Chân Dung "Người Việt Quốc Gia"
Và Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ
Nguyễn Mạnh Quang
|
trở ra mục lục | 08 tháng 8, 2008
Toàn tập: Dàn bài
Chương 7: 1 2
3
CHƯƠNG 7
Chân dung những người tự nhận là người Việt Quốc Gia
Trong Chương này:
1.- Xuất xứ hay nguồn gốc,
2.- Thành phần xã hội của những người tự nhận là người Việt Quốc Gia
3.- Những đặc tính
chung của những người tự nhận là người Việt Quốc Gia.
4.- Không dám đối đầu
với sự thật, thường trực sống trong ảo tưởng và lừa bịp, rồi trở thành
những tay tổ lừa bịp.
5.- Phương cách bóp méo lịch sử để lấp liếm tội ác phản quốc, lừa bịp và lường gạt.
6.- Bản cáo trạng lịch sử.
A.- XUẤT XỨ HAY NGUỒN
GỐC
Tìm hiểu lịch sử Giáo
Hội La Mã, lịch sử nước Pháp và lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện
đại, chúng ta thấy rằng Vatican là thế lực vốn đã có mưu đồ bá quyền với
chủ trương thống trị toàn cầu và nô lệ hóa nhân loại. Mưu đồ này đã được
thể hiện ra qua hàng loạt sắc chỉ được bàn hành trong thế kỷ 15
(sẽ nói riox ở sau). Vatican chủ trương phải dùng bạo lực
chuyên chính của nhà nước gọi là chế độ Giáo Hoàng (Papacy) hay
là chế độ đạo phiệt Ki-tô, tiếp theo là phải thi hành
chính sách bất khoan dung đối với các nhóm dân thuôc các tôn giáo và văn
hóa khác với hệ thống thần
học Ki-tô [nặng tính cách lừa bịp, phỉnh gạt và hù dọa] .
Mưu đồ bất chính này được thể hiện bằng hàng loạt sắc chỉ
hay thánh lệnh của Vatican ban hành trong thế kỷ 15. Những sắc chỉ hay thánh lệnh này được nhà viết sử Vũ Ngự Chiêu dưới bút
hiệu Nguyên Vũ ghi lại tương đối đầy đủ nơi các trang 389-390 trong cuốn
Ngàn Năm Soi Mặt (Houston, Texas: Văn Hóa, 2002). Chủ đề hay nội dung của các sắc
chỉ trên đây đại khái gần giống như Sắc Chỉ Romanus Pontifex được
Vatican ban hành vào ngày 8/1/1454 trong thời Giáo Hoàng Nicholas V
(1447-1455). Sắc chỉ này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh nói khá rõ nơi các
trang 14-15 trong cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm (Paris: Sudestasie, 1978).
Xem lại Chương 5, Mục B nói về Việt Nam Quang Phục hay Đại Việt Phục Hội
ở trên.
Để có thể đạt được mưu
đồ ăn cướp dã man này, Vatican sử dụng kế sách cấu kết với các cường
quyền và các đế quốc thực dân xâm lược rồi dựa vào các thế lực này để
củng cố, bành trướng thế lực và thiết lập các chế độ đạo phiệt Ca-tô
tại các địa phương mà quyền lực của Vatican vươn tới. Vấn đề này đã được
trình bày rõ ràng nơi Chương 6, Mục III, Phần II trong bộ sách Lịch Sử
và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã. Chương sách này đã được đưa lên
sachhiem.net và giaodiemonline.com từ tháng 9/2007.
Theo kế sách này,
Vatican cho người đến Paris vận động với chính quyền Pháp liên kết với
Vatican và xuất quân đánh chiếm Việt Nam làm thuộc địa để cùng thống
trị và cùng cưỡng bách dân ta làm nô lệ. Vatican đã phải vận động Pháp
tới lần thứ 3 và mãi tới năm 1858 Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican mới
thực sự thành hình và xuất quân tấn chiếm Việt Nam theo tinh thần sắc
chỉ Romanus Pontifex như đã nói ở trên. Vấn đề này đã được trình bày rõ
ràng trong các Mục VII, VIII, IX và X, Phần III trong bộ sách Lịch Sử và
Hồ Sơ Tội Ác Giáo Hội La Mã, và tất cả Phần III này đã được đưa lên
sachhiem.net và giaodiemonline.com từ tháng 1/2008.
Liên minh chính trị
của hai đế quốc Pháp và Vatican nói trên còn được gọi là một liên minh
thánh (a holy alliance). Trong thực tế, nó giống như một công ty hợp
doanh mà phần hùn của Pháp là xuất quân đánh chiếm Việt Nam và bỏ tiền
ra bao giàn tất cả mọi tốn phí cho đoàn quân viễn chinh này. Phần hùn
của Vatican là:
1.- Cung cấp tin tức
tình báo chiến lược cần thiết cho việc đánh chiếm Việt Nam,
2.- Cung ứng các đạo
quân thứ 5 nằm tiềm phục sẵn trong các xóm đạo hay làng đạo rải rác khắp
nơi trên toàn lãnh thổ Việt Nam để sẵn sàng nổi dậy tiếp ứng khi Liên
Quân Pháp - Vatican tiến đến tấn công.
3.- Cung ứng nhân sự
bản địa (tín đồ Ca-tô người Việt) để làm những công việc thông ngôn, đưa đường chỉ
lối cho Liên Quân Pháp - Vatican trong những chiến dịch tấn chiếm Việt
Nam cũng như trong các chiến dịch bình định đánh dẹp các lực lượng nghĩa
quân kháng chiến bản địa.
4.- Cung ứng nhân sự
(tín đồ Ca-tô người Việt) để phục dịch trong bộ máy đàn áp nhân dân ta trong các
ngành quân sự, hành chánh, cảnh sát, công an và mật vụ.
Hầu hết những nhân sự
người Việt mà Vatican cung ứng để làm việc cho Liên Minh Xâm Lược Pháp –
Vatican trong những chiến dịch tấn chiếm nước ta cũng như trong những
chiến dịch tấn công hay đánh dẹp các lực lương nghĩa quân Việt Nam và
làm việc trong bộ máy đàn áp nhân dân ta đều là tín đồ Ca-tô người Việt.
Nổi bật nhất trong bọn Việt gian này Lê Phát Đạt (Huyện Sĩ), Ngô Đình
Khả, Trần Bá Lộc (Tổng Đốc Lộc), Lê Hoan, Đỗ Hữu Vị tức Đỗ Hữu Phương
(Tổng Đốc Phương), Trần Lục (linh mục), Nguyễn Hoằng (linh mục) Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình
Thục (giám mục), Ngô Đình Diệm, Pétrus Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Bá Tòng
(giám mục), Hồ Ngọc Cẩn (giám mục), Lê Hữu Từ (Giám-mục), Phạm Ngọc Chi
(Giám Mục), v.v…
Từ năm 1862 trở về sau
[nghĩa là sau khi Triều đình Huế ký Hiệp Ước Nhâm Tuất vào ngày
5/6/1862 nhường ba tỉnh miền đông Nam Kỳ cho Liên Minh Pháp – Vatican],
có một số người không phải là tín đồ Ca-tô cũng ra làm việc cho liên
minh giặc, trong đó có các ông Tôn Thọ Tường (1825-1877), Dương Khuê
(1839-1902), Dương Lâm (1851-1920), Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, Hoàng
Trọng Phu, Hoàng Gia Mô, v.v...
Nói chung, hầu hết bọn
Việt gian làm quan cho giặc, là tín đồ Ca-tô hay không, đều là những
tên Việt gian đại gian đại ác. Đặc biệt là bọn Trần Bá Lộc, Đỗ Hữu
Phương, Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu Độ, Nguyễn Hữu Bài, Trần Lục, Hoàng
Cao Khải, Hoàng Trọng Phu, Lê Hoan, Nguyễn Thân, Ngô Đình Khôi, Ngô
Đình Diệm, tất cả đã tỏ ra vô cùng đắc lực cho giặc, đều được giặc thăng chức vù
vù, cho nắm giữ những chức vị cao trọng trong chính quyền triều đình bù
nhìn Huế..
Cũng nên biết từ hậu
bán thế kỷ 19, khi giang sơn ta đổi chủ, thực quyền chính trị lọt vào tay
liên minh xâm lược Pháp – Vatican, thì triều đình Huế trở thành triều
đình bù nhìn làm bung xung cho giặc. Tình trạng này khiến cho những
người vốn đã làm quan với triều đình Huế lúc đó, nếu ở lại tiếp tục làm
quan, trở thành những người làm quan tay sai cho giặc. Vì vậy, những
người còn có lòng thiết tha với đất nước đã dứt khoát, hoặc là từ quan
lui về ở ẩn như cụ Nguyễn Khuyến, hoặc là trốn vào bưng biền hay những
nơi thôn dã hẻo lánh, lập chiến khu, chiêu mộ anh hùng nghĩa sĩ, chống
giặc cứu nước như các cụ Trương Công Định, Võ Duy Dương, Trương Quang
Đản, Phan Đình Phùng, v.v…. Có những vị khoa bảng không thèm ra làm
quan với giặc như các cụ Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị và rất nhiều
người khác.
Ngay từ
khi Liên Quân Xâm Lược này tấn công nước ta vào năm 1858, dân ta liên
tục vùng lên chống lại quân xâm lăng rồi chống luôn cả triều đình Huế,
nhất là từ khi cái triều đình này bất lực không làm tròn nhiệm vụ bảo
toàn lãnh thổ và cúi đầu ký nhận những điều kiện của giặc đưa ra trong
các Hiệp Ước Nhâm Tuất 1862, Giáp Tuất 1874, Quý Mùi 1883 và Giáp Thân
1884 để cho:
Pháp thành ông chủ cơ
đồ,.
Vua thành tượng gỗ, dân nô lệ người!
Từ đầu thâp niên 1860
cho đến năm 1945, luôn luôn có những tổ chức nghĩa quân kháng chiến hay
các đảng bí mật hoặc các đảng cách mạng dồn hết nỗ lực vào những hoạt
động đánh đuổi quân giặc xâm lăng ra khỏi đất nước để đòi lại núi sông
cho dân tộc. Như vậy là trong thời kỳ “trăm năm nô lệ giặc Tây”, vô hình
chung, dân Việt Nam thuộc về một trong ba nhóm dưới đây:
1.- Những thành phần
trong các tổ chức nghĩa quân kháng chiến và các thành viên trong các
đảng bí mật hay các đảng Cách Mạng. Nhóm này dồn nỗ lực vào đại cuộc cứu nước.
Nhóm này được nhân dân ta gọi là các nhà ái quốc và anh hùng dân
tộc, nhưng lại bị liên minh giặc, đặc biệt là Giáo Hội La Mã và tín đồ
Ca-tô người Việt lại coi là những kẻ tử thù và quyết tâm khử
diệt bằng một kế hoạch vô cùng thâm độc. Đó là Kế Hoạch Puginier do c
Giám-mục Puginier [cũng là đại diện của Vatican tại Hà Nội kể từ đầu
thập niên 1860], biên soạn nhằm để “diệt tận gốc,
trốc tận rễ” tất cả những người thuộc thành phần này. Muốn biết kế hoạch này, xin tìm
đọc tác phẩm Đạo Thiên Chúa Và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam (Los
Angeles, CA: Hương Quê, 1988, tr. 397-412) của Tiến-sĩ Cao Huy Thuần.
Nguyên gốc tác phẩm này là luận án tiến sĩ Quốc Gia của tác giả về môn
Khoa Học Chính Trị tại Trường Đại Học Paris và được viết bằng tiếng
Pháp. Bản tiếng Pháp này có tựa đề là "Les Missionnaires Et la Politiquye
Coloniale Francaise Au Vietnam (1857-1914)" và đã được Council On
Southeast Asia Studies Yale Center For Internatuonal And Area Studies
(Yale University) in và phát hành vào năm 1990.
2.- Đại khối nhân
dân bị trị. Những thành phần thuộc nhóm này bị liên minh giặc và tín
đồ Ca-tô khinh rẻ là những quân man di, mọi rợ, những quân tà đạo,
và bị chính quyền bảo hộ bóc lột đến tận xương tận tủy. Vì vậy, hầu
hết những người trong thành phần này rơi vào tình cảnh đói khổ triền
miên. Hai triệu người chết đói trong mấy tháng đầu năm Ất Dậu 1945
đều là những người trong thành phần này. Những người tình nguyện hay
bị bắt đi làm việc ở Nouvelle Calodenie để kiếm sống rồi định cư ở
đây cũng là những người thuộc thành phần này.
3.- Nhóm thiểu số tín
đồ Ca-tô được gọi là “dân có đạo”, tự phong là “dân Chúa” và bọn người
làm việc cho giặc trong bộ máy đàn áp nhân dân ta hoặc là trong các quan
hành chánh, hoặc là trong quân đội, hoặc là trong các tổ chức công an,
mật vụ hay do thám. Riêng nhóm thiểu số tín đồ Ca-tô được liên minh giặc
tin cẩn và dành cho nhiều đặc quyền đặc lợi vì họ là những thành phần
trung thành nhất của Vatican và được Vatican sử dụng như là một lực
lượng xung kích để tấn chiếm Việt Nam và cũng là lực lượng nòng cốt để
cùng cố và bảo về quyên lực của Vatican tại Việt Nam. Vì vậy mà họ trở thành những phần tử hoạt động đắc lực và
đã có những hành động cực kỳ tàn ác và hết sức dã man đối với các nhà ái
quốc hay những thành phần thuộc nhóm 1 và đối với đại khối nhân dân bị
trị. Điển hình cho loại người đại ác này là Trần Bá Lộc, Đỗ Hữu Phương,
Nguyễn Hữu Độ, Ngô Đình Khả, Lê Hoan, Huỳnh Công Tấn, Ngô Đình Khôi, Ngô
Đình Diệm, Cung Đình Vận, Vi Văn Định, v.v…
Nhân dân Việt Nam gọi
những người này (nhóm 3) là bọn Việt gian hay những quân phản quốc và
gọi Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican là quân cướp ngoại thù.
Nhạc sĩ Phạm Duy gọi những người này là những quân "bán nước cầu vinh"
Trách ai bán nước cầu vinh.
Bán quê hương lại quên tình nước non.
Trong bài
thơ Hai Chữ Nước Nhà, Cụ Á Nam Trần Tuấn Khải mượn danh ông Nguyễn Phi
Khanh dặn con là Nguyễn Trãi để gọi bọn người Việt gian phản quốc này là
“Những người bán tổ tiên kiêm kế sinh nhai” trong đoạn:
Kiếp luồn cúi đỉnh
chung cũng nhục,
Thân tự do chen chúc
mà vinh.
Con ơi! Nhớ đức sinh
thành,
Sao cho khỏi để ô danh
với đời.
Chớ lần lữa theo loài
nô lệ
Bán tổ tiên kiếm kế
sinh nhai,
Cam thân làm kiếp tôi
đòi,
Nhục nhằn bêu riếu
muôn đời hay chi!
Sống như thế, sống đê
sống mạt!
Sống làm chi thêm chật
non sông!
Thà rằng chết quách
cho xong,
Cái thân cẩu trệ ai
mong có mình!....
Thế rồi, tình hình thế
giới biến chuyển. Ngày 9/3/1945, Nhật lật đổ chính quyền Liên Minh Xâm
Lược Pháp – Vatican và nắm quyền cai trị Việt Nam, nhưng vần giữ Bảo
Đại ở lại ngai vàng làm tay sai. Bảo Đại nhờ Đai-sứ Nhật là Yokohama
tìm ông Ngô Đình Diệm để trao cho giữ chức vụ thủ tướng thành lập nội
các vì Bảo Đại cho rằng ông Diệm là nhân vật số 2 sau ông Ca-tô Cường Để
trong Việt Nam Quang Phục Hội thân Nhật. Thế nhưng, Nhật lại giới thiệu
cụ Trần Trọng Kim để cho Bảo Đại bổ nhiệm làm thủ tướng. Cả hai ông
Ca-tô Cường Để và ông Ca-tô Ngô Đình Diệm đều là người thân Nhật từ
nhiều năm. Không biết TẠI SAO Nhật lại không dùng ông Diệm làm thủ tướng
và cũng không đưa ông Ca-tô Cường Để về thay thế ông Bảo Đại? Phải chăng
vì hai ông Ca-tô này có liên hệ chặt chẽ với Vatican, một thế lực mà họ
đã có kinh nghiệm máu từ thế kỷ 17, cho nên họ mới không dùng hai ông
này?
Việc Nhật đầu hàng
Đồng Minh vào ngày 15/8/1945 tạo nên cơ hội thuận lợi cho các tổ chức
nghĩa quân và các đảng cách mạng vùng lên chớp lấy thời cơ. Lúc đó, Mặt Trận Việt Minh đang
hoạt động mạnh ở trong vùng Việt Bắc (Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Cạn và
Hà Giang) và có các tổ (cơ sở) hoạt động ở khắp các nơi trong toàn quốc.
Nhờ theo dõi tình hình thế giới và nắm vững thời cuộc, Việt Minh đã
chuẩn bị trước đó nhiều ngày và kịp thời tung ra lời kêu gọi nhân dân
toàn quốc vùng lên cùng với Mặt Trận đứng lên làm lịch sử, và ban hành
lệnh tổng khởi nghĩa cướp chính quyền. Sự kiện này được sách Street Without Joy viết:
“Theo Trường
Chinh, ngày 13/8/1945, Đảng Cộng Sản Đông Dương nhóm họp tại làng Tân
Trào nằm trong tỉnh Tuyên Quang… ban hành lệnh tổng khởi nghĩa và thành
lập chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà…. Đảng Cộng Sản Đông Dương có một
chương trình rõ rệt: Hướng dẫn những thành viên trong lực lượng nổi dậy
phương cách tước khí giới quân Nhật trước khi quân đội Đồng Minh tới
Đông Dương; tiếp nhận chính quyền từ trong tay người Nhật và chính
quyền bù nhìn tay sai của Nhật, nắm quyền kiểm soát toàn quốc trước khi
quân đội Đồng Minh tới đế giải giới quân Nhật.” Nguyên văn: "On
August 13, 1945, the ICP met at the village of Tan Trao, in the province
of Tuyen Quang. According to Truong Chinh: " .. the ICP met in a
National Congress decreed the general uprising and put into place the
Vietnamese democratic republic regime.... The National Congress began at
very moment when the order of general insurrection had been given. Thus,
its session was rapidly closed... In the course of this history making
Congress, the ICP proposed a clear-cut program: guide the rebels so as
to disarm the Japanese before the arrival of the Allies in Indochina;
to take over the power that was on the hands of the Japanese and their
puppets, and to reiceive, as the authority in control of the country,
the Allied Forces coming demobilize the Japanese."[1]
Sách Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam viết đầy đủ và rõ ràng hơn:
“Giữa lúc phong
trào đang sục sôi khí thế cách mạng, nạn đói đã diễn ra nghiêm trọng ở
các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Đảng đề ra khẩu hiệu: “Phá kho thóc của Nhật,
giải quyết nạn đói”, đã thổi bùng ngọn lửa cách mạng đưa hàng triệu quần
chúng vào cao trào khởi nghĩa, đánh đổ chính quyền đế quốc tay sai.
Ngày 15/4/1945, Hội
Nghị Quân Sự Bắc Kỳ do Ban Thường Vụ Trung Ương triệu tập đã họp ở Hiệp
Hòa (Bắc Giang) “đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả nhiệm vụ cần kíp
khác”. Hội nghị quyết định thống nhất Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng
Quân với Cứu Quốc Quân thành Việt Nam Giải Phóng Quân.
Ngày 16/4/1945,
Tổng Bộ Việt Minh ra chỉ thị tổ chức Ủy Ban Dân Tộc Giải Phóng các cấp,
chuẩn bị thành lập Ủy Ban Dân Tộc Giải Phóng Việt Nam, tức Chính Phủ
Cách Mạng Lâm Thời. Đầu tháng 5, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tuyên Quang,
chọn Tân Trào làm căn cứ để chỉ đạo phong trào cách mạng cả nước.
Theo chỉ thị của
Người, ngày 4/6/1945, khu giải phóng bao gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn,
Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên… ra đời, trở thành căn cứ
địa của cả nước. Trong tháng 5 và tháng 6/1945, các cuộc khởi nghĩa từng
phần bùng nổ liên tục, hàng loạt chiến khu mới ra đời. Tại đây, các
chính quyền nhân dân đã tồn tại song song với chính quyền tay sai của
Nhật.
Cao trào kháng Nhật
cứu nước bùng lên mạnh mẽ góp phần vào thắng lợi chung của Liên Xô và
Đồng Minh trong sự nghiệp chống chủ nghĩa phát xít. Ngày 9/5/1945, Đức
ký văn bản đầu hàng Liên Xô và Đồng Minh không điều kiện. Ngày 9/8/1945,
Liên Xô tuyên chiến với Nhật, trong vòng một tuần lễ đã đánh tan đội
quân Quan Đông, buộc Nhật phải xin đầu hàng vào ngày 13/8/1945. Một
trang sử mới đã mở ra đối với các dân tộc bị áp bức, vùng lên giành độc
lập.
3.- Tổng Khởi
Nghĩa Tháng Tám 1945: Từ ngày 13 đến ngày
15/8/1945. Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào khẳng định: điều
kiện tổng khởi nghĩa đã chín muồi. Đảng phải lãnh đạo toàn dân nổi dậy
giành chính quyền cả nước trước khi quân Đồng Minh kéo vào Đông Dương.
Việc khởi nghĩa tiến hành theo nguyên tắc tập trung, thống nhất, kịp
thời.
Ngày 16/8/1945, tại
Tân Trào, Đại Hội Quốc Dân khai mạc, gồm hơn 60 đại biểu Bắc, Trung, Nam
tham dự. Đại hội nhiệt liệt hoan nghênh chủ trương tổng khởi nghĩa của
Đảng và 10 chính sách của Việt Minh: quyết định thành lập Ủy Ban Giải
Phóng Dân Tộc, do Hồ Chí Minh (tên mới của đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ
1942) làm chủ tịch. Đại hội quy định quốc kỳ, quốc ca của nước Việt Nam
mới.
Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, 25 triệu đồng bào ta đã nhất tề vùng dậy “đem sưc ta mà giải
phóng cho ta”. Sức mạnh như triều dâng thác đồ, cuốn sạch lũ cướp nước
và bán nước, tiến hành tổng khởi nghĩa oanh liệt, giải phóng toàn bộ đất
nước.
Từ 14/8/1945, cuộc
khởi nghĩa lần lượt nổ ra trong cả nước, thắng lợi quyết định ở Hà Nội
(19/8), Huế (23/8), Sàigòn (25/8/). Vua Bảo Đại thoái vị. Chính quyền về
tay nhân dân ở hầu hết các địa phương trong cả nước. Chế độ phong kiến
hàng ngàn năm và chế độ thực dân gần 80 năm đã chấm dứt. Ngày 2/9/1945,
tại Quảng Trường Ba Đình, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập,
tuyên bố trước quốc dân và thế giới về nền độc lập dân tộc và sự ra đời
của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.”[2].
Mọi việc tiến hành và
thành công đúng như đã dự trù. Ngày 23/8/1945, chính quyền độc lập đầu
tiên kề từ năm 1884 do chính người Việt Nam chủ động được cho ra đời và
trình diện với toàn dân, gồm những thành phần như sau:
Hồ Chí Minh |
Chủ Tịch Kiêm Bộ Ngoại Giao |
Võ Nguyên Giáp |
Bộ Trưởng Bộ Nội Vu |
Chu Văn Tấn |
Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng |
Phạm Văn Đồng |
Bộ Trưởng Bộ Tài Chánh |
Trần Huy Liệu |
Bộ Trưởng Bộ Tuyên Truyền |
Nguyễn Mạnh Hà |
Bộ Trưởng Bộ Kinh Tế |
Lê Văn Hiến |
Bộ Trưởng Bộ Lao Động |
Dương Đức Hiền |
Bộ Trưởng Bộ Thanh Niên |
Vũ Đình Hòe |
Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục |
Vũ Trọng Khánh |
Bộ Trưởng Bộ Tư Pháp |
Đào Trọng Kim |
Bộ Trưởng Bộ Giáo Thông và Công Chánh |
Phạm Ngọc Thạch |
Bộ Trưởng Bộ Y Tế và Vệ Sinh |
Nguyễn Văn Tố |
Bộ Trưởng Bộ Xã Hội |
Cù Huy Cận |
Bộ Trưởng Không Bộ Nào |
Nguyễn Văn Xuân |
Bộ Trưởng Không Bộ Nào |
Sau đó, ngày 2/9/1945,
tại Quảng Trường Ba Đình, trong một cuộc mit tinh khổng lồ khoảng 500
ngàn người tham dự, Chủ Tịch Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là Cụ Hồ Chí
Minh long trọng công bố bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Buổi mít tinh và bản
tuyên ngôn độc lập này đều được các cơ quan truyền thông trên thế giới
loan truyền.
Ngày 12/9/1945, 1400
quân Anh đổ bộ vào Sàigòn để thi hành nhiệm vụ giải giới Quân Đội Nhật
từ vĩ tuyến 16 (Đà Nẵng) trở vào Nam. Trong dịp này, quân Pháp núp bóng
quân Anh đổ bộ vào Sàigòn với sự trợ giúp của quân Anh. Sau đó, đạo
quân Pháp cũng lại được quân Anh hỗ trợ, tấn công và đánh bật chính
quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra khỏi Sàigòn, rồi mở các cuộc hành
quân tấn chiếm các thành phố khác ở miền Nam và các trục giao thông nối
liền các thành phố này với Sàigòn..
Đồng thời, trong tuần
lễ đầu tháng 9/1945, 180 ngàn Quốc Quân Trung Hoa dưới quyền chỉ huy của
các tướng Lư Hán, Long Vân và Tiêu Văn vượt biên giới Việt – Hoa theo
kế hoạch “Hoa Quân Nhập Việt” qua hai cửa ải Lạng Sơn và Lào Cai rồi
tiến vào nội địa Việt Nam, nhưng mãi tới 6 tuần lễ sau mới bố trí xong
quân đội trú đóng từ biên giới Việt – Hoa tới vĩ tuyến 16 (Đà Nẵng).
Cùng đi với các đạo quân Tầu ô thổ phỉ này, có nhiều đảng viên của hai
chính đảng Việt Cách và Viêt Quốc dưới quyền lãnh đạo của các ông Nguyễn
Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam, Nghiêm Kế tổ, v.v… Dựa vào
sức mạnh các đạo quân Tầu ô trên đây, hai chính đảng này đánh cướp các
chính quyền địa phương của nhân dân ta trên đường từ Lào Cai và Lạng Sơn
về Hà Nội. Hành động ngang ngược này gây nên tình trạng cực kỳ căng
thẳng giữa một bên là hai đảng Việt Cách và Việt Quốc được 180 ngàn Quốc
Quân Trung Hoa bao che giúp đỡ và một bên là Mặt Trận Việt Minh cùng với
Đảng Cộng Sản Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của cụ Hồ Chí Minh được tuyệt
đại đa số nhân dân triệt để ủng hộ.
Nhờ tài khéo léo của
các nhà lãnh đạo của Mặt Trận Viên Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam giàn
xếp với hai Tướng Lư Hán và Tiêu Văn, chính phủ Liên Hiệp gồm đủ các đại
diện của các chính đảng trong tân chính phủ được cho ra đời vào ngày
2/3/1946 với các thành phần như sau:
Cố Vấn Chính Phủ |
Nguyễn Vĩnh Thụy (tức cựu hoàng Bảo Đại) |
Chủ Tịch Chính Phủ |
Hồ Chí Minh (Việt Minh, Cộng Sản Đảng) |
Phó Chủ Tịch |
Nguyễn Hải Thần (Việt Cách) |
Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ |
Huỳnh Thúc Kháng (trung lập) |
Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao |
Nguyễn Tường Tam (Việt Quốc) |
Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng |
Phan Anh (trung lập) |
Bộ Trưởng Bộ Kinh Tế |
Chu Bá Phượng (Việt Quốc) |
Bộ Trưởng Bộ Tài Chánh |
Lê Văn Hiến (Việt Minh, Đảng Cộng Sản) |
Bl Trưởng Bộ Y Tế Xã Hội |
Trương Đình Trí (Việt Cách)
|
Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục |
Đặng Thái Mai (Việt Minh, Đảng Cộng Sản) |
Bộ Trưởng Bộ Tư Pháp |
Vũ Đình Hòe (Việt Minh, Đảng Dân Chủ)
|
Bộ Trưởng Bộ Thanh Niên |
Dương Đức Hiền (Đảng Dân Chủ) |
Bộ Trưởng Bộ Công Chính |
Trần Đăng Khoa (Việt Minh, Đảng Dân Chủ) |
Bộ Trưởng Bộ Canh Nông |
Bồ Xuân Luật (Việt Cách) |
Bộ Trưởng Bộ Lao Động |
Nguyễn Văn Tạo (Việt Minh, Đảng Cộng Sản) |
Bộ Trưởng Bộ Tuyên Truyền |
Nguyễn Tấn Gi |
Thứ Trưởng Ngoại Giao |
Nghiêm Kế Tổ (Việt Quốc) |
Thứ Trưởng Canh Nông |
Cù Huy Cận (Việt Minh, Đảng Cộng Sản. |
Quốc Vụ Khanh |
Nguyễn Văn Tố (học giả) |
Quốc Vụ Khanh |
Bồ Xuân Luật (Việt Cách) |
QUÂN SỰ ỦY VIÊN
HÔI: |
|
Chủ Tịch |
Võ Nguyên Giáp (Việt Minh, Đảng Cộng Sản) |
Phó Chủ Tịch |
Vũ Hồng Khanh (Việt Quốc)[3] |
Tình hình chính trị
Việt Nam lúc đó (từ đầu tháng 9 năm 1945 cho đến ngày 19/12/1946) hết
sức rối ren. Một phần lớn cũng là do bàn tay Giáo Hội La Mã gây ra. Bằng
chứng là ngày 28/12/1945, viên khâm sứ đại diện Tòa Thánh Vatican tại Hà
Nội là Tổng Giám-Mục Antoni Drapier công khai đưa ra đề nghị đem ông Bảo
Đại lên ngai vàng thành lập chính phủ thân Pháp để chống lại chính quyền
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của nhân dân Việt Nam do cụ Hồ Chí Minh làm
chủ tịch chính phủ. Xin xem Chương 2, tiểu mục Giải Pháp Bảo Đại ở trên.
Liền sau đó, vào đầu
năm 1946, đề nghị này của Vatican được hai chính đảng Việt Cách và Việt
Quốc nhiệt liệt hoan hô và tổ chức một cuộc biểu tình tại trước tòa nhà
ông Vĩnh Thụy (tên thật của ông Bảo Đại) thỉnh cầu ông Bảo Đại đứng ra
lập chính quyền để chống lại chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của
nhân dân ta.
Ngày 28/2/1946, Thỏa
Hiệp Pháp - Hoa (giữa Pháp và Trung Hoa) được ký kết theo đó thí Pháp sẽ dành cho Trung Hoa một
số quyền lợi, bù lại 180 ngàn quốc Quân Trung Hoa sẽ rút về Tầu khởi đầu
vào tháng 6/1946 để nhường trách nhiệm giải giới quân Nhật ở phần đất
này cho 15 ngàn quân Pháp.
Ký xong thỏa hiệp Pháp
– Hoa trên đây, Pháp cũng muốn thương thuyết với chính phủ Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa để cho việc đưa quân ra Bắc thay thế Quốc Quân Trung Hoa
được xuôi xả, khỏi bị chính quyền và quân đội Việt Nam chống lại. Trong
khi đó, cụ Hồ Chí Minh cũng muốn ký với Pháp một thỏa hiệp để cho 15
ngàn quân Pháp ra Bắc thay thế Quốc Quân Trung Hoa theo kế sách “nhất
tiễn nhị điểu” để giải thoát được áp lực 180 quân Tầu ô thổ phỉ đang
hoành hành tác oai tác quái, làm khổ dân ta từ biên giới Việt Hoa cho
đến Đà Nẵng, và cũng là để cho hai đảng Việt Cách và Việt Quốc mất chỗ
dựa để đánh phá chính quyền. Hai chính đảng này đã gây ra không biết bao
nhiêu khó khăn cho cả chính quyền và nhân dân ta từ đầu tháng 9/1945. Vì
thế mà Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/1946 mau chóng được ký kết giữa một bên chính
phủ Liên Hiệp do Cụ Hồ Chí Minh lãnh đạo và một bên là Pháp. Theo hiệp
ước này, quân Pháp sẽ đổ bộ lên Hải Phòng vào cùng ngày 6/3/1946, và
ngày 19/5/1946, Cao Ủy Đông Dương Thierry d’ Argenlieu tới Hà Nội gặp cụ
Hồ Chí Minh. (Sự thực, Liên Minh Xâm Lược Pháp lúc đó có thái độ và hành
động trích thượng, trông cậy vào sức mạnh quân sự của họ.)
Giả tỉ như không có
Hiệp Ước 6/3/1946, Liên quân Pháp – Vatican vẫn đổ bộ lên Hải Phòng vào
ngày đó hay một hai ngày trễ hơn. Nếu như vậy, chính quyền Viêt Nam và
nhân dân ta sẽ rơi vào tình trạng tứ bề thọ địch, phải chống lại (1) 180
quân Tầu thổ phỉ, (2) hai đảng Việt Cách và Việt Quốc, (3) 15 ngàn Liên
Quân Xâm Lược Pháp - Vatican, và (4) các đạo quân thập tự Việt Nam đang
nằm tiềm phục ở các giáo khu Phát Diệm, Bùi Chu và trong các làng đạo ở
rải rác khắp nơi ở miền Bắc và các tỉnh miền bắc Trung Bộ chờ cơ hội nổi
lên đánh phá chính quyền và tiếp tay cho liên minh giặc.
Đầu tháng 6/1946, 180 ngàn Quốc Quân Trung Hoa khởi sự rút về Tầu và
đến tháng 9/1946 thì rút hết. Khi quân Tầu bắt đầu rút về Tầu, hai chính
đảng Việt Cách và Việt Quốc không còn chỗ dựa, bị rơi vào tình trạng bơ
vơ giống như một đứa trẻ thơ bị cha mẹ bỏ rơi. Tình trạng của Việt Quốc
và Việt Cách lúc bấy giờ gống y như tình trạng các đạo quân lính thập tự
Bùi Chu và Phát Diệm vào tháng 6 và tháng 7 năm 1954 khi quân Pháp rút lui khỏi các vùng
này, và cũng giống y như chính quyền và quân đội miền Nam Việt Nam trong
những ngày từ 11/3/1975 cho đến ngày 30/4/1975. Vì vậy mà các nhân vật
lãnh đạo và các thành viên của hai chính đảng này phải cuốn gói chạy
theo quân Tầu sang Tầu sống lưu vong. Một số không kịp theo chân các
bậc đàn anh chạy sang Tầu, rút vào các chiến khu ở Việt Bắc, nhưng vì
không được nhân dân ủng hộ, họ bị thảm bại, rồi rã ngũ tan hàng. Một số
đi theo liên minh giặc Pháp - Vatican chống lại chính quyền Kháng Chiến
Việt Minh, một số chạy về ẩn náu và tá túc trong Giáo Khu Phát Diệm
dưới sự che chở của Giám-mục Lê Hữu Từ. Lúc đó, Giám Mục Lê Hữu Từ còn
là cố vấn (hờ) của chính phủ Hồ Chí Minh.
Quân Tầu rút về Tầu
rồi, Liên Quân Pháp - Vatican bắt đầu kiếm chuyện gây hấn tấn công chiếm
đóng Hải Phòng vào ngày 20/11/1946. Chính Phủ Hồ Chí Minh nhịn nhục để
nín thở qua sông, cố
gắng giàn xếp để tránh chiến tranh, nhưng vẫn không thành công trước
thái độ hung hăng hiếu chiến của Liên Quân Xâm Lược Pháp – Vatican. Chúng cố
tình khiêu khích bằng những hành động cướp phá và đánh đập nhân dân ta ở
Hà Nội. Vì thế mà chiều tối (khoảng 8 giờ tối) ngày 19/12/1949 (26 tháng
11 năm Nhâm Tuất), chính phủ Hồ Chí Minh phải ban lệnh toàn quốc kháng
chiến. Kể từ đó, chiến tranh chính thức bùng nổ trên toàn thể lãnh thổ
Việt Nam giữa một bên là Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican được nhóm
thiểu số tín đồ Ca-tô hồ hởi tiếp tay, và một bên là chính phủ Việt
Minh Kháng Chiến được toàn thể nhân dân toàn quốc triệt để ủng hộ, tích
cực tham gia để cùng quyết tâm chiến đấu cho đại cuộc giải phóng
quê hương.
Lệnh kháng chiến trên
đây vừa được ban hành thì khắp mọi nơi trên toàn lãnh thổ Việt Nam, hàng
hàng lớp lớp thanh niên với khí thế bừng bừng quyết tâm đi cứu nước.
Bài thơ Lên Đường dưới đây của nhà thơ Nguyễn Tố Chi nói lên cái khí thế
này của dân ta lúc bấy giờ:
Trong mắt tôi đã thấy,
Dân tôi:
Người trước nối người sau,
Tay trong tay kết chặt
một vòng,
Đi đòi lại núi sông trong tay giặc.
"Thế giặc mạnh lấy gì mà chống đỡ?"
Lời Diên Hồng vạn tiếng quyết tâm.
Phải trải xương,
Phải đỏ máu với quân thù
Phải đoàn kết triệu bước chân dấn bước,
Từ sông Hồng xuôi về sông Cửu,
Từ đồng bằng nối mãi tới Trường Sơn.
Khắp non sông vang dội bước quân hành
Tay giáo mác và con
tim sôi máu.
Trong ánh mắt triệu niềm tin rực sáng
Buổi quân về giải phóng Việt Nam.
Quê hương tôi hôm nay đã thấy
Những mẹ già chị gái
Làm hậu cần nuôi quân,
Những thanh niên hôm nay
Đã làm anh kháng chiến,
Những em bé mười lăm
Gánh vai trò liên lạc.
Cả nước đồng một lòng
Đứng lên tiêu diệt giặc.
Lời réo gọi của non sông đất nước:
Các anh
Xin đứng dậy
Lên đường!
Có đánh đuổi được liên
quân xâm lược Pháp – Vatican ra khỏi đất nước thì ruộng vườn và tài
nguyên của dân ta mới không còn bị Giáo Hội La Mã cướp đoạt, dân ta mới
không còn bị bóc lột đến tận xương tận tủy đến độ phải rơi vào thảm họa
đói khổ triền miên, xác người chết đói đầy đường như hồi đầu năm 1945,
và không còn bị khinh rẻ là những quân man di, mọi rợ theo “tà đạo”, nền
đạo lý và nếp sống cổ truyền của dân tộc mới không bị khinh rẻ và bị
chà đạp. Tình trạng dân ta và nền đạo lý cổ truyền của dân tộc bị
Vatican khinh rẻ và chà đạp đều được sách sử ghi lại rõ ràng:
“Giáo Hội La Mã
chống phá đạo hiếu, phế bỏ bàn thờ tổ tiên, chà đạp văn hiến dân tộc Đại
Việt, gọi các tôn giáo bản địa là thờ Bụt Thần Ma Quỷ… Giáo Hội chia hai
dân tộc Việt Nam thành dân có đạo là dân riêng của Giáo Hội, và dân vô
đạo là dân ngoại theo tà thần, tạo dựng thành kiến kỳ thị rất sâu đậm và
thô bạo. Đức Hồng Y Phạm Đình Tụng xác minh trọng tội này của Giáo Hội
trong bài tham luận đọc tại Roma năm 1998, có Đức Giáo Hoàng đương kim
ngồi dự thính.”[4]
Sách sử cũng ghi lại
rằng, dân ta lúc bấy giờ gọi:
1.- Những người đi
theo chính phủ kháng chiến Việt Minh là những người yêu nước liều chết
chiến đấu cho quyền lợi tối thượng của dân tộc và đất nước.
2.- Liên Quân Pháp Xâm
Lăng Pháp – Vatican là “quân cướp ngoại thù” hay “quân giặc xâm lăng.
3.- Những người Việt
Nam đi theo giặc hay chiến đấu trong hàng ngũ Liên Minh Xâm Lược Pháp –
Vatican là “Việt gian” hay những “quân phản quốc”.
Đầu năm 1947, trước
khi hết nhiệm kỳ về nước, Cao Ủy Đông Dương d’ Argenlieu chính thức xúc
tiến đề nghị của Vatican công bố vào ngày 28/12/1945 đưa Bảo Đại lên
cầm quyền để chống lại chính quyền Kháng Chiến Việt Minh. Một người
Pháp tên là Cousseau được phái đi Hồng Kông tiếp xúc với Bảo Đại để bàn
chuyện này. Ngày 15/3/1947, Thierry d’ Argenlieu hết nhiệm kỳ về nước.
Tân Cao Ủy Đông Dương là Émile Bollaert (15/31947 – 10/1948) tiếp tục
tiến hành việc này. Sau một thời gian cò cưa và mặc cả, ngày
5/6/1948, chính quyền Bảo Đại được Liên Minh Xâm Lăng Pháp – Vatican
dựng nên và chính thức được cho ra đời vào ngày này để làm
tay sai cho Liên Minh Xâm Lược Pháp và đăc biệt là để thi hành chính
sách chia để trị, dùng người Việt đánh người Việt và dọn đường cho kế
sách dùng tín đồ Ki-tô để cai trị đại khối nhân dân thuộc tam giáo cổ
truyền đúng như viên Khâm Sứ đại diện Tòa Thánh Vatican tại Hà Nội là
Tổng Giám Mục Antoni Drapier tuyên bố vào ngày 28/12/1945. Bản văn nói
về lời tuyên bố này đã được ghi vào sách sử và đã được trích dẫn ghi
trong tiểu mục nói về Giải Pháp Bảo Đại trong Chương 2 ở trên. Xin ghi
lại đây một lần nữa để độc giả dễ dàng theo dõi và có ý niệm liên tục về
vấn đề này:
“28/12/1945: Huế: Tổng Giám Mục Antoni Drapier, đại diện Roma tuyên
bố: Gia đình Bảo Đại là “gia đình thân Pháp bậc nhất trong dân chúng
Việt Nam (la plus francophilende tous les annamites), và theo ý ông ta,
nên cho Bảo Đại lên ngôi như trước ngày 9/3/ (1945) (À mon avis, il
serait avantageux pour le calm de rétablir le Roi come le chef regulier
avant le mars; DOM [Aix], CP 125).
Drapier cũng đưa ra giải pháp là có thể sau đó sẽ cho Bảo
Long lên kế vi, và Nam Phương là Giám Quốc [Phụ Chính].”[5]
Nam Phương Hoàng Hậu
và Bảo Long là tín đồ Ca-tô thuộc loại đạo dòng. Sự kiện này chứng tỏ
việc Vatican đề nghị đưa Bảo Đại lên thành lập chính quyền để chống lại
chính quyền Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của cụ Hồ Chí Minh là có chủ ý
tiến hành chính sách chia để trị, dùng người Việt đánh người Việt và
dùng tín đồ Ca-tô để cai trị đại khối dân ta theo tam giáo cổ truyền.
Lên Minh Xâm Lược Pháp
– Vatican đặt tên cho chính quyền bù nhìn này là “chính quyền Quốc Gia”
và gọi những người đã đi theo hay chiến đấu trong hàng ngũ Liên Minh
Xâm Lược Pháp - Vatican từ giữa thế kỷ 19 là “những người Việt Quốc
Gia” mà nhân dân Việt Nam thường gọi là “những thằng Việt gian
bán nước” hay những “quân phản quốc”. Đồng Thời, Vatican cũng
chế ra là cờ vàng ba sọc đỏ với ba sọc đỏ biểu tượng cho Chúa Ba Ngôi
được ngụy trang là tượng trưng cho ba miền Nam, Trung và Bắc Việt Nam để
cho tín đồ Ca-tô người Việt lấy đó làm biểu tương tranh đấu đúng theo
khẩu hiệu “Thà mất nước, chưa không thà Mất Chúa” mà sau này vào
tháng 8/1964 họ đã công khai đưa ra khẩu hiệu này.
Song song với việc cho
ra đời cái gọi là “chính quyền Quốc Gia” và lá cờ vàng ba sọc
đỏ, Vatican cũng sáng chế ra hai cụm từ “chính nghĩa Quốc Gia”
và “người Việt Quốc Gia” để cho tín đồ Ca-tô và những thằng Việt
gian khác dùng làm bức bình phong che giấu tội ác “phản quốc” đi theo
giặc chống lại tổ quốc và dân tộc. Vấn đề này đã được trình bày khá rõ
ràng trong Chương 4 ở trên.
Sự thật
là như vậy. Cũng vì sự thật không đẹp này mà mà cụ Trần Trọng Kim mới
gọi cái chính quyền Quốc Gia do ông Bảo Đại làm Quốc trưởng và do
Vatican đạo diễn là cái “Cũi chó mạn vàng”.
[6]
Đến đây,
thiết tưởng rằng mọi người chúng ta đều có thể nhận thấy rằng những cụm
từ “chính quyền quốc gia”, “người Việt Quốc Gia”, “lý tưởng Quốc Gia”,
“lá cờ vàng ba sọc đỏ” và “lằn ranh Quốc – Cộng” đều là sản phẩm của
Vatican chế tạo ra để tiến hành chính sách chia để trị, dùng người Việt
đánh người Việt, dùng tín đồ Ca-tô để cai trị đại khối nhân dân theo
tam giáo cổ truyền, và cũng là để phỉnh gạt bọn người “bán tổ tiên
kiếm kế sinh nhai”, cam tâm làm tay sai cho liên minh giặc vớ lấy để
nhập nhằng đánh lận con đen, tự nhận là “Người Việt Quốc Gia” hầu
che giấu cải bản chất “Việt gian bán nước cho Pháp và cho Vatican”
của chúng.
Cũng nên
biết trước ngày 5/6/1948, những người chiến đấu trong các lực lương
nghĩa quân kháng chiến chống Pháp (gọi tắt là các nhà ái quốc) và những
người thuộc các đảng phái chính trị hay cách mạng chống lại chính quyền
Bảo Hộ trong những năm 1900-1948 được gọi là các nghĩa sĩ chống giặc
xâm lăng, các đảng viên Cách Mạng hay các đảng viên của các đảng bí mật
chống giặc xâm lăng (cũng gọi là các nhà ái quốc). Trong thời gian này,
không có chính đảng hay thành phần chống giặc xâm lăng nào được gọi là
đảng phái Quốc Gia hay các phần tử Quốc Gia cả. Tất cả các sách sử, báo
chí và văn thư hành chánh được phát hành hay phổ biến trước ngày
5/6/1948 cũng đều không hề sử dụng những cụm từ “chính quyền quốc gia”,
“người Việt Quốc Gia”, “lý tưởng Quốc Gia” và “lằn ranh Quốc – Cộng”.
Tất cả các cụm từ này chỉ mới bắt đầu xuất hiện từ ngày 5/6/1948, đúng
như ông Lê Xuân Khoa đã khẳng định trong sách Việt Nam 1945-1995 nơi 2
trang 161 và 208:
“Danh
hiệu Quốc Gia Việt Nam (QGVN) được sử dụng từ ngày 5/6/1948, sau khi Cao
Ủy Pháp tại Đông Dương Émile Bollaert và Thủ Tướng Chính Phủ Trung Ương
Lâm Thời Việt Nam Nguyễn Văn Xuân ký bản thông cáo chung tại Vịnh Hạ
Long nhìn nhận nền độc lập của Việt Nam. Sau khi Bảo Đại bị truất phế
trong cuộc trưng cầu dân ý 23/10/1955, nền Đệ Nhất Cộng Hòa được thành
lập ngày 26/10 (1955) và quốc hiệu là ”Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) được
dùng để chỉ chính thể ở miền Nam cho đến ngày 30/4/1975.”
[7]
“Danh
từ quốc gia ở đây dùng để chỉ những đảng phái chính trị không cộng sản
và chính quyền Quốc Gia Việt Nam 1948-1955 là những thành phần chống chủ
nghĩa cộng sản và Mặt Trận Việt Minh và có liên hệ đến chiến tranh Đông
Dương lần thứ nhất.”[8]
NHẬN XÉT: Cụm tự “Người Việt
Quốc Gia” chỉ là sản phẩm do Vatican sáng chế ra với mục đích để làm bức
bình phong cho tín đồ Ca-tô dùng để che giấu cái bản chất Việt gian phản
quốc của chúng, giống như bọn lưu manh chuyên nghề buôn thần bán thánh
sử dụng chiếc áo chùng thâm để giả danh là các nhà tu hành và truyền
giáo hầu dễ bề thi hành những điệp vụ tại các quốc gia hay nhiệm sở mà
chúng được Vatican giao phó, đúng như Linh-mục Trịnh Văn Phát đã
viết:
”Trong
suốt thời gian ở Việt Nam tôi đã suy nghĩ và tự hỏi mình phải làm gì
cho quê hương và Giáo Hội. Giúp quê hương không phải là bổn phận trực
tiếp của tôi, nhưng tôi có bổn phận với giáo hội vì tôi là người của
giáo hội và được đào tạo để sau này phục vụ cho giáo hội. Có nhiều anh
em yêu cầu tôi về giúp cho địa phận, tôi thẳng thắn trả lời tôi không
có tự do chọn lựa, tôi được huấn luyện để phục vụ theo nhu cầu của giáo
hội.”
[9]
Giang sơn
dễ đổi, bản chất khó chừa. Cái bản chất phản quốc của tín đồ Ca-tô người
Việt đã được phơi bày ra bằng khẩu hiệu “thà mất nước, chứ không thà
bất Chúa”, bằng những thái độ và hành động của chúng chống lại dân
tộc và tổ quốc Việt Nam ta trong suốt chiều dài lịch sử từ giữa thập
niên 1780 cho đến ngày 30/4/1975 và vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay.
Con tắc
kè có khả năng thay đổi mầu sác tùy theo cảnh sắc ở chung quanh, nhưng
cũng không thay đổi được cái thân phận và bản chất của con tắc kè. Giáo
Hội La Mã vốn có bản chất bất chính, lưu manh, xảo trá, đại gian đại ác
và tàn ngược, cho nên, dù cho có tự phong là “Hội Thánh duy nhất,
thánh thiện, công giáo và tông truyền”, là “Hiền Thê của Thiên
Chúa làm người”, dù cho có tới hàng triệu văn thi nô, báo nô và sử
nô trong bộ máy tuyên truyền hết sức siêu việt để tô hồng chuốt lục
bằng những danh xưng và mỹ từ tốt đẹp nhất thì cũng không làm sao thay đổi được cái nhìn của nhân dân thế giới và các bậc thức giả.
Học giả Ca-tô Phan Đình Diệm đã ghi:
“Nghệ
thuật tuyên truyền của Giáo Hội Rôma phải đạt đến chỗ cực kỳ ảo diệu,
thiên biến vạn hóa, một nghệ thuật tuyên truyền thần thánh, một nghệ
thuật tuyên truyền nhồi sọ tuyệt vời: Giáo Hội là Thánh, Giáo Hội là Mầu
Nhiệm, Giáo Hội là Bí Tích, Giáo Hội là Hiền Thê của Đưc Giê-su, Giáo
Hội là Duy Nhất, Thánh Thiện Công Giáo và Tông Truyền, Giáo Hội là Vương
Quốc của Thiên Chúa…. Giáo Hội tự nhận cho mình hết tất cả những khái
niệm cao cả thánh thiện, vừa linh thiêng, vừa siêu hình, vừa hữu hình
thế tục, chẳng bỏ sót một phạm trù nào! Ngoài nghệ thuật tuyên truyền,
Giáo Hội vẫn phải xây “vạn lý trường thành đức tin” và buông “bức màn
sắt thần học”lên đoàn còn. Mỗi tòa giảng là một cái loa tuyên truyền,
dựa vào khoa thần học phù phép, ảo thuật biến hóa “núi tội thành con
chuột”, “kẻ cướp mặc áo thầy tu” và “quỷ Satan có diện mạo ông thánh.”
[10]
Nhân Âu Châu vẫn khinh bỉ và ghê tởm Giáo Hội, lánh xa Giáo
Hội như lánh hủi và cả thế giới đều căm phẫn và thù ghét Giáo Hội coi
Giáo Hội như một thứ quái thai cần phải khử diệt:
“Giáo Hội Công Giáo
Roma La-tinh trong thời cực thịnh kinh bang tế thế, đội vương miện cho
các hoàng đế, tung hoành dọc ngang, làm mưa làm gió, thâu tóm cả thiên
hạ trong tay, tiền rừng bạc biển, đã không biết tự chế, không học bài
học khiêm hạ rửa chân, tự cao tự đại, coi bàn dân thiên hạ như cỏ rác…
hôm nay hối bất cập, lịch sử còn nằm trơ ra đó. Người Âu Châu khiếp sợ
Giáo Hội và tránh xa như tránh hủi! Người Á Châu có thành kiến ghép Giáo
hội vào ông Tây thực dân và chống thực dân. Người Mỹ Châu La-tinh đồng
hoá Giáo Hội vào hoạ diệt chủng! Và người Trung Đông làm sao quên được
250 thánh chiến tàn bạo hãi hùng.”[11]
Học giả
Henri Guillemin gọi Giáo Hội là “Cái Giáo Hội Khốn Nạn”[12], văn hào Voltaire gọi là “cái
tôn giáo ác ôn”[13], và học giả Ca-tô Charlie
Nguyễn gọi là “đạo máu” và “đạo bịp”.[14]
Người
Pháp có câu nói: “L’ habit ne fait pas le moine” (Chiếc áo không làm nên
thày tu). Tín đồ Ca-tô người Việt và những thằng Việt gian khác dù có
mang danh nghĩa là “người Việt Quốc Gia” và huênh hoang khoác lác
rêu rao rằng chúng tranh đấu cho cái mà chúng gọi là ”chính nghĩa
quốc gia”, thì cũng vẫn không che đậy được cái bản chất vong bản
phản quốc, phản dân tộc và những rặng núi tội ác đã làm Việt gian bán
nước cho Vatican, cho Pháp, cho Mỹ, đã tàn sát các nhà ái quốc chiến đấu
trong các tổ chức nghĩa quân kháng chiến trong thời 1858-1945 cũng như
trong thời Kháng Chiến 1945-1954 và thời chiến tranh giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước 1954-1975. Vì thế, dưới con mắt của nhân dân
Việt Nam cũng như của lịch sử, chúng vẫn là những thằng Việt gian đã
từng rước những con voi Vatican, Pháp và Mỹ về giầy mà tổ Việt Nam.
Vì đã là
bản chất thì khó có thể chừa được hay không thể nào thay đổi được, cho
nên cái bản chất vong bản phản quốc trong con người tín đồ Ca-tô cũng
không thể nào chừa hay thay đổi được khi mà chúng vẫn còn tự nhận là tín
đồ Ca-tô. Ngày nào chúng còn tự nhận là tín đồ Ca-tô, thì ngày đó chúng
còn phải tin tưởng vào hệ thống thần học Ki-tô, còn phải tuyệt đối trung
thành với Vatican, còn phải triệt để vâng lời và tuân hành những lệnh
truyền của các đấng bề trên của chúng trong hệ thống quyền lực của Giáo
Hội La Mã để chống lại bất kỳ chính quyền nào không phải lả của Vatican
hay không chịu thần phục Vatican. Do đó, chỉ khi nào chúng dứt khoát từ
bỏ “tôn giáo ác ôn” này như bác sĩ Nguyễn Văn Thọ, ông
Charlie Nguyễn, ông Phạm Hữu Tạo, và hàng triệu tín Ca-tô khác ở khắp
mọi nơi trên thế giới, thì cái bản chất vong bản phản quốc này mới không
còn ở trong con người của chúng nữa. Và khi đó, chúng không cần phải tự
nhận là “người Việt Quốc Gia”, nhân dân ta cũng sẽ hết lòng trân trọng và quý
mến chúng, sẽ mở rộng con tim và hai vòng tay đón nhận chúng trở về với
cộng đồng dân tộc.
B.- THÀNH PHẦN XÃ HỘI
Tìm hiểu
những người tự nhận là người Việt Quốc Gia, người viết nhận thấy, họ
lthuộc về một trong những thành phần xã hội dưới đây:
1.- Tín
đồ Ca-tô. Đây là những người đã bán linh hồn cho Giáo Hội La Mã: Những
ngưới này, tuy thân xác là người Việt Nam, được nuôi nấng bằng cơm gạo
Việt Nam và sống trên đất nước Việt, nhưng tâm hồn lúc nào cũng hướng
về nước Chúa, gắn bó chặt chẽ với Vatican bằng khẩu hiệu “thà mất
nước, chứ không thà mất Chúa”, triệt để tuân hành những lệnh truyền
của các đáng bề trên trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội La Mã, tuyệt
đối trung thành với Vatican để làm tròn bổn phận “tôi tớ hèn mọn”
của đàn chiên ngoan đạo với tinh thần ”Tòa Thánh đánh rắm cũng khen
thơm”.[15] Vì cái tinh
thần hèn hạ như vậy mà trong đám người này, có rất nhiều người đã có tới
mấy đời tiếp nối nhau cúi đầu gục mặt làm tròn cái bổn phận “làm tôi
tớ hèn mọn cho Vatican” để rồi cam tâm bán nước cho Pháp, mưu đồ bán
nước cho Nhật rồi lại bán nước cho Mỹ. Điển hình cho bọn người này là
cha con Ngô Đình Khả, Ngô Đình Khôi, Ngôi Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô
Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn và tất cả những tín đồ Ki-tô khác với chủ trương
tôn thờ và suy tôn thằng bạo chúa phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình
Diệm lên là “nhà ái quốc” và “chí sĩ yêu nước”. Thành phần này chiếm tỉ
lệ cao nhất so với các thành phần khác trong giới những người tự nhận là
“người Việt Quốc Gia”.
2.- Những
thành phần phong kiến phản động muốn sống lại cái thời huy hoàng vàng
son trong thời tôn ti trật tự vua quan với những lễ nghi tập tục sặc mùi
phong kiến ưa thích được làm kẻ ăn trên ngồi trốc, bắt kẻ dưới cúi đầu
quì lạy:
“Ngán
nhẽ kẻ tham bề khóa lợi, mũ cánh chuồn đội trên mái tóc, nghiêng mình
đứng chực chốn hầu môn.
Quan bao
kẻ mang cái dàm danh, áo vẩy
lân trùm dưới cơ phu, mỏi gối quì mòn sân trướng phủ.” (Cao Bá
Quát).
Hầu hết
những thành phần này là những người có bà con, họ hàng thân thiết với
ông Bảo Đại tức Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, cùng với đám cựu quan lại và
những người được hưởng những đặc quyền đăc của Liên Minh Xâm Lược Pháp –
Vatican ban cho trong thời “Trăm năm nô lệ giặc Tây”. Tỉ lệ của những
người thuộc thành phần này rất ít, ít hơn tất cả các thành phần khác
trong những người nhận là người Việt Quốc Gia.
3.- Những
người làm tay sai đắc lực cho Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican trong
thời Kháng Chiến 1945-1954 và những người được hưởng những đặc quyền
đặc lợi của các chính quyền miền Nam trong những năm 1954-1975. Tỉ lệ
thành phần này đứng hàng thứ nhì, nhưng rất thấp nếu so với tỉ lệ của
thành phần những người “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa” hay
đã bán linh hồn cho Vatican.
4.- Những
thành phần tư sản giầu có ở các thành phố và bọn phú hào ở trong nông
thôn. Đây là những thành phần thuộc loại "Lý Toét và Xã Xệ", ở trong nhà thì kẻ hầu người hạ, bước ra
khỏi nhà thì võng lọng hay xe ngựa nghênh ngang, tiền hô hậu hét.
Chính quyền Việt Minh thi hành chính sách cải cáchruộng đất với mục đích
san bằng bất công về kinh tế trong nông thôn (cái di lụy của "thời trăm
năm nô lệ giặc Tây" để lại) đã làm quyền lợi kinh tế và uy thế chính trị
của chúng tại địa phương của họ bị tổn thương. Vì thế, giới người này
mới nhẩy ra theo Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican, vơ lấy cái phao
chính quyền bù nhìn Bảo Đại và tự nhận là người Việt Quốc Gia và rêu rao
là chiến đấu cho chính nghĩa Quốc Gia. Thực sự, họ chỉ là những người
ích kỷ, đặt quyền lợ cá nhaanleen trên quyền lợi tối thương của dân tộc
và tổ Quốc. Chính vì vậy mà họ trở thành những phần tử đứng chung một
chiến tuyến với bọn người vong bản phản dân tộc "cam phận là tôi tớ hèn
mọn cho Vatican".
5.- Các
thành viên trong các chính đảng xôi thịt tự phong là các chính đảng Quốc
Gia trong đó có các Việt Nam Quang Phục Hội hay Đại Việt Phục Hưng Hội,
Đại Việt Quốc Dân Đảng, Việt Cách, Việt Quốc (không phải Việt Quốc của
nhà ái quốc Nguyễn Thái Học).
6.- Viên
chức và sĩ quan đã từng nắm giữ những chức vụ chỉ huy hoặc là trong
chính quyền bù nhìn Bảo Đại và quân đội đánh thuê cho Liên Minh Xâm Lược
Pháp - Vatican trong những năm 1948-1955, hoặc là trong chính quyền và
quân đội miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975. Hầu hết những
người này đều xuất thân từ 5 thành phần trên đây. Điểm đặc biệt là trong
thời 1954-1963, những người nắm giữ những chức vụ chỉ huy trong chính
quyền cũng như trong quân đội đều là người của đảng Áo Đen (nhà thờ) và
Đảng Cần Lao Công Giáo mà sử gia Alfred W. McCoy gọi là “Triều Đại
Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu” (Diem’s Dynasty and the Nhu
bandits) và trong thời 1965-1975 đều là người của băng đảng Áo Đen và
băng đảng quân nhân. Trong những năm này, cũng có nhiều người được cho nắm
giữ một số những chức vụ quận trưởng, tỉnh trưởng, và các chức vụ chỉ
huy trưởng các đơn vị từ cấp đại đội cho đến trung đoàn bằng tiền hối
lộ.
Cũng nên
biết là, Nam trong những năm 1954-1975, hầu như tất cả những nhân vật
nắm giữ những chức vụ chỉ huy trong chính quyền cũng như trong quân đội
miền Nam đều trực tiếp hay gian tiếp liên hệ đến vấn đề tham nhũng và
buôn lậu, trong đó có cả vấn đề nhập cảng lậu thuốc phiện sống, rồi biến
chế thành sản phẩm bán cho dân nghiền và thiết lập hệ thống phân phối
để bán cho khách hàng tiêu thụ. Vấn đề nha phiến đã có ở miền Nam từ năm
1950 do Phòng Nhì Pháp và băng đảng ăn Cướp Bình Xuyên điều hành. Theo
sách The Politics Of Heroin In Southesta Asia, trong thời gian này, tại
Sàigòn – Chợ lớn có tới hàng trăm tiệm hút và số tiền lời được chia phần
cho Quốc Trưởng Bảo Đại tính theo phần trăm:
“Vào
khoảng sau năm 1950 quân đội (viễn chinh Pháp) thưởng cho Bình Xuyên một
món làm ăn có rất nhiều lợi. Đó là việc buôn bán thuốc phiện. Bình Xuyên
khởi lập các cơ sở chế biến thuốc phiện sống thành sản phẩm cho khách
hàng tiêu thụ và phân phối đến hàng trăm tiệm hút ở rải rác trong hai
thành phố Sàigòn và Chợ Lớn. Thuốc phiện sống này do người Mèo (ở Lào,
vùng Tây Bắc Việt Nam) sản xuất, và được lính phụ lực Pháp chuyển vận
vào Sàigòn bằng phi cơ. Họ chia tiền lời theo phần trăm (đã được ấn
định) cho Vua Bảo Đại, cho Phòng Nhì Pháp và cho tổ chức lính phụ lực
hỗn hợp trong quân đội Pháp có liên hệ với việc làm ăn này.”
Nguyên văn: “Sometime after 1950 the French military awarded the Binh
Xuyen another lucrative colonial asset, Saigon opium commerce. The Binh
Xuyen started processing MACG’s raw Meo opium and distributing prepared
smokers’ opium to hundreds of dens scattered throughout the twin cities.
They paid a fixed percentage of their profits to emperor Bao Dai, the
French 2ème Bureau, and the MACG commandos.”
[16]
Năm 1955, Pháp đang
trên đà rút lui khỏi miền Nam, Bình Xuyên bị đánh bại, các cơ sở trong
hệ thống tổ chức kinh doanh buôn lậu nha phiến này lọt vào tay chính
quyền Ngô Đình Diệm. Sau khi diễn trò trưng cầu dân ý để truất phế Quốc
Trưởng Bảo Đại vào ngày 23/10/1955, thì tháng 1 năm 1956, chính quyền
Ngô Đình Diệm mở chiến dịch tuyên truyền rầm rộ “Bài Trừ Tứ Đỗ Tường”,
nghĩa là bài trừ bốn tệ đoan xã hội (đánh bạc, đĩ điếm, nghiện rượu và
nghiện thuốc phiện). Tệ nạn nghiện thuốc phiện đã làm cho rất nhiều gia
đình lâm vào cảnh táng gia bại sản. Sở dĩ anh em ông Ngô Đình Diệm làm
rầm rộ chiến dịch này là có mục đích làm lớp sơn hào nháng để che đậy
cái tội phản thần của ông Ngô Đình Diệm. Sau đó, vào năm 1958, thấy
rằng tình hình tương đối đã ổn định, quyền lực đã được củng cố và nhất
là lại được Hoa Kỳ triệt để ủng hộ và bao che, anh em ông Ngô Đình Diệm
liền tiếp xúc và cấu kết với bọn đầu nậu Ba Tầu ở Chợ Lớn là Mã Tuyên để
tái lập hệ thống tổ chức kinh doanh buôn thuốc phiện lậu do Bình Xuyên
và Phòng Nhì Pháp điều hành trước kia và phát triển hệ thống phân phối
sản phẩm bày lên đến 2500 tiệm hút ở trong Đô Thành Sàigòn và Chợ Lớn.
Sự kiện này được sách The Politics of Heroin in Southeast Asia nói rõ
như sau:
“Dù là hầu hết các tiệm hút ở Sàigòn đã đóng cửa cả ba năm rồi, hàng
ngàn dân nghiện người Tầu và người Việt vẫn còn thèm muốn được hút trở
lại. Ông Nhu cho người tiếp xúc với những lãnh tụ của các tổ chức có thế
lực của người Tầu ở Chợ Lớn để mở lại các tiệm hút và thiết lập một hệ
thống phân phối thuốc phiện nhập cảng lậu cho họ sử dụng. Chỉ trong vòng
có mấy tháng, các tiệm hút thuốc phiện này đã hoạt động trở lại, và năm
năm sau, một phóng viên của tờ Time – Life lượng định ở Chợ Lớn có tới
2.500 tiệm hút thuốc phiện họat động công khai.” Nguyên Văn: “Although
most of Saigon’s opium dens had been shut for three years, the city’ s
thousands of Chinese and Vietnamese addicts were only too willing to
resume or expand their habits. Nhu used his contacts with powerful
Cholon Chinese syndicate leaders to reopen the dens and set up a
distribution network for smuggled opium. Within a matter of months
hundreds of opium dens had been open reopened, and five years later one
Time-Life correspondent estimated that there were twenty-five hundred
dens operating openly in Sagon‘ s sister city Cholon.”[17]
Sau khi “Triều Đại
Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu” bị quân dân miền Nam vùng
lên đạp đổ vào ngày 1/1/1963, hệ thống tổ chức buôn lậu nha phiến này
lọt vào Tướng Nguyễn Cao Kỳ và sau đó lại lọt vào tay Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu, Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm và Cố Văn An Ninh của Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu là Trung Tướng Đặng Văn Quang. Đồng thời, có rất
nhiều nhân viên chính quyền cao cấp khác cùng các sĩ quan cấp tướng và
cấp tá trong quân đội dưới quyền của các ông tướng Thiệu, Kỳ, Khiêm và
Quang trên đây cũng có dính vào việc làm ăn bất chính này. Ngoài tội ác
buôn lậu nha phiến trên đây, họ còn pham rất nhiều tội ác khác trong đó
có tội moi tiền nhân dân và tội tham nhũng. Có rất nhiều tư liệu nói về
những tội ác trên đây của họ, trong đó có những cuốn sách như The
Polictics of Heroin in Southeast Asia (New York: Harper & Row,
Publishers, 1972) của tác giả Alfred W. McCoy, cuốn The Deaths of the
Cold War Kings: The Assassinations of Diem & JFK (Baltimore: Cemetery
Dance, Publications, 2000) của hai tác giả Bradley S. O’ Leary & Edward
Lee, cuốn Fire in the Lake (New York: Vintage Books, 1972) của tác giả
Frances FitzGerald, cuốn The Two Vietnams (New York: Frederick A.
Praeger, 1964) của sử gia Bernard B. Fall, cuốn Thập Giá và Lưỡi Gươm
(Paris: Sudestasie, 1978) của Linh-mục Trần Tam Tỉnh, Cuốn Công Và Tôi
(Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1992) của tác giả Nguyễn Trân, cuốn Việt
Nam Một Trời Tâm Sự (Los Alamitos, CA: Xuân Thu. 1987) của cựu Tướng
Nguyễn Chánh Thi, cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Wesminster, CA:
Văn Nghệ, 1993) của cựu Tướng Đỗ Mậu, Bộ sách Trả Ta Sông Núi (Houston,
TX: Văn Hóa, 2002, 2003, 2004) của cựu Đại Tá Phạm Văn Liễu, cuốn Thối
Nát (Houston, TX: Xuân Thu, 1976 của ông Bùi Nhung, cuốn Chân Dung Tướng
Ngụy Sàigòn (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 2002), v.v.. Những cuốn sách này
cũng chỉ nói lên được phần nào tội ác buôn lậu nha phiến, moi tiền nhân
dân, mua quan bán chức, hành hạ và sử dụng lính dưới quyền như những tên
nô lệ trong gia đình của họ trong những năm 1948-1954 và trong chính
quyền miền Nam trong những năm 1954-1975. Xin xem bốn chương sách nói về
vấn nạn tham nhũng, vấn nạn lính ma và lính kiểng, vấn nạn buôn bán nha
phiến, và vấn nạn Giáo Hội La Mã ở miền Nam (Phần VI) trong bộ sách
Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã) đã được đưa lên
giaodiemonlne.com từ giữa năm 2007.
7.- Những thành phần
đã từng hét ra lửa mửa ra khói, tra tấn và giết người không gớm tay
trong các cơ quan cảnh sát, công an, mật vụ, an ninh quân đội, lực lượng
đặc biệt, Phụng Hoàng, v.v…. Hầu hết những thành phần này xuất thân từ
thành 1 (tín đồ Ca-tô.)
8.- Nhân viên làm sở
Mỹ.
9- Những tay anh chị
trong xã hội đen nằm dưới sự che chở của nhân vật có quyền thế trong các
cơ quan cảnh sát, công an, mật vụ, an ninh quân đội, lực lượng đặc biệt,
bọn người lưu manh làm giầu nhờ chiến tranh (đầu nậu buôn bán bạch
phiến, cung cấp các dịch vụ giải trí cho quân đội Mỹ, chủ các ổ điếm,
chủ cán quán rượu, chủ các snack bars) và những thành phần khác sống nhờ
vào đồng tiền do sự hiện diện của Mỹ ở miền Nam Việt Nam trong những năm
1954-1975.
(xem tiếp)...
CHÚ THÍCH
[1]
Bernard. B. Fall, Street Without Joy (Mechanicsburg, PA:
Stackpole Books, 1989), p.26.
[2]
Học Viện
Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh…, Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt
Nam (Hà Nội: Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2002), tr. 68-70
[3]
Hoàng Cơ Thụy, Việt Sử Khảo
Luận, Cuốn 4 (Paris: Nam Á 2002), tr.. 2070. Tác giả
Hoàng Cơ Thụy ghi nhận rằng chính phủ Liên Hiêp này được thành
lập vào ngày 24/2/1946. Nhưng tác giá Nghiêm Kế Tổ lại
ghi nhận nơi các trang 76-77 trong cuốn Việt Nam Máu Lửa (Los
Alamitos, CA: Xuân Thu, 1989) ngày thành lập Chính Phủ Liên Hiệp
là ngày 13/11/1946. Sử gia Vũ Ngự Chiêu dưới bút hiệu
Chính Đạo ghi nơi trang 313 trong cuốn Việt Nam Niên Biểu
1939-1975 – Tập A: 1939-1946 (Houston, Texas: Văn Hóa, 1946) là
ngày 2/3/1946.
Cụ Đoàn Thêm cũng ghi rõ nơi trang 20 trong cuốn
1945-1964 Việc Từng Ngày (Los Alamitos, CA: Xuân Thu 1989?) là
ngày 2/3/1946. Thiển nghĩ rằng, hai tác giả Chính Đạo và
Đoàn Thêm đã ghi đúng. Tác giả, Nghiêm Kế Tổ, tuy là người trong
cuộc, nhưng cũng vẫn lầm lẫn và đã ghi không đúng với cái ngày
lịch sử này, vì rằng vào thời điểm ngày 13/11/1946:
a).- Ông Bảo
Đại đã rời khỏi Việt Nam đi Trung Hoa vào ngày 16/3/1945 và ở
lại sống ở Hồng Kông cho đến giữa năm 1948 mới di chuyển sang
Pháp. Như vậy, làm sao ông Vĩnh Thụy có thể được trao cho chức
vụ cố vấn chính phủ được?
b).- 180 ngàn Quốc Quân Trung
Hoa cũng đã rút hết về Tàu vào khoảng tháng 9/1946, các ông lãnh
tụ và đảng viên của hai đảng Việt Cách và Việt Cách cũng đã hoặc
là bỏ trôn chạy theo quân Tầu sang sống lưu vong ở bên Tầu, hoặc
là chạy trốn đến ẩn náu ở trong giáo Khu Phát Diệm, hoặc là chạy
trốn ra các chiến khu của họ ở Việt Bắc rồi bị đánh tan hay rã
đám và lẻn trốn đi làm lính đánh thuê cho quân đội viễn chinh
Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican. Với tình trạng như vậy, làm
sao các ông trong hai đảng Việt Quốc và Việt Cách có thể tham
gia trong Chính Phủ Liên Hiệp được? Xin xem thêm Chương 47, Mục
XIV, Phần V trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội
La Mã.
[4]
Nhiều tác giả,
Vatican Thú Tội và Xin Lỗi? (Garden Grove, CA: Giao Điểm,
2000), tr. 246.
[5] Chính Đạo,
Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 – Tập A: 1939-1946 (Houston, TX:
Văn Hóa, 1996), tr. 295.
[6]
Bùi Nhung,
Thối Nát (Houston, TX: Xuân Thu, 1980?), tr.99-100.
[7]
Lê Xuân
Khoa, Việt Nam 1945-1995 (Bethesda, MD: Tiên Rồng, 2004),
tr. 204.
[8]
Lê Xuân Khoa,
Sđd., tr 208.
[9] Trịnh Văn Phát.
"Cảm Nghĩ Một
Chuyến Đi." (Đăng trong Giáo Hoang Học Viện PIÔ - Liên Lạc Số 2
- Nhóm Úc Châu thực hiện, tháng 7 năm 1995, tr 72.
[10]
Phan Đình
Diệm. "Mea Culpa
Bài 3 - Giáo Hội Công Giáo Roma La Tinh Cáo Thú Tội Lỗi Ngàn
Năm" http://
www.kotohoc.com/Bai/Net066.html. Ngày 19/9/2000.
[11]
Nhiều tác
giả, Vatican Thú Tội
Và Xin Lỗi? (Garden
Grove, CA: Giao Điểm, 2000, tr 245-246..
[12]
Nhiều tác giả, Sđd., tr. 92
[13]
Bùi Ðức Sinh, Lịch Sử
Giáo Hội Công Giáo - Phần Nhì (Sàigòn: Chân Lý, 1972), tr 165.
[14]
Charlie
Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA:
Giao Điểm, 2001), tr. 228 và 272.
[15]
Nhiều tác
giả, Tại Sao Không Theo Đạo Chúa, Tập 2 (Spring, TX: Ban
Nghiên Cứu Đạo Giáo, 1998), tr. 116.
[16]
Afred W.
McCoy, The Politics of Heroin in Southeast Asia (New
York: Harper Colophon Books, 1972), p.118.
[17]
Alfred W.
McCoy, Ibid., p. 160.