Chân Dung "Người Việt Quốc Gia"
Và Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ
Nguyễn Mạnh Quang
http://sachhiem.net/NMQ/ChanDungVNCH/QMN09.php
bản in
mục lục
đăng ngày 08 tháng 6, 2008
Toàn tập: Dàn bài
CHƯƠNG 9
Tác Dụng Của Chính Sách Ngu Dân Và Nhồi Sọ
Đối Với Tín Đồ Ca-Tô

Tác dụng của chính sách ngu
dân và giáo dục nhồi sọ của Giáo Hội La Mã đối với tín đồ Ca-tô
ít học sống trong các xóm đạo, thật là hết sức hữu hiệu và cực kỳ ghê gớm. Việc nhồi sọ hay cấy
vào đầu óc mọi tín đồ những tín lý
Ki-tô, giáo luật và lời dạy của Vaican được thi
hành triệt để và hết sức ráo riết ở bất kỳ hoàn cảnh nào và bất cứ nơi
nào như trong gia đình, trong lớp học (các trường đạo) và đặc biệt là
trong nhà thờ. Tình trạng này đã biến tín đồ thành những người bị điều
kiện hóa, lúc nào cũng phải nghĩ đến Giáo Hội, nghĩ đến nhà thờ, nghĩ
đến Chúa và nước Trời (tức là Vatican). Họ tin rằng luôn luôn nghĩ như
thế là luôn luôn được tiếp cận với Chúa và có như thế mới hy vọng được
Chúa nhậm lời đoái thương mà ban phước lành cho họ, đúng như lời nhà văn
Ca-tô Nguyễn Ngọc Ngạn đã kể lại nơi trang 148 trong cuốn Xóm Đạo và
được ghi lại trong phần gần chót trong Chương 8 ở trên.
Những việc làm nhồi sọ
này đã biến tín đồ Ca-tô thành những người lúc nào cũng mơ màng nghĩ về
nước Chúa để phục vụ cho nhà Chúa tức là phục vụ cho Nhà Nước Vatican.
Cũng nên biết rằng, đối với những người theo đạo Ca-tô, tất
cả các vị chức sắc trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội từ giáo hoàng
ngự trị trong Tòa Thánh Vatican và các vị chức sắc cap cấp trong Tòa
Thánh Vatican cho đến các hồng y, tổng giám mục, giám mục xuống tới các
linh mục đều là đại diện cho Chúa ở bất cứ nơi nào, vào bất cứ lúc nào
và ở trong bất cứ hoàn cảnh hay tình huống nào. Như vậy, câu nói “tín
đồ Ca-tô làm cái gì cũng sợ tội và sợ Chúa trừng phạt” mà nhà văn
Nguyễn Ngọc Ngạn đã nói ở nơi trang 71 trong tác phẩm Xóm Đạo của ông,
đúng ra trong thực tế phải nói là “tín đồ làm cái gì cũng sợ tội và sợ
Giáo Hội hay các ông tu sĩ của Giáo Hội trừng phạt”.
Cái tâm trạng lúc nào sợ Giáo Hội và sợ các ông tu sĩ của
Giáo Hội trừng phạt đã khiến cho họ mỗi khi thấy bóng dáng của các ông
tu sĩ hay khi phải trình bày một vấn đề gì với các ngài, họ cũng run sợ
như một tên nô lệ phải đối diện với một đại quan trong thời chế độ
phong kiến quân chủ trung ương tập quyền. Đây là chuyện có thật 100% xẩy
ra ở trong các xóm đạo hay họ đạo trên toàn cõi Việt Nam trước tháng 7
năm 1954, ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 và ở trong các
cộng đồng Ca-tô người Việt ở Hoa Kỳ hiện nay. Bằng chứng là ông Ca-tô
Nguyễn Mậu đã viết như sau:
”Vấn đề được nêu
lên ở đây với tất cả mạo muội và run sợ vì có thể bị xem như
là vô lễ phạm thượng. Chúng tôi trông vào sự độ lượng của hàng giáo
phẩm cũng như hy vọng rằng sự trưởng thành của giáo dân ở thời đại này
sẽ giúp thật nhiều cho sự thể hiện lý tưởng Ki tô hữu.”[1] Nguyễn Mậu: "Thời
Sự Trong Tuần" Chính Nghĩa - Bộ Mới Số 251 [San Jose,
California] ngày 03/12/1994.
Nhờ đã làm cho tín đồ
Ca-tô lúc nào cũng run sợ, sợ bị Giáo Hội trừng phạt, sợ bị các ông tu
sĩ trừng phạt, cho nên Giáo Hội mới dễ dàng ra lệnh cho họ chống lại tổ
quốc và dân tộc Việt Nam mà họ vẫn phải tuân hành với lòng hăng say và
vui sướng, không hề cảm thấy là có tội với tổ quốc, có tội với tiền
nhân, có tội với dân tộc, và có tội với lương tâm của họ. Họ đã làm như
vậy trong suốt chiều dài lịch sử từ năm 1858 cho đến ngày 30/4/1975 và
cho đến ngày nay họ vẫn còn tiếp tục làm như vậy. Sự kiện này cho chúng
ta thấy rõ chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Giáo Hội La Mã đã
làm cho tín đồ Ca-tô nói chung, và tín đồ Ca-tô người Việt nói riêng mất
hết nhân tính, mất hết tình yêu đối với dân tộc, mất hết tình yêu với tổ
quốc và mất hết lương tâm của con người.
Nhờ đã làm cho tín đồ
mất hết nhân tính, mất hết tình yêu đối với tổ quốc và mất hết lương tâm
của con người, Giáo Hội mới dễ dàng ra lệnh cho họ đem quân lính thập tự đi tàn
sát những nhóm dân nào là họ nhắm mắt lao đầu vào làm giống như “những tên sát nhân cuồng
nhiệt.”
Xin đọc thêm Chương 7 ở trên (trong sách này) và Chương 7
trong Phần II sách Người Việt Nam & Đạo Jesus đã được đưa lên
sachhiem.net từ tháng 12/2007 để biệt nhiều hơn về cái đặc tính dã man
của tín đồ Ca-tô khi họ trở thành “những tên sát nhân cuồng
nhiệt.”
Linh Mục Trần Tam Tỉnh gọi họ là “những tên sát nhân
cuồng nhiệt”, nhà báo Long Ân gọi họ là bọn người “cúi đầu trên
bốn chân để từ con người trở về với con người súc sinh", và nhà
viết sử Loraine Boettner gọi họ là “những con cọp dữ”:
“Rome in the minority is a lamb (Khi là thiểu số, Giáo
Hội La Mã là con cừu).
Rome as an equal is a
fox (khi ngang số, Giáo Hội La Mã La Mã là con cáo).
Rome in the majority is a tiger (khi chiếm đa số, Giáo Hội La Mã là con
cọp.)”[2]
Hiện nay, ở trong các cộng đồng người Việt hải ngoại, họ là
những con cọp dữ đã liên tục cấu xé Việt kiều từ đầu thập niên 1980 đến
ngày nay. Ở trong nước, họ là bầy cáo già đang chống phá tổ quốc và
dân tộc ta bằng cách gây rối tạo nên tình trạng bất ổn theo sách lược “quậy
cho nước đục để thả câu” của Vatican, giống như ông cha họ đã làm
trong thế kỷ 19 với mục đích làm cho Việt Nam trở thành bất ổn để cho
Vatican vận động ngoại cường đem quân vào cưỡng chiếm nước ta hay dùng
áp lực để chèn ép chính quyền Việt Nam hiện nay. Bằng chứng rõ ràng cho
sự thật này là:
1.- Linh-mục Nguyễn Văn Lý chiếm đất bất hợp pháp và gây rối
tại nhà thờ Nguyệt Biều (Thừa hiên) hồi năm 2001.
2.- Cái gọi là “Khối 8406” của Linh Mục Nguyễn Văn Lý,
Linh-mục Phan Văn Lợi, và các giáo dân Lê Thị Công Nhân và Nguyễn Văn
Đài đã và đang đánh phá chính quyền từ ngày được cho ra đời vào ngày
8/4/2006 cho đến nay.
3.- Giám-mục Ngô Quang Kiệt xúi giục giáo dân Ki-tô tụ tập
bất hợp pháp thắp nến cầu nguyện tại cổng trước trụ sở công quyền tại số
42 Phố Nhà Chung Hà Nội rồi dùng xà beng, búa, kìm để phá cổng, đập
tường tòa nhà này trong những ngày từ 18/12/2007 cho đến ngày 30/1/2008.
4.- Giám Mục Ngô Quang Kiệt và Linh-mục Vũ Khởi Phụng chánh xứ quản
nhiệm giáo dân họ đạo Ấp Thái Hà tụ tập bất hợp pháp nơi Công Ty
May Chiến Thắng tọa lạc tại số 180 Đường Nguyền Lương Bằng rồi
dùng cà beng, búa kìm và xà beng phá tường tràn vào nội địa của cơ sở
này, dựng tường Bà Maria, cắm Thánh Giá, thiết lập bàn thờ và cầu nguyện
với mục đích gây rối và chống chính quyền từ ngày 15/8/2008 cho đến nay
(12/9/2008) vẫn chưa chấm dứt.
Những hành động ngược ngạo bất tuân luật pháp này của họ
giống y hệt như những hành động của ông cha họ đánh phá triều đình nhà
Nguyễn và tổ quốc Việt Nam chúng ta trong hồi thế kỷ 19.
Phần trình bày trên đây cho thấy rằng, bằng chính sách ngu dân và giáo
dục nhồi sọ, Giáo Hội La Mã đã biến tín đồ Ca-tô (và cả người dân tiếp
nhận sở học của họ qua chính sách ngu dân của Giáo Hội) thành những
người ngu dốt toàn diện, giống như con người vô học trong thời Thượng Cổ
trong các thời ông Moses và thời ông Jesus.
Vấn đề đặt ra là TẠI SAO Giáo Hội La Mã hay Tòa Thánh
Vatican lại có chủ trương thi hành chính sách dã man như vậy?
Để tìm ra lời giải đáp
vấn để này, thiết tưởng là phải nói chủ trương thần quyền chỉ đạo thế
quyền, cùng chính sách bất khoan dung (đối với những nhóm dân thuộc các
tôn giáo khác) và tham vọng bá chủ toàn cầu của Giáo Hội La Mã hay Tòa
Thánh Vatican. Chủ trương ngược ngao này cũng như chính sách dã man và
tham vọng bất chính của Giáo Hội được thể hiện ra qua những thánh lệnh
hay sắc chỉ mà Giáo Hội ban hành trong thế kỷ 15. Hầu hết những thánh
lệnh hay sắc chỉ này đã được sử gia Nguyên Vũ (tức Vũ Ngự Chiêu) ghi
lại khá đầy đủ nơi các trang 389-396 trong cuốn Ngàn Năm Soi Mặt
(Houston, TX: Văn Hóa, 2002). Một trong những
thánh lệnh hay sắc chỉ này là Sắc Chỉ Romanus Pontifex đã được ghi lại
nơi Chương 7 ở trên.
Vì có tham vọng bá quyền thống trị toàn cầu bằng hệ thống
thần học Ki-tô (để phỉnh gạt) và bằng bạo lực (để cưỡng chiếm đất đai
làm thuộc địa và cưỡng bách các dân tộc nạn nhân làm nô lệ), Giáo Hội cần
phải có những đạo quân tiền phong và cũng là đạo quân thứ 5 nằm tiềm
phục trong các quốc gia bị chiếu cố (nằm ngoài vòng kiểm soát của Giáo
Hội, tức là các quốc gia mà chính quyền không chịu cúi đầu khuất phục
Tòa Thánh Vatican). Những đạo quân thứ 5 này sẽ trở thành lực lượng xung
kích khi được lệnh của Vatican nổi dậy để gây loạn và cướp chính quyền.
Để có thể thực được ý đồ bất chính và dã man này, Vatican
phải trông cậy vào thành phần nào trong dân chúng để cung ứng nhân sự
cho việc thành lập các đạo quân thứ 5 hay các lực lượng xung kích như
trên?
Không cần phải có trình độ học vấn cao rộng, một em bé mới
học xong bậc tiểu học cũng có thể nhìn ra lời giải đáp cho vấn đề này.
Đó là tín đồ và nhân dân dưới quyền kiểm soát của Giáo Hội.
Vấn đề là nếu có quyền lực thì dùng bạo lực hay miếng mồi
danh và lợi của chính quyền để cưỡng bách hay lôi cuốn người dân theo
đạo (theo đạo lấy gạo mà ăn và theo đạo tạo danh đời) phục vụ cho
Vatican, thì quả thật là một điều tương đối khá dễ dàng. Nhưng nếu chỉ
dùng bạo lực và danh lợi để cưỡng bách hay lôi cuốn người dân theo đạo
phục vụ cho Vatican, thì khi quyền lực và danh lợi không còn nữa hay bị
những thế lực đối nghịch lấn lướt, thì họ (những người bị cưỡng bách
hay bi lôi cuốn theo đạo vì miếng mồi danh lợi) sẽ, nếu không chống lại
Vatican một cách công khai, thì cũng lẳng lặng lảng tránh, hoặc là chạy
sang hàng ngũ thế lực thù địch. Đây là quy luật tâm lý, quy luật xã hội
và cũng là quy luật lịch sử.
Đọc lịch sử Việt Nam thời hiện đại, chúng ta thấy rằng
những người bản địa Đông Dương tham gia vào ngũ Liên Minh Xâm Lược Pháp
– Vatican và Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican chỉ vì lợi và danh, cho nên đến
khi hai thế lực này suy yếu không còn khả năng tiếp tục cung ứng cho họ
những thứ lợi và danh mà họ theo đuổi hay ở vào thế nguy hiểm thì họ bỏ
trốn. Bằng chứng là chuyện bỏ trốn hàng ngũ của những người Thái Đen,
Thái Trắng ở vùng Sơn La, Lai Châu, lính Việt Nam, lính Bắc Phi, lính Lê
Dương trong quân đội đánh thuê cho Liên Minh Pháp – Vatican tại tập đoàn cứ điểm Điên Biên Phủ trong
thời gian từ lúc 5 giờ
sáng ngày 20/11/1953 cho đến khi Tướng de Castries từ trong hầm chỉ huy
chui ra dơ tay đầu hàng toán quân Viêt Nam Kháng Chiến dưới quyền chỉ
huy Đại Úy Tạ Quang Luật và Trung Đội Trưởng Chu Bá Thế vào lúc 17 giờ
40 ngày 7/5/1954 là những bằng chứng rõ ràng nhất cho chúng ta thấy rõ
bài học này. Bernard B. Fall, Hell In A Very Small Place (Cambridge,
MA: De Capro Press, 1985), pp.112, 163-164, 208-209 và 453. Chuyên bỏ
trốn như vậy lại xẩy ra trong hàng ngũ những người Việt Nam trong đạo
quân đánh thuê cho Liên Minh Pháp – Vatican ở Bắc và Trung Bộ Việt Nam
trong những ngày cuối tháng 6 năm 1954 khi Thỏa Hiệp Genève 1954 sắp
được ký kết, rồi lại tái diễn một lần nữa trong đạo quân đánh thuê cho
Liên Minh Mỹ - Vatican ở miền Nam Việt Nam trong những ngày từ 11/3/1975
cho đến ngày 30/4/1975.
Với kinh nghiêm đã lăn lộn trên chính trường và chiến trường
từ thế kỷ 4, Giáo Hội La Mã biết rõ như vậy, cho nên Vatican không
những luôn luôn chủ trương dùng bạo lực để cưỡng ép và dùng những miếng
mồi danh lợi để cưỡng ép, câu nhử và lôi cuốn người dân theo
đạo
và phục vụ cho Giáo Hội, mà còn là phải thi hành chính sách ngu dân để
biến tín đồ thành những người bị điều kiện hóa giống như con chó của nhà
bác học Pavlov, nghĩa là làm cho họ thành những người siêu cuồng tín,
siêu ngu xuẩn, ngu xuẩn toàn diện, giống như Giáo Hội đã làm và đã thành
công trong việc rèn luyện tín đồ Ca-tô người Việt mà nhà văn Nguyễn Ngọc
Ngạn đã ghi nhận nơi trang 148 cuốn Xóm Đạo và đã được ghi lại trong
Chương 8 ở trên. Lý do: Dùng bạo lực để cưỡng ép và dùng miếng mồi danh
lợi để câu nhử hay dụ khị những người tham lợi, háo danh và thèm
khát quyền lực chạy theo bắt mồi mà vào đạo thì chỉ là hạ sách, có tính
cách đoản kỳ (gọi là mì ăn liền). Còn thượng sach phải là làm cho tín đồ
hay người dân dưới quyền liều chết trung thành và sống chết chiến đấu
cho Giáo Hội. Đó là chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Vatican.
Chính nhờ vào cái chính sách ngu dân này, Vatican đã thành công trong
việc biến người dân Việt Nam hiền lành thành những người giết người hết
sức dã man như phanh ngực ra, moi lấy mật đem hòa với rượu, lấy gan xẻo
từng miếng đem nướng rồi cùng ngồi với nhau nhậu hả hê rượu ấy với gan
người nướng ấy một cách rất là hồn nhiên và thích thú. Cửu Long Lê Trọng
Văn, Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng Hay Đến Bờ Ảo Vọng (San Diego,
CA: Mẹ Việt Nam, 1996), tr. 188-193.
Và cũng nhờ vào chính sách ngu dân này, Vatican đã thành
công biến tín đồ thành những người vong bản phản lại tổ quốc, và dám bảo
nhau rằng “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa” mà không biết
nhục, giết những
người khác tôn giáo không biết gớm tay, nhắm mắt tin theo lệnh truyền
của các đấng bề trên của họ bất kể là dã man hay bạo ngược đến đâu đi
nữa, họ cũng giết người, giết người để tỏ lòng trung thành với Tòa Thánh
Vatican với chiêu bài là “bảo vệ đức tin Ki-tô” và “bảo vệ
nhà thờ” của họ. Sự kiên này được Linh-muc Trần Tam Tỉnh ghi lại
trong cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm với nguyên văn như sau:
“Ngọai trừ các cụm
nhà thành thị dân chúng sống lẫn lộn, người Công Giáo thường được tập
trung lại thành làng xóm riêng, tách rời khỏi người lương, sống chen
chúc quanh tháp nhà thờ xây theo kiểu Tây, chọc lên trời, cao vượt khỏi
lũy tre. Bị đóng khung và được đoàn ngũ hóa bởi hàng giáo sĩ, họ trở
thành một lực lượng quần chúng, một lực lượng đáng ghê sợ khi cha xứ
kêu gọi họ đứng lên bảo vệ đức tin, bảo vệ nhà thờ. Hệ thống ốc
đảo đó tách biệt và cô lập phần lớn giáo dân khỏi liên hệ với đồng bào,
thúc đẩy họ từ khước, tẩy chay bất cứ điều gì không được Giáo Hội chính
thức phê chuẩn, chẳng hạn sách Truyện Kiều, một kiệt tác văn thơ cổ
điển của Việt Nam, hoặc các tài liệu cách mạng đều bị cho là ngược với
đạo. Cac sách của Voltaire, Montesquieu, khỏi nói tới Các Mac, vừa bị
nhà nước thuộc địa cấm, vừa bị giáo luật khai trừ, nhưng ngay cuốn sách
thánh đã dịch ra tiếng bản xứ mà cũng chẳng ai được biết đến (có một
bản sách thánh in bằng hai thứ tiếng La Tinh và Việt ngữ, khổ lớn, nằm
trong thư viện các chủng viện và một vài cha xứ, còn giáo dân thì không
thể rờ tới.…”[3]
"Chạy trốn để
cứu lấy mạng sống và cứu lấy đức tin". "Chúa Kitô đã đi vào Nam". "Đức
Mẹ đã rời bỏ Bắc Việt". Những khẩu hiệu phi lý đó làm cho người Kitô Tây
Phương phải mỉm cười, nhưng lại có tác dụng rất lớn nơi một cộng đồng
Kitô hữu đã từng bị giam nhốt xưa nay trong sự ngu dốt và trong kiểu
tin đạo nói được là thời Trung Cổ. Trong cái ốc đảo khép kín đó của Giáo
dân, những gì gọi là "Bí mật của Đức Mẹ Fatima đều được coi như là tín
điều bắt buộc, đang khi nó chỉ dựa vào một mớ tài liệu tuyên truyền nhảm
nhí. Nếu những năm 1949-1953, các linh mục đã thề biến Giáo dân hiền
lành vô tội đó thành những tên sát nhân cuồng nhiệt nhờ khẩu hiệu "Tiêu
diệt Cộng Sản để làm vinh danh Chúa", thì họ cũng chẳng khó khăn gì
trong việc tạo ra cuộc "Xuất hành vĩ đại" vào những năm 1954-1955. Hiển
nhiên là người nông dân Việt Nam sống gắn bó với ruộng đất của tổ tiên,
với mái nhà, với mảnh vườn, với nhà thờ và làng xóm hơn nông dân ở các
nước khác nhiều. Nhưng họ lại dám từ bỏ tất cả mọi sự để bảo vệ đức tin,
nhất là khi các cha xứ của họ lại bảo đảm với họ rằng tại Miền Nam có
một vị thủ tướng Công Giáo đang chờ đón họ và sẽ cấp cho họ những vùng
đất phì nhiêu để làm ăn. Và khối dân chúng một khi đã bước chân ra đi,
thì không gì có thể ngăn cản họ lại. Thế là với những áp lực đủ kiểu đủ
cách, nhờ một lối tuyên truyền xảo trá, tạo ra một cơn hốt hoảng tinh
thần nơi dân chúng Công Giáo, người ta đã thành công đưa vào Nam hàng
trăm ngàn nông dân, bởi vì khối di cư Công Giáo sẽ là một lực lượng
chính trị to lớn hỗ trợ cho chính phủ Ngô Đình Diệm."[4]
Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ cải bản chất
của tín đồ Ca-tô người Việt:
a.- Tuy là mang danh nghĩa là người Việt, nói tiếng Việt,
nhưng trong thực tế, họ đã bán linh hồn cho cái thế lực mà văn hào
Voltaire gọi là “cái tôn giáo ác ôn”. Đi theo “cái tôn giáo ác ôn” này,
tất nhiên là tất cả những suy tư và hành động của họ đều có tính cách
“ác ôn”. Những kẻ mang cái đặc tính “ác ôn” trong người đều là những
hạng người mất hết tính người, mất hết lương tâm và mất hết liêm sỉ. Đã
mất hết tính người, mất hết lương tâm và liêm sỉ thì tất nhiên là không
còn biết tổ quốc và dân tộc là gì nữa! Hành động mới nhất trong số
hàng trăm ngàn hành động chứng tỏ rằng tín đồ Ca-tô người Việt không còn
biết tổ quốc và dân tộc, mà chỉ biết co Vatican được ông Bernard Chang
ghi nhận như sau:
“Mẹ & Chúa được khai thác triệt để bất chấp Điều răn. -Điều răn số 3 của jehovah, chúa trời
còn đó: Ngươi chớ lấy danh của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi mà làm chơi; vì
Đức Giê-hô-va không cầm bằng vô tội kẻ nào lấy danh Ngài mà làm chơi.
Thế mà bọn chủ chăn cứ xúi đám chiên ngu làm càn.
Chương trình thời sự trên VTV1 tối nay đưa tin, đám giáo
dân ca tô thuộc GX Thái Hà – Hà Nội lại bạo loạn. Bọn họ đã bất chấp
luật pháp, xong vào đập phá nhà xưởng của một Xí nghiệp đang hoạt động
sản xuất.
Điều ô nhục nhất là đám giáo dân ca tô lại đem hình tượng
bà Maria cùng con trai của bà là Jesus ra thiết bàn thờ và cầu nguyện ở
nơi mà bọn họ vừa đập phá.
Việc thờ tự là thể hiện sự kính trọng những nhân vật, biểu
tượng được thờ tự. Vậy việc thờ tự phải được thực hiện ở nơi trang
nghiêm. Vậy mà các chủ chăn, vì lợi ích hay thừa hành mệnh lệnh của tòa
Vatican mà xúi giáo dân phỉ báng, phỉ nhổ lên những hình tượng mà bọn họ
đã cuồng tín tôn thờ - Maria & Jesus.
Qua hình ảnh trên TV, BC tôi thấy những bàn thờ Maria &
Jesus được thiết lập ngay cạnh những hố rác. Thế mà bọn họ cũng cầu
nguyện với khói nhang nghi ngút.
Thế thì việc đem hình tượng chúa 3 ngôi ra làm trò hề kiểu
này Jehovah chúa trời có phạt nổi không?
Cũng trong hành động cuồng tín, ngu xuẩn này, đám giáo dân
ca tô còn đem nước thánh tưới đến bất kỳ nhà ai mà bọn họ muốn. Nước
thánh này là nước gì, múc được ở đâu, ai sản xuất nước thánh? Một sự tự
sỉ nhục vô cùng tồi tệ.
Vì sao trong thời gian qua liên tục có những sự kiện tụ
tập, gây bạo loạn của giáo dân ca tô dưới nhiều hình thức? Những sự vụ
quậy phá này thường tiếp theo sau sự gây hấn của phía Trung Quốc. Chắc
chắn đây không phải là một sự ngẩu nhiên, mà là một nước cờ đã được soạn
sẳn. Ngoài những tin đồn tạo đám đông tại các địa phương, xóm đạo tại
miền nam, cánh chủ chăn lại kích động tập thể giáo dân lì lợm bạo loạn
ngay tại thủ đô. Những động thái này nhằm nhắc nhở nhà nước VN về cái gì
đây? Những vị thạo tin hãy trả lời giùm.”
[5]
b.- Họ chỉ là những người mang hình hài người Việt, mang tên
Việt Nam, nói tiếng Việt, nhưng thực sự họ luôn luôn tự coi là “con
dân nước Chúa”, nước Vatican của họ và sống chết cho nước Vatican.
Họ đâu có nhận họ là con dân nước Việt Nam! Có bao giờ họ nói quyết tâm
sống chết cho tổ quốc và dân tộc Việt Nam để chống lại Liên Minh Xâm
Lược Pháp – Vatican hay chống lại Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican đâu?
Những khẩu hiệu “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa” và “Nhất
Chúa, nhì Cha, thứ ba Ngô Tổng Thống”[6] của họ cùng với những hành động
cấu kết chặt chẽ với Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican và cấu kết Liên
Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican chống lại tổ quốc và dân tộc ta trong suốt
chiều lịch sử từ cuối thế kỷ 18 (thời điểm Giám Mục Pigneau de Béhaine
nhận lãnh nhiệm vụ đem Hoàng Tử Cảnh sang Pháp cầu viện cho Nguyễn Phúc
Ánh) cho đến ngày nay là những bằng chứng rõ ràng nhất nói lên sự thật
này.
c.- Họ tự nhận là “con chiên” hay “con cừu” của Giáo Hội La
Mã, cái Giáo Hội mà học giả Henri Guillemin gọi là “Cái Giáo Hội Khốn
Nạn”. Con chiên hay con cừu đều là một loài thú đi trên bốn chân mà
người ta thường gọi là loài súc sinh. Đã là loài súc sinh mà lại là loài
súc sinh của “Cái Giáo Hội Khốn Nạn” thì làm gì có lương tâm và
làm gì có liêm sỉ? Đã không có lương tâm và cũng không có liêm sỉ, thì
tất nhiên là không biết nhục là gì nữa!
Chú Thích
[1] Nguyễn Mậu: "Thời Sự Trong
Tuần" Chính Nghĩa - Bộ Mới Số 251 [San Jose, California]
ngày 03/12/1994.
[2]Loraine
Boettner, Roman Catholicism (Phillipsburg, New Jersey
Presbyterian and Reformed Publishing Company, 1962), p.424.
[3]
Trần Tam
Tỉnh, Thập Giá Và Lưỡi Gươm (Paris: Sudestasie, 1978),
tr. 54.
[4]
Trần Tam
Tỉnh, sđd, tr 104.
[6]
Nguyễn Ngọc
Ngạn, Xóm Đạo (Đông Kinh, Nhật Bản: Tân Văn 2003), tr.
18.
Các bài trong tập sách Chân Dung VNCH
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 02: Tính Cách Thuận Lý của Chính Quyền -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 02a: Tính Cách Thuận Lý của Chính Quyền -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 02b: Tính Cách Thuận Lý của Chính Quyền -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 07a: Đặc Tính -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 02c: Tính Cách Thuận Lý của Chính Quyền -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03a: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03b: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03c: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 03d: Đặc Tính Những Lá Cờ Chính Nghĩa -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 05: Đại Việt, Lập Hiến Đông Dương và Việt Nam Qu -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 06: Việt Quốc và Việt Cách -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 06a: Phụ Bản -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 07: Đặc Tính -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 07b: Không Dám Đối Đầu Sự Thật -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 08: Chính Sách Ngu Dân Và Giáo Dục Nhồi Sọ -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 08a: Chính Sách Ngu Dân Và Nhồi Sọ -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 09: Tác Dụng Của Chính Sách Ngu Dân -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 10: Di Lụy Của Chính Sách Ngu Dân -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Chân Dung NGQG 10a: Di Lụy Của Chính Sách Ngu Dân -
Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 1
2 ▪
>>>