Chân Dung "Người Việt Quốc Gia"
Và Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ
Nguyễn Mạnh Quang
http://sachhiem.net/NMQ/ChanDungVNCH/QMN06.php
bản in
mục lục |
08 tháng 6, 2008 - bổ túc 11 Jun 2015
Toàn tập: Dàn bài
Chương 6: 1 2
CHƯƠNG 6
THỰC CHẤT
CỦA MỘT SỐ CHÍNH ĐẢNG CHỐNG PHÁP
TRONG NHỮNG NĂM 1930-1946
(Việt Quốc và Việt Cách)
Việt Cách là hai tiếng gọi tắt của
Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội và Việt Quốc là hai tiếng gọi tắt
của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Cần phân biệt Việt Quốc của nhà ái quốc Nguyễn Thái
Học là một đảng cách mạng thành lập năm 1927 có hạ tầng cơ sở ở trong nước.
Đảng Việt Quốc này hoàn toàn
trông cậy vào khả năng của đảng và sự ủng hộ của nhân dân để đánh
đổ chính quyền Bảo Hộ rồi thiết lập một chế độ dân chủ theo thuyết
Tam Dân Chủ Nghỉa của nhà cách mạng Trung Hoa Tôn Trung Sơn.
Trong bài viết này, từ "Việt Quốc" chỉ nói đến đảng
Việt Quốc của ông Vũ Hồng Khanh. Tuy là hậu duệ của đảng Việt Quốc trên đây, nhưng đã biến chất thành một chính đảng xôi
thịt. Đảng này gồm những cán bộ cao cấp và đảng viên vừa là những chính khách
salon (phong trà) vừa là những thành phần tiểu tư sản với tất cả
những đặc tính tiểu tư sản. Việt Cách và Việt Quốc (của ông Vũ Hồng
Khanh) đều cùng có chủ trương hoàn toàn trông cậy vào sức mạnh của
Quốc Quân Trung Hoa để lật đổ chính quyền Kháng Chiến Việt Minh rồi
nhẩy lên bàn độc để thỏa mãn tham vọng cá nhân về quyền lực.
Nói đến hai đảng Việt Quốc và Việt Cách, thiết
tưởng cần phải nói đến những đặc tính chung của hai chính đảng này
vì rằng chính những đặc tính chung này đã không những làm cho hai
chính đảng này xa rời quần chúng, không thể tiếp cận được với đại
khối nhân dân bị trị, bị áp bức và bị bóc lột nhiều nhất, mà còn
không nhận diện được Vatican là thế lực ngoại thù thâm độc nhất và
nguy hiểm nhất trong các thế lực ngoại thù Vatican, Pháp, Nhật và
Trung Hoa vào thời điểm lúc bấy giờ (1945-1946). Vì tình trạng kém cỏi về chính trị như vậy, cho nên hai chính đảng này mới tích cực và
hăng say ủng hộ đề nghị của Vatican đưa Bảo Đại trở lại ngai vàng
lập chính quyền để chống lại chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
dưới quyền lãnh đạo của Mặt Trận Việt Minh và nhà ái quốc Hồ Chí
Minh.
Về thực chất và mục đích, chúng ta thấy rằng
có sự gần giống nhau giữa một bên là Việt Nam Quang Phục hay Đại
Việt Phục Hưng và một bên là Việt Cách và Việt Quốc. Cả Việt Nam
Phục Quốc cũng như Việt Cách và Việt Quốc đều có bàn tay của Giáo
Hội La Mã ở hậu trường qua vai trò của ông Hoàng Thân Cường Để hay vai
trò của ông Bảo Đại. Nếu Việt Nam Quang Phục không có thực lực và
phải hoàn toàn trông cậy vào sức mạnh quân sự của người Nhật để lật
đổ người Pháp với hy vọng Nhật sẽ đưa ông Hoàng Thân Cường Để lên làm vua
và chính đảng này sẽ được đưa lên thao túng triều đình Huế làm tay
sai cho người Nhật, thì Việt Cách và Việt Quốc cũng không có thực
lực và phải hoàn toàn trông cậy vào sức mạnh quân sự của Quốc Quân
Trung Hoa để lật đô chính quyền Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của cụ
Hồ Chí Minh (vừa mới giành lại được chủ quyền độc lập từ trong tay
người Nhật) với hy vọng Quốc Quân Trung Hoa sẽ phục hồi vương quyền
cho ông Bảo Đại và hai chính đảng này sẽ được thao túng chính quyền
làm tay sai cho các đạo quân Tàu thổ phỉ này.
Như vậy là Việt Nam Phục Quốc thì mưu đồ làm
cái trò “đuổi cọp cửa trước, rước beo vào cửa sau”. Vấn đề này đã
được trình bày khá đầy đủ ở Chương 5 ở trên. Còn Việt Cách và Việt
Quốc thì mưu đồ làm cái chuyên “cõng rắn về cắn gà nhà” giống như Lê
Chiêu Thống, Gia Long và Ngô Đình Diệm. Lịch sử đã cho thấy rằng cả
Việt Cách và Việt Quốc đều đi theo và dựa vào sức mạnh quân sự của
Quốc Quân Trung Hoa để đánh cướp chính quyền của nhân dân ta vứa mới
giành lại được từ trong tay quân Nhật xâm lăng, và sau đó, cả hai
chính đảng này lại liên kết với liên quân lăng Pháp - Vatican chống
lại chính quyền Kháng Chiến (1945-1954) của nhân dân ta dưới quyền
lãnh đạo của Mặt Trận Việt Minh. Phần trình bày trong chương sách
này sẽ làm sáng tỏ vấn đề này.
NHỮNG ĐẶC TÍNH CHUNG
Hầu hết các thành phần lãnh đạo và đảng viên
của hai đảng Việt Quốc và Việt Cách đều xuất thân từ giai cấp tư sản
giầu có hay phong lưu khá giả. Họ thiếu hẳn kiến thức của những
người lãnh đạo các đảng phái cách mạng có thực lòng quyết tâm dấn
thân vào đại cuộc cứu nước. Họ là những người tiểu tư sản với tất cả
những đặc tính tiểu tư sản như lè phè, khệnh khạng, quan liêu, phong
kiến, lãng mạn, ưa thích làm dáng hay trưởng giả học làm sang
(snobbish), ngại khó, sợ khổ, không quen với cuộc sống thiếu thốn về
vật chất, không có khả năng chịu đựng khó khăn cực nhọc để sống đời
lăn lộn vào tù ra khám của những người yêu nước liều thân chiến đấu
cho quyền lợi tối thượng của dân tộc.
Vì lè phè, khệnh khạng, quan liêu và phong
kiến, cho nên họ không có đủ khả năng kiên nhẫn và chịu khó tìm đọc
sách sử và tài liệu về cách mạng để trau dồi kiến thức cần thiết cho
cuộc đời làm chính trị và cách mạng. Tình trạng này khiến cho họ rơi
vào thảm trạng dở khóc dở cười: nhân danh là những người làm chính
trị và cách mạng, nhưng lại rất dốt về chính trị, và cũng không biết một chút gì về kỹ
thuật làm cách mạng.
Vì không có kiến thức cách mạng, cho nên họ không nghĩ đến việc tổ chức
hạ tầng cơ sở làm lực lượng xung kích chuẩn bị cho thời điểm chuyển
sang giai đoạn vũ trang tranh đấu để chiếm chính quyền từ trong tay
quân cướp ngoại thù. Chíinh vì vậy mà khi có cơ hội được giúp đỡ để
làm nên đại cuộc, nhưng vì không có khả năng và cũng không có hạ
tầng cơ sở, họ đành phải buông xuôi để cho Đảng Cộng Sản và Việt
Minh chớp lấy. Sự kiện này được cụ Ngô Văn ghi lại trong cuốn Việt
Nam 1920-1945 với nguyên văn như sau:
“Trong khi đó, tháng 10 năm 1942,
họ Trương [Trương Phát Khuê, một lãnh chúa trong chính quyền Tưởng
Giới Thạch ở vùng biện giới Hoa Việt - NMQ] tái lập những người lãnh
đạo các nhóm tổ chức người Việt thường xuyên đối nghịch nhau như
Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Phục Quốc, Việt Minh và bẩy
nhóm nhỏ nữa. Trương Phát Khuê áp đặt các nhóm này phải kết hợp lại
dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Hải Thần nếu như họ muốn được giúp đỡ.
Chính lúc đó, các đảng phái cách mạng liên minh thành Việt Nam Cách
Mạng Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Cách. Không có một đại
biểu nào của Việt Minh được bầu vào ban chấp hành.
Họ Trương hứa cùng Nguyễn Hải Thần sẽ
xuất cho mỗi tháng 100.000 (100 ngàn) đồng tiền Trung Quốc để tổ
chức ở Bắc Kỳ hoạt động phá hoại và tình báo chống quân Nhật.
Các đảng phái thành phần Việt Cách lưu
trú ở Trung Quốc không có liên hệ gì mấy ở trong nước. Chỉ có một
mình Việt Minh là hiện diện xuyên qua các “tổ cứu quốc” và du kích
quân đóng căn cứ ở giữa những vùng dân tộc thiểu số chống đối chính
quyền: Thổ, Mán, Mèo, Tầy, Nùng, ẩn lánh trong các dẫy núi đá vôi,
nơi khu rừng sâu khắp hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn.
Cần nhắc lại hồi tháng 9 năm 1940, quân
Nhật tấn công Lạng Sơn, Pháp quân thất thủ, hàng trăm nghĩa quân bản
địa xung phong đồn bốt, lính cảnh vệ người Việt (theo Pháp) bỏ chạy,
họ chiếm đoạt vũ khí. Cuộc nổi loạn tràn lan đến đỗi quân đội Pháp
phải càn quét ba tháng trời mới tái chiếm xong các vùng ấy. Đảng
viên Phục Quốc mất người chỉ huy – Trần Trung Lập – tẩu tán sang
Tàu, trong khi một thanh niên người Thổ là Chu Văn Tấn còn sống sót,
phát động và lãnh đạo khởi nghĩa ở Bắc Sơn (Cao Bằng). Từ đó, Chu
Văn Tấn cùng phe đảng họ Chu đều nhập vào hàng ngũ Việt Minh. Những
cán bộ Việt Minh xuất thân từ những trường quân sự Quốc Dân Đảng ở
Quảng Tây chỉ huy họ thành lập phần lớn các đơn vị du kích quân và
các đội tự vệ trong vùng.
Như vậy, chỉ có Việt Minh là có khả năng
cung cấp tin tức tình báo đáng tin cậy cho Trương Phát Khuê. Trên
danh nghĩa đó, Hồ Chí Minh, mặc dù vẫn còn bị giam giữ, vẫn có thể
liên lạc được với các đồng chí còn tự do, và thậm chí còn tham gia
vào một cuộc đại hội mới của Việt Cách do Trương Phát Khuê triệu tập
ở Liễu Châu vào tháng 3 năm 1944. Tại hội nghị, ông Hồ cùng Phạm Văn
Đồng đại diện Việt Minh. Một lãnh tụ Đại Việt là Nguyễn Tường Tam
đang bị giam cũng được tham dự.
Tại đại hội, Viêt Minh bị chỉ trích gay
gắt vì hành động riêng rẽ và đầu óc tranh thắng, song Liên Minh để
giải phóng Việt Nam vẫn sống còn. Trương Phát Khuê đỡ đầu liên minh
thành lập một chính phủ Cộng Hòa Việt Nam lâm thời gồm các ông
Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Hồ Chí Minh, Bồ Xuân Luật… cùng lão
Trương Bội Công chủ tịch.
Hồ Chí Minh được tha vào ngày
9/8/1944, bèn đề nghị cùng Trương Phát Khuê cấp cho (để xây dựng
hai cơ sở du kích dọc theo biên giới), một ngàn khẩu súng và 25.000
đồng bạc Đông Dương để chu cấp trong hai tháng đầu, và cấp riêng cho
ông một giấy thông hành thường kỳ có ghi danh nghĩa là đại biểu Việt
Cách có nhiệm vụ ở Việt Nam, và một khẩu súng lục tự vệ. Ông được
cấp giấy thông hành và 76.000$. Ngày 20/9/ (1944), ông rời
Liêu Châu cùng 18 cán bộ Việt Minh về biên giới Bắc Kỳ.
Trong bức “Thư gửi đồng bào” (tháng 10
năm 1944), Hồ Chí Minh bày tỏ lòng tin tưởng “Trung Quốc sẽ tích
cực giúp đỡ cuộc giải phóng dân tộc chúng ta.”
Vào tháng 11, quân du kích
Việt Minh tấn công các đồn bót do quân cảnh vệ bản địa đóng tại
biên giới để cướp vũ khí. Chính phủ Decoux ra lệnh đánh trả đũa trấn
áp thường dân bản địa, tố cáo họ là đồng lõa. Bọn chỉ huy Pháp xua
các đội cảnh vệ bản địa và các liên đội lính chiến Bắc Kỳ triệt hạ
các vùng, đốt làng, phá hủy kho thóc, bắn vào những người tình nghi.
Chắc chắn trong lúc những cuộc trả thù vô cùng tàn bạo do các đội
quân phe Vichy (quân Pháp – NMQ) thực hiện ở Bắc Kỳ (Sainteny) đến
điểm cực kỳ dã man cùng những vụ xử án vội vã tiếp đó đã khích cảm
J. M Pêdrazani kể lại: “Chỉ trong hai tuần lễ, các toà án đặc biệt
của Decoux) kết án tử hình hàng trăm người bị tình nghi.”Cuộc
đàn áp không dập tắt được ngọn lửa nổi loạn bùng cháy đỏ trời Thượng
Du Bắc Việt.”[1]
Bản văn sử trên đây cho chúng ta thấy rằng,
ngoài Việt Minh ra, các đảng phái cách mạng chính trị khác chỉ là
“những tổ chức hữu danh vô thực” và các thành phần trong các tổ chức
này chỉ là những “nhà chính khách sa lông”, giống như các ông “chính
trị gia trong bàn nhậu” trong các tổ chức và hội đoàn của người Việt
ở hải ngoại ngày nay.
Có câu nói, “chính trị mà không có quân sự
là chính trị què và quân sự mà không có chính trị là quân sự mù.”
Các chính đảng Việt Nam Phục Quốc (của hai ông Cường Để và Ngô
Đình Diệm), Việt Cách và Việt Quốc đều là những chính đảng không có
một tổ chức quân sự nào cả và cũng không có khả năng kiến thức về
chính trị. Về quân sự, Việt Nam Quang Phục hoàn toàn trông cậy vào
Nhật Bản, Việt Cách và Việt Quốc hoàn toàn trông cậy vào Quốc Quân
Trung Hoa. Về chính trị, Việt Nam Phục Quốc hoàn toàn trông cây vào
sự sắp xếp của người Nhật, còn Việt Cách và Việt Quốc thì hoàn toàn
trông cậy vào sự sắp xếp của Quốc Quân Trung Hoa. Rõ ràng là cả ba
chính đảng này vừa mù (về chính trị), vừa què (về quân sự). Với
tình trạng như vậy, các chính đảng này chỉ là những đảng xôi thịt,
chỉ có mục đích duy nhất là trông nhờ vào thế lực ngoại bang để xin
xỏ làm đầy tớ cho họ, giống như Lê Chiêu Thống vào cuối năm 1788 và
đầu năm 1789, và Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam trong những năm
1954-1975.
Do sự thiếu kiến thức về chính trị, cho nên họ mới hoàn
toàn trông cậy vào Quốc Quân Trung Hoa để đánh bại Việt Minh với hy
vọng sẽ được chúng đưa lên cầm quyền (thay vì đánh quân thù xâm lược
để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc). Hậu quả là họ mang cái
họa do những việc làm thổ phỉ của 180 ngàn Quốc Quân Trung Hoa.
180 ngàn Quốc Quân Trung Hoa là những quân thổ phỉ ăn cướp tàn phá
Việt Nam. Ấy thế mà Việt Quốc và Việt Cách lại từ bên Tầu về cùng
với những đạo quân ăn cướp này để đánh cướp chính quyền Việt Nam
tại các địa phương trên đường từ Lạng Sơn và Lào Cai về tới Hà Nội,
rồi lại dựa vào những đạo quân ăn cướp này để củng cố quyền lực và
để tồn tại.
Với thực trạng như vậy, làm sao Việt Quốc và
Việt Cách lại không mang tiếng là “cõng rắn cắn gà nhà” và là những
quân ăn cướp?
Ấy là chưa nói đến chuyện giả thử Quốc Quân
Trung Hoa ở lại Việt Nam và đưa họ lên thành lập chính quyền. Nếu
giả thử này xẩy ra thì dân ta sẽ khốn khổ đến như thế nào?
Vì không chịu tìm đọc sách sử, cho nên họ chỉ
có một chút học vấn và kiến thức chuyên môn của một chuyên viên
trong một ngành nào đó mà họ đã tiếp nhận được từ các trường tiểu và
trung học hoặc có thêm một vài năm đại học bậc sơ đẳng
(undergraduate) ở Việt Nam hay ở Pháp. Vì thế, họ mù tịt, hầu như
không biết gì về toàn bộ lịch sử thế giới và cũng không biết gì về
toàn bộ những bài học quốc sử trong thời cận và hiện đại.
Vì không rõ lịch sử, họ không biết gì về
những bước đường tranh đấu của nhân loại trong việc khắc phục
thiên nhiên và chống lại những thế lực phong kiến phản động để mở
mang kiến thức, phát huy văn hóa giúp cho loài người ngày càng tiến
bộ và văn minh như thời hiện đại. Vì thế mà họ không biết gì về
những cuộc tranh đấu nối tiếp nhau liên tục của các phong trào và
thời đại như Phong Trào Phục Hưng (Renaissance – 1300-1650), Phong
Trào Nhân Bản (Humanism, cùng thời với Phong Trào Phục Hưng), Phong
Trào Đòi Cải Cách Tôn Giáo (The Reformation -1309 -1648), Thời Đại
Khoa Học và Lý Trí (Science and the Age of Reason – 1500-1789, cũng
là Thời Đại Khai Sáng “The Age of Enlightenment), Thời Đại Cách Mạng
Dân Chủ (The Age of Democratic Revolution 1603-1815). Sự không biết
này đưa đến hậu quả tai hại là họ không biết rằng chế độ quân chủ
trung ương tập quyền đã bị nhân loại đào sâu chôn chặt từ cuối thế
kỷ 18. Vì dốt nát như vậy, họ mới chủ trương bơi ngược dòng lịch
sử, a tòng với Giáo Hội La Mã đưa ông Bảo Đại trở lại ngai vàng,
mưu đồ cưỡng bách dân ta sống lại cái kiếp tôi đòi một cổ ba tròng:
(1) tròng Đế Quốc Thực Dân xâm Lược Pháp, (2) tròng
Giáo Hội La Mã mà người Âu Chậu gọi là “Catholic loop”, văn
hào Voltaire gọi là “cái tôn giáo ác ôn”, và học giả Henri
Guillemin gọi là “cái Giáo Hội Khốn Nạn”, và (3) cái
tròng quân chủ chuyên chính phong kiến.
Cũng vì dốt nát về lịch sử, không có khả năng
nhạy bén về chính trị, hoặc là thiếu thông minh, họ không thể nhìn
ra được dã tâm thâm độc của Giáo Hội La Mã trong đề nghị đưa Bảo
Đại lên nắm chính quyền mà các nhà viết sử gọi là Giải Pháp Bảo Đại.
Cũng vì thế mà ngay sau khi Tòa Thánh Vatican vừa mới công bố đề
nghị đưa Bảo Đại trở lại ngai vàng vào ngày 28/12/1945 để chuẩn bị
cho chú bé Ca-tô Bảo Long nối ngôi và bà Nam Phương nắm vai trò
nhiếp chính (như đã nói ở Chương 2 và Chương 5 ở trên), thì các nhà
lãnh đạo của cả Việt Cách và Việt Quốc đã vội vàng vồ vập, hân hoan
tán thành và tích cực tổ chức biểu tình tôn phò Bảo Đại như sách sử
đã ghi nhận:
"Nhóm Quốc Dân Đảng (của Vũ Hồng Khanh,
Nghiêm Kế Tổ, Nguyễn Tường Tam, v.v...) đòi thành lập ngay một Chính
Phủ Liên Hiệp Kháng Chiến với Vĩnh Thụy làm chủ tịch. Nhiều cuộc
biểu tình được tổ chức trước nhà Vĩnh Thụy ở Đường Gambetta cũ,
hoan hô cố vấn và đòi ông ra cầm quyền." [2]
Vì không thấu lịch sử thế giới và quốc sử
trong thời cận và hiện đại, cho nên ông Việt Quốc Nghiêm Kế Tổ mới
viết những lời lên án chính quyền Việt Minh Kháng Chiến về việc dùng
biện pháp mạnh đối phó với Giáo Hội La Mã bằng đoạn văn vừa dốt đặc
cán mai táu về lịch sử, vừa phản tiến hóa với nguyên văn như sau:
“Đối với Giáo Hội Gia-tô, lực lượng mạnh mẽ có tổ chức chặt
chẽ, Việt Minh cũng không tha. Khẩu hiệu thì Lương giáo đoàn kết,
nhưng được thực hiện bằng cấm mở trường thần học của Giáo Hội, bằng
đổ lỗi cho các cha cố đã làm gián điệp cho ngoại bang, ép họ vào tội
tàng trữ khi bất hợp pháp...."
[3]
Rõ ràng là vì dốt nát về lịch sử thế giới và thiếu kiến thức
chính trị, cho nên cả hai đảng Việt Quốc và Việt Cách đều không biết
rằng Vatican và Pháp là hai thế lực cấu kết với nhau trong việc tái
chiếm Đông Dương, nghĩa là cả hai thế lực này đều là kẻ thù chung
của dân tộc Việt Nam. Vì không biết như vậy, cho nên hai đảng chính
trị này mới hăng say ủng hộ và tích cực cổ võ cho Giải Pháp Bảo Đại
do Vatican chủ trương với dã tâm dùng người Việt đánh người Việt và
dùng tín đồ Ca-tô để cai trị đại khối nhân dân thuộc tam giáo cổ
truyền. Vấn đề này đã được trình bày đầy đủ nơi Chương 2 ở trên.
Vì bị điều kiện hóa chỉ biết nghe theo lệnh truyền của Vatican,
tín đồ Ca-tô người Việt đều là những người dốt nát không biết gì về
lịch sử thế giới và càng không biết gì về quốc sử. Vì thế, họ không
biết gì trào lưu tiến hóa của nhân loại, không biết gì về tình trạng
bất xứng của triều Đình Huế từ khi ký các Hiệp Định Nhâm Tuất 1862,
Giáp Tuất 1874, Qúi Mùi 1883 và Giáp Thân 1884, và cũng không biết
gì về con người ông vua gỗ Bảo Đại. Với tình trạng dốt nát như vậy,
họ hăng say ủng hộ và tích cực cổ võ cho Giải Pháp Bảo Đại, thì
không nói làm chi. Nhưng đây là những nhà cách mạng, những chính trị
gia lãnh đạo các chính đảng như Việt Quốc, Việt Cách, thường lớn
tiếng cao rao là tranh đấu để đòi lại chủ quyền độc lập cho dân tộc
từ trong tay Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican mà lại hành động như
vậy, thì quả thật họ cũng dốt nát giống y như "đàn cừu", "đàn chiên"
làm tôi tớ hèn mọn cho Tòa Thánh Vatican. Dốt nát như vậy và hành
động phản tiến hóa (mưu đồ đưa Bảo Đại lên cầm quyền phục hồi chế độ
quân chủ trung ương tập quyền) như vậy mà lại là những nhân vật lãnh
đạo của Việt Cách và Việt Quốc thì quả thật họ đã làm trò hề cho
thiên hạ và hậu thế chê cười.
Những hành động a tòng với Tòa Thánh Vatican và
bênh vực Giáo Hội La Mã như trên của hai đảng Việt Quốc và Việt Cách
khiến cho những người hiểu biết lịch sử không thể không đặt ra vấn
đề:
1.- Hoặc là họ quá ngây thơ về cả chính trị lẫn
cách mạng, và đã trờ thành con cờ cho Vatican sử dụng giống y như
trường hợp các ông sư và tín đồ Phật Giáo ở trong nước cũng như ở
hải ngoại tham gia vào cái gọi là Liên Tôn chống Cộng hay "Khối
8406 Tuyên Ngôn Tự Do Dân Chủ Cho Việt Nam" (Bloc 8406 of
"Manifesto on Freedom and Democracy for Vietnam 2006) của các
Linh-mục Phan Văn Lợi và Nguyễn Văn Lý khởi lập vào ngày 8/4/2006.
2.- Hoặc là họ thực sự là con cờ của Giáo Hội
La Mã, giống như Đức Quốc Xã đã dùng Thống Chế Henri Philippe Pétain
(1856-1951) và chính quyền Vichy (22/6/1940 -1944) để chống lại phe
kháng chiến Pháp tại Pháp và người Nhật dùng Uông Tinh Vệ và chính
quyền Nam Kinh để chống lại các thế lực kháng chiến của người Trung
Hoa dưới quyền lãnh đao của hai ông Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch
Đông trong thời Đệ Nhị Thế Chiến.
Vì không thấu hiểu lịch sử thế giới và
cũng không thấu hiểu lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại,
cho nên cả hai chính đảng này mới không biết rằng Giáo Hội La Mã mà
Vatican là cơ quan đầu não của Giáo Hội La Mã và là thế lực siêu
phản động, siêu phong kiến đã làm chậm bước tiến của nhân loại tới
hơn một ngàn năm. Vì thực chất của Giáo Hội La Mã là như vậy, cho
nên: các bậc trí giả và vĩ nhân trên thế giới đều chỉ trích và lên
án Giáo Hội La Mã bằng những lời lẽ hết sức nặng nề, nhân dân các
quốc gia nạn nhân của Giáo Hội phải vùng lên làm cách mạng chống lại
Giáo Hội, và các chính quyền Cách Mạng Pháp 1789, Cách Mạng Mexico
1857, Cách Mạng Ý 1870, Cách Mạng Nga 1917, Cách Mạng Tây Ban Nha
1936, Cách Mạng Trung Quốc 1949, Cách Mạng Cuba 1959, Cách Mạng
Nicaragua 1979 đã phải dùng những biện pháp mạnh, mạnh hơn chính
quyền Cách Mạng Việt Minh 1945, để đối phó vơi Giáo Hội La Mã.
A.- Các bậc trí giả và vĩ nhân trên thế giới
chỉ trích và lên án Giáo Hội La Mã bằng những lời lẽ hết sức nặng nề.-
Giáo Hội La Mã mà cơ quan đầu não là Vatican chủ trương theo đuổi
tham vọng bá quyền mưu đồ thống trị toàn cầu và nô lệ hóa nhân loại
bằng bạo lực cùng với chính sách bất khoan dung cực kỳ dã man đối
với bằng các nhóm dân thuộc các tôn giáo và văn hóa khác. Tham vọng
ngược ngạo và chính sách dã man này của Vatican đã làmn cho các bậc
trí giả và vĩ nhân ở khắp mọi nơi trên thế giới chỉ trích và lên án
Giáo Hội bằng những lời lẽ cực kỳ hay gắt và hết sức năng nề. Xin
ghi lại đây một số các danh nhân và vĩ nhân đã cực lực lên án Giáo
Hội:
1.- Văn hào Voltaire gọi đạo Thiên Chúa La Mã
là “cái tôn giáo ác ôn”[4], “Ki-tô giáo
là tôn giáo lố bịch nhất, vố lý nhất và đẫm máu nhất làm nhiễm độc
thế giới.” (Christianity is the most ridiculous, the most absurd
and bloody religion that has ever infected the world.)[5]
2.- Học giả Henri Guillemin gọi Giáo Hội La Mã
là “Cái Giáo Hội Khốn Nạn” (Malheureuse Église).[6]
3.- Đại tư tưởng gia Baron de Montesquieu, một
thành viên Hàn Lâm Viện Pháp, nói rằng, “Không có vương quốc nào
phải chịu đựng nhiều nội chiến như là vương quốc của Chúa Ki-tô.”
(No kingdom has ever suffered as many civil wars as the kingdom of
Christ).[7]
4.- Hoàng Đế Pháp Napoléon Bonaparte nói, “Hiệp
Hội Giê-su là hội nguy hiểm nhất và đã gây nên nhiều tổn hại hơn tất
cả những hội tôon giáo khác.“ (The Society of Jesus is the most
dangerous of orders, and has done more mischief than alll the
others). “Ở mọi nơi và mọi thời, linh mục đã đưa vào sự gian dối
và sai lầm.” (Priests have everywhen and everywhere introduced
fraud and falsehood.”[8]
5.- Tổng Thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson nói, “Trong
mọi quốc gia, trong mọi thời đại, linh mục đều là kẻ thù của tự do.”
In every country and in every age, the priest has been hostile to
liberty.”[9]
6.- Nhà cách mạng Ý Giuseppe Garibaldi
(1807-1882) nói: ”Vatican là con dao găm đâm vào nước Ý.”
(The Vatican is a dagger in the heart of Italy), “Linh-mục là
hiện thân của sự sai lầm.” (The priest is the personification of
falsehood.) “Giáo Hội Ca-tô là nàng hầu của sự chuyên chế và là
kẻ thù trung kiên của tự do.” (The Catholic Church is the
handmaid of tyranny and the steady of liberty.)[10]
7.- Người dân Pháp gọi bọn tu sĩ Ca-tô là “lũ
quạ đen” (le corbeaux noirs), và nhà báo Jacques René Hebert (Nov.
15, 1757- March 24, 1794) tuyên bố:
"Các bạn người Pháp, các bạn hãy nói cho tôi
nghe xem có được không? Nếu cái người mà các bạn gọi là Đức Thánh
Cha cướng quyết chống lại luật pháp của các bạn, các bạn có ngu xuẩn
và hèn hạ đến độ phải từ bỏ luật pháp của các bạn. Các bạn hy vọng
gì ở một ông Giáo Hoàng. Đ.M Giáo Hoàng, hãy tin ở tôi đi, bây giờ
là đến lượt các bạn; cả trong mười thế kỷ qua, Giáo Hoàng đã áp bức
các bạn quá nhiều rồi." Nguyên văn: “Tell me, Frenchmen,
is it possible? if that man you call the Holly Father takes it into
his head to oppose your laws, do you dare, are you stupid and base
enough, to give them up? What do you expect from a Pope? Screw the
Pope, believe me; it is your turn at last; for ten centuries the
Pope has screwed you."[11].
8.- Nhân dân Âu Châu ghê tởm Giáo Hội La Mã đến
cùng độ của ghê tởm và lánh xa Giáo Hội như lánh hủi:
“Giáo Hội Công Giáo Rôma La-tinh trong thời
cực thịnh kinh bang tế thế, đội vương miện cho các hoàng đế, tung
hoành dọc ngang, làm mưa làm gió, thâu tóm cả thiên hạ trong tay,
tiền rừng bạc biển, đã không biết tự chế, không học bài học khiêm hạ
rửa chân, tự cao tự đại, coi bàn dân thiên hạ như cỏ rác… hôm nay
hối bất cập, lịch sử còn nằm trơ ra đó. Người Âu Châu khiếp sợ Giáo
Hội tránh xa như tránh hủi! Người Á Châu có thành kiến ghép Giáo Hội
vào ông Tây thực dân và chống thực dân! Người Mỹ Châu La-tinh đồng
hóa Giáo Hội vào đại họa diệt chủng! Và người Trung Đông làm sao
quên được 250 thánh chiến tàn bạo hãi hùng! v.v…Trọng tội của Giáo
Hội là Giáo Hội không phải là nguồn lộc bình an dưới thế! Ngược lại,
và riêng tại Việt Nam, Giáo Hội chống phá đạo hiếu, phế bỏ bàn thờ
tổ tiên, chà đạp văn hiến dân tộc Đại Việt, gọi các tôn giáo bản địa
là thờ Bụt Thần Ma Quỷ… Giáo Hội chia hai dân tộc Việt Nam thành dân
có đạo là dân riêng của Giáo Hội, và dân vô đạo là dân ngoại theo tà
thần, tạo dựng thành kiến kỳ thị rất sâu đậm và thô bạo. Đức Hồng Y
Phạm Đình Tụng xác minh trọng tội này của Giáo Hội trong bài tham
luận đọc tại Roma năm 1988, có Đức Giáo Hoàng đương kim ngồi dự
thính.”[12]
9.- Nhà báo Long Ân kể tội và lên án “cái
tôn giáo ác ôn” này như sau::
"Con người đã nhân danh tôn giáo để làm
những chuyện điên cuồng nhất, con người đã nhân danh tôn giáo đê
biện minh cho quyền lực phi nhân áp đặt lên đầu kẻ khác. Con người
đã phản lại tôn giáo, đã chặt đức cây cầu đưa đến tìm kiếm chính
mình, đã cúi đầu đi trên bốn chân để từ con người trở về nguồn gốc
của con người súc sinh."[13]
Còn nhiều nữa và nhiều lắm. Xin xem Mục XXV,
Phần VII, bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã đã và
đang được phổ biến trên trang nhà giaodiemonline.com và sachhiem.
B.- Nhân dân các quốc gia nạn nhân của Giáo
Hội phải vùng lên làm cách mạng chống lại Giáo Hội.- Nhân dân
các quốc gia nạn nhân của Giáo Hội vùng lên làm cách mạng chống lại
Giáo Hội là nhưng biến cố trọng đại trong lịch sử thế giới. Những
cuộc cách mạng đánh dấu những khúc quanh quan trong lịch sử về tiến
trình tư tưởng của loài nguời trong lãnh vực tâm linh cũng như
trong lãnh vực thể chế chính trị. Khúc quanh lịch sử này là sự xuất
hiện những tư tưởng cách mạng với một niềm tin mới thay thế cho đức
tin dựa vào hệ thống thần học Ki-tô cùng với sự xuất hiện một cơ
chế mới về chính quyền cách mạng nặng tính cách dân chủ với chủ
trương phục vụ cho quyền lợi con người ở ngay trong cõi đời này và
cho đại khối nhân dân thay thế cho cơ chế chính trị đạo phiệt Ca-tô
với chủ trương thần quyền chỉ đạo thế quyền (chủ trương chỉ nghĩ đến
chuyện sau khi chết được lên thiên đàng).
Niềm tin mới này là:
1.- Quyền lực của nhà nước vì nhân dân
mà có. (The authority of a government is derived from the people.)
2.- Mọi người dân phải bình đẳng trước
pháp luật. (All citizens should be equal before the law.)
3.- Tất cả mọi người dân đều có quyền
ảnh hưởng vào việc làm luật. (All should have the right to influence
the making of the law.)
4.- Mục đích của chính quyền là để bảo
vệ những quyền tự nhiên của con người. Đó là quyền tự đo, quyền có
tài sản, quyền sống trong an ninh và quyền chống lại áp bức. (The
purpose of government should be the preservation of the natural
rights of men to “liberty, property, security, and resistance to
oppression.”
5.- Quyền tự do tư tưởng và tự do hành xử tín
ngưỡng của mọi người phải được bảo đảm. (Freedom of thought and
religion should be guaranteed
6.- Tôn giáo phải tách rời khỏi chính quyền.
7.- Tu sĩ phải tuyên trung thành với hiến pháp,
chứ không phải chỉ trung thành với giáo hoàng ở Vatican và chỉ tuân
phục lệnh truyền của Vatican.
Cơ chế mới về chính trị là thiết lập
chính quyền cách mạng với những biện pháp mạnh để:
1.- Tịch biên toàn bộ tài sản của Giáo Hội La
Mã tại nước Pháp.
2.- Tước bỏ tất cả mọi đặc quyền đặc lợi dành
cho Giáo Hội La Mã và giai cấp tu sĩ Da-tô.
3.- Tách rời giáo quyền (tôn giáo) ra khỏi thế
quyền (chính quyền).
4.- Ban hành một hiến chế dân sự cho giới tu
sĩ, trong đó tu sĩ được coi như là bình đẳng với tất cả người dân
khác và phải có nghĩa vụ đối với đất nước
6.- Tước bỏ hết tất cả mọi đặc quyền đặc lợi
dành cho giới qúy tộc,
5.- Xòa bỏ tất cả mọi tục lệ phong kiến.
7.- Xóa bỏ tất cả mọi bất công trong xã hội để
thực thi lý tưởng bình đẳng trong xã hội, tự do cho nhân dân và bác
ái cho cả mọi người, chứ không phải chỉ đối với “dân Chúa” mà thôi.
8.- Trừng phạt những phần tử ngoan cố
cẫn còn có những hành động tuân phục Giáo Hội La Mã để chống lại tổ
quốc và chính quyền của nhân dân.
Vì dốt nát về lịch sử thế giới, cho nên các nhà
lãnh đạọ và các thành phần đảng viên của Việt Quốc và Việt Cách
không biết gì về tiến trình tư tưởng trên đây của nhân loại. Cũng vì
thế mà họ mới không biết:
1.- TẠI SAO nhân dân các nước Anh (1691), Pháp (1789), Ý (1870),
Tây Ban Nha (1936), Mễ Tây Cơ (1857), Nga (1917), Trung Hoa (1949)
Cuba (1959), v.v... phải vùng dậy làm cách mạng chống lại Giáo Hội
La Mã?
2.- TẠI SAO các chính quyền cách mạng của các quốc gia trên đây
phải dùng những biện pháp mạnh để đối phó với Giáo Hội La Mã?
3.- TẠI SAO Hoa kỳ và các nước dân chủ tự do khác ở Bắc Mỹ cũng
như ở Tây Âu đều ghi vào hiến pháp của họ điều khoản "tách rời tôn
giáo ra khỏi chính quyền"?
4.- TẠI SAO vào năm 1867 Hoa Kỳ lại cắt đứt ngoại giao với
Vatican?
Tình trạng này kéo đến năm 1984 (117 năm). Trong thời gian này,
mặc dù, hai quốc gia này đã kết hợp với nhau thành Liên Minh Xâm
Lược Mỹ - Vatican để đưa Ngô Đình Diệm về Việt Nam cầm
quyền và biến miền Nam Việt Nam thành tiền đồn chống Cộng, nhưng đó
chỉ là một liên minh chính trị có tính cách giai đoạn để phục vụ cho
nhu cầu "chiến lược be bờ" của Hoa Kỳ nhằm ngăn chặn làn sóng
Cộng Sản từ miền Bắc tràn xuống mà thôi.
Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rằng,
vì dốt nát về lịch sử, không biết gì về lịch sử thế giới, không
biết gì về quốc sử, nhất là những bài học quốc sử trong thời cận và
hiện đại, cho nên hai đảng Việt Quốc và Việt Cách mới rơi và tình
trạng hết đi theo quân cướp Quốc Quân Trung Hoa với mưu đồ thỏa mãn
tham vọng quyền lực cá nhân mà không cần biết đến quyền lợi tối
thượng của tổ quốc, rồi lại tiếp tay cho Liên Minh Xâm Lược Pháp –
Vatican tái chiếm Việt Nam để chống lại cuộc kháng chiến đánh đuổi
quân cướp ngoại thù của toàn thể nhân dân ta. Với những hành động
phản tiến hóa, phản dân hại nước như vậy, hai đảng Việt Quốc và
Việt Cách sẽ phải ăn nói như thế nào với lịch sử và hậu thế về hai
lần mang những tội phản tiến hóa, phản quốc và phản dân tộc như
trên?
VỀ NHỮNG TỘI ÁC CẤU KẾT
VỚI QUỐC QUÂN TRUNG HOA
CỦA VIỆT QUỐC VÀ VIỆT CÁCH
Sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, các chính đảng
thân Nhật (hầu hết đều có hai chữ Đại Việt hay Phục Quốc hay Quang
Phục) đều lui vào bóng tối hay không còn hoạt động nữa vì rằng Nhật
Bản không còn là cường quốc để cho họ trông nhờ nữa. Sao hôm lặn thi
sao mai xuất hiện. Nhật bại trận, đầu hàng Đồng Minh thì Trung Hoa
dưới quyền lãnh đạo của Tổng Thống Tưởng Giới Thạch Quốc Dân Đảng
Trung Hoa trở thành một trong các cường quốc Đồng Minh thắng trận.
Vì thế, Quốc Quân Trung Hoa được giao phó cho việc gửi quân sang
Đông Dương đảm trách nhiệm vụ giải giới quân đội Nhật từ biên giới
Việt Hoa đến vĩ tuyến 16.
Lợi dụng nhiệm vụ này, Tưởng Giới Thạch gửi
sang Đông Dương tới 180 ngàn quân. Những người đã từng chứng kiến sự
hiện diện của đoàn quân Tầu này ở Việt Nam lúc bấy giờ đều khẳng
định rằng đoàn quân này quả thật là một đoàn quân ô hợp, có những
tác phong và hành động của quân thổ phỉ ăn cướp. Bản thân người viết
cũng đã từng chứng kiến sự thật như vậy suốt dọc Đường Số 10 từ
huyện An Lão (Kiến An) đến Hải Phòng trong những ngày đầu tháng 11
năm 1945. Nói về những hành động thổ phỉ của các binh đoàn Quốc Quân
Trung Hoa này, sử gia Bernard B. Fall ghi nhận:
“Trái lại, (so với quân Anh để giải giới
quân Nhật ở miền Nam) đạo quân Trung Quốc sang giải giới quân Nhật ở
miền Bắc dưới quyền chỉ huy của Lư Hán, người sau này đảo ngũ theo
Cộng Sản Trung Quốc, thật là to lớn phi thường. Đạo quân này gồm có
các quân đoàn 60, 62, và 93, được tăng cường với các sư đoàn 23, 39
và 93, tổng số lên đến hơn 152 ngàn quân. Giống như đàn châu chấu,
vừa đi vừa vơ vét của dân, cho nên chúng di chuyển chậm chạp và phải
mất 6 tuần lễ chúng mới vượt qua đoạn đường hơn 100 dặm Anh. Tiến
quân chậm chạp như vậy, không những chúng đã giúp cho Việt Minh có
đủ thì giờ nắm quyền kiểm soát hầu hết Việt Nam, mà còn làm sống lại
mối hận thù thâm niên cố đế của người Việt Nam đối với người Trung
Quốc về đủ mọi thứ. Đạo quân Trung Quốc này đã làm cho các đảng phái
Quốc Gia mất hết niềm tin mà trước đó họ đã hy vọng có thể trông
nhờ vào sự ủng hộ của chúng để chống lại cụ Hồ Chí Minh.”
Nguyên văn: “As for the Chinese occupation forces under Lu Han,
who later defected to Chinese Communists, they were, on the
contrary, enormous. They were composed of the 60th, 62nd,
93rd armies, reinforced by the 23rd 39th,
and 93rd divisions, comprising some more than 152,000 men
and it took them almost six weeks to cover 100 miles from border
to Hanoi, like a sawrm of locusts, they slowly pilfered their way
through the countryside. In the process, they not only gave the Viet
Minh’s sufficient time to gain control over much of Viet Nam, but
they also revived the century old Vietnamese hatreds for all things.
Chinese and thus thoroughly discredited the Vietnamese natrionalists
who had hoped to be able to use Chinese support in their forthcoming
struggle against Ho Chi Minh.”[14]
Đã có nhiều người nêu lên thắc mắc là khi Nhật
đầu hàng Đồng Minh, trên toàn thể lãnh thổ Đông Dương chỉ có 60 ngàn
quân Nhật, trong khi người Anh chỉ gửi sang Việt Nam có một đạo
quân nhỏ bé 1400 quân để giải giới quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào
Nam, thì TẠI SAO Tổng Thống Tưởng Giới Thạch lại gửi sang Đông Dương
tới 180 ngàn ngàn quân để giải giới (khoảng 30 ngàn) quân Nhật từ
vĩ tuyễn 16 trở ra Bắc?
Theo sự tìm hiểu của người viết, Tổng Thống
Tưởng Giới Thạch gửi sang Đông Dương một số quân nhiều như vậy là có
kế sách nhất tiễn tam điểu:
1.- Giải giới quân Nhật (nhiệm vụ đương nhiên
phải làm và chỉ là mặt nổi).
2.- Làm thế lực đờ đầu và trợ lực cho hai đảng
Việt Quốc và Việt Cách đánh bại chính quyền Việt Minh Kháng Chiến do
cụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo. Nếu thành công,
thì Việt Nam sẽ trở thành một thuộc địa của Trung Hoa và cũng là căn
cứ để chống lại thế lực Cộng Sản Trung Hoa đang bành trướng mạnh ở
Hoa Bắc.
3.- Để cho gần 200 ngàn quân này tàn phá Việt
Nam bằng những hành động ăn cuớp với mục đích làm cho dân ta vốn đã
đói khổ do Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican gây ra lại càng trở nên
đói khổ hơn với chủ đích làm giảm thiểu sức đề kháng của dân ta hầu
dễ dàng biến Việt Nam thành một thuộc địa của Trung Hoa. Lập luận
này được Đại Tướng Võ Nguyên Giáo nói rõ như sau:
“Sau khi Nhật đầu hàng, Hà Ứng Khâm, Tổng
Tham Mưu Quân Đội Quốc Dân Đảng Trung Hoa, một tên chống Công khét
tiếng, đã thúc Lư Hán điều quân vào Bắc Việt Nam cho thật nhanh. Kế
hoạch “Hoa Quân Nhập Việt” đã được chuẩn bị từ lâu. Bọn quân phiệt
Quốc Dân Đảng tin rằng đây là một thời cơ rất thuân lợi để thôn tính
miền Bắc Việt Nam. Chúng tính ít nhất cũng đặt được từ vĩ tuyến 16
trở ra, một chính quyền tay sai ngoan ngoãn thực hiện mọi chỉ thị
của chúng.
Bọn quân phiệt Quốc Dân Đảng (Trung Hoa) sắp
sẵn những con bài, gồm những tên tay sai người Việt ở Trung Hoa như
Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam… Chúng thuộc hai tổ
chức Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội và Việt Nam Quốc Dân Đảng,
sống từ lâu ở nước ngoài, không có liên hệ gì với phong trào trong
nước. Chúng tự nhận là những người Việt Nam yêu nước theo chủ nghĩa
quốc gia, nhưng thực ra là một bọn phản động mưu toan dựa vào Quốc
Dân Đảng Tưởng Giới Thạch và mũi súng quân Tưởng để kiếm sống. Quân
Tưởng đi vào Việt Nam bằng hai đường nên bọn này cũng chia làm hai
bộ phận đi theo chúng.
Vì tổ chức luộm thuộm, thiếu phương tiện vận
chuyển, phải đi bộ, không có hậu cần đi cùng, đến đâu cũng phải xoay
ăn, lại thiếu cả quân số, vừa đi vừa vét quân lính dọc đường, nên
chúng đi khá chậm.
Phía Vân Nam, Quân Đoàn 93 thuộc Đệ Nhất
Phương Diện Quân của Lư Hán, theo kế hoạch sẽ đi dọc sông Hồng đến
Hà Nội, cuối tháng Tám mới tới Lào Cai. Phía Quảng Tây, Quân
Đoàn 62, lực lượng của Quốc Dân Đảng Trung Ương, có Tướng Tiêu Văn
đi cùng, sẽ đi đường Lạng Sơn, Cao Bằng xuống Hà Nội, mãi đầu
tháng 9 mới vượt qua biên giới.
Hai quân đoàn khác, Quân Đoàn 52 của trung
ương và Quân Đoàn 60 của Vân Nam đi tiếp theo, sẽ chia nhau xuống
Hải Phòng, vào Vinh và Đà Nẵng.
Tổng số quân của chúng vào miền Bắc là 18
vạn người. Các quân đoàn Vân Nam nhiều binh lính ốm đau, ô hợp, kém
huấn luyện. Những quân đoàn của trung ương mạnh hơn, về tổ chức cũng
đỡ luộm thuộm. Bốn quân đoàn này được đặt dưới quyền chỉ huy của
Tướng Lư Hán. Tiêu Văn, một phó tướng của Trương Phát Khuê, từ lâu
theo dõi vấn đề Việt Nam, lãnh trách nhiệm với bọn quân phiệt Quốc
Dân Đảng trong việc sắp xếp chế độ chính trị tại miền Bắc.”[15]
Thế nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.
Ý đồ này của Quốc Quân Trung Hoa bị chính quyền Kháng Chiến Việt
Minh vô hiệu hóa. Vấn đề này đã được trình bày đầy đủ nơi Mục XIV,
Phần IV nói về Mặt Trận Việt Minh và Đảng Cộng Sản Lãnh Đạo Cuộc
Kháng Chiến 1945-1954).
Tới đây, xin trở lại chuyện Việt Cách và Việt
Quốc dựa thể quân Tầu để củng cố thế lực. Sự hiện diện của gần hai
trăm ngàn quốc Quân Trung Hoa ở phía bắc vĩ tuyến 16 làm cho Việt
Quốc và Việt Cách ở thế mạnh có khả năng có thể lật đổ chính quyền
Kháng Chiến Việt Minh để nhẩy lên nắm chính quyền. Sách Những Ngày
Tháng Không Thể Nào Quên ghi nhận:
“Nguyễn Hải Thần theo Quân Đoàn 62 vào Lạng
Sơn, thì được tin Chính Phủ Lâm Thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
đã ra mắt trước một triệu đồng bào tại thủ đô Hà Nội.
Những tên chỉ huy Quân Đoàn 62 đòi tước khí
giới các lực lượng vũ trang ta tại Lạng Sơn và Cao Bằng. Bộ đội ta
không chịu. Chúng đem quân đến chiếm các doanh trại của Quân Giải
Phóng. Bọn Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội núp sau lưỡi lê quân
Tưởng, xông vào trụ sở của nhân dân tỉnh.
Để tránh xô xát lớn, các cơ quan chính
quyền, đoàn thể và các lực lượng vũ trang ta phải tạm giãn ra vùng
chung quanh. Nhân dân lập tức thực hiện “vườn không nhà trống”. Thị
xã trở nên vắng ngắt.
Bọn Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội đi lùng
khắp nơi cũng không kiếm ra đủ số người để làm một cuộc mít tinh nhỏ
cho Nguyễn Hải Thần ra mắt. Chúng đành in một số truyền đơn phản đối
việc Việt Minh lập Chính Phủ Lâm Thời và nêu lên 13 điều thảo phạt
Chính Phủ Hồ Chí Minh. Không có ai phân phát, chúng đem truyền đơn
rải khắp đường ngang lối tắt.
Bọn Việt Nam Quốc Dân Đảng do Vũ Hồng Khanh
và Nguyễn Tường Tam cầm đầu, đi theo Quân Đoàn 93 Vân Nam. Cũng dựa
vào mũi súng của quân Tưởng, chúng tới đâu là tìm cách lật đổ chính
quyền của nhân dân ta tại đó. Chúng lập trụ sở, tập họp bọn phản
động ở địa phương, quấy nhiễu, phá phách, cướp của giết người. Thầy
nào tớ ấy, bọn quân ô hợp của Long Vân hoạt động giống y như những
tên thổ phỉ.
Tại một số nơi chưa được phổ biến kỹ chủ
trương, những cuộc xung đột giữa các lực lượng vũ trang của nhân dân
ta với quân Tưởng đã xẩy ra.
Các cơ quan chính quyền và bộ đội ta được
lệnh tạm rút ra ngoài một số thị trấn, thị xã ở vài tỉnh miền biên
giới và dọc đường xe lửa từ Vân Nam về.
Trong nửa đầu tháng Chín, gần hai chục vạn
quân Tưởng đã tràn ra hầu khắp các tỉnh miền Bắc như một bệnh dịch.
Theo gót chúng là những bọn tay sai tức tối vì thấy khó có cơ hội
kiếm ăn to. Trước mắt chúng là lực lượng cách mạng rất lớn mạnh, một
chính quyền rất đàng hoàng với những cơ sở chính trị vững chắc, được
nhân dân hết lòng ủng hộ. Chúng càng trở nên trơ tráo, lộ rõ nguyên
hình bọn lưu vong mất gốc, được che chở bằng lưỡi lê quân đội phản
động nước ngoài.
Ngày 11/9 (1945), Tướng Lư Hán đáp máy bay
đến Hà Nội.
Mấy hôm sau, những bản bố cáo dài dằng dặc
được gián khắp nơi. Bọn quân phiệt Quốc Dân Đảng Trung Hoa coi như
chúng tới một nơi không có chính quyền. Chúng tự cho chúng cái quyền
giữ trị an trong thành phố. Chúng quy định giá trị của tiền Quan
kim, tiền Quốc tệ, những thứ tiền từ lâu đã trở thành mớ giấy lộn.
Chúng đề ra những quy định để kiểm soát xe cộ đi lại trong thành
phố.
Lư Hán tới được vài ngày thì
A-lét-xăng-đơ-ri (Tướng Alessandri) cũng xuất hiện ở Hà Nội. Viên
tướng chỉ huy quân đội lê-dương Pháp tại Bắc Kỳ, đã đem bọn tàn quân
chạy trốn sang Côn Minh trước cuộc tấn công của quân đội Nhật đêm
mồng 9 tháng Ba năm này, tại sao cũng đến được đây? Tình ý giữa bọn
Tưởng và bọn Pháp ra sao là vấn đề cần được chú ý.”
[16]
Thế nhưng, nhiều yếu tố đã khiến cho cả Việt
Quốc và Việt Cách đều thất bại. Những yếu tố đó là:
1.- Cả Việt Cách và Việt Quốc đều không có những người lãnh đạo
tài giỏi. Tất cả đều là những người ưa thích huênh hoang phô trương
thanh thế, nhưng không có thực tài, đã thiếu các khả năng
về chính trị, kỹ thuật tổ
chức , lại cũng không có cả kinh nghiêm đấu tranh cách mạng. Vì thế mà hai
đảng này mới ở trong tình trạng vừa luộm thuộm, vừa không có bộ phận
điều nghiên và theo dõi tình hình thế giới để khai thác và hành
động cho thích ứng với thời cơ, và cũng không có những tổ chức trong
nhân dân để dấy lên khi hoàn cảnh thuận lợi.
2.- Hầu hết tất cả các ông lãnh đạo cũng như các cán bộ cao
cấp, trung cấp, cấp thấp và đảng viên đều mang nặng căn
bệnh tiểu tư sản và trưởng giả học làm sang, ưa thích hưởng thụ,
nặng tính cách làm dáng và lãng mạn. Vì cái đặc tính làm dáng
và lãng mạn này mà họ gia nhập Việt Cách hay Việt Quốc hay theo cách
mạng. Nếu vì lý tường cứu nước hay cứu dân, THÌ họ đã không gia nhập
vào mấy đảng xôi thịt như vậy, mà phải gia nhập các chính đảng
cách mạng có chủ trương rõ rệt đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Pháp –
Vatican để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc. Vì mang căn bệnh
tiểu tư sản, họ lè phè, khệnh khạng và không quen với đời sống kham
khổ. Vì thế họ không có khả năng chịu đựng những cảnh gian truân vất
vả vào những khi cần phải chịu đựng. Tình trạng này khiến cho họ dễ
dàng thoái chí.
3.- Không có chính nghĩa hay không làm sáng tỏ
chính nghĩa đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican để giành lại
chủ quyền độc lập cho dân tộc. Vì không có chính nghĩa, cho nên tất
cả các nhân vật lãnh đạo và đảng viên của hai đảng này không có
nhiệt tam hăng sau liều chết, quyết tâm nhẫn nhục, chịu khó, chịu
cực để vừa học hỏi trau dồi kiến thức về chính trị, về cách mạng và
về tổ chức, vừa kiên trì xông pha lăn lộn vào đại khối dân cày nghèo
khổ ở nông thôn trong ba miền đất nươc và anh em công nhân lao động
trong các đồn điền cao su, trà, cà phê ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ cũng
như trong các công trường khai thác quặng mỏ ở Bắc Bộ, để giác ngộ
họ và lôi cuốn họ nhập cuộc, rồi tổ chức họ thành các đội ngũ làm hạ
tầng cơ sở của đảng tại các địa phương. Có thể vì lười suy nghĩ nên
không nghĩ ra hay có thể vì dốt nát quá nên mới không biết cần phải
làm như vậy, cho nên hai đảng này đều không có hạ tầng cơ sở và đều
không được đại khối nhân dân gần 99% biết đến.
4.- Không có hạ tầng cơ sở và không được đại khối gần 99% nhân
dân hơn biết đến. Không được đại khối nhân dân biết đến tức là không
được đại khối nhân dân tham gia hay nhập cuộc vào tổ chức để cùng
chung lo cho đại cuộc. Không được đại khối nhân dân dân tham gia vào
tổ chức, có nghĩa là không có thực lực hay không có lực lượng xung
kích để chuẩn bị cướp chính quyền khi có thời cơ. Vì không có lực
lượng xung kích để chuẩn bị cướp chính quyền, cho nên các đảng phái
xôi thit này mới thi hành sách lược chính trị "há miệng chờ sung
rụng" và "cáo đội lốt hùm" theo kiểu Lê Chiêu Thống và kiểu của tên
bạo chúa tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm, nghĩa là kết thân vơi
chính quyền Nhật hay chính quyền Quốc Dân Đảng Trung Hoa với hy vọng
nhờ các thế lực quan thày ngoại bang này lật đổ chính quyền đương
thời rồi đưa họ lên cầm quyền. Đây là trường hợp của Đảng Việt Nam
Quang Phục còn gọi là Đại Việt Phục Hưng Hội của ông Cường Để
và ông Ca-tô Ngô Đình Diệm trong những năm trước ngày 9/3/1945 và
các đảng Việt Quốc và Việt Cách trong những năm 1939-1946 hoàn
toàn trông cậy vào sự sắp xếp hay lòng bố thí của các vị tướng lãnh
chỉ huy các đoàn "Hoa Quân nhập Việt" của" Quốc Quân Trung Hoa. Làm
chính trị theo cái kiểu này được gọi làm chính trị "há miệng chờ
sung rụng" . Nếu thành công, thì lại trở thành làm cái chuyện "đuổi
cọp cửa trước, rước beo vào cửa sau". Đây là sự thật lịch sử
không ai có thể phủ bác được.
5.- Vì trông cậy vào quan thày Quốc Quân Trung Hoa của chính
quyền Tưởng Giới Thạch lật đổ chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
dưới quyền lãnh đạo của Cụ Hồ Chí Minh để rồi hy vọng được chúng đưa
lên cầm quyền, hai đảng Việt Quốc và Việt Cách cũng rơi vào tình
trạng thảm thương giống y như Đảng Việt Nam Quang Phục tức Đai Việt
Phục Hưng Hội của hai ông Cường Để và Ngô Đình Diệm. Nói về
tình trạng thê thảm của Quốc Dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Cách, sách
Việt Sử Khảo Luận - Cuốn 4 ghi nhận như sau:
"Về kinh tế, QDĐ không có một nguồn lợi kinh tế nào... Về võ
khí được Trùng Khánh điện cho biết đến Bộ Tổng Tham Mưu của Lư Hán
mà lãnh số võ khí của Nhật, nhưng "Tàu phù" lánh mặt... Đến khi họ
sắp rút lui, mới gọi đến lãnh thì chỉ toàn là quần áo, giày, bít tất
đã rách nát của quân Nhật bỏ lại mà thôi."[17]
"Các ông Việt Cách (Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội) ở Hoa
Nam - mà ở rất xa cách nhau, tổ chức thì lỏng lẻo, tiền nong võ khí
thì không, cũng như Sainteny ở Côn Minh, De Gaulle ở Paris, Tưởng
Giới Thạch ở Trùng Khánh, Mountbatten ở Kandy đều không kịp trở tay.
“[18]
6.- Vì hoàn toàn trông cậy vào các đạo quân thổ
phỉ ăn cướp Quốc Quân Trung Hoa để đối phó với chính quyền Cách
Mạng Việt Minh, một chính quyền được toàn dân hết lòng thương mến,
nhiệt liệt ủng hộ và tích cực tham gia, cho nên đối với đại khối
nhân dân, Việt Quốc và Việt Cách chỉ là những đứa con đỡ đầu của đạo
quân Tầu ô thổ phỉ, giống như băng đảng Lê Chiêu Thống là đứa con
đỡ đầu của quân Thanh xâm lăng và băng đảng Ca-tô là đứa con đỡ đầu
của Liên Quân Xâm Lăng Pháp – Vatican. Cũng vì thế mà hình ảnh về
hai đảng Việt Quốc và Việt Cách còn lưu lại trong lòng người dân là
hình ảnh của những quân thổ phỉ ăn cướp, đúng như Đại Tướng Võ
Nguyên Giáp đã nói:
“Bọn Việt Nam Quốc Dân Đảng do Vũ Hồng
Khanh và Nguyễn Tường Tam cầm đầu, đi theo Quân Đoàn 93 Vân Nam.
Cũng dựa vào mũi súng của quân Tưởng, chúng tới đâu là tìm cách lật
đổ chính quyền của nhân dân ta tại đó. Chúng lập trụ sở, tập họp bọn
phản động ở địa phương, quấy nhiễu, phá phách, cướp của giết người.
Thầy nào tớ ấy, bọn quân ô hợp của Long Vân hoạt động giống y như
những tên thổ phỉ.” Xin xem lại phần trích dẫn ở trên.
Thực trạng này đưa đến hậu quả là khi quân thổ
phỉ ăn cướp Quốc Quân Trung Hoa phải rút về Tầu, thì Việt Cách và
Việt Quốc cũng phải cuốn gói chạy theo đoàn quân Tầu ô thổ phỉ ăn
cướp này sang Tầu sống lưu vong, giống những băng đảng Lê Chiêu
Thống chạy theo quân Thanh sang Tầu sống lưu vong vào mùa xuân năm
Dậu 1789, giống như băng đảng chính quyền và quân đội miền Nam Việt
Nam cuốn gói chạy theo người Mỹ sang Mỹ sống lưu vong vào mùa xuân
năm 1975.
7.- Giống như các ông lãnh tụ và các thành viên
của các đảng Đại Việt thân nhật như đã nói trong Chương 5 ở trên,
các ông lãnh tụ và thành viên của Việt Cách và Việt Quốc đều dốt về
lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại, dốt đặc cán mai táu về
lịch sử thế giới. Vì dốt nát như vậy, cho nên họ:
a.- Không biết một chút gì về vai trò của Giáo
Hội La Mã trong việc vận động Pháp liên kết với Vatican thành một
lỉiên minh chính trị bất thành văn, rồi xuất quân đánh chiếm Đông
Dương làm thuộc địa để cùng thống trị, cùng chia nhau lãnh vực khai
thác tài nguyên, cùng áp bức và cùng bóc lột dân ta.
b.- Không biết gì về vai trò của Vatican ở đàng
sau Việt Nam Quang Phục hay Đại Việt Phục Hưng Hội.
c.- Không biết gì về vai trò của Giáo Hội La
Mã về việc Liên Minh Đế Quốc Xâm Lươc Pháp để cử cựu Linh-muc
Thierry d’ Argenlieu đảm trách việc tái chiếm Đông Dương.
d.- Không biết gì hay biết mà vẫn tích cực và
nhiệt liệt ủng hộ Giải Pháp Bảo Đại do Vatican chủ trương và được
công khai hóa vào ngày 28/12/1945 qua lời tuyên bố của người đại
diện của Vatican tại Hà Nội là Giám Mục Antoni Drapier (như đã nói
rõ ở Chương 2 trước đây).
Những cái không biết trên đây của Việt Quốc và
Việt Cách giống y như những cái không biết của các chính đảng thân
Nhật như đảng Đại Việt và Việt Nam Quang Phục Hội hay Đại Việt Phục
Hưng Hội.
Chính vì những cái không biết này, đặc biệt là
vì cái không biết về toàn bộ lịch sử thế giới từ A đến Z, và không
biết lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại một cách đầy đủ và
trung thực, cho nên các chính đảng này không những đã không coi Giáo
Hội La Mã là kẻ thù thâm độc nhất và nguy hiểm nhất của dân tộc,
không những đã không đề phong hay đề cao cảnh giác đối với giới tu
sĩ và tín đồ Ca-tô người Việt, mà lại còn bênh vực, đề cao Giáo Hội
La Mã bằng hành động tố cáo Việt Minh khi thấy Việt Minh lên án và
đưa ra những biện pháp mạnh để đối phó với “Cái Giáo Hội Khốn Nạn”
này. Thực trạng thê thảm này được chính Việt Quốc Nghiêm Kế Tổ, một
thành viên quan trọng trong Việt Quốc, nói rõ trong tác phẩm Việt
Nam Máu Lửa nơi trang 89 mà chúng tôi đã trích dẫn ở trong mục nói
về “Những Đặc Tính Chung” ở trên trong chương sách này.
Nói tóm lại, các nhân vật lãnh đạo và các thành
viên của hai chính đảng Việt Quốc và Việt Cách đều là những “chính
khách phong trà" (chính khách salon) và đều có tất cả những đặc tính
của các ông chính khách phòng trà. Nói cho rõ hơn, họ là những nhà
cách mạng tài tử, mang nặng tính cách lãng mạn, quen với nếp sống
phong lưu, mưa không đến mặt, nắng không tới đầu, luôn luôn có hạ
nhân hầu hạ, lúc nào cũng lè phè, khệnh khạng, quan liêu phong kiến,
sợ khó, ngại khổ, dốt nát về lịch sử. Vì những nhược điểm này
mà họ không chịu dấn thân lăn lộn đi sâu vào đại khối nông
dân và công nhân lao động nghèo khổ để hòa mình với họ, tìm hiểu
tình cảnh của họ, giác ngộ họ hầu có thể lôi cuốn họ nhập cuộc
vào đảng để tổ chức họ thành những đội ngũ cách mạng, những lực
lượng xung kích nằm tiềm phục tại các địa phương.
Nói tóm lại, các chính đảng này không có hạ tầng cơ sở và cũng
không có các lưc lượng xung kích để chuẩn bị tiến lên nắm chính
quyền bằng vũ lực khi hoàn cảnh cho phép. Đây là những yếu kém chung
của các "đảng phái Quốc Gia" mà điển hình là hai chính đảng Việt
Quốc và Việt Cách.
Về mục tiêu tranh đấu, họ chỉ học lóm được một số những danh từ
rỗng tuếch lấy từ cương lĩnh của Quốc Dân Đảng Trung Hoa, giống như
những lời nói suông, nói cho sướng miệng. Trong thực tế, vì không có
chủ tâm tranh đấu để đạt được mục tiêu đã đề ra, cho nên họ chằng
bao giờ dồn nỗ lực vào việc điều nghiên tìm ra những phương pháp
hay kế sách hành động cho có hiệu quả để đạt được mục đích.
KẾT LUẬN
Với tình trạng như trên, ta có thể nói các nhân vật lãnh đạo và
các thành phần đảng viên của các đảng Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt
có quá nhiều nhược điểm không thích hợp với cuộc đời bôn ba lăn lộn
vào sinh ra tử của những người dấn thân vào đại cuộc cứu nước như
các chiến sĩ cách mạng hay những người nghĩa quân kháng chiến đuổi
giặc xâm lăng để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc. Đây cũng
là những nhược điểm chung của những thành phần mang nặng các đặc
tính tiểu tư sản và trưởng giả học làm sang như là lè phè, khệnh
khạng, kênh kiệu, quan liêu, phong kiến, sợ khó, sợ khổ, không dám
dấn thân, lặn lộn hòa mình với đại khối nhân dân. Tình trạng này
khiến cho họ xa rời quần chúng, tức là không được quần chúng ủng hộ.
Cũng vì thế mà họ không thể chịu đựng được những khó khăn, gian
khổ, cực nhọc, gian truân giống như những người nghĩa quân kháng
chiến trong các tổ chức nghĩa quân của các cụ Trương Công Định,
Nguyễn Trung Trực, Mai Xuân Thưởng, Nguyễn Thiện Thuật, Phan Đình
Phùng, Hoàng Hoa Thám, v.v... Vì thế, các "đảng phái ái quốc" này
không có những tổ chức hạ tầng cơ sở tại các địa phương trên toàn
lãnh thổ. Với thực trạng như vậy, tất nhiên là không có lực lượng
xung kích nằm tiềm phục tại các địa phương để chờ thời cơ hay khi
được lệnh thì nổi lên cướp chính quyền. Cũng vì thế mà khi Nhật đầu
hàng Đồng Minh vào ngày 15/8/1945, các đảng cách mạng này không có
một đội quân xung kích nào nhẩy lên cướp chính quyền dù rằng tình
hình Việt Nam ở vào thời điểm này là cơ hội bằng vàng để chớp lấy
mà xông lên giành lấy thắng lợi về cho họ.
Ngoài những nhược điểm này, họ còn có nhiều nhược điểm quan trọng
khác nữa. Quan trọng hơn cả là họ quá dốt về lịch sử thế giới và
lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại. Ôn cố tri tân. Dốt nát
về lịch sử, có nghĩa là không hề “ôn cố”. Không hề “ôn cố”, thì làm
sao họ có thể “tri tân”? Vì dốt nát lịch sử, cho nên, họ không biết
Vatican đã vận động Pháp liên kết thành một liên minh chính trị để
cùng đánh chiếm Việt Nam làm thuộc địa, cùng khai thác và cùng cưỡng
bách dân ta làm nô lệ. Vì không biết Vatican là kẻ thù thâm độc
nhất và nguy hiểm nhất của nhân loại và của dân tộc ta, cho nên họ
mới triệt để ủng hộ chủ trương của Vatican đưa Bảo Đại trở lại ngai
vàng lập chính quyền chống lại chính quyền Kháng Chiến của nhân dân
ta dưới quyền lãnh đạo của Mặt Trận Việt Minh. Cũng vì quát dốt nát
về liwjch sử thế giới, hai chính đảng này còn bênh vực Vatican qua
việc lên án và chỉ trích thậm tệ chính quyền Việt Minh dùng biện
pháp mạnh để đối phó với Vatican.
Trong khi đó thì Mặt Trận Việt Minh có hệ thống tổ chức đảng rất
là chú đáo, có bộ phận điều nghiên tình hình thế giới và theo dõi
thời cuộc, luôn luôn nắm vũng được thời cơ để sẵn sàng ra lệnh cho
các chi bộ nằm tiềm phục ở khắp nơi trong nước cùng tổng nổi dậy
cướp chính quyền ngay khi chính quyền tại chính quốc Nhật đầu hàng
đồng Minh vào ngày 15/8/1945. Nhờ vậy mà họ đã làm nên lịch sử:
“Chỉ có Hồ Chí Minh đang chiếm vùng Việt Bắc, là có thể nhanh
chân, với sự ủng hộ của OSS Mỹ, chớp thời cơ về Hà Nội trước cướp
được chính quyền." [19]
Nói về những nhược điểm của Việt Quốc và Việt Cách, Người trong
chăn” là ông Nguyễn Tường Bách (em ruột ông Nguyễn Tường Tam), một
nhân vật quan trọng trong Đảng Việt Quốc ghi nhận như sau:
“Tháng 8.1945, Việt Minh cướp chính quyền. Cùng với VN Cách
Mệnh Đồng Minh Hội, VN Quốc Dân Đảng xuất hiện đấu tranh công khai.
Tôi là ủy viên trung ương, phụ trách tờ Việt Nam để tuyên truyền
chống CS. Mặt khác, tôi tổ chức Quốc gia Thanh niên Đoàn. Tháng
6/1946, Việt Minh tăng cường áp lực. Sau khi cầm cự lối nửa năm,
đảng trưởng Vũ Hồng Khanh, tôi và Lê Khang, trong Bộ Chỉ huy, phải
rút lên Việt Trì, rồi Yên Báy và Lào Kay. Lực lượng Đệ tam khu lúc
đó gồm có lối một nghìn người: hai, ba trăm chí nguyện quân từ Trung
Hoa về, cộng với một số cựu lính khố xanh của Pháp, võ trang khá thô
sơ. Thành phần kể sau không có ý chí tranh đấu mạnh. Phía ta không
có đài phát thanh, thiếu phương tiện quảng bá, chỉ có tờ báo Việt
Nam. Quân ta đóng chốt tại các tỉnh lỵ nên bị Việt Minh bao vây.
Việt Minh không đông nhưng có ảnh hưởng mạnh quần chúng vi họ
có tổ chức, biết đoạt thời cơ, tuyên truyền sâu rộng và lôi cuốn
đồng bào với các chiêu bài ăn khách như đả thực, chống đế quốc và áp
bức. Phía quốc gia xích mích nội bộ, chủ quan, coi thường đảng CS
và đặt hết niềm tin vào sự hỗ trợ của quân đội Trung hoa nên thua là
phải. Tháng 7/1945, khi hay tin Việt Minh nhóm đại hội tại
Thái Nguyên và Nhật bản sắp đầu hàng, cánh quốc gia đã không tổng
hành động kịp thời, tiến tới khởi nghĩa. Bị kẹt giữa Pháp và
Việt Minh, các đảng quốc gia không chiếm được địa bàn đủ rộng và
không có đủ sức chống lại hai thế lực đó từ Nam ra Bắc.”[20]
Giáo-sư Lê Xuân Khoa viết trong cuốn Việt
Nam 1945-1995 như sau:
”Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách
Mạng Đồng Minh Hội là những đảng cách mạng đã có nhiều kinh nghiệm
hoạt động với Hồ Chí Minh và các đảng viên Cộng Sản Việt Nam ở Trung
Hoa. Bởi vậy, khi theo đoàn quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa trở về nước
năm 1945, hai đảng quốc gia này đã tin tưởng có thể giành được chính
quyền và cương quyết không chịu hợp tác với Việt Minh. Tuy nhiên, do
những nhược điểm về tổ chức và lãnh đạo và cũng do áp lực của tướng
lãnh Trung Hoa, cả hai đảng này rốt cuộc vẫn phải chấp nhận tham
gia vào chính phủ liên hiệp và quốc hội của Việt Minh. Trong cuộc
tranh chấp quyền hành với Việt Minh, các đảng phái quốc gia hiểu
biết khá rõ về khả năng và kế hoạch nguy hiểm của đối thủ nhưng
không có điều kiện và phương tiện để đối phó.
Trước hết, không ai thấy rõ lực lượng
quân sự của VNQDĐ và VNCMĐMH như thế nào. Lực lượng này chắc không
quá mấy trăm đảng viên đã được huấn luyện quân sự ở Trung Hoa cùng
với một số chí nguyện quân mới tuyển mộ trước và sau ngày trở về
nước. Kinh nghiệm tổ chức và chiến đấu chưa có, kinh nghiệm hành
chánh cũng không, tài chánh và vũ khí cũng chẳng có được bao nhiêu.
Một số cơ sở địa phương chiếm giữ được trên đường từ biên giới Việt
Hoa về Hà Nội và một số chiến khu lập được sau này đều còn lỏng lẻo
sơ sài, không đủ sức chống chọi với lực lượng Việt Minh. Thiệt thòi
nhất là vũ khí đáng lẽ được các tướng lãnh Trung Hoa cung cấp như đã
sắp đặt trước thì lại bị họ đem bán cho Việt Minh.
Ngòai ra, VNQDĐ và VMCMĐMH là những đoàn
thể cách mạng lưu vong ở Trung Hoa lâu đời và không có cơ sở họat
động ở trong nước, do đó không có hậu thuẫn nhân dân. Riêng việc đi
theo quân Tầu về để giành lấy chính quyền đã là một bất lợi chính
trị rất lớn cho hai đảng này. Hồ Chí Minh trước đó
cũng đã nhờ Trương Phát Khuê và Tiêu Văn giúp cho về nước với danh
nghĩa VNCMĐMH mà Việt Minh là một thành viên, nhưng ông đã
tẩy xóa được hình tích đó. Tổ chức chính trị đáng kể họat động ở
trong nước lúc bấy giờ là Đảng Đại Việt lại chia thành hai ba nhóm
và không có thực lực để tiếp tay cho hai đảng quốc gia từ hải ngoại.
Tất cả những đảng phái này, mặc dù hợp tác với nhau để cùng đối phó
với đảng cộng sản, vẫn có những tị hiềm giữa cá nhân các lãnh tụ, vì
vậy không có được một bộ máy chỉ đạo nhất trí và có kỷ luật như Mặt
Trận Việt Minh. Chính vì sự chia rẽ giữa các lãnh tụ quốc gia mà
VNCMĐMH đã gần như tan rã từ khi còn ở Liễu Châu, Trung Quốc, để cho
Hồ Chí Minh được Trương Phát Khuê giao cho tổ chức lại VNCMĐMH và có
cơ hội củng cố lực lượng Việt Minh ở trong nước.
Lòng yêu nước của các lãnh tụ quốc gia
thực sự rất cao, thể hiện tinh thần độc lập truyền thống của dân
tộc. Dưới thời Pháp thuộc, trước và sau khi cộng sản ra đời, đã có
biết bao nhiêu nhà cách mạng yêu nước bị tù đày, hành hạ và xử tử.
Nhiều nhà trí thức đáng lẽ dùng mảnh bằng của mình để hưởng
vinh hoa phú quý thì lại chọn con đường gian khổ tranh đấu cho quyền
làm dân của một nước độc lập và tự do. Tuy nhiên, chính các đặc tính
tự do và đa nguyên (nhưng lại thiếu dân chủ) của những tổ chức cách
mạng không cộng sản đã khiến các lãnh tụ không thể kết hợp thành một
lực lượng có đủ khả năng đối phó với đảng cộng sản về cơ sở lý
thuyết và phương pháp hành động. Các lãnh tụ của hai đảng nòng cốt
hồi đó là VNQDĐ và VNCMĐMH đều ở Trung Hoa đã quá lâu, khả năng và
tầm nhìn chính trị rất giới hạn và lệ thuộc vào Trung Quốc, nên khi
cơ hội đến tay thì chỉ biết trông cậy vào sự giúp đỡ của đám tướng
lãnh tham nhũng Tiêu Văn và Lư Hán. Một thí dụ điển hình là Nguyễn
Hải Thần, người được Quốc Dân Đảng Trung Hoa giúp cho về nước để
lãnh đạo một nước Việt Nam không cộng sản. Mọi người Việt Nam yêu
nước năm 1945 đều thất vọng đối với nhà cách mạng lão thành này qua
hình ảnh của một ông già không nói rành tiếng Việt và bị đồn là hút
thuốc phiện. Không còn mấy ai biết đến một Nguyễn Hải Thần anh dũng
đã từng ám sát hụt Tòan Quyền Albert Sarraut bằng lựu đạn năm 1912.
Trong khi đó, Hồ Chí Minh đã bôn ba nhiều
nước trên thế giới, được huấn luyện ở Nga, tranh đấu lâu năm với các
đảng Xã Hội và Cộng Sản Pháp, rồi lại đại diện cho Ban Phương Đông
của Nga để tổ chức và phối hợp các họat động cộng sản ở Đông Nam Á
và Trung Hoa, thường xuyên điều động các hoạt động ở Việt Nam và đã
trở về nước lập cơ sở cho Mặt Trận Việt Minh từ năm 1941. Trong thời
gian một năm ở Liễu Châu, từ sau khi được Trương Phát Khuê thả tự do
cho đến ngày trở về Việt Nam nhân danh VNCMĐMH (tháng Chín năm
1944), Hồ Chí Minh lại thường lui tới Phòng Thông Tin Chiến Lược
(OWI) của Hoa Kỳ để tham khảo sách báo và bắt liên lại với cơ quan
tình báo OSS. Nhờ thành tích và kinh nghiệm quốc tế cùng với việc
lấy được lòng tin của Trương Phát Khuê và móc nối được với OSS, Hồ
Chí Minh đã có một lợi thế vượt xa các nhà cách mạng đương thời. Lực
lượng quân sự của Việt Minh tuy chưa mạnh, nhưng có tổ chức, có kỷ
luật, được hỗ trợ bởi các đòan thể quần chúng và nhất là được lãnh
đạo bởi những đảng viên sẵn sàng sống chết với chủ nghĩa cộng sản.
Sự so sánh trên đây cho thấy các lực
lượng quốc gia có quá nhiều nhược điểm nên đã không thể giành được
chính nghĩa và vai trò lãnh đạo nhân dân. Ưu điểm lớn nhất của Việt
Minh là khả năng tuyên truyền và vận động quần chúng. Việt Minh đã
khéo che đậy được lai lịch cộng sản dưới hình thức một mặt trận đoàn
kết toàn dân với mục tiêu duy nhất là chống Pháp để đem lại độc lập,
tự do và hạnh phúc cho dân tộc. Nhờ có thành tích chống cả Pháp lẫn
Nhật, nhất là biết khai thác tối đa các quan hệ hợp tác với OSS, chủ
thuyết Roosevelt và triển vọng hỗ trợ của Hoa Kỳ, Việt Minh đã dễ
dàng đem lại cho mọi người niềm tin tưởng là có sự ủng hộ của Hoa
Kỳ. Đó cũng là một trong những lý do khiến chính phủ Trần Trọng Kim
không dám chống lại Việt Minh và vua Bảo Đại sẵn sàng thoái vị. Hồ
Chí Minh đã tự chứng tỏ là một lãnh tụ có tài tổ chức, một chính trị
gia đầy mưu lược và một nhà ngoại giao uyển chuyển biết lợi dụng
thời cơ nên đã tạo được cho mình hình ảnh của một nhà cách mạng suốt
đời hy sinh cho đất nước. Vì thế, đa số dân chúng và nhiều trí thức
yêu nước đã ủng hộ Mặt Trận Việt Minh. Ngay cả trong đảng phái hàng
ngũ quốc gia cũng có một số người bị Việt Minh thuyết phục. Ưu điểm
này đã giúp cho các nhà lãnh đạo cộng sản nắm được chính nghĩa và
động viên được đại khối nhân dân trong suốt cuộc chiến tranh
chống Pháp cho đến hoàn toàn thắng lợi.”[21]
Cái gương thảm họa làm chính trị theo kế sách "há miệng chờ
sung rụng" như Lê Chiêu Thống trông cậy vào nhà Thanh hồi năm
1788-1789, và cái gương của Đảng Ca-tô Việt Nam Quang Phục của các
ông Cường Để và Ngô Đình Diệm trong những năm trong thời Đệ
Nhị Thế Chiến (1939-1945) trông cậy vào người Nhật còn rành rành
trong sách sử và còn rõ mồn một trong trí nhớ người dân. Ấy thế mà
hai đảng Việt Quốc và Việt Cách vẫn không học được. TẠI SAO lại như
vậy?
Lời giải thích thích hợp nhất cho thắc mắc này là các thành phần
lãnh đạo và đảng viên của hai đảng này đều:
1.- Nặng lòng vị kỷ, háo danh và thèm khát quyền lực, chỉ biết
tranh đấu cho quyền lực và địa vị của cá nhân và phe đảng của họ. Lê
Chiêu Thống chỉ có mục đích duy nhất là tranh đấu cho ngôi vua của
ông ta. Cường Để và Ngô Đình Diệm thì có mục đích duy nhất là tranh
đấu để giành lại ngai vàng từ trong tay dòng vua Minh Mạng mà vào
thời điểm lúc đó đang nằm trong tay Bảo Đại và cũng là tranh đấu cho
quyền lực của Giáo Hội La Mã.
2.- Vì dốt nát về lịch sử thế giới, lại dốt luôn cả về lịch sử
Việt Nam trong thời cận và hiện đại, cho nên họ mới không rút được
những kinh nghiệm xương máu từ những bài học của tiền nhân, cho nên
họ mới làm chính trị theo kế sách "há miệng chờ sung rụng"
của Lê Chiêu Thống và của mấy tên Ca-tô vong bản phản dân tộc như
Cường Để và Ngô Đình Diệm trông cậy vào người Nhật với hy vọng sẽ
được họ cho nhẩy lên bàn độc để thỏa mãn khát vọng quyền lực cá nhân
của họ.
Cũng may là Lê Chiêu Thống, Việt Nam Quang Phục của Cường Để và
Ngô Đình Diệm, Việt Quốc, Việt Cách và Đại Việt đều thất bại. Nếu họ
thành công, thì chắc chắn là dân tộc và tổ quốc Việt Nam lại rơi vào
cái cảnh "tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa" và lịch sử sẽ
kết án bọn người này vì quyền lợi riêng mà đã "rước voi về
giày mã tổ". Cái gương của tên bạo chúa phản
thần Ngô Đình Diệm thành công trong việc rước hai
con voi Vatican và Hoa Kỳ về thay thế cho Liên Minh Pháp - Vatican
để tiếp tục giày mả tổ Việt Nam trong những năm 1954-1975 là bằng
chứng rõ ràng nhất cho sự kiện này. Chính vì thế mà sách sử mới
khẳng định rằng Ngô Đình Diệm là
một trong số 100 tên bạo chúa độc ác trong lịch sử nhân loại.[22]
CHÚ THÍCH
[1] Ngô Văn, Việt Nam
1920-1945 (Montreuil, Pháp: L’ Insomniaque, 2000), tr. 292-293.
[2] Hoàng Cơ Thụy,
Việt Sử Khảo Luận - Cuốn 4 (Paris: Nam Á, 2002), tr. 2076.
[3] Nghiêm Kế Tổ, Việt
Nam Máu Lửa (Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1989), tr. 89.
[4] Bùi Đức Sinh, Lịch
Sử Giáo Hội Cộng Giáo – Phần Nhì (Sàigòn: Chân lý, 1972), tr.
165.
[5] Trần Chung Ngọc,
Đức Tin Công Giáo (Garden Groive, CA: Giao Điểm, 2000), 287.
[6] Nhiều tác giả,
Vatican Thú Tội và Xin Lỗi? (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000),
tr.92.
[7]Trần Chung Ngọc, Sđd.,
tr. 287.
[8] Trần Chung Ngọc, Sđd.,
292.
[9] Trần Chung Ngọc,
Sđd., tr. 192.
[10] Trần Chung Ngọc,
Sđd., tr. 300.
[11] (J.E. Boshier, The
French Revolution (New York: W. W Norton & Company, 1988), p 155.
[12]
( Nhiều tác
giả, Sđd., tr. 242-245).
[13] Nguyễn Mạnh Quang,
Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư (Houston, TX: Văn Hóa,
2000 ) tr. 340-341.
[14] Bernard B. Fall,
The Two Viet Nams (New York: Frederick A. Praeger, 1964), pp.
63-64.
[15] Võ Nguyên Giáp,
Những Năm Tháng Không Thể Nào Quên (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Quân
Đội Nhân Dân, 2001), tr. 31.
[16] Võ Nguyên Giáp, Sđd.,
tr. 32-34 .
[17] Hoàng Cơ Thụy, Sđd.,
tr. 2029.
[18] Hoàng Cơ Thụy, Sđd.,
tr. 1964.
[19] Hoàng Cơ Thụy, Sđd.,
tr. 1964.
[20] Nguồn: Tạp Chí Cách
Mạng Số 52 Của Đại Việt Cách Mạng Đảng (www.daiviet.org) Ngày 29/6/2006.
[21] Lê Xuân Khoa, Việt
Nam 1945-1995 - Tập I (Bethesda, MD, Tiên Rồng, 2004)., tr.
71-74.
[22] Nigel Cawthorne,
Tyrants History's 100 Most Evil Despots & Dictators
(London: Arcturus, 2004), pp. 167-168.
Các bài trong tập sách Chân Dung VNCH
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 02: Tính Cách Thuận Lý của Chính Quyền -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 02a: Tính Cách Thuận Lý của Chính Quyền -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 02b: Tính Cách Thuận Lý của Chính Quyền -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 07a: Đặc Tính -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 02c: Tính Cách Thuận Lý của Chính Quyền -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03a: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03b: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03c: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03d: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 05: Đại Việt, Lập Hiến Đông Dương và Việt Nam Qu -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 06: Việt Quốc và Việt Cách -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 06a: Phụ Bản -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 07: Đặc Tính -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 07b: Không Dám Đối Đầu Sự Thật -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 08: Chính Sách Ngu Dân Và Giáo Dục Nhồi Sọ -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 08a: Chính Sách Ngu Dân Và Nhồi Sọ -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 09: Tác Dụng Của Chính Sách Ngu Dân -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 10: Di Lụy Của Chính Sách Ngu Dân -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 10a: Di Lụy Của Chính Sách Ngu Dân -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 1
2 ▪
>>>