GIÁO HỘI LA MÃ:
LỊCH SỬ VÀ HỒ SƠ TỘI ÁC
- Nguyễn Mạnh Quang -
http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH6_0.php
10 Sep, 2007
CHƯƠNG 6
VATICAN CẤU KẾT VỚI CƯỜNG QUYỀN ĐỂ TIẾM QUYÊN
VÀ ĐÁNH CHIẾM ĐẤT ĐAI LÀM THUỘC ĐỊA
Những người thấu hiểu lịch sử thế giới đều
nhận thấy rằng, trong gần hai ngàn năm qua, tùy theo thời thế và hoàn cảnh của
lịch sử, Giáo Hội La Mã thường hay áp dụng hai sách lược dưới đây để củng cố
quyền lực và mở rộng ảnh hưởng:
1.- Trước thế kỷ Cách Mạng Pháp 1789, Giáo Hội
La Mã luôn luôn cấu kết chặt chẽ với các cường quốc Âu Châu đương thời để củng
cố và duy trì quyền lực ở Âu Châu và vùng ven Biển Địa Trung Hải.
2.- Từ giữa thế kỷ 15 trở đi, Giáo Hội luôn
luôn liên kết với các đế quốc thực dân xâm lược hay các chế độ độc tài phát xít
hùng mạnh nhất để vừa duy trì quyền lực tại Âu Châu vừa bành trướng ảnh hưởng
sang các lục địa Phi Châu, Mỹ Châu và Á Châu.
Cả hai sách lược của Giáo Hội La Mã đều được
sử gia Avro Manhattan xác quyết rõ ràng với nguyên văn như sau:
"Nghiên cứu các tiêu chuẩn lich sử cho thấy
rằng trong nhiều thế kỷ, Giáo Hội La Mã liên kết (đồng hóa) các mục tiêu tôn
giáo với các mục tiêu của các cường quốc đương thời. Như chúng ta đã thấy, Giáo
Hội đã dùng sách lược (công thức) này ở Á Châu khi Giáo Hội liên kết với các
cường quốc Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Pháp trong một thời kỳ.
Ở Âu Châu, sách lược trên đây cũng được áp
dụng nhiều lần trong thế kỷ 20 này. Có lúc, Giáo Hội đã liên kết với nước Pháp,
liên kết với Đế Quốc Gia-tô Áo - Hung trong thời Đệ Nhất Thế Chiến, rồi trước và
trong thời Đệ Nhị Thế Chiến thì Giáo Hội lại liên kết với các chế độ độc tài Ý
và Đức của phe hữu. Bằng cách đồng hóa với các cường quốc trên đây vào thời đang
lên về các quyền lợi kinh tế, chính trị và chiến tranh, Giáo Hội đã thâu tóm
được rất nhiều quyền lợi.
Vì rằng không còn một siêu cường Da-tô nào kể
từ khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt mang theo sự hủy diệt của chế độ phát xít ở Âu
Châu, Giáo Hội La Mã quay ra chọn Hoa Kỳ để liên kết thành một liên minh chính
trị. Đây là hành động để đối phó với sự bành trướng của nghĩa Cộng Sản
Bôn-sê-vích và siêu cường Nga Sô sau thời Đệ Nhị Thế Chiến. Tình trạng này khiến
cho cả Giáo Hội La Mã lẫn Hoa Kỳ cùng lo sợ và bắt buộc hai thế lực này liên
kết với nhau thành một liên minh thực sự trong thời Chiến Tranh Lạnh.”
Nguyên văn: "The study of historical patterns reveals a
formula which the Catholic Church has used for centuries, namely identification
of her religious objectives with those of a major lay political power of a given
period. As we have seen, she used this formula in Asia when she identified
herself with the major powers of those days, Prortugal, Spain, and France.
In Europe the formula was applied several
times in this century. She identified herself at various intervals with France,
then with the Catholic Empire of Austria-Hungry during the First World War, and
with the right wing dictatorships of Italy and Germany, before and during the
Second World War. She advanced her interests in the wake of these Powers by
identified herself with their economic, political and war interest.
Since the end of the Second World War and the
annihilation of European fascism she adopted the U.S. as her lay partner, in the
absence of a Catholic superpower. This was prompted by the grim reality of the
appearance of Boshevism and the growing military presence of Soviet Russia after
World War II. The menacing reality of these two compelled the Vatican and the
U.S. together and in due course force them into veritable alliance known as the
Cold War.” [i]
Những sách lược cấu kết và dựa vào đế quốc
thực dân xâm lược để bành trướng thế lực như vậy của Giáo Hội La Mã được gọi là
sách lược "cáo đội lốt hùm" hoặc "cú mang lông công" để "theo
đóm ăn tàn", hay "mượn gió bẻ măng" hoặc là "theo voi ăn bã mía".
Ngoài hai sách lược trên đây, tùy theo con số
tín đồ Da-tô bản địa tại các địa phương được chiếu cố, Giáo Hội sẽ thi hành
những sách lược mà sử gia Loraine Bottner ghi nhận như sau:
“Rome in the minority is
a lamb (Khi là thiểu số, Giáo Hội La Mã là con cừu).
Rome as an equal is a fox
(khi ngang số, Giáo Hội La Mã La Mã là con cáo).
Rome in the majority is a tiger (khi chiếm đa
số, Giáo Hội La Mã là con cọp.)”[ii]
Vì không có tiềm năng quân sự, Giáo Hội phải
gửi cả môt binh đoàn truyền giáo đến các quốc gia bị chiếu cố với thủ đoạn dùng
miếng mối vật chất để dụ khị những kẻ khốn cùng “theo đạo để lấy gạo mà ăn”.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy rằng, với sách lược “con cừu, con cáo và con
cọp” trên đây, các quốc gia nạn bị Vatican chiếu cố sẽ lần lượt theo thứ tự
ở vào những trường hợp dưới đây:
1.- Khi con số tín đồ còn ít, Giáo Hội đóng
vai trò con cừu hiền lành để cho chính quyền và người dân bản địa không để ý đến
những việc làm chống lại quốc gia địa phương đó. Đó là việc đoàn ngũ hóa,
gom giáo dân vào sống chung với nhau trong một khu riêng biệt gọi là xóm đạo để
dẽ bề cô lập họ và giữ bí mật những âm mưu cùng những việc làm bất chính như tổ
chức giáo dân bản địa thành những màng lưới gián điệp để giúp cho các ông
truyền giáo hoàn thành những điệp vụ của họ.
2.- Khi con số tín đồ bản địa đã đến mức kha
khá, Giáo Hội sẽ tổ chức giáo dân thành những đoàn thể như Đoàn Thiếu Nhi Thánh
Thể, Hội Nghĩa Binh, Hội Con Đức Mẹ, Hội Công Giáo Tiến Hành, Đạo Binh Xanh, Hội
Thánh Giuse Lao Công, Hội Các Bà Mẹ Công Giáo, Hội Các Bà Dòng Ba, Ca Đoàn Trầm
Mặc, v.v… Trong số những đoàn thể này, các linh mục quản hạt tuyển chọn những
người lanh lợi có đủ điều kiện về thể chất vào các đạo quân thứ 5 nằm tiềm phục
chờ giờ hành động. Trong hoàn cảnh này, Giáo Hội thực sự đã thành con cáo già
tại quốc gia đó và Vatican sẽ dùng những đạo quân thứ 5 này làm phần hùn đóng
góp với đế quốc nào liên minh với Vatican xuất quân đánh chiếm quốc gia này làm
thuộc địa. Đây là trường hợp của Việt Nam vào thế kỷ 19 từ thời Vua Minh
Minh (1820-1840) cho đến năm 1885. Thời kỳ đó, trong thập niên 1850, Vatican áp
dụng sách lược này khi thuyết phục chính quyền Napoléon III của nước Pháp liên
kết với Giáo Hội và xuất quân đánh chiếm Việt Nam. Đầu thập niên 1950, Vatican
cũng dùng sách lược này để vận động Hoa Kỳ đưa ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam cầm
quyền. Nếu không có Vatican vận động cho ông Ngô Đình Diệm, Hoa Kỳ đã chọn ông
Nguyễn Hữu Trí hoặc ông Phan Quang Đán hay Trần Văn Tuyên thay vì ông Ngô Đình
Diệm.
3.- Khi đã vận động được một đế quốc xâm lược
cấu kết với Giáo Hội đem quân tấn chiếm quốc gia bị chiếu cố như trường hợp
Châu Mỹ La-tinh và Phi Luật Tân hồi đầu thế kỷ 16, Việt Nam trong thế kỷ 19,
v.v…, hoặc là đã đưa được một tín đồ bản địa tay sai của Giáo Hội lên nắm chinh
quyền (như ở Tây Ban Nha vào những năm 1936-1975, ở Croatia trong những năm
1941-1945, ở miền Nam Việt Nam trong những năm1954-1975, ở Rwanda trong năm
1994), bộ mặt thật bịp bợm và bạo ngược của Giáo Hội mới lộ ra cho mọi người
thấy rõ: Giáo Hội thực đả trở thành cọn cọp dữ với đầy đủ những nanh vuốt
cùng tất cả thú tính của nó và sẵn sàng chồm lên chộp lấy “con mồi” (chính
quyền) để làm phương tiện tiến hành Kế Hoạch Ki-tô hóa nhân dân bản địa bằng tất
cả những phương tiện của nhà nước.
Bộ mặt thật ghê tởm của con cọp Da-tô này
(cũng gọi là con cọp Vatican) đã được phơi bày ra ở Âu Châu và các vùng ven Biển
Địa Trung Hải trong thời gian dài từ thế kỷ 4 cho đến đầu thế kỳ 15. Cũng vì thế
mà các nhà viết sử mới gọi thời kỳ này ở Âu Châu là “Thời Kỳ Đen Tối” (Dark
Ages).
Trong Thời Kỳ Đen Tối, con cọp Vatican hoành
hành tác oai tác quái ở lục địa Âu Châu trong gần 10 thế kỷ, dồn người dân Âu
Châu vào thảm cảnh lạc hậu, chậm tiến, ngu dốt, nghèo đói, cực kỳ điêu linh khốn
khổ. Vì có những cuộc chiến thập tự (1095-1291), khi tiến vào vùng Palestine,
tiếp cận với các cộng đồng dân chúng ở vùng này, những người Âu Châu trong các
đoàn quân thập tự viễn chinh này mới biết rằng người dân Âu Châu quả thật là
thua kém người dân Á Châu (đặc biệt là người Ấn Độ và người Trung Hoa) rất xa về
nhiều phương diện. Thực trạng này đã khiến cho họ thèm khát sự giầu có và đời
sống huy hoàng của người Á Châu và nẩy sinh ra phong trào người Âu Châu tìm đến
Á Châu để hy vọng được nhìn thấy tận mắt và hưởng thụ những thứ mà họ ước ao
khao khát.[iii]
Chính vì vậy mới có những chuyện:
1.- Anh em ông Nicolo Polo và Maffeo Polo,
người Ý, từ Âu Châu đi theo con đường tơ lụa đến thủ đô Khanbaliq (ngày nay là
Bắc Kinh), Trung Hoa, vào năm 1266 và trở về Âu Châu vào cuối năm 1269 hay đầu
năm 1270. Bị chóa mắt trước cảnh giầu có của người Trung Hoa, năm 1271, anh em
ông Polo lại trở lại Trung Hoa. Đặc biệt lần này, ông Nicol Polo còn mang theo
ngưởi con của ông là cậu Maro Polo (1254? –1324?), lúc đó mới khoảng 17 tuổi,
cùng đi để cùng được hưởng sự giầu có của người Trung Hoa. Tại quốc gia này, cậu
Marco Polo quả thật là hết sức may mắn. Cậu được triều đình nhà Nguyên biệt
đãi, cưới người đẹp Trung Hoa làm vợ và được cho hưởng thụ cuộc sống huy hoàng,
cho nên cậu đã ở lại đây tới khoảng 20 năm trời.
2.- Ông Vasco Da Gama (1469?-1524) người Bồ
Đào Nha tìm được hải lộ men theo bở biển Tây Phi, vòng qua Mũi Hảo Vọng, đi
ngược về phía Bắc, băng qua eo biển Madagascar, men theo duyên hải bán đảo Á
Rập, băng qua Vinh Ba Tư tới Ấn Độ vào năm 1498.
3.- Con đường hồ tiêu chạy dài từ Indonésia
băng qua eo biển Mã Lai và eo biển Tích Lan, rồi men theo ven biến phía Tây Ấn
Độ, đi tiếp theo ven biển Ba Tư và ven bở biển bán đảo Ả Rập, vượt qua Hồng Hải
vào Địa Trung Hải.
4.- Ông Christopher Columbus (1451-1506),
người Ý, tìm đường vượt Đại Tây Dương tìm ra Mỹ Châu vào ngày 12/10/1492.
5.- Từ chuyện ông Columbus tìm ra Mỹ Châu mới
phát sinh ra phong trào người Âu Châu chạy sang Mỹ Châu mưu sinh để được sống
đời tự do, thoát khỏi nanh vuốt của con cọp dữ Vatican. Sự kiện này được ông
Lương Minh Sơn ghi lại trong bài viết “Bài Học Chiến Tranh Việt Nam Nhìn Từ Hậu
Trường Chính Trị Hoa Kỳ” với nguyên văn như sau:
“Đối với Hoa Kỳ mặc đầu là đất nước được
gây dựng trên nền tảng luân lý và đạo đức Thiên Chúa (Judo-Christian), tổ tiên
những người Mỹ là những người Âu Châu đã từng bỏ chạy qua đây để tránh sự ruồng
bắt của Tòa Thánh Vatican trong thời kỳ “Inquisition”. Thành thử, Hiến Pháp Hoa
Kỳ nghiêm cấm và tách rời mọi sự liên hệ về quyền lực chính trị giữa chính quyền
và tôn giáo, không phải chỉ ở trình độ ý thức chính trị cao mà còn là những kinh
nghiệm đau đớn có thật lúc trước.” [iv] .
Tuy nhiên, không phải tất cả người dân Âu Châu
đều chạy trốn con cọp Vatican như những trường hợp trên. Hàng trăm triệu dân Âu
Châu khác còn ở lại quê nhà Âu Châu cũng ghê tởm con cọp Vatican khốn nạn này
đến cùng mức của ghê tởm, nhưng vì nhiều lý do khác nhau, họ phải ở lại Âu Châu
rồi tìm cách đập chết nó; nếu không đập chết được nó, thì cũng bẻ nanh vuốt con
ác thú này khiến cho nó không còn có thể gây hại cho họ được nữa. Những phương
cách của người dân Âu Châu sử dụng để đập chết hay bẻ nanh bẻ vuốt con ác thú
Vatican này sẽ được trình bày một phần trong Chương 11 trong Mục IV và sẽ được
trình bày khá đầy đủ ở trong Phần VII ở sau.
CẤU KẾT VỚI BỌN LÃNH CHÚA ÂU CHÂU
Một phần trong những hành động của Giáo Hội La
Mã cấu kết với bọn lãnh chúa Âu Châu để duy trì quyền lực và mở rộng vùng ảnh
hưởng là những hành động của Tòa Thánh Vatican cấu kết với bọn vua chúa Âu Châu
trong việc phát động các cuộc chiến thập tự khởi đầu vào năm 1095. Vào năm này,
Giáo Hoàng Urban II (1088-1099) kêu gọi bọn lãnh chúa Âu Châu đem quân đi đánh
chiếm các vùng bị Giáo Hội chiếu cố. Nói về tội ác này của Tòa Thánh Vatican,
sách Men and Nations viết:
“Giáo
Hoàng Urban hăng hái cổ võ ý kiến là tín hữu Da-tô phải phát động một cuộc chiến
tấn công người Hồi Giáo để lấy lại đất Thánh. Năm 1095, ông triệu tập các gíao
sĩ và các nhà quý tộc đến tham dự đại hội ở Clermont, Pháp. Tại đại hội này, ông
kêu gọi các nhà quý tộc phong kiến có quyền thế phải nên ngưng những cuộc chiến
đánh lẫn nhau và tham dự một cuộc chiến lớn lao chống lại những người không tin
Chúa.
Lời kêu gọi của ông được các nhà quý tộc nhiệt
liệt hưởng ứng. Họ cùng hô lớn “Thượng Đế muốn như vậy!” Từ Clermont, người ta
đi khắp nước Pháp để cổ võ cho lời kêu gọi của Giáo Hoàng Urban II. Những người
gia nhập đoàn quân viễn chinh này đều có may một miếng vài hình chữ thập ở trên
áo của họ. Vì thế họ được gọi là quân chữ thập. Đây là một từ ngữ La-tinh
cruciata, có nghĩa là “đánh dấu với một chữ thập.”
“Người
ta gia nhập vào các Đoàn Quân Thập Ác này vì nhiều lý do. Giáo Hoàng hứa hẹn sẽ
ban thưởng cho họ vừa lên thiên đường vừa được hưởng những phần thưởng vật chất
thiết thực ở nơi trần thế. Mọi tội lỗi của nguời lính Thập Ác đều được tha thứ.
Tài sản và gia đình của họ được Giáo Hội bảo đảm, trông nom săn sóc trong thời
gian họ xa nhà đi chiến đấu. Những ai còn mang nợ sẽ được xóa bỏ hết nợ nần và
những tội đồ sẽ được xóa bỏ hết tội ác, miễn bị trừng phạt nếu họ gia nhập vào
đoàn quân Thập Ác của Giáo Hội. Nhiều ông hiệp sĩ chóa mắt vì những miếng mồi
quyến rũ về những đất đai và của cải mà họ hy vọng sẽ ăn cướp được ở vùng Cận
Đông giầu có. Các thương gia thì thấy đây là cơ hội bằng vàng cho họ kiếm được
những món lợi kếch sù trong việc kinh doanh. Các cuộc viễn chinh của Đoàn Quân
Thập Ác này một phần mang tính cách tôn giáo, nhưng cũng là một cuộc chiến tranh
khích động lòng yêu thích phiêu lưu của con người, lòng hám lợi và khát vọng
trốn thoát khỏi cảnh nợ nần, tù tội và buồn chán.”
….
Cuộc chiến Thập Ác Thứ Nhất,…….. Sau một thời gian bao vây, quân Thập Ác chiếm
được thành Jerusalem. Họ tàn sát dân Hồi giáo thật là vô cùng rùng rợn. Một vị
chỉ huy quân Thập Ác viết cho Giáo Hoàng rằng con chiến mã của ông ta phải đi
băng qua những xác chết và máu người lênh láng lên đến đầu gối…
Những vùng đất chiếm được của các dân tộc nạn
nhân được tổ chức thành bốn tiểu quốcZ: Hạt Edessa (County of Edessa), Hầu Quốc
Antioch (The Principality of Antioch), Hạt Tripoli (Count of Tripoli), và Vương
Quốc Jerusalem (Kingdom of Jerusalem). Chế độ phong kiến Âu Châu được áp dụng;
đất đai đuợc chia cắt thành những thái ấp phân phối cho các chư hầu và lãnh
chúa. Quân linh thập ác người Âu Châu chiếm đoạt các vùng đất này gần một thế
kỷ.”
Nguyên văn:”The pope’s call for a crusade.- Pope Urban II was
eager to promote the idea of a Christian offensive to regain the Holy Land from
Moslems. In 1095, he called a great meeting of churchmen and French nobles at
Clermont, France. He urged the powerful feudal nobles to stop warring among
themselves and join in a great war against the unbelievers.
Urban’s plea fired his listeners with
enthusiasm, and they joined in one mighty cry, “God wills it!” From Clermont,
men traveled through France preaching the cause. Those who joined the
expeditions sewed a cross of cloth on their garments. They were called
crusaders, from Latin word cruciata, meaning “marked with a cross.”
Men joined the Crusades for many different
reasons. The pope promised both heavenly and earthly rewards. All the sins of a
crusader were forgiven. His property and family were guaranteed protection by
the Church during his absence. A debtor who took the cross had his debts
canceled; a criminal was relieved of punishment. Knights were dazlled by the
lure of lands and plunder in the rich Near East. Merchants saw a chance for
commercial gain. The Crusades were partly religious expeditions, but they also
appealed to men’s love of adventure, hope of gain, and desire to escape debts,
punishment, or boredom.”
….
The first Crusade.-…The crusaders captured Jerusalem after a short
siege and slaughtered the Moslem inhabitants in a terrible massacre. One leader
wrote to the pope that his horse’s legs had been bloodstained to the knees from
riding among the bodies of the dead.
The crusaders set up four small states: the
County of Edessa, the Principality of Antioch, the County of Tripoli, and the
Kingdom of Jerusalem. European feudalism was introduced, the land was subdivided
into fiefs, with vassals and lords. For almost a century the Europeans held
these lands.”[v]
Đó là vùng Palestine và các vùng phụ cận. Trận
chiến này được các nhà viết sử gọi là cuộc Thập Ác Chiến lần thứ I (kéo dài từ
năm 1096 đến năm 1099 mới chấm dứt). Sau đó, còn nhiều cuộc chiến thập ác khác
và kéo dài đến năm 1291, tính ra ngót nghét gần hai thế kỷ. Mục đích của các
cuộc chiến thập ác này là để củng cố quyền lực và mở rộng vùng ảnh hưởng của
Giáo Hội bằng cách tiêu diệt các hệ phái Hồi Giáo, Chính Thống Giáo, Do Thái
Giáo ở vùng này, và tiêu diệt luôn cả giáo phái Ki-tô Cathari ở miền Nam Nước
Pháp.
CẤU KẾT VỚI BỒ ĐÀO NHA VÀ TÂY BAN NHA
Ở
ÂU CHÂU VÀ Ở CÁC THUỘC ĐỊA NGÒAI ÂU CHÂU
Sự hoành hành và tác oai tác quái của các Tòa
Án Dị Giáo cùng những thủ đọan bóc lột nhân dân bằng chính sách thuế thập phân
và bằng những hình thức dâng cúng của lễ đã khiến cho nhân dân Âu Châu oán ghét
và căm thù Giáo Hội La Mã đến tận xương tận tuỷ. Cũng vì thế mà những tín lý bịp
bợm của Giáo Hội không còn ăn khách như xưa nữa. Cũng vì thế mới có những phong
trào nhân dân nổi lên chống Giáo Hội. Cũng may cho Giáo Hội, cũng vào mấy thập
niên đầu của thế kỷ 15, các nhà hàng hải Bồ Đào Nha khám phá ra con đường biển
đến Ấn Độ (như đã nói trên). Thấy vậy, Giáo Hội La Mã liền chộp lấy cơ hội này
ban hành Thánh Lệnh Romanus Pontifex vào ngày 8 tháng 1 năm 1454 trong thời Giáo
Hòang Nicholas V (1447-1455) với mục đích là để cấu kết với đế quốc Da-tô Bồ Đào
Nha đem quân thập ác đi chinh phục các vùng đất ở ngòai lục địa Âu Châu với dã
tâm chiếm đất, đọat của, ăn cướp tài nguyên, hủy diệt các tín ngưỡng và văn hóa
bản địa, tàn sát đàn ông, hãm hiếp đàn bà con gái, và cưỡng bách những người còn
sống sót phải theo đạo Da-tô làm nô lệ cho Giáo Hội và bọn tay sai.
Sau đó, lại có nhà thám hiểm người Ý Đại Lợi
là Christophe Colombus (1451-1506) được chính quyền của Hòang Đế Da-tô Ferdinand
V (1452-1516) và Hoàng Hậu Da-tô Isabella (1451-1504) tài trợ cho một chuyến đi
thám hiểm tìm đến Trung Hoa và Ấn Độ bằng hải thuyền đi theo hướng Tây vượt Đại
Tây Dương, rồi không ngờ lại khám phá ra Mỹ Châu. Nhân cơ hội này, Giáo Hội lại
ban hành thêm mấy thánh lệnh khác vào năm 1493, chia trái đất ra làm hai cho Bồ
Đào Nha và Tây Ban Nha, mỗi nước một nửa và có quyền đem quân đi đánh cướp đất
đai, khai thác tài nguyên và cưỡng bách các dân tộc nạn nhân làm nô lệ đúng như
tinh thần Thánh Lệnh Romanus Pontifex đã ban hành vào ngày 8 tháng 1 năm 1454.
Sách sử đều chứng minh rằng dã tâm này của
Vatican đã biến tín đồ Da-tô thành những quân ăn cướp tàn ngược nhất, dã man
nhất, gây nên không biết bao nhiêu thảm cảnh đau thương cho nhân dân trong những
vùng đất bị Giáo Hội chiếu cố. Các nhà biên khảo lịch sử đều cho rằng sau khi
Giáo Hội đã chinh phục hay đã thiết lập được chế độ đạo phiệt Da-tô ở quốc gia
nào, nhân dân tại quốc gia đó không thể nào lại không thoát khỏi tình trạng
thảm thương: Hoặc là phải từ bỏ tín ngưỡng cổ truyền để theo đạo Da-tô, hoặc là
sẽ bị trục xuất ra khỏi quê cha đất tổ thân thương của họ.Thảm cảnh này đều
được sách sử ghi lại đầy đủ. Hai nhà viết sử Anatole G. Mazour và John M.
Peoples ghi lại sự kiện này trong cuốn Men and Nations - A World History với
nguyên văn như sau:
"Những tín đồ nhiệt thành của Giáo Hội La Mã
không thích những người Moors theo đạo Hồi và dân Do Thái theo đạo Do
Thái. Ngay cả sau khi xứ Granada sụp đổ, người Moors vẫn phải tiếp tục sống hòa
bình ở Tây Ban Nha. Người Do Thái đã sinh sống ở Tây Ban Nha từ khi quốc gia này
trở thành một phần trong lãnh thổ Đế Quốc La Mã. Năm 1492, Vua
Ferdinand và Nữ Hoàng Isabella ra lệnh cho tất cả những người Do Thái trong
vương quốc của họ hoặc là phải theo đạo Da Tô (Kitô La Mã), hoặc là phải bán xới
đi khỏi nước Tây Ban Nha. Mấy năm sau, hai vợ chồng ông vua này lại bắt dân
Moors phải tuân hành lệnh trên đây. Hầu hết những nạn nhân trong hai nhóm dân
này đều quyết định thà bán xới bỏ nước Tây Ban Nha mà đi chứ nhất định là không
chấp nhận theo đạo Da Tô để được ở lại nước Tây Ban Nha" Nguyên văn:
"Ardent Catholics, they looked with displeasure at the many Moors and Jews in
Spain. Even after the fall of Granada, Moors had continued too live peacefully
in Spain. Jews had been in Spain since the time it was part of the Roman Empire.
In 1492, Ferdinand and Isabella ordered that all Jews within their two
kingdoms must either become Christians or leave Spain. Several years later they
offered the Moors the same choice. Most people of both groups chose to leave
rather than accept Christianity."[vi]
Ông Lương Minh Sơn viết về tình trạng của
những người Moors và Do Thái ở Tây Ban Nha trong thời kỳ này như sau:
"The Spanish Inquisitions" là thời kỳ Hoàng
Gia Tây Ban Nha ra lệnh bắt bớ và tàn sát những người theo các giáo phái khác vì
cho là "dị giáo". Thời kỳ này bắt đầu từ năm 1478, khi Hoàng Hậu Isabella I de
Castille khởi động phong trào bắt bớ những người Do Thái, mặc dầu đã theo đạo
Thiên Chúa La Mã nhưng vẫn còn bí mật duy trì những tục lệ của Do Thái Giáo.
Năm 1483, Vua Ferdinand và Hoàng Hậu Isabella cử giáo sĩ Tomas de
Torquemada của dòng tu Spanish Dominican lên nắm quyền tư lệnh để thi hành
chương trình "Inquisition" trên toàn lãnh thổ và những vùng thuộc địa của Tây
Ban Nha. Năm 1487, Đức Giáo Hoàng Innocent VIII phong thưởng cho
giáo sĩ de Torquemada danh hiệu "The Grand Spanish Inquisitor", một "Inquisitor"
vĩ đại, và ra lệnh khởi động chương trình "Inquisition" trên toàn thế giới.
Ngày 31-03-1492, Hoàng Gia Tây Ban Nha ra sắc lệnh bắt buộc 150
ngàn người Do Thái ở thành phố Granada phải bán hết của cải để rời khỏi Tây
Ban Nha trước ngày 31 tháng 7 vì lý do để làm sạch cho "danh dự và sự
rực rỡ của Thượng Đế." Hàng ngàn người Do Thái phải miễn cưỡng "theo
đạo" nhưng sau này vẫn bị nguyền rủa là "Los Marranos" (Loài Heo Dơ Bẩn).
Hơn
60 ngàn người phải đút lót tìm đường vào định cư ở Bồ Đào Nha. Một số khác
được Hoàng Đế Bajazet của Ottoman (Cổ Thổ Nhĩ Kỳ) thâu nhận, mặc dầu giáo phái
chính của đế quốc này là Chánh Thống Giáo (Orthodox).
Năm 1499, một "Spanish Inquisitor" khác là Tướng Francisco
Jimenez de Cisneros áp đặt phương cách làm lễ biến đổi những người "dị giáo"
sang Thiên Chúa Giáo La Mã một cách tập thể, và chuyện này đã bắt lửa cho cuộc
đại loạn đẫm máu ỏ Granada. Năm 1543, các "Spanish Inquisitors"
ra lệnh xử đốt những người Tin Lành (Protestants) trên các phong thánh giá.
Cuộc đàn áp tôn giáo này kéo dài 342 năm. Năm 1820, khi Hoàng Đế
Ferdinand thứ VII ra lệnh chấm dứt thời kỳ "Inquisition" thì đế quốc Tây Ban Nha
cũng đã mất gần hết các thuộc địa tại Trung Mỹ [TRA, "Human Rights and Social
Justice": 1478, 1483, 1492, 1499, 1543, 1820]. Gần thế kỷ sau, ngày 14-11-1994,
trong một bài hiệu triệu gởi các hàng giáo phẩm của Thiên Giáo La Mã, Đức Giáo
Hoàng John Paul Thứ II lên tiếng kêu gọi "Giáo Hội của Ngài phải ăn năn thống
hối đối với những tội lỗi mà người Thiên Chúa Giáo La Mã đã lầm lẫn gây ra trong
quá trình lịch sử, chỉ vì họ đã bảo vệ đức tin một các quá nhiệt thành". Ngài
nói, "Giáo Hội Thiên Chúa Giáo La Mã không thể nào bước qua được ngưỡng cửa của
thiên kỷ mới nếu không khuyến khích giáo dân hãy rửa mình cho tinh khiết, bằng
cách ăn năn về những lỗi lầm trong quá khứ", [LAT]
[vii]
Lệnh thi hành chương trình "Inquisition" từ
mẫu quốc Tây Ban Nha thì tất nhiên tại các thuộc địa của Tây Ban Nha làm sao
thoát khỏi? Sách Homeland of The World viết về tình trạng dân Da Đỏ tại các
thuộc địa cuả Tây Ban Nha ở Châu Mỹ La Tinh như sau:
"Người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha khi đến
Châu Mỹ La Tinh mang theo niềm tin tôn giáo của họ. Họ cho rằng người dân Da Đỏ
là những dân tà giáo (dị giáo) hay không có tôn giáo gì cả. Sự thật, người Da Đỏ
có tôn giáo riêng của họ. Tôn giáo của họ dựa vào lòng tin tưởng của họ đối với
quyền lực thiên nhiên ở chung quanh họ. Họ thờ mặt trời, thờ thần gió và các
quyền lực khác của thiên nhiên. Người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha không cho đó là
một tôn giáo và quyết định dùng bạo lực đàn áp tôn giáo của nguời Da Đỏ. Người
Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha tin rằng nhiệm vụ của họ là phải cưỡng bách người Da
Đỏ phải theo đạo Thiên Chúa La Mã." Nguyên văn: “The Spanish and
Portuguese settlers in Latin America brought their religion with them. They
believed the Indians to be pagans, or people who had no religion. In fact, the
Indians did have their own religion. It was based on their belief in the powers
of nature around them. They worshiped the sun, the winds, and the forces of
nature. The Spanish and the Poruguese did not think it was a religion, and they
took steps to crush it.. The Spanish and the Portuguese believed it was their
duty to convert the Indians to Christianity and to the Catholic Church.”
[viii]
Ông Phan Quốc Đông viết:
"Tôi cũng đã đọc kỹ lịch sử của Giáo Hội
Vatican, tiểu sử của từng vị giáo hoàng, các phương pháp bành trướng tôn giáo
của họ tại các lục địa khác ngoài Âu Châu, phương pháp nào nhanh, phương pháp
nào chậm. Phương pháp nhanh nhất được thực hiện bởi thực dân Tây Ban Nha tại các
xứ thuộc Châu Mỹ La Tinh thật là vô cùng tàn ác. Họ dùng gươm giết hết những
người đàn ông bản xứ, chỉ còn lại toàn đàn bà con gái thôi, để họ vừa bắt buộc
theo đạo, vừa hãm hiếp đồng hóa. Số người bị giết lên tới mấy chục triệu. Đây là
phương pháp truyền đạo của phái bộ truyền giáo Tây Ban Nha được Giáo Hoàng
Alexander VI (1492-1503) hỗ trợ. Đi du lịch ở các xứ này ta chỉ thấy toàn những
người lai mà thôi, hầu như không còn một người bản xứ nào sống sót. Tại Phi Luật
Tân, họ cũng giết hàng triệu người, đập phá toàn bộ các đền thờ cổ, thủ tiêu
hoàn toàn mọi chứng tich của nền văn minh cổ của xứ này. Ngôn ngữ, văn tự,
truyền thống, văn hóa hoàn toàn mất hẳn…"
[ix]
Mỗi khi Quân Thập Tự tiến vào vùng mục tiêu
là chúng được quyền tha hồ cướp đọat tài sản, tàn sát đàn ông, hãm hiếp đàn bà
con gái, cưỡng bách những người còn sống sót phải theo đạo Da-tô làm nô lệ và
hủy diệt tất cả các tín ngưỡng nền văn hóa bản địa của các dân tộc nạn nhân.
Hậu quả là các dân tộc Da Đỏ ỡ Mỹ Châu La Tinh gần như hoàn toàn bị tiêu diệt và
tất cả các di tích của nền văn hóa của họ cũng gần như bị hủy diệt hoàn toàn.
Sự kiện này cho chúng ta thấy rõ Giáo Hội La
Mã đã sử dụng sách lược cướp đoạt chính quyền để truyền đạo bằng bạo lực, duy
trì quyền lực bằng sắt máu, bằng chính sách "chia để trị" song hành với việc
dùng tín đồ Da-tô tay sai để cai trị nhân dân và bảo vệ chế độ độc tôn tôn giáo
của Giáo Hội. Các nhà viết sử gọi các chính quyền được tạo nên để thi hành chính
sách độc tôn tôn giáo của Giáo Hội La Mã là các chế độ đạo phiệt Da-tô.
CẤU KẾT VỚI TÍN ĐỒ DA TÔ QUYỀN THẾ
TÁI LẬP CHẾ ĐỘ ĐẠO PHIỆT Ở ANH
Tại Anh, vào đầu thập niên 1530, Anh Hòang
Henry VIII (1509-1547) chống lại Giáo Hội, lập Anh Giáo tách rời khỏi hệ thống
quyền lực của Tòa Thánh Vatican (Sẽ được trình bày đầy đủ trong
Phần VII của bộ sách này). Vì lúc đó,
tại lục địa Âu Châu, có Phong trào Tin Lành (chống lại Giáo Hội La Mã) do Linh-mục Martin Luther chủ trương đang bành
trướng, Giáo Hội không còn khả năng phát động cuộc chiến Thập Tự đem quân vượt
biển Manche (English Channel) đổ bộ vào lãnh thổ Anh để trừng phạt Anh Hòang
Henry VIII (1509-1547). Tuy nhiên, vốn có truyền thống bám chặt lấy miếng mồi
quyền lực như loài đỉa đói, Giáo Hội thi hành sách lược nằm chờ và quậy cho nước
đục để thả câu.
Như chúng tôi đã trình bày trước đây, một
trong những sách lược của Giáo Hội La Mã là dùng "mỹ nhân kế" ở chốn phòng the
(hay hậu trường) đế lèo lái “con mồi” thi hành sách luợc của Giáo Hội đưa ra.
Một sách lược khác nữa của Giáo Hội là nhắm vào người sẽ được chọn đưa lên nối
ngôi nhà vua đương quyền để dụ khị con mồi vào đạo, rồi dung họ làm đầu cầu tiến
lên thi hành những qủy kế hay sách lược của Giáo Hội. Quái chiêu này đã được
Giáo Hội áp dụng ở Anh vào thời kỳ sau khi Anh Hòang Henry VIII (1509-1547)
tuyên bố ly khai với Giáo Hội (vào năm 1534). Đó là quái chiêu ẩn nhẫn rình chờ
cơ hội để ra tay hành động. Cho đến khi Anh Hòang Henry VIII qua đời vào năm
1547 và việc người con nào của Anh Hòang được đưa lên nối ngôi là vấn đề mà Giáo
Hội đã điều nghiên đặt ra một sách lược để đưa người của Giáo Hội lên ngai
vàng. (Sau này, vào cuối thế kỷ 18, Giáo Hội cũng áp dụng quái chiêu này để
nhắm vào Hòang Tử Cảnh, đứa con trai đầu lòng của Nguyễn Ánh (tức Vua Gia Long).
Sách Men and Nations nói về quái chiêu (đối sách) của Giáo Hội được thi hành
trong biến cố Anh Hoàng Henry VIII qua đời vào năm 1547 với nguyên văn như sau:
"Nước Anh trải qua một thời kỳ khó khăn sau
cái chết của Anh Hòang Henry VIII vào năm 1547. Edward VI (1547-1553) lên nối
ngôi vừa bệnh họan vừa còn trẻ mới có 10 tuổi. Các quan đại thần cố vấn nắm
quyền cai trị thì bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của Tin Lành Luther và Calvin, muốn
làm cho Giáo Hội Anh trở nên Tin Lành hơn.
Edward ở ngôi được 6 năm thì chết và Mary lên
kế nghiệp, Mary là một tín đồ Da-tô ngoan đạo, cương quyết phục hồi đạo Da-tô
và quyền lực Giáo Hoàng ở Anh quốc. Dưới ảnh hưởng của bà, Quốc Hội Anh hủy bỏ
Đạo Luật Chủ Quyền Tối Cao" và tất cả những cải cách trong thời Anh Hoàng Edward
VI, Tổng Giám Mục Cranmer và hai ông giám mục bị kết tội là tà giáo rồi bị trói
vào cột và thiêu chết." Tín đồ Tin Lành bị bách hại tàn khốc."
(Nguyên văn: "England went through
troubled times after the death of Henry VIII in 1547. Edward VI was sickly and
only ten years old when he became king. The advisers who ruled for him were
influenced by Lutheran and Calvinist ideas and made the Church in England more
Protestant.
When Edward died after a reign of only six
years, Mary succeeded him. She was a devout Roman Catholic and was determined
that England should be restored to the Catholic Church and the authority of the
pope. Under her influence, Parliament abolished the Act of Supremacy and all
changes made during the reign of Edward VI. Archbishop Cranmer and two bishops
were burned at the stake as heretics. Protestants were severly persecuted."
[x]
Sử gia Thomas P. Neil viết:
"Mary đã được khuyến cáo là nên đối xử tử
tế với những người đã bỏ đạo Da Tô (those who had left the faith), nhưng vây
cánh bên cạnh bà vô cùng quá khích, cương quyết chống lại những người tà giáo.
Trong thời gian 5 năm tại vì của bà, có tới khoảng ba trăm người bị hành
hình vì tín ngưỡng của họ khác với đạo Da Tô….và các sử gia đã đặt cho bà
biệt danh là "Bloody Mary" (Mụ Mary khát máu)" và triều đại tàn ngược
ngắn ngủi của bà đã làm cho đạo Kitô La Mã không có cơ may phục hồi ở Anh quốc
được nữa." Nguyên văn: "Mary was advised to be lenient with those who
left the faith. The queen was not personally inclined to be severe, but many of
her subordinates went to extremes against "heretics." About three hundred
were executed for their anti-Catholic beliefs during her reign..., and
historians soon dubbed her "bloody Mary." Her short reign ruined any chance for
Catholic restoration." [xi]
-.
Ông Đoàn Văn Thông viết về
"Mụ Mary Khát Máu" này như sau:
"Nữ Hoàng Mary Đệ Nhất là con gái vua Henry Đệ
Bát, một ông vua nổi tiếng là đa tình và tàn ác, nổi danh chém đầu vợ. Khi trở
thành nữ hoàng, bà Mary khuynh loát mọi thứ kể cả mặt tôn giáo vì bà là người
thuộc Giáo Hội Thiên Chúa La Mã (Giáo Hội Da Tô) nên những gì trước đó Hoàng Đế
Edward VI đã qui định đều bị hủy bỏ. Bà khuyến dụ dân chúng không được tin vào
những điều đã được rao giảng ở các nhà thờ trong nước Anh.
Bà bất chấp mọi chỉ trích chống đối. Thật ra
lúc bấy giờ không ai dám ngang nhiên chống đối bà một cách trực diện ngoài những
vị chức sắc trong Giáo Hội Anh. Bà coi thường tất cả và sẵn sàng đương đầu với
bất cứ thế lực nào. Châm ngôn của bà là "giết những kẻ la lối để chúng im
hơi". Bà quá lộng hành và quá tàn bạo đến độ dân chúng đặt cho bà một biệt danh
là Mary Đẫm Máu (Bloody Mary) giống như Theodora Đẫm Máu của Hy Lạp. Bà đã ra
lệnh đàn áp, khủng bố và càng cố tạo ra nhiều khủng bố càng tốt để gây khiếp đảm
kinh hoàng trong dân chúng và cho những người chống đối. Nữ Hoàng Mary Đệ Nhất
đã từng ra lệnh thiêu sống 300 người trên giàn lửa đỏ giữa những tiếng
la vang hét dậy cả một góc trời. Trong suốt thời gian nắm quyền hành, có thể
gọi cái thú tiêu khiển của bà là thiêu sống những ai chống đối. Những vị chức
sắc trong Giáo Hội Anh như Tổng Giám Mục Cranmer, Nicolas Ridley, Hugh Latiner…
đều lần lượt bị Mary Đệ Nhất ra lệnh đóng vào cột gỗ dựng giữa quảng trường và
thiêu sống vì họ đã lớn tiếng chống đối những hành động ngang ngược của bà.
Người ta tưởng rằng người đàn bà sắt máu, hung tàn và lạnh giá không có con tim.
Họ nghĩ rằng bà không có chồng. Nhưng sau đó, bà đã chọn một người rất hợp ý với
bà, đó là vua Philip II, một bạo chúa nổi danh của nước Tây Ban Nha, một
con quỷ dữ khát máu không hơn không kém. Trong những trận quyết chiến với quân
đội các nước, ông đã ra lệnh chia các tù binh bắt được ra làm hai loại: Những tù
binh thường thì chém đầu. Còn những tù binh là những tín đồ dị giáo thì cho đóng
vào cột rồi nổi lửa thiêu sống. Philip II đã vô cùng khoái trá khi làm những
điều tàn ác và nghĩ rằng đó là một sáng kiến thú vị lạ lùng.
Lúc Mary I về làm vợ Philip II, bà hoàng này
lại học thêm được những phương cách giết người theo kiểu mới. Hai vợ chồng đã
trở thành những con ác quỷ tung hoành trên thế gian mà Âu Châu là vùng đất hoạt
động của họ. Năm 1555, để khống chế cả Âu Châu, Philip II đã cho vợ được tha hồ
làm mưa làm gió ở Anh và Mary Đệ Nhất đã ra tay tàn sát. Cuộc chiến tranh tàn
khốc chấm dứt vào năm 1558 cũng chấm dứt luôn uy quyền của Mary Đệ Nhất. Nhiều
tư liệu lịch sử kể rằng vua Philip II đã ruồng bỏ bà khiến bà đau khổ và thất
vọng vô cùng. Hàng ngày bà sống âm thầm cô độc trong một lâu đài, ít người thân
thăm viếng vì bà đã gây ra quá nhiều chết chóc thê thảm cho nhiều người khác. Bà
còn nghe được cả những lời than oán, nguyền rủa của dân chúng nói về bà. Mary I
sống trong tuyệt vọng và ân hận từ đó cho đến chết, và khi chết bà đã quằn quại
kêu lên: Ôi! Máu Máu! Máu ngập cả người ta!"
[xii] .
THỦ ĐỌAN GIAN ÁC TRONG VIỆC
THIẾT LẬP CHẾ ĐỘ ĐẠO PHIỆT DA TÔ TẠI PHÁP
VÀ CẤU KẾT VỚI ĐẾ QUỐC PHÁP Ở HẢI NGOẠI
Năm 1588, Hạm Đội Armada của Đế Quốc Tây Ban
Nha bị hải quân Anh đánh bại tại Biển Manche. Kể từ đó, Đế Quốc Tây Ban Nha suy
yếu, Anh quốc trở thành cường quốc làm chủ mặt biển, và Bồ Đào Nha cũng suy yếu
trước sức mạnh của hải quân Anh. Tại lục địa Âu Châu, Pháp trở thành cường quốc
hùng mạnh nhất và có khả năng dám đương đầu với Anh quốc và tất cả các nước khác
ở ngay trên lục địa Âu Châu. Vì thế Giáo Hội La Mã không còn trông mong gì ở Tây
Ban Nha và Bồ Đào Nha để thi hành các thánh lệnh ăn cướp đã ban hành trong thế
kỷ 15 như đã nói ở Chương 4. Thực tế phũ phàng là như vậy. Vì cái bản chất ưa
thích dùng bạo lực và áp bức các dân tộc khác tôn giáo, Giáo Hội phải tìm mưu
tính kế để cấu kết với Pháp và sử dụng Pháp thay thế Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha
làm thân con cọp cho Giáo Hội đội lốt, mượn oai để thi hành sách lược "theo
voi ăn bã mía" dưới chiêu bài "bảo vệ cái chân lý " của Giáo Hội.
Vào thời điểm này, tình hình Âu Châu đối với
Giáo Hội đã hoàn toàn khác hẳn thời kỳ thập niên 1530 trở về trước. Tại lục địa
Âu Châu, nước Đức và các nước Bắc Âu, đã có nhiều triệu tín đồ của Giáo Hội bỏ
đạo đi theo Tin Lành, nước Anh chống lại Giáo Hội, ly khai Tòa Thánh Vatican và
thành lập một hệ phái Kitô riêng gọi là Anh Giáo (Anglican Church). Như vậy,
Giáo Hội không những đã không có quyền lực ở trong các nước trên đây, mà còn bị
nhân dân các quốc gia chống lại Giáo Hội bằng lý thuyết thần học, và, nếu cần
chống lại i bằng lực lượng vũ trang.
Vào thời kỳ này, nước Pháp đang có phong trào
thành lập Pháp Giáo (Gallicanism), độc lập với Vatican. Tuy nhiên, tại quốc gia
này, thế lực bảo thủ thân Giáo Hội La Mã vẫn còn mạnh. Cũng vì thế mới xẩy ra vụ
tàn sát dã man gần hai chục ngàn dân Pháp theo đạo Tin Lành tại Saint
Bartholomew vào ngày 22 tháng 8 năm 1572 do chính quyền đạo phiệt Da-tô Charles
IX (1560--1574) chủ mưu.[xiii] Vụ tàn sát người tập thể hết sức dã man này khiến
cho nước Pháp rơi vào tình trạng chiến tranh tôn giáo triền miên giữa một bên là
tín đồ Da-tô La Mã với sự chỉ đạo của Giáo Hội La Mã có chủ trương cưỡng bách
tất cả mọi người phải theo đạo Da-tô La Mã và một bên là đại khối nhân dân bị
trị chiến đấu trong hàng ngũ Tin Lành để đòi được quyền tự do tôn giáo hay tự do
không tin theo tôn giáo nào cả. Nhân cơ hội này, người Pháp Da-tô dựa vào quyền
lực nhà nước tàn sát người Pháp Tin Lành và người Pháp yêu chuộng tự do. Tình
trạng này càng khiến cho người Pháp Tin Lành và người Pháp không tin tưởng vào
tôn giáo nào đều vô cùng căm thù nhà vua. Chính vì mà tên bạo chúa Henry III
(1574-1589) bị đâm chết vào ngày 1 tháng 8 năm 1589.
Cũng nên biết cả Vua Charles IX (1550-1574)
trị vì nước Pháp trong những năm 1560-1574 và Vua Henry III (1551-1589) trị vì
nước Pháp trong những năm 1574-1589 đều là con của Vua Henry II (1519-1559) trị
vì nước Pháp trong những năm 1547-1559 và Hoàng Hậu Catherine de Médicis
(1519-1589), đều là tín đồ Da-tô La Mã cuồng tín. Khi Vua Henry II chết vào ngày
10/7/1559, Charles IX mới có 9 tuổi, Hoàng Hậu Catherine de Médecis nắm quyền
nhiếp chính. Charles IX qua đời vào ngày30/5/1574), Henry II được đưa lên kế vị,
lúc đó mới có 19 tuổi, quyền chính cũng vẫn còn nằm trong tay Hoàng Hậu
Catherine de Médics. Điểm đặc biệt là trong thời gian Hoàng Hậu Cathe rine de
Médicis nắm quyền nhiếp chính, nước Pháp xẩy ra vụ tàn sát tập thể giáo dân Tin
Lành một cách hết sức dã man. Vụ tàn sát dã man này xẩy ra vào ngày 24/8/1572
tại nhà thờ St. Bartholomew, được sách sử gọi là gọi là “the St.
Bartholomew’s Day Massacre of 1572”. Các nhà viết sử ghi nhận rằng những
người chủ mưu vụ tàn sát này là Hoàng Hậu Catherine de Médicis và Vua Henry
III. Tự điển The American Heritage of the English Language ấn bản 1981 (trang
615) viết về Henry III như sau:
“Henry III (1551-1574), King of France
(1574-1589), last de Valois line; with his mother Catherine de Medicis,
plotted the the Saint Bartholomew’s Day Massacre (1572).”
Thiết tưởng chúng ta cũng nên biết sách sử nói
về vụ tàn sát được mệnh danh là “the St. Bartholomew’s Day Massacre of
1572” để nhìn thấy rõ cái bản chất bạo ngược và dã man của người tín đô
Da-tô La Mã khi mà họ có quyền lực ở trong tay. Nói về vụ tàn sát này, sách
Smookescreens ghi nhân:
“Ngày 22-8-1572 bắt đầu xẩy ra một cuộc tàn
sát đẫm máu ở nhà thờ St. Bartholomew. Đây là một trong những vụ tàn sát ghê gớm
để tiêu diệt phong trào Tin Lành ở Pháp. Pháp Hoàng đã khôn khéo sắp đặt cuộc
hôn nhân giữa người em gái của nhà vua với Đô Đốc Coligny, một nhân vật lãnh đạo
của Tin Lành. Một bữa tiệc lớn được tổ chức ăn mừng lễ cưới. Sau bốn ngày, quân
lính của tân lang Coligny được cho ăn uống no say, một hiệu lệnh được ban hành.
12 giờ đêm hôm đó, tất cả nhà cửa của những người Tin Lành ở trong thành phố
đều bị bắt buộc phải mở cửa. Đô Đốc Coligny bị giết. Thi hài của ông bị liệng
qua cửa sổ ra ngoài đường. Thủ cấp của ông bị cắt đem gửi cho giáo hoàng. Hai
cánh tay và bộ phận sinh dục của ông cũng bị cắt. Rồi chúng lôi kéo phần còn
lại của xác chết đi khắp các đường phố cả ba ngày trời. Sau đó, chúng treo ngược
cái xác chết không đầu, không tay, không bộ phận sinh dục ở một nơi ngoại ô
thành phố. Đồng thời, chúng còn tàn sát nhiều người Tin Lành khác nữa. Trong 3
ngày, hơn mười ngàn dân Tin Lành (ở Paris) bị giết hại. Những xác chết này bị
liệng xuống sông và máu nạn nhân lênh láng chẩy thành dòng ra tới tận cửa sông
giống như một dòng máu. Trong cơn hung hãn này, chúng có thể giết cả những người
đồng đạo của chúng nếu nạn nhân bị nghi ngờ là không mạnh tin vào Giáo Hoàng. Từ
Paris, bịnh dịch tàn sát vì lòng cuồng tín như vậy lan tràn ra khắp nơi trong
nước Pháp. Tính ra có tới hơn tám ngàn nạn nhân bị sát hại. Rất ít người
Tin Lành thoát khỏi tai họa trong cơn hung hãn của chúng." Nguyên văn:
"On August 22, 1572, the bloody St.
Bartholomew massacre began. This was to be one fatal blow to destroy the
Prostestant movement in France. The King of France had cleverly arranged a
marriage between his sister and Admiral Coligny, the chief Protestant leader.
There was a great feast with much celebrating. After four days of feasting the
soldiers were given a signal. At twelve o'clock midnight, all the houses of the
Protestants in the city were forced open at once. The admiral was killed, his
body thrown out of a window into the street where his head was cut off and sent
to the pope. They also cut off his arms and privates and dragged him through the
streets for three days until they finally hung his body by the heels outside the
city. They also slaughtered many other well kown Protestants. In the first three
days, over ten thousands were killed. The bodies were thrown into the river and
blood ran through the streets into the river until it appeared like a stream of
blood. So furious was their hellish rage that they even slew their own followers
if they suspected that they were not very strong in their belief in the pope.
From Paris, the destruction spread to all parts of the country. Over eight
thousand more people were killed. Very few Pretestants escaped the fury of their
persecutors.")[xiv]
Sự việc "Pháp Hoàng đã sắp đặt cuộc hôn
nhân giữa người em gái của nhà vua với Đô Đốc Coligny, một nhân vật lãnh đạo của
Tin Lành" là nằm trong sách lược "mỹ nhân kế" của Giáo Hội La Mã.
Chúng ta nhớ lại sau này,vào đầu thập niên 1850, Giáo Hội cũng sắp xếp cho kiều
nữ Eugénie, một tín đồ ngoan đạo người Tây Ban Nha, mới có 26 cái xuân xanh,
thành hôn với Hoàng Đế Napoléon III lúc đó đã xấp xỉ 50 tuổi (sinh năm 1808) để
biến ông vua này thành một con cờ để Giáo Hội lợi dụng vận động xuất quân đánh
chiếm Việt Nam. Rồi vào đầu thập niên 1930, cũng chính Giáo Hội sắp xếp cho cô
Jeanette Nguyễn Hữu Thị Lan, một tín đồ Da-tô ngoan đạo, trẻ đẹp cùng với Vua
Bảo Đại đi trên một chuyến tầu từ Pháp trở về Việt Nam rồi thành hôn với ông
vua trẻ này. Ngòai ra, Giáo Hội còn sắp xếp cho ông Da-tô Nguyễn Hữu Bài nắm giữ
một chức vụ quan trọng trong trìều đình Huế để bám sát và nhắc nhở cả Bảo Đại và
hòang hậu Nam Phương phải ghi lòng tạc dạ cái nghĩa vụ tuyệt đối trung thành với
Giáo Hội La Mã. Ôi tôn giáo gì mà phải dùng đến "mỹ nhân kế" để theo đuổi
mục tiêu tôn giáo! Thật là đê tiện ngoài sức tưởng tượng! Chả trách nào văn hào
Voltaire gọi là cái "tôn giáo ác ôn".
Trở lại chuyện Giáo Hội dùng những thủ đoạn
đại gian đại ác để tiếm đoạt chính quyền tại triều đình Paris và tác oai tác
quái với nhân dân Pháp. Người lên kế nghịệp Vua Henry III (1574-1589) là Vua
Henry IV (1589-1610). Tuy cũng là tín đồ Da-tô của Giáo Hội La Mã, nhưng Vua
Henry IV còn có lương tâm và lý trí, thấu hiểu được cái triết lý "kỷ sở bất
dục, vật thi ư nhân" của Nho giáo ở Đông Phuơng. Vì thế nhà vua mới cho ban
hành Sắc Lệnh Nantes vào ngày 13/4/1598, công nhận quyền tự do tôn giáo của
người dân Pháp. Việc này làm cho Giáo Hội La Mã và tín đồ Da-tô ngoan đạo
người Pháp bất bình và thù ghét nhà vua. Đây là nguyên nhân khiến cho nhà vua bị
ám sát vào năm 1610. Biến cố này làm cho người dân Pháp theo đạo Tin Lành
nói riếng và nhân dân các quốc gia theo đạo Tin Lành ở các nước Âu Châu khác nói
chung càng trở nên hết sức căm hận và thù ghét Giáo Hội cùng bọn tu sĩ và tín đồ
Da-tô. Cũng vì thế mà chiến tranh tôn giáo bùng nổ ở nước Pháp rồi lan rộng ra
gần hết lục địa Âu Châu và kéo dài tới hơn 30 năm trời (1618-1648).
Bàn tay của Giáo Hội La Mã trong việc thiết
lập chế độ đạo phiệt Da-tô để củng cố quyền lực tại Pháp.- Vua Henry IV bị ám sát qua đời vào năm 1610.
Vua Louis XIII ( 1610--1643) lên nối ngôi, lúc đó mới 10 tuổi. Giáo Hội bố trí
cho Hồng Y Richelieu nắm giữ chức vụ thủ tướng, thao túng việc triều cương,
quyết định tất cả mọi vấn đề nội chính cũng như đối ngọai. Như vậy là quyền hành
chính trị của nước Pháp hoàn toàn nằm trong tay Tòa Thánh Vatican qua ông hồng y
này và các tu sĩ cùng những tín đồ Da-tô khác tuyệt đối trung thành với Giáo Hội
La Mã.
Theo lệnh của Giáo Hội, Hồng y Richelieu cố
gắng biến nước Pháp thành một nước theo đạo Da-tô hùng mạnh nhất Âu Châu để
khống chế các nước khác theo đạo Tin Lành và biến ông vua nước Pháp thành một
tên bạo chúa Da-tô đúng theo khuôn mẫu một nhà cầm quyền lý tưởng của Giáo Hội
(như các bạo chúa
Ferdinand V (1452-1516), Isabella I (1451-1504), Philip II (1527-1598) của Tây Ban Nha và Mary I
(1553-1558) với tục danh là "Con Mụ Mary Khát Máu" (Bloody Mary) của nước Anh. Nói về tên bạo chúa Richelieu, sách Living World
History ghi lại như sau:
"Với dáng người mảnh khảnh và nước da xanh
xao do một căn bệnh bất khả trị gây nên, nhưng Hồng Y Richelieu lại có một ý chí
sắt đá. Ông đã thành công đạt được hai mục tiêu là (1) tăng cường quyền lực của
nhà vua và (2) làm cho nước Pháp trở nên hùng mạnh nhất ở Âu Châu. Để có thể
hoàn thành được mục tiêu thứ nhât, ông cho ban hành những biện pháp tiêu hủy
những quyền chính trị của tín đồ Tin Lành Huguenots và quyền lực của giới quý
tộc. Ông ra lệnh tấn công vào thành phố quan trọng La Rochelle của người Tin
Lành Huguenots để cưỡng bách họ phải từ bỏ đặc quyền duy trì quân lính của họ
trú đóng ở trong các thị trấn của họ. Ông ban hành một sắc lệnh tiêu hủy tất cả
các lâu đài của giới quý tộc mà không cần thiết cho việc phòng thủ quốc gia.
Giới quý tộc tại các địa phương phải nhường quyền hành cho các bồi thần tay sai
thân tín của nhà vua. Bọn bồi thần tay sai này có nhiệm vụ canh chừng và theo
dõi mọi họat động của những người bị coi như là kẻ thù của nhà vua. Hồng Y
Richelieu hòan thành được mục tiêu thứ hai bằng cách làm suy yếu quyền lực của
triều đình Hapsburgs (Liên Bang các tiểu bang Đức). Ông đẩy nước Pháp vào Cuộc
Chiến 30 Năm và sau cùng nước Pháp trở thành một quốc gia hùng mạnh nhất Âu Châu."
Nguyên văn: “The cardinal, pale and
delicate from incurable disease, had a will of iron. He succeeded in his two
aims: to strengthen the power of the king in France and to make France supreme
in Europe. To accomplísh the fírst goal, he took steps to destroy the political
rights of the Huguenots and the power of the nobles. By attacking their chief
town, La Rochelle, he forced the Huguenots to give up their privilege of
maintaining fortified towns garrisoned by their own troops. He issued an edict
for the destruction of all nobles' castles that were not necessary for national
defense. Nobles lost their jurisdiction over local districts to new royal
officials called intendants, who kept a watchful eye on the kings enemies.
Cardinal Richelieu achieved his his second aim chiefly by weakening the power of
the Hapsburgs. He plunged France into the Thirty Years' Wars, from which, it
emerged as the strongest nation in Europe.")
[xv]
Vua Louis XIII qua đời vào năm 1643, người lên
kế nghiệp là vua Louis XIV (1643-1715), lúc đó mới 4 tuổi. Quyền hành nằm trong
tay Giáo Hội với Hồng Y Mazarin nắm giữ chức vụ thủ tướng thay thế Hồng Y
Richelieu (đã qua đời vào ngày 4 tháng 12 năm 1642.) Ông hồng y này đi theo con
đường của ông hồng y (Richelieu) tiền nhiệm do Giáo Hội La Mã vạch ra từ trước,
với nhiệm vụ biến Vua Louis XIV thành một tên bạo chúa, và ông đã hoàn thành sứ
mạng này. Kết quả là Vua Louis XIV trở thành một bạo quân lừng danh của nước
Pháp với lời tuyên bố để đới "L' État, c' est moi" (I am the state). Thực
trạng này khiến cho nhân dân Pháp rơi vào thảm cảnh khốn cùng, cơ cực và đói khổ
triền miên. Vì thế, họ thù ghét cái chế độ đạo phiệt Da-tô này đến tận xương tận
tủy. Đoạn văn sử dưới đây là bằng chứng:
"Hà khắc và luôn luôn hà khắc, Hồng Y
Richelieu tỏ ra rất ít quan tâm đến đời sống người dân thường của nước Pháp.
Chính ông đã cưỡng bách nhân dân Pháp phải gánh chịu thuế khóa nặng nề. Cũng vì
thế mà khi ông ta chết vào năm 1642 cũng là lúc nhân dân Pháp hân hoan reo mừng.
Một năm sau, vua Louis XIII cũng qua đời, người con trai của nhà vua lên nối
ngôi là Louis XIV, lúc đó mới có 4 tuổi. Trước khi chết, Hồng Y Richelieu đã
huấn luyện được người chuẩn bị thay thế ông là Hồng Y Mazarin, sinh tại Ý Đại
Lợi. Trong thời kỳ tuổi thơ của Vua Louis XIV, Hồng Y Mazarin nắm trọn quyền
chính trong tay. Các nhà quý tộc có thế lực cố gắng chống lại để giành quyền bị
ông hồng y này đàn áp thẳng tay. Vì thế mà nước Pháp rơi vào thảm cảnh nội
chiến. Các nhà viết sử gọi cuộc nội chiến này là "The Fronde". Cuối cùng vào năm
1653, các thế lực chống đối đều bị dẹp tan hay quy phục chính quyền của nhà vua
.(Thực ra là chính quyền của Hồng Y Mazarin và có Giáo Hội La Mã ở hậu trường).
Khi Hồng Y Mazarin qua đời vào năm 1661, Vua Louis XIV đã 22 tuổi, và trực tiếp
nắm trọn mọi việc triều cương.
Vua Louis XIV là một trong những ông vua quyền
thế trong các ông vua của nước Pháp. Ông cầm quyền cho đến năm 1715 và được coi
là một thí dụ điển hình của một bạo quân chuyên chế. Ông tuyên bố "Quốc gia là
ta", môt lời nói diễn tả chính xác thái độ của ông đối với nước Pháp."
Nguyên văn: "Richelieu, harsh and relentless, showed little
concern for the common people of France, who had to bear heavy tax loads, and
they rejoiced at his death in 1642. Louis XIII died a year later, and his son
became king - Louis XIV - at the age of four. Richelieu had trained Jules
Mazarin, an Italian born-cardinal, to be his successor, and during Louis'
childhood, Mazarin held the reins of rule in his capable hands. Strong nobles
tried to gain control of the government, but after a civil war known as the
Fronde, Mazarin in 1653 suppressed the challenge of the nobles to royal power.
When Mazarin died in 1661, Louis XIV, then twenty years-two old, personally took
over the direction of the government.
Louis XIV was one of the most powerful French
kings. Louis XIV ruled France until 1715, and has called the perfect example of
absolute ruler. He is supposed to have declared "L'Etat, c'est moi" (I am
the state), a saying that accurately describes his attitude towrd France."[xvi]
Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ
bàn tay của Giáo Hội La Mã trong việc gây ra thảm trạng chiến tranh tôn giáo tại
Pháp cũng như việc rèn luyện vua Louis XIV trở thành một tên bạo chúa Da-tô
lừng danh trong lịch sử nước Pháp. Bạo chúa Louis XIV (1661-1715) không những
lừng danh về lời tuyên bố "L' État C'est moi", và còn nổi tiếng về việc ông xây
Điện Versailles và chính sách đàn áp các tôn giáo khác với những biện pháp vô
cùng dã man trong đó có việc hủy bỏ Sắc Lệnh Nantes vào năm 1685. Sự
kiện này được các nhà viết sử ghi lại như sau:
" … Rồi thì Vua Louis XIV phạm một lỗi lầm
làm suy yếu nước Pháp. Ông ta nhất quyết cho rằng người dân Tin Lành Huguenots
là những người bất trung và là mối nguy hiểm cho đất nước. Năm 1685, nhà vua ra
lệnh hủy bỏ Sắc Lệnh Nantes, luật này cho phép người Tin Lành được hưởng quyền
tự do tôn giáo. Hơn một trăm ngàn dân Pháp theo đạo tin lành Huguenots đành phải
bỏ nước Pháp mà đi còn hơn là phải từ bỏ tín ngưỡng của họ và theo đạo Da Tô
(La Mã) để được ở lại nước Pháp. Mặc dầu tín đồ Tin Lành chỉ chiếm vào khỏang 10
phần trăm dân số nước Pháp, nhưng trong khối tín đồ Tin Lành này, có nhiều người
là những nhà lãnh đạo trong các ngành kỹ nghệ, là các thương gia và các nhà thủ
công nghệ tuyệt vời. Mất đi những tài năng này là làm cho nước Pháp thiệt hại
rất nhiều." Nguyên văn:.”Then Louis made an error that tended to
weaken France. He became convinced that the Huguenots were disloyal and a danger
to the nation. In 1685, he revoked, or canceled, the Edict of Nantes, which had
given the Huguenots religious freedom. Over 100.000 French Protestants chose to
leave France rather than give up their faith. Although they totaled only about a
tenth of French population, many of them were leaders of industry, tradesmen,
and exellent craftmen. The loss of their skills injured France."
[xvii]
Sách Age of Louis XIV dành
hẳn Chương X với nhan để là The Religious Struggles and the Revocation of the
Edict of Nantes (từ trang 189 đến trang 154) trong đó có đoạn nguyên văn như sau:
"Như vậy, vương quốc Pháp đã trở
thành một quốc gia mà tôn giáo của nhà cầm quyền là tôn giáo của quốc gia. Chính
sách bất khoan dung trở thành luật lệ khắp trong nước. Louis XIV đã tự hạ giá
xuống mức đến độ tầm thường như những người khác. Mọi người trong nước Pháp đều
nhìn thấy rõ sự suy thoái này. Việc hủy bỏ Sắc Lệnh Nantes chẳng giải quyết được
gì cả; trái lại, nó còn làm cho mọi sự việc trở thành bất ổn. Nhà vua cấm di cư
ra khỏi nước, nhưng người ta vẫn ồ ạt bỏ nước ra đi. Lúc đầu, chính quyền không
có hành động gì để ngăn chặn những người trốn ra ngoại quốc, trái lại còn tỏ ra
hài lòng nữa. Nhưng khi con số người bỏ nước ra đi càng ngày càng nhiều hơn,
chính quyền bèn áp dụng những biện pháp cứng rắn tối đa tại các vùng ven biên và
các trạm xuất hành để ngăn chặn. Có nhiều vụ đụng độ. Nhiều người bị sát hại,
nhiều người bị thương, nhiều người bị bắt và bị đưa đi làm lao nô tại các tầu
thuyền của nhà nước. Những kế
hoạch tổ chức đưa người đi trốn được điều nghiện thận trọng hơn và có phương
pháp hơn. Những người hướng dẫn, làm lái đò, làm giao liên tại các trạm tiếp
nhận và dẫn người đi đều phải ngụy trang. Có cả những tổ chức làm giấy thông
hành giả và có những lộ trình bí mật để đưa người đi trốn. Có bao nhiêu người bỏ
nước ra đi? Ước lượng khác nhau rất nhiều, khoảng từ 60 ngàn người đến hai
triệu. Theo Vauban, riêng vào thời của ông thì có khoảng 100 ngàn người. Nhưng
việc người ta bỏ trốn ra khỏi nước không phải chỉ xẩy ra trong thời gian ngắn
giới hạn trong một năm, mà còn kéo cả hơn 50 năm.” Nguyên văn: “The
kingdom had thus once again become a state where the religion of the sovereign
was the law. Intolerance was the rule almost everywhere: Louis XIV lowered
himself to the level of the rest. This regression was enthusiastically hailed by
all of France. But the revocation settled nothing, on the contrary, it unsettled
things. The king forbade emigration, but emigration got under way. At first no
attempt was made to stop it, and there was even a show of satisfaction. But as
the movement grew, extensive measures were taken along the borders and in places
of embarkation. Skirmishes took place; fugitives were killed and others wounded,
captured, sent to the galleys. The exodus was then more carefully planned and
became methodical. Guides, ferrymen, relays, disguises came to be used; agencies
sprang up where false passports could be obtained, and secret intineraries were
worked out. How many emigrated? Estimates vary considerably, ranging between
sixty thousand and two million. Speaking of his own time, Vauban put the figure
at 100.000. But the exodus did not occur in a single year It proceeded
irregularly and over a fifty-year span.")[xviii]
Những sự kiện như (1) việc sắp đặt kê hoạch
tàn sát gần hai chục ngàn tín đồ Tin Lành Huguenotes một cách cực kỳ dã man vào
ngày 22/8/1572, (2) việc Giáo Hội La Mã và tín đồ Da-tô ngoan đạo người Pháp bất
bình và thù ghét Vua Henri IV (1589-1610) chỉ vì nhà vua ban hành Sắc Lệnh
Nantes công nhận quyền tự do tôn giáo của nhân dân Pháp, (3) việc các ông Hồng y
Richelieu và Mazarin nắm quyền thủ tướng và nắm trọn các công việc triều chính
nước Pháp trong suốt thời kỳ từ năm 1610 cho đến năm 1661 (hơn nửa thế lỷ) để
thiết lập một chế độ đạo phiệt Da-tô vững chắc ở nước Pháp, (4) việc Vua Louis
XIV hủy bỏ Sắc Lệnh Nantes vào năm 1685 rồi đàn áp những thành phần thuộc các
tôn giáo khác và đuổi tín đồ Tin Lành ra khỏi nước, tất cả cho chúng ta thấy
rõ bàn tay phù thủy của Giáo Hội La Mã trong việc thiết lập chế độ đạo phiệt
Da-tô tai Pháp với mục đích biến nước Pháp thành "trưởng nữ của Giáo Hội"
hầu có thể thay thế các đế quốc Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha trong việc đem quân
thập ác đi chinh phục đất đai ngoài Âu Châu để làm thi hành sứ mạng "làm sáng
danh Chúa" bằng bạo lực cho Giáo Hội.
Đến đây, quý vị đã nhìn thấy những thủ đọan vô
cùng thâm độc, cực kỳ gian manh và hết sức quỷ quyệt trong kỹ thuật xen vào nội
bộ chính trị các quốc gia mà Giáo Hội có ảnh hưởng để thiết lập chế độ đạo phiệt
Da-tô. Trông người lại nghĩ đến ta. Chúng ta nhớ lại thời kỳ 1954-1975, bàn tay
của Giáo Hội La Mã nhúng vào công việc nội chính của miền Nam Việt Nam giống như
Giáo Hội đã làm ở nước Pháp trong mấy thế kỷ 16, 17 và 18 và những năm
1815-1870.
Vận động và cấu kết với chính quyền Pháp xuất
quân đánh chiếm Đông Dương.- Vấn
đề này đã được trình bày đầy đủ và rõ ràng trong hai Mục VII và VIII, Phần III
của bộ sách này. Ở đây, người viết chỉ tóm lược ngắn gọn như sau:
Đạo Da-tô được truyền vào Việt Nam theo một kế
hoạch hết sức tinh vi: Trước hết là Giáo Hội cho các tay gián điệp đội lốt các
nhà truyền giáo Da-tô đến Việt Nam với kế sách dùng miếng mồi vật chất để câu
nhử những người nghèo khổ theo đạo, mua chuộc những phần tử du thủ du thực, sinh
vô gia cư tử vô địa táng và móc nối những thành phần bất mãn với nhà nước đương
quyền để lôi kéo họ vào đạo. Khi đã dụ khị được một số người theo đạo, Giáo Hội
tổ chức họ thành những đạo quân thứ 5 với những màng lưới gián điệp để thâu thập
tin tức tình báo chiến lược của Việt Nam. Sau khi có đầy đủ những dữ kiện tình
báo như ý muốn rồi, Giáo Hội gửi người mang những dữ kiện tình báo này đến thủ
đô Paris để vận động chính quyền Pháp xuất quân đánh chiếm và thống trị Việt
Nam. Từ giữa thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 19, có tới ba lần Giáo Hội cho người đi
thuyết phục chính quyền Pháp xuất quân tấn chiếm và thống trị Việt Nam. Hai lần
đầu, vì tình hình Âu Châu và hoàn cảnh nước Pháp không cho phép chính quyền Pháp
nghe theo lời thuyết phục bất chính và lưu manh này của Giáo Hội. Mãi đến giữa
thế kỷ 19, sau khi đã gài được nữ tín đồ ngoan đạo Eugénie xinh đẹp, mơn mởn đào
tơ mới 26 cái xuân xanh người Tây Ban Nha thành hôn với ông vua già xấp xỉ ngũ
tuần là Hoàng Đế Napoleon III, Giáo Hội mới cho người đi cửa hậu thuyết phục
Hoàng Hậu Eugenie để bà này thủ thỉ với Hoàng Đế Napoléon III xuất quân đánh
chiếm và thống trị Đông Dương. Lần này Giáo Hội thành công, được chính quyền
Pháp thỏa thuận liên kết với Vatican, tiến hành kế hoạch đánh chiếm Việt Nam và
thiết lập nền thống trị trên toàn thể lãnh thổ Đông Dương. Nền thống trị này tồn
tại cho đến khi bị Đế Quốc Nhật lật đổ vào chiều tối ngày 9/3/1945.
CẤU KẾT VỚI ĐỨC QUỐC XÃ, PHÁT XÍT Ý,
ĐỘC TÀI TÂY BAN NHA, MƯU ĐỒ ĐI VỚI NHẬT,
VÀ LIÊN KẾT VỚI SIÊU CƯỜNG HOA KỲ
Trong những năm trước và trong thời Đệ Nhị Thế
Chiến, Giáo Hội cấu kết với cả chế độ độc Francisco Franco Tây Ban Nha, Phát
xít Beneto Mussolini Ý Đại Lợi và Đức Quốc Xã.
Cấu kết với Đức Quốc Xã và Phát-xít Ý thiệt
lập chế độ đạo phiệt Da-tô Franco ở Tây Ban Nha.-Khi chính quyền Cộng Hòa Tây Ban Nha đã được thành
lập vào đầu thập niên 1930, Giáo Hội La Mã vừa xúi giục nhóm tín đồ Da-tô cuồng
tín dưới quyền lãnh đạo của Francisco Franco nổi loạn chống lại chính quyền, vừa
vận động hai chế độ Đức Quốc Xã và Phát-xít Ý Đại Lợi viện trợ cho phe Franco
gây nên cuộc nội chiến kéo dài cả mấy năm trời nhằm lật đổ chế độ cộng hòa để
thiết lập chế độ đạo phiệt Da-tô tại Tây Ban Nha. Sự kiện này được sách sử ghi
lại như sau:
"Cả hai phe đều cầu ngọai viện. Chính quyền
cộng hòa hy vọng rằng Pháp và Anh sẽ tiếp tế vũ khí cho họ. Một phần sợ rằng
nếu viện trợ cho phe Cộng Hòa thì sẽ gây ra chiến tranh lớn, một phần vì áp
lực nội bộ, cả Pháp và Anh đều theo chính sách bất can thiệp. Ngay từ đầu cuộc
chiến,Tướng Franco kêu gọi Hitler nước Đức và Mussulini nước Ý cung cấp phi cơ
chiến đấu cho phe của ông. Được Tây Ban Nha nhường cho nhiều khoáng sản, Đức
Quốc Xã cung cấp cho Tướng Franco một không đòan gồm một trăm phi cơ chiến đấu,
Ý Đại Lợi gửi bộ quân đến tiếp viện. Cả hai nước Đức và Ý lại còn gửi xe tăng
và pháo binh tăng viện cho phe Tướng Franco. Các nước dân chủ Tây Phương phản
đối nhưng không làm gì khác hơn."
Nguyên văn: "Both sides sought help from abroad. The republic
consistently hoped that France and Great Britain would allow them to acquire
arms. Partly because of fear of a general war, partly because of domestic
pressure, both powers backed non-intervention. General Franco appealed
immediately to Hitler in Germany and to Mussolini in Italy, which supply
aircrafts early in the war. The Germans, in return for mineral concessions,
supplied the Condor Legion (100 combat planes), and the Italians sent ground
troops; both supplied tanks and artillery. The Western democracies protested
but did nothing." [xix]
Vi vai trò chủ động của Tòa Thánh Vatican
trong việc tạo dựng nên chế độ đạo phiệt Da-tô Franco ở Tây Ban Nha trong thập
niên 1930, cho nên nhân dân quốc gia này thù ghét Giáo Hội đến tận xương tận tủy
và mối thù này còn kéo dài cho đến ngày nay. Mấy bản văn dưới đây là bằng chứng
cho sự kiện này:
1.- Bản văn có tựa đề là "Hold on to your faith,
Pope tells Spaniards" của ký giả David Sharrock trong bản tin World News
được công bố ngày May 05, 2003 với nguyên văn như sau:
"Hôm qua, khi tuyên bố phong thánh cho 5
người Tây Ban Nha, Giáo Hòang (John Paul II) kêu gọi người Tây Ban Nha hãy duy
trì truyền thống văn hóa Da-tô (Kitô La Mã). Hàng triệu người xếp thành hàng chữ
thập ở trung tâm kinh thành Madrid. Phần lớn những người này là người Tây Ban
Nha và có cả những người Nam Mỹ và Ba Lan, trải dài ra bốn ngã tư đường tại
Quảng Trương Columbus, nơi đó một cái bàn thờ mầu trằng vĩ đại được dựng nên để
làm lễ phong thánh.
Giáo Hòang tuyên bố phong thánh cho 2 nam tu
sĩ và 3 nữ tu, cả 5 người này đều là người Tây Ban Nha nổi tiếng là làm việc cho
dân nghèo và đã qua đời trong thế kỷ vừa qua. Những bức hình vĩ đại của 5 người
này treo ở tòa nhà văn phòng trông ra quảng trường.
Giáo Hoàng tuyên bố bằng tiếng Tây Ban Nha
rằng, "Chúng ta ghi danh họ vào trong sách thánh và quyết định rằng tất cả đều
được vinh danh là thánh ở trong Giáo Hội"
Trong 5 năm qua, Giáo Hòang (John Paul II) đã
phong thánh cho 20 người Tây Ban Nha, trong đó, có 11 người tử đạo bị Phong Trào
Cộng Hòa sát hại trong thời Thời Nội Chiến Tây Ban Nha 1936-1939. "Trong số 5
người được phong thánh (hôm này) có Cha Pedro Poveda là một trong
số
4,184 tu sĩ bị Phong Trào Cộng Hòa sát hại trong những năm nội chiến. Các
ông thánh khác là Angela de la Cruz (người thành lập đạo nữ binh "The Sisters"
of the Company of the Cross"); Genoveva Torres (người thành lập đạo nữ binh "The
Sisters of the Sacred Heart and the Holy Angels") ; Maravillas de Jesus (thành
lập nhiều tu viện cho Dòng "Bare foot Camelites"); và Jose Maria Rubio, một tu
sĩ Dòng Tên. Tính đến nay, Giáo Hòang (Jogn Paul II đã phong thánh cho 470 người
và phong chân phước cho 1,314 người, nhiều hơn tổng số thánh và chân phước do
tất cả giáo hoàng tiền nhiệm đã tuyên phong trước đó.”
Nguyên văn: "World News May 05, 03: Hold on you faith, Pope
tells Spaniards" by David Sharrock:
"The Pope urged Spain yesterday to remain to
its Roman Catholic culture and faith when he proclaimed five new Spanish saints.
One million people formed a giant cross at the heart of Madrid as a congregation
of mostly Spaniards, but also South Americans and Poles, spread out along four
boulevards intersecting at Columbus Square, where a huge white altar was built
for canonisation Mass.
"We inscribe
them in the book of the saints and establish that in all the Church they be
devoutly honoured among the saints," the Pope said in confident Spanish.
In the five years he has canonised 20
Spaniards, 11 of them "martyrs" who were killed by republicans during the
Spanish Civil War of 1936-1939. Among the five who were proclaimed saints was
Father Pedro Poveda, one of 4,184 priests killed by republicans
during the war. The other saints are Angela de la Cruz, who…. The Pope has
now canonised some
470 people and beattified 1,314, more than all his predecessors combined..."[xx] .
2.- Tờ nhật báo "Seattle-Post Intelligencer
[Seattle] ra ngày February 6, 2003" nơi trang A3, loan bản tin như sau:
"Ở Tây Ban Nha, nói đến đạo Công Giáo La Mã là
gợi lại hình ảnh nhà độc tài phát xít Francis Franco mà đồng tiền Tây Ban Nha
nào cũng đều có in hình của ông ta và quyền lực của ông ta được hỗ trợ "bởi Ân
Sủng của Thượng Đế"... Ngọai Trưởng Tây Ban Nha Ana Palaciao tuyên bố, "Điểm
giống nhau của chúng ta là chiến đấu cho dân chủ, chiến đấu cho nhân quyền và
chiến đấu để "tách rời tôn giáo ra khỏi chính quyền" .... Một vị dân biểu quốc
hội Tiệp Khắc, (quốc gia này sẽ gia nhập Khối Âu Châu Hợp Nhất vào năm tới), là
ông Jan Zahadil tuyên bố, "Đề cập đến Thượng Đế trong bất kỳ hiến chương nào của
Khối Âu Châu Hợp Nhất là môt ý kiến ngu xuẩn, nó chỉ tạo nên những mối bất hòa
mà thôi. Không được có một tí gì liên hệ trực tiếp với tôn giáo cả."
Nguyên văn:"In Spain, a reference to Catholicism evokes
memories of the facist dictator Francis Franco, who stamped every Spanish coin
with his profile and backed his grip on power "by the Grace of God."... Our
identity is the fight for democracy, for human rights, for the separation
between church and state," said Spanish Foreign Minister Ana Palacio. ... "Jan
Zahradil, a Czech parlimentarian whose country will join the EU next year, said
mentioning God in any EU charter was "a stupid idea (that) will only provokes
disagreements. There should be no direct link to religion at all."[xxi]
Cấu kết với Đức Quốc Xã và phát Xít Ý thiết
lập chế độ đạo phiệt Da-tô Ante Pavelich ở Croatia.- Theo cuốn World Facts & Map, ấn bản 1995 của
nhà phát hành Rand McNally thì dân số của Croatia vào năm 1995 là 4.796.000
người sống trên một diện tích là 56, 538 cây số vuông hay 21, 829 dặm vuông.
Trước khi Đệ Nhất Thế Chiến bùng nổ, vùng đất mà ngày nay gọi là quốc gia
Croatia nằm dưới ách thống trị của Đế Quốc Áo-Hung. Năm 1918, Đế Quôc Áo-Hung và
Đức Quốc đại bại trước các đợt tấn công như vũ bão của quân Đội Đồng Minh Anh Mỹ
Pháp. Khi Đệ Nhất Thế Chiến chấm dưt, nước Nam Tư được hình thành gồm có những
nhóm dân theo nhiều tôn giáo khác nhau như người Serbian theo Chính Thống Giáo,
người Croatian theo đạo Da Tô, người Slovenes cũng theo đạo Da Tô nhưng thuộc
một nhóm sắc tộc khác, và một số sắc dân khác theo tín ngưỡng khác trong đó có
đạo Hồi.
Năm 1941, Nam Tư bị Đức Quốc Xã chiếm đóng,
Giáo Hoàng Pius XII vận động với Hitler và Mussolini đưa một tín đồ của Giáo Hội
La Mã là Ante Pavelich lên cầm quyền, và chiếm một phần nước Nam Tư để thành lập
nước Croatia, rồi ban hành sắc lệnh đưa đạo Da Tô lên làm quốc giáo và thi hành
"Kế Hoạch Inquisition", giết hại gần một triệu người thuộc Chính Thống
Giáo, Do Thái Giáo và Hồi Giáo. Sách sử ghi lại sự kiện này như sau:
"Trong thời kỳ Croatia là quốc gia độc lập
và lấy đạo Da Tô làm quốc giáo, có trên 700 ngàn đàn ông, đàn bà và trẻ em bị
giết hại. Nhiều người bị hành hình, bị tra tấn, bị bỏ cho chết đói, bị thiêu
sống và thiêu cho đến chết. Hàng trăm người bị cưỡng bách phải theo đạo Da Tô
(Thiên Chúa La Mã). Các ông linh-mục của Giáo Hội La Mã làm quản giáo tại các
trại tù tập trung; nhiều tu sĩ khác của Giáo Hội là sĩ quan trong các đơn vị
quân đội đã phạm tội ác tàn bạo. 700 ngàn trong tổng số dân có mấy triệu người
tức là khoảng 1/3 dân số bị các đoàn lính dân quân Da Tô giết hại." (Nguyên
văn:” During the existence of Croatia as an independence Catholic State,
over 700,000 men, women and children perished. Many were executed, tortured,
died of starvation, buried alive, or burned to death. Hundreds were forced to
become Catholic. Catholic padres ran concentration camps; Catholic priests were
officers of the military corps which committed such atrocities. 700,000 in a
total population of a few million, proportionally, would be as if one-third of
the USA population had been extermintated by a Catholic militia.”
[xxii]
Sách Vietnam Why Did We Go? viết:
"Ante Pavelich, người lãnh đạo mà cũng là
người chủ mưu và tạo nên quốc gia Croatia độc lập theo đạo Da Tô. Ông ta đã dùng
chính sách khủng bố cũng như tinh thần cực đoan về chính trị và lòng cuồng đạo
với tất cả những tàn bạo hơn cả hai nhà độc tài bảo trợ cho ông ta là Benito
Mussolini và Adolf Hitler. Trước khi nước Nam Tư bị phân hóa, ông ta là người
chủ mưu trong vụ ám sát vua Alexander (của nước Nam Tư) và các vụ giết hại các
nhà chính trị khác. Nhờ vậy mà ông ta đã tạo nên được quốc gia Ustashi Croatia
độc lập siêu Da Tô giáo và thiết lập một chế độ siêu độc tài giống như chế độ
độc tài Đức Quốc Xã. Ông ta được Giáo Hoàng Pius XII che chở và giúp đỡ bằng các
phương tiện ngoại giao và tài chánh nhằm để đạt được cứu cánh của Giáo Hội La
Mã. Khi quốc gia Ustashi Croatia sụp đổ (vào đầu năm 1945), Pavelich chạy vào
ẩn trốn ở trong Tòa Thánh Vatican sống giả dạng như là một tu sĩ. Sau đó, ông ta
trốn sang nước Á Căn Đình." Nguyên văn: “Ante Pavelich, the inspirer, creator and leader of the
independent Catholic state of Croatia. He employed terrorism, political
extremism and religious fanaticism with such ruthlessness as to oustmart even
his two main fascist protectors, Benito Mussolini and Adolf Hitler. He was the
brain behind the assassination of King Alexander and other political murders
which preceded the disintegration of Yugoslavia and thus the erection of his
super-nazi, super-Catholic independent Ustashi Croatia. He enjoyed the
protection of Pope Pius XII, who helped him via diplomatic and monetary means to
achieve his ultimate objective. When Ustashi Croatia collapsed, Pavelich hid in
the Vatican, then disguised as a monk, fled to Argentina,”
[xxiii]
Tuần Báo Việt Nam Mới phát hành tại Seattle,
Washington, trong hai số liên tiếp 411 ra ngày 27-11-1998 và 412 ra ngày
4-12-1998, chuyển dịch một bài báo từ Tuần Báo US New & Report, nói về chuyện
tên đồ tể cuồng tín Pavelich phục vụ cho Vatican và được Vatican che giấu và
giúp đỡ cho tẩu thoát sau khi Đức Quốc Xã bị đánh bại vào mùa xuân năm 1945.
Nguyên văn bài báo này như sau:
"Một Khối Lượng Vàng Khổng Lồ Của Đức Quốc Xã
Đã Được Giấu Ở Rome? Trong suốt thời gian xẩy ra Chiến Tranh Thế Giới Lần Thứ
Hai, Đức Quốc Xã đã thực hiện vô số những vụ cướp bóc và chuyển số tài sản khổng
lồ này sang nhiều nước. Mới đây người ta đã phát hiện thêm rằng Đức Quốc Xã có
thể giấu vàng ở cả Tòa Thánh La Mã. Sự việc xẩy ra như thế nào?
Trong những ngày tháng kinh khủng của chiến
tranh - kết thúc bằng 56 người thân của mình bị giết trong các trại tập trung,
có hai ngày mà Eta Najfeld không bao giờ quên. Ngày thứ nhất là 10-4-1941, khi
Najfeld (lúc đó là cô sinh viên Do Thái 25 tuổi) nhìn thấy hàng đoàn người đứng
hai bên đường phố Zagreb để đón chào bọn Ustasha - đảng Phát Xít cực đoan mà bọn
Đức Quốc Xã vừa dựng lên ở "quốc gia độc lập" Croatia. Ngày thứ hai xẩy ra ba
tháng sau đó, khi một nhóm lính Ustasha xộc vào cửa hàng cô và lấy sạch mọi thứ.
Trong cùng thời kỳ này, Ustasha tổ chức vơ vét tại nhiều nơi khác và nạn nhân
luôn luôn là người Do Thái. Sau chiến tranh, những người sống sót như Najfeld đã
nghĩ đến việc truy tìm tài sản của mình, nhưng họ không biết tìm ở đâu. Cách đây
hơn một năm, các vụ điều tra liên tục tiến hành và người ta đã lần ra địa chỉ
giấu tài sản của Đức Quốc Xã. Nhiều ngân hàng Thụy Sĩ, Thụy Điển, Bồ Đào Nha đã
lần lượt mở hồ sơ lưu trữ. Chỉ một nơi hoàn toàn lặng im: Tòa Thánh Vatican.
Đầu tháng 3-1998, Vatican công bố chính thức
yêu cầu trừng phạt vài thành viên trong Giáo Hội đã không làm tròn trách nhiệm
trong việc giúp đỡ người Do Thái trong hồi Chiến Tranh Lần Thứ Hai. Tuy nhiên,
Vatican không nhắc đến việc càng ngày càng có nhiều lời kêu gọi mở cuộc điều tra
về mối liên quan của một số giáo sĩ Croatia và bọn Đức Quốc Xã trong việc tẩu
tán vàng sang Rome. Hồ sơ lưu trữ của Hoa Kỳ cũng như tại nhiều nước Âu Châu cho
thấy rằng nhiều giáo sĩ Croatia đã trực tiếp giúp bọn Ustasha đem vàng sang Ý và
rất có thể đã giấu ở Rome. Một phần trong số tài sản đánh cướp này được dùng để
hỗ trợ cho các chuyến đào thoát của bọn tội phạm chiến tranh Croatia trốn sang
Nam Mỹ. "Chúng tôi hoàn toàn không có ý quy kết Vatican trong việc này - Elan
Steinberg, Giám Đốc Điều Hành Hội Đoàn Do Thái Thế Giới, nói. Nhưng sự im lặng
của Vatican khiến chúng tôi hoang mang".
Tháng 4-1998, một nhóm điều tra đặc biệt dưới
sự chỉ huy của Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ Stuart Eizenstat đã xem xét vai trò
của vài nước trung lập hồi thập niên 1940. Trong số tài liệu được tiết lộ, người
ta thấy có bản báo cáo tình báo năm 1944, cho biết có một vụ chuyển tiền thông
qua một ngân hàng Thụy Sĩ, từ ngân hàng Reichsbank ở Berlin đến Vatican. Tuy có
thể đây là một vụ chuyển tiền bình thường giữa Giáo Hội Đức và Tòa Thánh
Vatican, nhưng nó cho thấy có nhiều điểm tương tự như các vụ chuyển vàng của Đức
Quốc Xã đến hệ thống ngân hàng Thụy Sĩ cũng thông qua một nước trung lập. Mối
liên quan của Phát Xít Đức và Giáo Hội Croatia như thế nào?
Từ năm 1941 đến năm 1945, bọn Ustasha đã giết
chết khoảng 500,000 (500 ngàn) người Serbia, Do Thái và dân du mục gốc Romania.
Riêng tại Zagreb (Croatia), chúng đã đưa ra cái giá chuộc mạng cho tất cả dân Do
Thái ở đây là 1,000 (một ngàn) kí lô vàng. Sau khi lấy được vàng, Ustasha chở
các nạn nhân đến các trại tập trung và giết sạch. Trong những ngày đầu của Chiến
Tranh Thế Giới Lần Thứ Hai, Giáo Hội Thiên Chúa Giáo Croatia đã ép những người
Serbia vốn theo Chính Thống Giáo phải cải đạo. Thậm chí các cha dòng
Francisco còn phân phát truyền đơn của Ustasha. Một số giáo sĩ Nam Tư
sau này bị đưa vào danh sách tội phạm chiến tranh đã trở thành những bằng chứng
rõ rệt nhất cho thấy sự liên quan giữa họ và Đức Quốc Xã. Trong đó phải kể đến
Dragutin Kamber - người từng ra lệnh giết gần 3,000 (3 ngàn) người Serbia
theo Chính Thống Giáo; Giám-mục Ivan Saric thuộc địa phận - được mệnh
danh là "kẻ treo cổ người Serbia"; Giám-mục Gregory Rozman - người từng
bị truy lùng gắt gao. Một phiên tòa tội phạm Nam Tư thiết lập năm 1946 đã lôi ra
thêm nhiều kẻ "nửa Ustaha, nửa linh mục" khác, trong đó có Miroslov Filipovic
Majstorovic - chỉ huy trưởng Trại Tập Trung Jasenovac, nơi Ustasha từng thực
hiện nhiều cuộc tra tấn dã man. Tuy nhiên, các khám phá mới nhất cho thấy nhân
vật quan trọng nhất là Krunoslav Draganovic, từng là ủy viên cao cấp
trong Hội Đồng Ustasha. Năm 1943, Ustasha đã dàn xếp với Giáo Hội Thiên Chúa
Giáo Croatia để đưa Draganovic sang Rome. Tại đó, Draganovic làm thư ký ở Viện
San Girolamo - một tu viện của người Croatia, đóng vai trò đầu mối liên lạc với
bọn Ustasha. Draganovic cũng là trưởng phái đoàn không chính thức của thủ lãnh
Ustasha Ante Pavelic.
Theo các báo cáo từ các lực lượng phản gián
Hoa Kỳ (CIC) được viết ngay sau khi Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai kết thúc,
Draganovic và nhóm của ông ta ở San Girolamo đã cung cấp tiền, thực phẩm, phương
tiện nhà ở và làm cả giấy tờ chứng nhận Hội Hồng Thập Tự cho nhiều tên tội phạm
chiến tranh Croatia (tức bọn Ustasha) thoát khỏi lưới pháp luật. Qua một đường
dây ngầm gọi là "đường dây chuột cống", bọn Ustasha đã trốn từ Trieste đến Rome,
sang Genoa hay Argentina - nơi chúng sống những ngày còn lại của cuộc đời trong
an toàn. Toàn bộ những tay sĩ quan cấp cao Ustasha đã thoát bản án tử hình là
nhờ đường dây chuột cống này. Các báo cáo của CIC còn cho biết thêm rằng San
Girolamo là địa điểm gần như bất khả xâm phạm. Bất cứ ai muốn đi qua cổng Tu
Viện này cũng đều bị kiểm tra giấy tờ cũng như vũ khí. Toàn khu vực được bảo vệ
bởi nhân viên Ustasha trang bị súng ống đầy đủ nhưng mặc thường phục. Ngoài ra,
còn có một giáo sĩ khác từng sống ờ San Giramo cũng dính dáng nhiều đến các phi
vụ giải thoát cho Ustasha. Đó là nhân vật bí mật tên là Golik mà tài liệu của
văn phòng hoạt động chiến lược (OSS, tiền thân của CIA) có đề cập đến. Người ta
tin rằng Golik là nhà tài trợ lớn nhất cho tất cả cư dân Croatia sống ở Rome
(bọn Ustasha). Mỗi tháng Golik phát 6 ngàn lire cho từng người (tương đương với
2,700 [2 ngàn 7 trăm] dollars hiện nay).
Các nhân viên điều tra tin rằng thủ lĩnh
Ustasha Ante Pavelic đã trốn sang Buenos Aires (Argentina) vào tháng 11 năm
1947 và thậm chí có cuộc hội ngộ với Giám-mục Rozman, người đã tuồn (chuyển)
tiền sang Nam Mỹ từ tài khoản trong một ngân hàng Thụy Sĩ với mục đích giúp đỡ
người tỵ nạn thuộc các vùng Thiên Chúa Giáo. Tùy viên quân sự Mỹ Davis
Harrington cho biết rằng bản báo cáo ngày 9-3-1948 rằng (Giám-mục) Rozman đã đi
đến Bern để giám sát những khoản tài chính này. Số tiền đó nằm trong một ngân
hàng Thụy Sĩ và ông ấy (Rozman) dự đinh gửi phần lời sang Ý, rồi từ đó gửi cho
các thành viên Ustasha ỏ Argentina. Trong quyển sách "vàng và tiền của chính phủ
độc lập Croatia được chuyển ra nước ngoài", tác giả Jere Jareb nói rằng 288 kí
lô vàng đã bị lấy ra khỏi ngân hàng quốc gia Croatia và ngân khố chính phủ vào
ngày 7-5-1945 (ngày Đức Quốc Xã bị tiêu diệt). Phần lớn số vàng này đã rơi vào
tay Draganovic.
Việc điều tra cho đến nay gặp nhiều rắc rối.
Các chứng cớ đã thất lạc ít nhiều và các nhân chứng cũng chẳng còn sống (kể cả
bọn Ustasha). Nhiều khám phá hơn có thể được lôi ra ánh sáng nếu phiên tòa xử
Draganovic được thiết lập và nếu bị cáo không chết vào năm 1983, khi tiến trình
điều tra chưa đem lại nhiều chứng cớ. Theo US News & World Report." [xxiv]
Người Việt Nam ta có hai thành ngữ nói về khi
những sự thật xấu xa bỉ ổi đã bị tác nhân cố tình bưng bít và che giấu, nhưng
cuối cùng cũng bị phơi bày ra ánh sáng. Hai thành ngữ này là "Cái kim buộc
(trong) giẻ, lâu ngày cũng lòi ra" và "Cháy nhà mới lòi ra mặt chuột".
Con chuột này là "con chuột cống" cho nên mới có tên là "đường dây
chuột cống".
Ông Chu Văn Trình viết trong cuốn Sách Lược
Gia Tô Thực Dân Thống Trị Toàn Cầu như sau:
"Các tuyên úy Gia Tô và lính Ustashi cũng đòi
hỏi điều kiện tiền bạc để cứu mạng cho những kẻ đổi đạo. Thí dụ như Linh-mục
Canon Ivan Mikan ở Ogulin đòi 180 đồng dinans cho mỗi người bị ép đổi đạo. Chỉ
riêng một làng Chính Thống Giáo ở Jasenak, ông ta đã thu được 80 ngàn đồng
dinans. Các tu viện Gia Tô đã trở thành những nhà kho chứa chấp những tài sản
giá trị và những vật dụng của Chính Thống Giáo. Nhiều thứ trong số này đã được
gửi đến cho các giám mục Gia Tô để sử dụng… (trang 76).
Ngày 20-8-1941, bọn Ustashi bắt giữ tất cả
những người Chính Thống Giáo Serb đưa đến khu rừng Koprivnica, giữa Bugojno và
Kupres, và trước khi tàn sát, đàn bà bị cắt vú, chặt gẫy chân tay. Một số người
bị mù vì mắt bị móc bằng dao…Suốt đêm 31-7 và 1-8-1941, tai thành phố Prijedor,
bọn Ustashi đã tàn sát 1,400 người... (trang 88).
Công cuộc diệt chủng Chính Thống Giáo sắc tộc
Serb do Giáo Hội Gia Tô chủ động, ủy nhiệm cho Phát Xít Đức - Ustashi tiến hành
tại Nam Tư, mãi tới 8 tháng sau mới bị thế giới biết đến qua một bài báo xuất
bản tại Anh quốc (trang 88)"
[xxv]
Liên kết với siêu cường Hoa Kỳ để duy trì và
củng cố quyền lực ở Miền Nam Việt Nam: Đầu thập niên 1950, ngay khi nhận thấy Pháp đang
sa lầy tại Đông Dương và biết rằng sớm hay muộn rồi Pháp cũng bỏ cuộc và tìm
cách rút quân về nước, Giáo Hội La Mã quay ra hướng về Hoa Thịnh Đốn, cho người
dẫn ông Da-tô Ngô Đình Diệm sang Mỹ giao cho Hồng Y Francis Spellman tìm cách
xoay sở vận động chính quyền Hoa Kỳ liên kết với Vatican để cùng làm áp lực với
Pháp và ông Bảo Đại đưa ông Diệm lên cầm quyền. Vẫn đề này sẽ được trình bày đầy
trong Mục XVI, Phần VI trong bộ sách này.
KẾT LUẬN
Phần trình bày trên đây cho chúng ta một cái
nhìn rõ ràng về những thủ đọan quỷ quyệt của Giáo Hội La Mã trong việc cấu kết
với cường quyền và cầu cạnh được liên minh với các đế quốc thực dân xâm lược đế
thi hành sách lược "cáo đội lốt hùm", rình chờ cơ hội "mượn gió bẻ
măng" đợi ngày nhẩy lên bàn độc thíết lập chế độ đạo phiệt Da-tô. Rồi sau đó
Giáo Hội mới ra tay vừa tiến hành kế họach Kitô hóa nhân dân bằng bạo lực, vừa
thi hành chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ kìm hãm nhân dân trong vòng ngu
dốt để dễ bề lừa bịp, vừa ra công vơ vét cho đầy túi tham. Bộ mặt thật của Giáo
Hội La Mã ở bất cứ nơi nào vào bất cứ thời đại nào cũng đều bỉ ổi, đê tiện, bạo
ngược dã man và khốn nạn như vậy cả.
PHỤ BẢN
VẤN ĐỀ CẤP THIẾT
Bài viết này của nhóm NHÓM
NGHIÊN CỨU SỬ VIỆT đăng trong trang nhà chuyenluan.com tháng 5/04).
Thấy rằng bài viết này có nội dung rất thích hợp với nội dung của Chương 6 này,
chúng tôi xin phép Nhóm Nghiện Cứu Sư Việt được dùng làm phần Phụ Bản như có
thêm một tia sáng cực mạnh chiếu rọi vào bức màn bí mật về việc Giáo Hội La Mã
đã cấu kết với các cường quyền và các đế quốc thực dân xâm lược đem quân đi đánh
chiếm và thống trị các nước nhược tiểu ở trên thế giới từ cuối thế kỷ 15 cho
đến nay..
Cao nguyên lại biến loạn một lần nữa. Chỉ cách
nhau hai năm. Giặc ngoài và thù trong hợp tung lộng hành dưới chiêu bài đoàn kết
quốc gia, tự do tôn giáo, nhân quyền, dân chủ.
Hai mũi xung kích “mềm” Tây phương đang hướng
về các nước Á Phi và Trung Đông là Ki-Tô giáo La Mã hay Công giáo và hàng chục
hệ phái Tin Lành. Và bây giờ lại thêm con chốt Đông phương là Pháp Luân Công
nữa. Tự do tôn giáo được xử dụng như itếng loa xung kích mở đường cho Chiến
Tranh Lạnh mới có tên là tự do thị trường một chiều do Tây phương phát động để
một mặt được tự do mua rẽ và tự do định giá bán, tự do định giá nhân công, và tự
do định quota xuất nhập hàng hoá. Mặt khác, đòi hỏi thực thi tự do dân chủ theo
nghĩa tự do tiêu thụ những thứ thừa mứa mà Tây phương bỏ đi vì đã hay sắp lỗi
thời. Tủ lạnh, tivi, karaoke, phim ảnh, CD, VCR, mobile phone, digital camera,
thuốc lá, rượu, giày dép, nước hoa, mỹ phẩm…không có không chết ai, nhưng muốn
có thì phải cày như nô lệ,có khi đến cả phải bán thân.Ví dụ điển hình của thứ tự
do dân chủ tự do tiêu thụ điển hình của Việt Nam hôm nay chính là Công Ty Năm
Cam, sức mạnh tác hại như thế nào thì mọi người đều thấy rõ.
Ba mươi năm chiến tranh, người Việt khổ đã
nhiều. Cộng thêm những năm tiến nhanh tiến mạnh cãi tạo xã hội chủ nghĩa đã làm
cho người dân kiệt quệ. Ước vọng thoát đi từ đói rách lên cơm no áo ấm, lên ăn
ngon mặc đẹp là một ước vọng tự nhiên. Trong tiến trình đó,“đổi mới”,“hiện
đại”đã trở thành những thần chú, những phép lạ có thể gây những hậu quả khôn
lường về cả hai phương diện tiêu cực và tích cực. Những mũi xung kich mềm của
Tây phương đã khéo lợi dụng những thần chú đó để tồn tại và phát triển, để thiết
lập cơ sở chờ một ngày nào đây thi hành vai trò “đạo quân thứ năm” mở đường cho
Tây phương khuấy động với mưu định tái lập nền đô hộ Việt Nam, như họ đã làm ở
Đông Timor và đang làm ở Iraq, ở Haiti.
Trong quá khứ ở Việt Nam, nguồn nhân lực của
đạo quân thứ năm đó là Ki-Tô giáo và Tin Lành. Ki-Tô giáo La Mã ở Việt Nam đã mở
đường cho Pháp đô hộ Việt Nam. Pháp bị Nhật đuổi, khi Nhật thất trận, Ki-tô giáo
đón Pháp trở lại. Pháp thất trận ra đi, Mỹ vào thế Ki-Tô giáo lại trở thành chủ
lực cho những chính quyền do Mỹ nặn ra ở Miền Nam. Tất cả những hoạt động đó đều
được diễn ra dưới sự giám sát chặt chẽ của đại diện hai đại sứ Vatican mà giáo
dân thường cung kính gọi là Đức Khâm Mạng hay Đức Khâm Sứ Tòa Thánh. Đây là chức
vụ Vatican đang tìm mọi cách để tái lập kể từ sau khi Đại sứ cuối cùng của họ bị
chính quyền mới tống xuất khỏi Sài Gòn sau ngày 30/4/1975.
Vatican không chỉ là thánh địa của một tôn
giáo. Vatican là thủ đô của một đế quốc vô hình luôn luôn đứng về phe những kẻ
xâm lăng. Chính sách ngoại giao của quốc gia Vatican là một chính sách ngoại
giao kiên trì và bất nhân. Việc Vatican ủng hộ Hitler và ban phép lành cho những
xe tăng và đại bác của Hitler trước khi xuất trận là sự kiện lịch sử. Chỉ vì Đức
Quốc Xã của Hitler là Ki-Tô giáo La Mã, vì Hitler muốn quét sạch những người gốc
Do Thái và Do Thái giáo khỏi Âu châu, vì Hitler lăm le đánh Nga là quốc gia đa
số theo Chính Thống giáo vốn là một hệ phái Ki-Tô giáo thù địch của Vatican. Để
theo đuổi mục tiêu đó, Vatican không ngần ngại chụp mũ Nga là vô thần trong khi
tôn giáo của đại đa số dân Nga là Chính Thống giáo cùng thờ lạy một Thượng Đế,
một Thánh Kinh như Ki-Tô giáo La Mã. Về điểm này có người đã nói rõ:“Chiến Tranh
Lạnh vẫn thường được mô tả như là cuộc chiến giữa Hữu Thần của Khối Tự Do chống
Vô Thần của Khối Cộng Sản. Giáo Hoàng Pius XII còn ra lệnh tuyệt thông - nghĩa
là khai trừ khỏi giáo Hội để rồi phải đọa hỏa ngục - những ai theo Cộng Sản, vì
họ đã phạm tội trọng Vô Thần. Hồng Y Spellman đến Việt Nam ban phép lành cho
những chiến binh Mỹ lùng diệt quỷ đỏ VC. Thực tế đó chỉ là một cuộc chiến giữa
hai phe cùng đọc một Thánh Kinh, cùng thờ một Thượng Ðế, một bên là Công giáo và
Tin Lành, một bên là Chính Thống giáo. Thật vậy, nếu Lenin, Stalin thực sự là
những Satan quỷ đỏ phản Chúa, là những kẻ vô thần quyết tận diệt những ai thờ
lạy Chúa, như Công giáo Spain và Portugal triệt hạ tín ngưỡng địa phương ở Nam
Mỹ thì làm sao mà sau 70 năm thống trị của quỷ đỏ cộng sản vô thần, Nga và
Romania vẫn còn 80%, Bulgaria vẫn còn 85% dân theo Chính Thống giáo, Poland vẫn
còn 95% dân tự nhận là Công giáo? Như vậy thì phải chăng chỉ có những kẻ điên -
hay những kẻ tưởng thiên hạ điên hết - mới bảo chống cộng là chống Satan quỷ đỏ
vô thần? (Giới Tử - Nguyễn cao Kỳ, Người Phu Đào Huyệt – www.chuyenluan.com
tháng 3/04).
Cho đến bây giờ Vatican chỉ thừa nhận ngoại
giao Đài Loan, nghĩa là theo đuổi chính sách hai nước Trung Quốc, trong khi đó
Vatican lại nhất quyết đòi Trung Quốc thừa nhận quyền chỉ đạo của Vatican đối
với giáo hội Ki-Tô ở Trung Quốc. Không thừa nhận quyền đó cho Vatican thì bị
Vaticn tố cáo là không tôn trọng tự do tôn giáo, nhân quyền. Vatican đang tìm
cách lặp lại cuộc vận động ve vản và gây áp lực ngoại giao với Việt Nam như họ
đã và đang làm với Trung Quốc. Một số người Việt Nam hữu trách hầu như quên đi
rằng rằng tập thể tín đồ Ki-Tô giáo được lãnh đạo bởi một Hội Đồng Linh Mục Việt
Nam đại diện cho 3.000 linh mục và mấy triệu tín đồ” và rằng “Công giáo xưa nay
là một đoàn thể cực hữu đóng một vai trò “cột trụ” trong hàng ngũ chống Cộng của
Miền Nam”. Việc dùng tên Petrus Ký, Alexandre de Rhodes, Nguyễn văn Bình để đặt
tên đường, tên trường là một bằng chứng. Những lời trích dẫn trên không phải từ
một nguồn tài liệu cung đình, hay tả khuynh thân cộng mà chính là lời của Nguyễn
bá Cẩn trong quyển Đất Nước Tôi trang 382-384 của vị Thủ Tướng CCCB cuối cùng
của VNCH này.
Nhận thấy Lời Nói Đầu của cuốn Tôn Giáo Và Tổ
Quốc - Những Vấn Đề Cấp Thiết chứa đựng nhiều nhận xét đúng đắn và những sự kiện
lịch sử rất quan trọng đối với hoàn cảnh của đất nước ta hiện nay, đặc biệt là
sự nổi loạn của Tin Lành tại vùng Cao Nguyên, và áp lực bang giao quốc tế đối
với Việt Nam trong việc thừa nhận ngoại giao quốc gia Vatican. Do đó, chúng tôi
kính gởi bài viết nầy đến các cấp lãnh đạo chính quyền như là một tiếng nói đồng
tình trong việc đối trị với những phần tử xấu, và qua đó, quí vị cũng sẽ biết
được sự chống đối quyết liệt của người Việt nước ngoài đối với việc Vatican muốn
bang giao với Việt Nam. Nói cho cùng, tất cả những ve vãn bang giao này rốt cuộc
chỉ là những âm mưu chính trị nhằm khống chế, thao túng để biến Giáo Hội Công
giáo tại Việt Nam thành một tổ chức chỉ biết ngoan ngoãn tuân hành những mệnh
lệnh củaVatican, mà mệnh lệnh thứ nhất là làm gián điệp.
Hoa Kỳ 29/4/2004.
Tôn Giáo Và Tổ Quốc - Những Vấn
Đề Cấp Thiết
Lời Nói đầu
Ngay từ lúc xuất hiện, kéo dài cho đến bây giờ và
tiếp tục mãi về sau, các tôn giáo Tây phương luôn luôn mang đến những khổ đau và
hệ lụy cho nhân loại. Tiền bán thế kỷ 20 được đánh dấu bằng hai cuộc đại chiến
1914-1918 và 1939-1945, và bao nhiêu cuộc chiến nhỏ khác. Hậu bán thế kỷ 20 là
chiến tranh Việt-Pháp 1945-1954 và Việt-Mỹ 1960-1975. Song hành với những cuộc
chiến đó, hay lồng vào trong những cuộc chiến đó là những thảm họa kinh hoàng:
những lò sát sinh tập thể của Đức Quốc Xã; những 'quần đảo Gulag' của Stalin;
hai trái bom nguyên tử giáng xuống Nagasaki và Hiroshima; Tokyo, Bá Linh, London
biến thành biển lửa vì bom trong thế chiến thứ 2; làng mạc Việt Nam bị nướng
bằng bom lửa napalm, Miền Bắc điêu tàn vì bom trải thảm, Hà Nội thành địa ngục
vì những cơn bão lửa từ B.52 rưới xuống. Núi đồi khe suối pha nhuộm chất độc da
cam dẫu đã mấy mươi năm rồi mà nay vẫn còn là một đại họa.
Ngày nay, thời đại tòan cầu hóa và tự do dân
chủ kiểu tư bản thì những âm mưu gây chiến và bạo lọan của ngọai bang lại càng
tinh vi hơn. Họ không còn lộ liễu cùng một lúc vai khiêng Thập Giá, tay cầm khí
giới mà tất cả những âm mưu đen tối, những mầm móng tạo chiến tranh đều được
ngụy trang tinh xảo dưới các chiêu bài và nhãn hiệu tự do tôn giáo, nhân quyền,
dân chủ, đổi mới, kinh tế thị trường, toàn cầu hóa...
Sau 1975 quân ngọai xâm không còn trên đất
nước Việt Nam nữa, những người Mỹ cuối cùng cũng đã phải di tản ra đi ngày 30.4.
Nhưng trên quê hương yêu dấu, một đạo quân thứ năm khổng lồ chừng 6-7 triệu
người, mặc dầu không có súng nhưng lại là một mối đe dọa thường trực cho an ninh
quốc gia và nỗ lực phát triển đất nước.
Một mặt, Giáo hoàng của đạo quân nầy thì xảo
quyệt và lắt léo trong việc công khai thống hối với nhân loại, còn mặt khác,
giáo hội Công giáo và Tin Lành Việt Nam thì chẳng những đã không ăn năn sám hối
và xin lỗi dân tộc Việt lại còn ngụy tố ngược lại là chính quyền Việt Nam bất
công với họ. Nhiều năm qua, một số đông các Mục sư Tin Lành đã âm mưu thực hiện
kế hoạch đòi độc lập tự trị vùng cao nguyên, còn Vatican thì ngang ngược phong
“thánh” cho 117 người vừa Việt Nam vừa ngoại quốc bị triều đình xử tử vì tội
Việt gian phản quốc hoặc gián điệp cho ngoại bang.
Những mối đe dọa thường trực nầy sẽ trở thành
nhiều hay ít, hiển lộ hay tiềm tàng, là còn tuỳ thuộc vào sự sáng suốt và bản
lĩnh của các tư tưởng gia và chiến lược gia trong cũng như ngoài chính quyền
trên một quê hương có hơn bốn ngàn năm văn hiến.
Cách đây khỏang 10 năm, một số trí thức trong
nước cũng như những Việt-Kiều ở nước ngoài đã báo động tình trạng thiếu cảnh
giác nên đã tạo điều kiện cho các Mục sư Tin Lành ngang nhiên vào các vùng cao
nguyên nước ta để khuynh loát giảng đạo với ý đồ chính trị thành lập những quốc
gia Tin Lành Dega tự trị. Vì vô tình hay xem nhẹ những cảnh báo có cơ sở của các
chuyên gia có thẩm quyền nầy mà hậu quả chính trị và văn hóa tác hại ở các vùng
cao nguyên ngày nay như thế nào thì nhân dân đều đã thấy rõ. Và chắc chắn hậu
quả nầy sẽ không đơn giản và không ngừng lại ở đây mà còn vẫn tiếp tục nhiều hay
ít tùy theo hoàn cảnh chính trị, bản lĩnh của người lãnh đạo và áp lực từ nhiều
phía.
Cổ nhân thường căn dặn: “Dạy con dạy thuở lên
ba, dạy vợ từ thuở mẹ cha đem về” hoặc “Phòng bệnh hơn trị bệnh”. Gần đây một số
nhà làm văn hóa và một số chức sắc tôn giáo thường nói: “Phân tích và phê phán
tôn giáo là làm mất đòan kết tôn giáo” và “chính sách của đảng và nhà nước là
cần phải đoàn kết tôn giáo để xây dựng Tổ quốc”. Lập luận làm mất đoàn kết tôn
giáo không những thiếu cơ sở mà còn không đúng với thực tế vì những tín đồ của
Vatican hoặc của Hội “thánh” Tin Lành Mỹ thì, trong tim óc, đã mang “căn cước
văn hóa” của ngoại bang và làm việc cho chúng, họ chỉ sống nhờ trên đất Việt mà
thôi. Do đó, có bao giờ họ đoàn kết với dân tộc Việt-nam đâu mà bảo là “mất đoàn
kết”. Và hơn nữa, đoàn kết không có nghĩa là không nói lên các việc làm sai trái
để họ biết mà trở về với đại khối dân tộc? Đoàn kết không có nghĩa là họ có
quyền xuyên tạc lịch sử để cáo buộc những thành phần vốn có công với cách mạng,
góp phần vào sự nghiệp đánh đuổi thực dân và thống nhất đất nước là những kẻ tội
đồ của dân tộc, còn những tên Việt gian rước ngoại bang vào lại được vinh danh?
Đoàn kết không có nghĩa là chúng ta không có quyền tố cáo âm mưu của họ trong
chiêu bài lạm dụng quyền tự do tôn giáo và núp bóng nhân quyền mà họ đang xử
dụng, v. v.? Tình trạng nầy không những đối với dân tộc Việt Nam mà ngay cả với
thế giới nữa. Đã là quạ thì bất cứ sống ở chỗ nào nó cũng vẫn màu đen.
Thật vậy, ở Việt Nam chỉ có một thiểu số Hồi
giáo năm vạn tín đồ nên không xẩy ra những vụ bắt cóc và bạo loạn như Phi Luật
Tân, như Indonesia và nhiều quốc gia có tín đồ Hồi giáo khác trên thế giới. Tại
Ái Nhĩ Lan, nội chiến giữa Công giáo và Tin Lành, những người cùng thờ một Thần
cùng đọc một “Thánh” Thư. Nhiều quốc gia nghèo như châu Mỹ La Tinh và Phi Châu
cũng đang nội chiến do những phần tử ngây thơ bị lún chìm trong những mớ tư
tưởng thiếu thực tế và các cạm bẩy mỹ miều như “tự do tôn giáo” “nhân quyền”
v.v. nên xẩy ra nội chiến; tạo cơ hội cho ngoại bang bán vũ khí. Đến lúc đất
nước điêu linh thì được hứa hẹn viện trợ để rồi phải chịu phép rữa tội, và hậu
quả là sự xuất hiện trên những quê hương điêu tàn nầy các đạo tân binh không có
súng giống như 6-7 triệu “lính không có súng” trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay.
Những thành quả vượt bậc về kinh tế và an ninh
trong hơn 10 năm vừa qua của nước Việt chúng ta là bắt nguồn từ tư duy biết đổi
mới và phát huy được năng lực sáng tạo của chính phủ Việt Nam và đặc biệt từ
chính sách đoàn kết nhân dân để xây dựng xứ sở trong đó có thành phần tôn giáo.
Và chắc chắn rằng kết quả về mặt kinh tế đó sẽ tốt hơn, quốc gia sẽ thanh bình
hơn nếu không có những con nội trùng mai phục sẵn trong lòng dân tộc để chờ cơ
hội quấy phá.
Nhìn vào thành quả tốt đẹp đã đạt được về mọi
mặt, nhân dân ai cũng mừng, nhưng có không ít người lo âu cho tiền đồ đất nước
trong những tháng năm sắp tới. Thật vậy, chính phủ Việt Nam một mặt đã không
đánh giá đúng mức sự nguy hiểm của đạo quân không có súng nầy, mặt khác thì tự
lấy giây buộc mình vào cái tiền đề thiếu cân nhắc về tôn giáo nói trên. Có vẻ
như đã có một số những người làm văn hoá thì chạy theo kim tiền và đôi lúc viết
theo đơn đặt hàng của những tên gián điệp văn hoá. Hậu quả là một vài vùng cao
nguyên bị Tin Lành quấy phá, mặt khác tín đồ Công giáo chắc đã và đang thao túng
hầu hết các bộ các ngành để hủ hoá cán bộ điều hành hầu chuẩn bị thời cơn nổi
dậy cướp chính quyền như trường hợp Ba-Lan trước đây.
Chính phủ Việt Nam không tìm cách đối phó đúng
đắn đã là một thiếu sót lớn mà ngược lại, có vẻ như ngày càng tìm cách xích lại
gần với Vatican qua chiêu bài viện trợ nhân đạo để tiến dần đến bang giao. Nếu
thật như vậy thì sẽ là một đại họa cho dân tộc và có thể làm cho chế độ lung
lay. Vì ở bên cạnh Trung Quốc, một quốc gia có hơn 1.6 tỉ dân số nên lúc họ ghét
người nào thì họ muốn người khác cũng phải ghét theo họ. Dĩ nhiên là chúng ta có
toàn quyền quyết định lấy chính sách đường lối của mình nhưng nếu bang giao xẩy
ra hoặc thậm chí nếu quan hệ quá thân thiện với Vatican, trong lúc Trung Hoa chỉ
muốn Giáo Hội Công giáo trên đất nước họ độc lập ra khỏi Vatican để tránh hành
động của những tín đồ “Đế quốc tay trong”thì chính chúng ta tự tạo ra một mâu
thuẫn trầm trọng trong quan hệ Việt Trung vậy.
Bang giao với Vatican là xác nhận một ưu thế
pháp quyền cho các chức sắc tôn giáo Tây Phương để họ có thêm quyền tự tung tự
tác và tạo cho họ có điều kiện dễ dàng và nhanh chóng hơn trong việc chiêu mộ
thêm số “lính không súng”. Còn nhận viện trợ nhân đạo của họ là tạo điều kiện
tốt cho việc mua bán linh hồn và bành trướng nhanh “Nước Chúa”! Lực lượng họ
càng đông thì thế đứng của họ càng mạnh và ngoại quốc càng dễ xen vào vấn đề an
ninh quốc gia của Việt Nam. Một trong những yếu tố chính làm cho Nhật Bản trở
nên phú cường và kinh tế đứng vào hàng thứ nhì trên thế giới hiện nay là nhờ họ
có ít những con nội trùng trên quê hương. Trên xứ Phù Tang số lượng tín đồ Công
giáo quá ít, Tin Lành chỉ chiếm 1%, số còn lại là Phật giáo và Thần Đạo.
Qua kinh nghiệm của thời Pháp, thời Mỹ mà hậu
quả đau thương vẫn chưa xoá nhòa theo với vết hằn đau thương của năm tháng, rồi
đối chiếu với tình hình và sách lược của nhiều quốc gia, nhất là tình trạng một
số bộ tộc vùng cao nguyên ngay trên đất nước ta đã và đang bị Mục sư Tin Lành
nội xứ và thành phần phản động bên ngoài xúi dục đòi độc lập tự trị, chúng tôi
một số người thao thức với tiền đồ của quốc gia, quyết định tập trung một số bài
viết mà phần lớn lấy từ các trang nhà trên Internet để in thành tập sách nầy với
tựa đề là Tôn Giáo Và Dân Tộc - Những Vấn Đề Cấp Thiết để kính gởi các nhà làm
văn hoá trong và ngoài nước cùng các giới chức có thẩm quyền và toàn thể đồng
bào như một lời cảnh báo chân thành và nghiêm túc. Những bài viết nầy được căn
cứ trên các sử liệu chính xác và dùng biện giải khoa học để vạch rõ các âm mưu
đen tối của những con nội trùng cũng như các phần tử ngoại nhập, hầu đề nghị vài
giải pháp cho một số vấn đề tôn giáo cấp thiết tại Việt Nam trước nguy cơ đang
đe dọa tổ quốc.
NHÓM NGHIÊN CỨU SỬ VIỆT
Những ngày đầu Xuân Quí
Mùi, 2003.
[i]
Avro Manhattan, Vietnam
why did we go?, Ibid., p. 157.
[ii]
Loraine Boettner, Roman Catholicism (Phillipsburg, New Jersey:Presbyterian and Reformed Publishing Company, 1962),
p.424.
[iii]
Xin xem sách This Is America’s Story (Atlanta,
GA: Houghton Mifflin Company, 1975), pp.5-22.
[iv]
Lê Hữu Dản, Sự Thật - Đặc San Xuân Đinh Hợi
(Freemont, CA: TXB, 1997), tr. 28.
[v] Anatole G. Mazour & John M. Peoples, Men and
Nations – A World History (New York:Harcourt Brace Jov anovich, 1975),tr.
217-219.
[vi]
Anatole G. Mazour & John M.
Peoples, Ibid., p. 238.
[vii]
Lê Hữu Dản, Sự Thật - Ðặc San
Xuân Đinh Sửu 1997 (Fremont, California: TXN, 1997), tr. 28.
[viii]
Jack Abramowitz & Kenneth
Job, Homelands of The World: Resources and Cultures (Cleveland, Ohio: Modern
Curriculum Press, Inc., 1982), p. 245.
[ix]
Nhiều tác giả, Đôi Thoại Với Giáo Hoàng
Goan Phao Lồ II (Garden Grove, California, 1995) tr 339-340.
[x]
Anatole G. Mazour,. Ibid.,
p..310.
[xi]
Thomas P. Neil, Story Of
Mankind (New York: Holt, Rinehart and Winston Inc., 1968), p 366.
[xii]
Đoan Văn Thông, Bí Mặt Cung
Đinh (Glendale, California: Đ?i Nam, 1995), tr 64-67.
[xiii]
Nhiều tác giả, Vatican Thú
Tối Và Xin Lỗi? (Garden Grove, CA: Giao Ði?m, 2000), tr 180-181.
[xiv] J.T.C., Smokescreens (Chini, CA: Jack T.
Chick, 1983), tr. 14-17.
[xv]
Arnold Schrier & T. Walter
Wallbank, Living World History (Glenview, Ill: Scott, Foresman and Co, 19
74), tr 358
[xvi]
Arnold Schrier & T. Walter
Wallbank, , Ibid., p 358.
[xvii]
Anatole G. Mazour & John M.
Peoples, ibid., p.349.
[xviii]
Pierre Gaxotte, The Age of Louis XIV
(New York, The Macmillan Company, 1970), trang 211-212.
[xix]
"Spain" Encyclopedia
Briannica, Vol. 17, 1980 Edition, p 441-442.
[xx]
David Sharrock. "Hold on
your faith, Pope tells Spaniards" World News. May 5, 2003.
[xxi]
Constant Brand (Associated
Press). "Seattle-Post Intelligener" [Seattle], February 6, 2003": A3
[xxii] Avro Manhatttan, The Vatican’s Holocaust
(Springfield, MO: Azark Book, 1988), p. vii.
[xxiii] Avro Manhatttan, Vietnam: Why did we go?
(Chino: CA: Chick Publications, 1984), tr 125.
[xxiv]
"Tuần Báo Việt Nam Mới số 411
ngày 27/11/1998 và 412 ngày 4/12/1998.
[xxv] Chu Văn Trinh, Sách Lược Gia-tô Thống Trị Toàn
Cầu - Tập 2 (Florida: Văn Số Địa, 1990), tr 75-76 và 88.
Xem các chương khác:
VATICAN:CH06- Cấu Kết Với Cường Quyền (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH11- Bản Chất Lươn Lẹo (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH11- Bản Chất Nhận Vơ (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH11- Cưỡng Từ Đoạt Lý (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH11- Diễn Biến Sự Rã Đám của Chính Quyền Miền Nam (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH11- Thói Quen Tiếm Quyền (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH11- Đảo Lộn Lịch Sử (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH15.1 - Tại Sao Tu Sĩ TCG Phải Sống Độc Thân? (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH15.2 - Hậu Quả Của Chính Sách Cưỡng Bách Độc Thân (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH15.3 - Tình Trạng Loạn Luân Trong Giới Tu Sĩ Ca-Tô (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH16.1 - Chủ Đích Đi Tu Của Đạo Ca-Tô (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH16.2 - Độc Thân và Sự Trinh Bạch của Tu Sĩ Ca-Tô (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH16.3 - Biện Pháp Giải Quyết Nạn Khan Hiếm Tu Sĩ (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH17.1 - Bao Che Tu sĩ (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH17.1 - Các Biện Pháp Để Bao Che (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH17.3 - Đối Với Tín Đồ Người Mỹ (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH18- Lộ Đồ Chinh Phục Thế Giới (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH19- Thiết Lập Các Đạo Quân Thứ 5 (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH20- Đoàn Ngũ Hóa Tín Đồ (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH21- Vận Động Pháp Lần Thứ Nhất (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH22- Lần Thứ Hai Vận Động Pháp Chiếm Việt Nam (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH23- Lần Thứ Ba Vận Động Pháp Chiếm Việt Nam (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH24- Sách Lược Nội Công Ngoại Kích (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH25- Bộ Máy Cai Trị Của Liên Minh (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH26- Đời Sống Dân Ta Trong Thời Pháp-Vatican Đô Hộ (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:Ch27- Tiền Bạc, Châu Báu Bị Vatican Cướp Đoạt(Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH28- Chính Sách Thuế Khóa và Sưu Dịch (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH29- Cướp Chùa, Ruộng Đất, Xây Nhà Thờ (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH30- Hậu Quả Của Chính Sách Thuế Khóa (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH31- Hai Cảnh Đời Trái Ngược (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH6- Cấu Kết Với Cường Quyền (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH60- Vatican Vận Động Hoa Kỳ Để Dy Trì Quyền Lực Tại Miền Nam (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH60-1 Những Tính Toán của Vatican Trong Năm 1950 (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH61- Ngô Đình Diệm Dưới Mắt Các Chính Khách Hoa Kỳ (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH62- Hoa Kỳ Nỗ Lực Củng Cố và Bảo vệ An Ninh cho ông Ngô Đình Diệm (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH63-1a NGÔ ĐÌNH DIỆM: Con Người và Tội Ác (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH63-1b Sơ Lược Cuộc Đời của NGÔ ĐÌNH DIỆM (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH63-1c Tại Sao Gọi Là Tam Đại Việt Gian (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH63-1d Cuồng Tín (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH63-1e Những Đặc Tính Chung của Các Tín Đồ Ca-tô (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH63-1f Tình Trạng Ngu Dốt Của Ông Diệm (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH63-1g Những Việc Làm Tàn Ngược Của Ông Diệm (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH7- Bộ Máy Đế Quốc Gia Tô La Mã (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH7- Bộ Máy Đế Quốc Gia Tô La Mã (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH8- Hủy Diệt Nền Văn Minh Nhân Loại (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH8- Hủy Diệt Nền Văn Minh Nhân Loại (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH8- Phụ Bản (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH8- Phụ Bản (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH91 - Vấn Nạn Buôn Bán Ma Túy (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH92-1 - Vấn Nạn Giáo Hội La Mã (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH92-2 - Vấn Nạn Giáo Hội La Mã (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH92-3 - Vấn Nạn Giáo Hội La Mã (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:CH92-4 - Vấn Nạn Giáo Hội La Mã (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:Chương Dẫn Nhập (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:Chương Dẫn Nhập tt (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:Mục X- Vatican Cướp Đoạt Tài Sản Việt Nam (Nguyễn Mạnh Quang)
VATICAN:Sơ Lược Hồ Sơ GHLM (Nguyễn Mạnh Quang)