sđd., tr. 76-77.
[40]
Trần Chung
Ngọc. “Những Thắc Mắc Cần Được Giải Đáp.” Sachhiem.net. Ngày
8/5/2008.
[41]
Charlie
Nguyễn, Sđd., tr. 272-273.
[42]
Joseph
Buttinger, Vietnam A political History (New York: Frederick A.
Praeger, 1968), p. 289.
[43]Alfred W.
McCoy, The Politics of Heroin in Southeast Asia (New York:
Harper & Row Publisher, 1972), pp. 159.
[44]
Chính Đạo, Cuộc Thánh Chiến
Chống Cộng (Houston, TX: Văn Hóa, 2004), tr 11.
[45] Đỗ Thọ, Nhật Ký Đỗ Thọ (Sàigon: Nhật Báo Hòa Bình xuất bản, 1970,
trang 67.
[46] Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi
(Westminster: Văn Nghệ, 1993),. Sđd., tr. 843-44.
[47]
Lê Hữu Dản, Sự Thật – Đặc San
Xuân Đinh Hợi 1997 (Fremont, CA: TXB, 1997), tr.24.
[48]
Hoàng Ngọc
Thành & Thân Thị Nhân Những Ngày Cuối Cùng Của Tổng Thống
Ngô Đình Diệm (San Jose, CA: Quang Vinh & Kim Loan & Quang
Hiếu, 1999) tr. 282.
[49]
Bernard F.
Fall, The Two Vietnams (New York: Frederick A. Praeger,
1964), p. 236.
[50]
John
Newsman (Trần Ngọc Dung dịch), John F. Kennedy và Chiến Tranh
Việt Nam (San Jose, CA: Nhà Xuất Bản Thế Giới, 1993), tr.
327-329.
[51]
Đỗ Mậu,
Sđd., tr. 591.
[52] Lê Hữu
Dản, Sđd., tr. 327.
[53] Bradley S. O’ Leary & Edward
Lee,Sđd., tr 44-46.
[54]
Bradley S. O’
Leary & Edward Lee, Sđd., tr.60.
[55]
Bradley S.
O’ Leary & Edward Lee, xem các trang 404,306-307, 312 và 319.
[56]
Alfred W.
McCoy, Ibid., pp. 159-165.
[57]
Alfred W.
McCoy, Ibid., pp. 166-210.
[58]
Hoàng Trọng
Miên, Đệ Nhất Phu Nhân – Tập 1 (Los Alamatos, CA: Nhà
Xuất Bản Việt Nam, 1989), tr. 428.
[59]
Nguyễn Mạnh Quang, Nói Chuyện
Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX: Đa
Nguyên, 2004), tr. 124-131.
[60]
Nguyễn Văn Tuấn, Chất Độc
Màu Da Cam & Cuộc Chiến Việt Nam (Ga rden Grove, CA: Giao
Điểm, 2005) tr 171.
[61]Nigel Cawthorne,
Tyrants History’ 100 Most
Evil Despots & Dictators (London: Arcturus, 2004), pp.
167-168.
[62] Trần Quý,
Lòng Tin Âu Mỹ Đấy! (Wesminster, CA: Đồng Thanh & Văn
Nghệ, 1996), tr. 133.
[63] Nguyễn
Thanh Sơn, Tận Thế Số Ra Mắt 15/6/2002 (Fountain Valley,
CA, TXB, 2002), tr 31.
[64] Nguyễn
Thanh Sơn, Tận Thế Số 2 15/7/2002 (Fountain Valley, CA,
TXB, 2002), tr 31.
[65]
Li, Dun J., The Ageless
Chinese A History (New York: Charles Scribers’ s Sons, 1978),
pp. 384.
[66] Hoàng Trọng
Miên, Đệ Nhất Phu Nhân – Tập I (Los Alamitos, CA: Nhà
Xuất Bản Việt Nam, 1989), tr. 428.
[67] Avro
Manhattan, Vietnam: Why Di We Go? (Chino, CA: Chick
Publications, 1984), p. 117.
[68] Lê Xuân
Khoa, Việt Nam 1945-1995 (Bethesda, MD: Tiên Rồng, 2004),
tr.432.
[69] Trần Chung Ngọc,
Công Giáo Chính Sử (Garden Grove, CA: Giao Điểm,
1999), tr. 268.