LỊCH SỬ HOA KỲ
(3 tác giả)
Nguyễn Mạnh Quang dịch
http://sachhiem.net/NMQ/LSHK/LSHK05.php
| bản rời | « Xem Mục Lục » | 12 tháng 9, 2009
(tiếp theo Chương bốn)
pypypy
CHƯƠNG V
DÂN CHÚNG SINH SỐNG Ở
CÁC THUỘC ĐỊA ANH
NHƯ THẾ NÀO?
In Adam’s fall
We sinned all.
Thy life to mend,
This Book attend.
The Cat doth play
And after slay.
A Dog will bite
A Thief at night.
An Eagle’s flight
Is out of sight.
The idle Fool
Is whipt at School.
Bài thơ trên
đây trích từ một cuốn sách vỡ lòng ở miền Tân Anh (tạm dịch như sau: "Vì lỗi Adam/
Chúng ta phạm tội/ Đời ngươi phải hối/ Học quyển sách này/ Con mèo chơi dai/ Rồi sau khi giết/
Con chó sẽ xơi/ Ăn trộm ban tối/ Đại bàng đánh trận/ Ở chốn xa xôi/ Trò nào lười biếng/
Vô lớp bị đòn). Nếu các bạn sống ở miền Tân
Anh vào thế kỷ XVIII thì có lẽ các bạn cũng đã phải học và đánh vần như sự chỉ
dẫn trong cuốn sách vỡ lòng này. Như các bạn đã biết, các sách giáo khoa trong
thời thuộc địa không giống như sách giáo khoa của chúng ta ngày nay. Thực ra,
đời sống người dân trong thời thuộc địa rất khác với đời sống của chúng ta ngày
nay về nhiều phương diện.
Để hiểu rõ đời
sống của người dân trong các thuộc địa Anh thì chúng ta cần phải biết những gì?
Chắc chắn là chúng ta phải tìm hiểu để biết người dân thời thuộc địa cư ngụ
trong những căn nhà như thế nào, họ sinh nhai ra làm sao, họ ăn mặc và ăn uống
những loại quần áo và thực phẩm nào. Chúng ta cũng sẽ tìm hiểu về trường học,
tôn giáo và những cách giải trí của họ. Chương này cũng nói rõ sự khác biệt về
lối sống ở trong các thuộc địa. Khi đọc chương này, chúng ta theo dõi từng phần
dưới đây:
1. Dân thuộc
địa miền Tân Anh sinh sống ra sao?
2. Đời sống ở
các thuộc địa miền Nam như thế nào?
3. Đời sống ở
các thuộc địa miền Trung ra sao?
4. Dân chúng
miền biên cương sinh hoạt như thế nào?
¨
PHẦN MỘT
DÂN THUỘC ĐỊA MIỀN
TÂN ANH SINH SỐNG RA SAO?
Phương cách sinh sống ở
nhiều nơi trên địa cầu ngày nay bị chi phối bởi các yếu tố địa lý như là vũ
lượng, nhiệt độ, đất đai, mặt đất, v.v…Thí dụ như chúng ta tin rằng người
Eskimos ở miền Bắc cực lạnh lẽo sinh sống không giống như những người trong các
bộ lạc ở miền Trung phi nóng nực. Tương tự như vậy, lối sinh hoạt của dân chúng
trong 13 thuộc địa của Anh cũng khác biệt nhau. Dĩ nhiên là các yếu tố địa lý ở
các thuộc địa Anh không đến nỗi quá khác biệt như các miền ở Bắc cực và các miền
Trung Phi. Tuy nhiên, những sự khác biệt về địa lý ở đây cũng đủ ảnh hưởng đến
đời sống của dân chúng.
- Sự khác biệt về địa lý
giữa miền Tân Anh và miền Nam
Nhìn vào bản đồ trang 106b chúng ta sẽ thấy rằng ở
phía trong bờ biển Đại Tây dương là một dãy đồi núi chập chùng chạy dài theo
hướng Đông Bắc Tây Nam. Càng tiến gần về phía Bắc thì dãy núi này càng nằm gần
bờ biển hơn. Như vậy là các thuộc địa miền Nam có nhiều đất đai bằng phẳng để
canh tác hơn là ở các thuộc địa miền Bắc. Ở miền Bắc, đất đai có nhiều sỏi đá
cho nên nông dân phải canh tác cực nhọc hơn. Mùa Đông ở miền Bắc dài hơn và lạnh
lẽo hơn.
Lúc đầu thì
việc canh tác đều quan trọng ở khắp các thuộc địa. Tuy nhiên vì sự khác biệt về
địa lý, cho nên nông nghiệp ở các thuộc địa miền Nam vẫn còn giữ vai trò quan
trọng lâu dài hơn so với các thuộc địa miền Bắc.
Một lần nữa
nhìn vào bản đồ ta thấy sông ngòi chằng chịt chạy từ các dãy núi đến bờ biển
giống như những sợi chỉ trong một miếng vải. Lúc bấy giờ vì không có đường bộ
nào tốt cho nên những sông ngòi này là những đường giao thông trong các thuộc
địa. Tại các cửa sông, nhất là ở miền Bắc, thường có những hải cảng tốt. Nhờ các
hải cảng này mà việc giao thương và chuyển vận ở miền Bắc trở nên quan trọng.
Ghi nhận những
yếu tố địa lý trên đây, ta hãy căn cứ vào đó mà tìm hiểu đời sống người dân
trong các thuộc địa Anh, thí dụ như ở miền Tân Anh, rồi so sánh với các thuộc
địa khác.
- Dân miền
Tân Anh sinh sống bằng nhiều phương cách khác nhau
Mặc dù đất đai khô cằn, sỏi đá và mùa đông giá
lạnh, nhiều người dân miền Tân Anh vẫn theo đuổi nghề nông. (Các bạn nên nhớ
rằng thời thuộc địa việc chuyển vận thực phẩm đi xa rất là khó khăn, cho nên mỗi
miền phải tự trồng trọt, sản xuất nông phẩm để tự túc). Tuy nhiên, cũng có một
số người sinh sống bằng nghề chài lưới. Người ta có thể bắt được nhiều cá ở
ngoài khơi vùng bờ biển miền Tân Anh đến nỗi họ không thể nào tiêu thụ hết. Cho
nên họ phải đóng những tàu thuyền lớn để chuyển vận cá đem đi bán ở các thuộc
địa khác hoặc là ở
Âu Châu hay ở vùng
West Indies (Tây An). Những tàu thuyền này chở cá đi bán, lại chuyên chở những
hàng hóa mua được đem về bán. Công cuộc buôn bán này đưa đến việc đòi hỏi người
ta phải đóng tàu và chế tạo các đồ trang bị như buồm, giây thừng, cột buồm và
neo, và cần phải có những nhà buôn để bán các hàng hóa do các tàu trên đây
chuyển vận từ các nơi khác đưa về. Trên đất liền thì cũng có nhiều người khác
bắt đầu chế tạo các sản phẩm khác. Như vậy miền Tân Anh đã trở nên một vùng gồm
đủ các loại người sinh sống như các ngư phủ, thủy thủ, thương gia, thợ thủ công
nghiệp và nông dân.
Nhiều người ở
Tân Anh học nghề bằng cách đi tập việc. Người tập việc thường là một cậu con
trai đi học nghề với một ông chủ, thí dụ như người thợ làm buồm, người thợ mộc
hay thợ rèn – Cậu trai này làm việc cho ông chủ trong nhiều năm và ở ngay trong
nhà ông chủ. Trong khi còn học nghề, cậu ta chỉ nhận được một số tiền lương ít
ỏi, và khi hoàn thành xong thời gian tập sự, cậu ta sẽ được một số tiền nhỏ và
ít quần áo. Bây giờ thì cậu ta đã thạo nghề và có thể làm việc cho chính cậu ta.
Nhà cửa
ở các thuộc địa miền Tân Anh như thế nào?
Dân miền Tân Anh sống trong các hải cảng và ở trong
các làng nhỏ có các nông trại bao quanh. Nhà cửa của họ được xây cất rất đơn sơ,
giản dị, nhưng rất vững chắc. Nếu các bạn có dịp đi vào trong những căn nhà này,
các bạn sẽ thấy như là đi vào một cái phòng. Một đầu là nhà bếp, vừa là phòng
ăn, vừa là phòng khách. Phía bên kia là phòng ngủ, và có thể có một phòng ngủ
khác ở trên lầu. Một cái lò sưởi khá lớn có thể chứa được cả những khúc gỗ to
đến nỗi phải cần tới hai người khiêng. Họ nấu nướng bằng cách treo cái nồi trên
ngọn lửa hay trên đống than. Đồ đạc trong nhà đều đơn giản và thường thì do
chính họ làm lấy. Không có nhiều đồ dùng nhà bếp hay chén đĩa.
Thực phẩm ở
miền Tân Anh thì rất nhiều và rất ngon. Nhà nào cũng nuôi gia súc để lấy thịt
như heo, gà… Thức ăn càng ngày càng có nhiều hơn nhờ thịt rừng do các cậu con
trai đi săn bắn mang về. Hầu hết mọi gia đình đều có một mảnh vườn trồng nhiều
loại rau để ăn hàng ngày. Dĩ nhiên họ không có tủ lạnh, và đồ ăn không được đóng
hộp để dành như chúng ta ngày nay. Dân thuộc địa thời bấy giờ thường muối dưa và
phơi khô các loại rau cũng như giữ trái cây trong các bình, lọ bằng đá đậy kín
để dùng vào mùa đông.
Quần áo của
gia đình cũng do chính họ may lấy. Người ta nuôi cừu sản xuất len, và các bà
quay chỉ dệt vải và len. Họ thuộc da để làm giày và yên ngựa hay may quần áo cho
đàn ông. Mùa đông, đàn ông mặc quần áo da ống túm và áo choàng dầy. Người nào có
tiền thì mua những quần áo đẹp nhập cảng từ Anh để mặc đi lễ ngày chúa nhật.
Những loại quần áo này gồm có những đai, viền xếp nếp và thường thì màu sáng
chói.
Tại các hải
cảng, người ta thường thấy nhà cửa rộng lớn hơn của các thương gia giàu có và
các ông chủ tàu. Những gia đình này có những đồ đạc rất đẹp và đắt giá do những
thợ tài ba sản xuất. Bếp chỉ dành cho việc nấu nướng. Và gia đình sống trong các
phòng khách rộng rãi và đầy đủ tiện nghi. Chúng ta nên nhớ rằng thời bấy giờ nhà
cửa ở các thuộc địa đều thiếu tiện nghi mà ngày nay chúng ta coi đó là tự nhiên
phải có. Họ không có hơi đốt, điện, và cũng không có nhà tắm, nước máy, điện
thoại, màn cửa cũng như thảm lót nhà…
- Tín
ngưỡng ở miền Tân Anh thời thuộc địa rất quan trọng
Vì dân miền Tân Anh là những người mộ đạo nên tại
trung tâm của mỗi làng ở miền này đều có một ngôi nhà thờ. Đa số là các tín đồ
Thanh giáo. Họ là những người có lương tâm và tin rằng phải sống cho có nhân có
nghĩa, rằng Thượng đế rất công bằng. Người sẽ trừng phạt những kẻ bất lương. Đối
với người Thanh giáo thì cái gì cũng tội lỗi. Mọi người phải sống cho có đạo
đức, mực thước. Họ không chấp nhận những trò giải trí nhộn như khiêu vũ, đánh
bài, và những thú vui tiêu khiển hung bạo. Đối với họ nhà thờ là trung tâm của
đời sống xã hội, và những ngày chủ nhật, ngoài giờ lễ ra mọi người vui họp bạn
bè và nghe tin tức. Các vị mục sư Thanh giáo phải là những người nghiêm trang
biết sợ Thượng đế, phải là những người có nhiều ảnh hưởng, và dân chúng thường
đến tham vấn các vị này khi có việc gì cần đến.
Có lẽ bạn chưa
có dịp tham dự ngày chủ nhật hay những ngày lễ của những người Thanh giáo. Trong
nhà thờ không có lò sưởi, ghế ngồi thì thô, nhám kệch cợm không thoải mái. Một
bên dành cho đàn ông, con trai ngồi, và một bên dành cho các bà và chị em phụ
nữ. Thường thường các cậu con trai ngồi với nhau ngoài hành lang. Nếu ai ồn ào
sẽ bị phạt ngay trong nhà thờ trước mặt mọi người. Luật bắt mọi người phải đi
nhà thờ. Sáng cũng như chiều mọi người đều phải nghe những bài thuyết giảng dài
lòng thòng. Chỉ đọc kinh thôi cũng thường kéo dài đến 45 phút. Thời gian còn lại
trong ngày không ai có thể làm việc hay giải trí cho riêng mình bằng bất cứ cách
nào. Thật ra mọi người đều phải đọc kinh thánh và suy ngẫm về tôn giáo. Dù rằng
chúng ta không muốn sống như người Thanh giáo nhưng chúng ta không thể nào không
khâm phục họ được. Dù khó khăn thế nào đi nữa thì họ cũng sống theo lối sống mà
họ cho là phải.
Dĩ nhiên không
phải tất cả những người dân ở miền Tân Anh đều là Thanh giáo. Trong chương IV
các bạn đã biết rõ ông Roger Williams đã thành lập thuộc địa Rhodes Island như
thế nào. Thuộc địa này được mở rộng cho những người thuộc các tôn giáo khác nhau
đến định cư. Luật lệ về ngày chủ nhật ở Rhodes Island ít nghiêm khắc hơn như là
ở Massachusetts của người Thanh giáo.
- Sự trừng
phạt ở miền Tân Anh vào thời thuộc địa rất nghiêm khắc
Người Thanh giáo cố làm cho người dân thuộc địa
sống đời đạo đức bằng cách thông qua nhiều đạo luật khắt khe. Họ hy vọng mọi
người đều tôn trọng các luật lệ này. Nếu ai vi phạm các luật lệ này thì có thể
bị trừng phạt bằng những phương cách mà ngày nay chúng ta cho rằng rất là tàn
ác. Có 15 tội hình có thể bị xử tử. Cũng có những hình phạt nặng nề dành cho
những tội phạm ít trầm trọng hơn. Tội chửi thề có thể bị đâm bằng một thanh sắt
nóng qua lưỡi. Tội say sưa phải mang một chữ D to tướng quanh cổ cho tất cả mọi
người có thể thấy.
Một vài loại
hình phạt khác được áp dụng rộng rãi ở thời kỳ thuộc địa. Ai nói dối phải ngồi
trong một cái cây gọi là “cùm” (stocks) tay chân đều bị cột vào đó. Hoặc là tội
nhân phải đứng trên một cái bục mà đầu và tay đều bị khóa vào một miếng ván gọi
là “gông” (pillory). Lại còn có một cái trụ roi da nữa, nơi mà tội nhân bị đánh
vào lưng trần với một số roi ấn định. Đàn ông hay đàn bà đều bị kết án với hình
phạt ngồi ghế dìm (ducking stool) thì bị cột vào một cái ghế đặt ở cuối một cây
sào dài rồi bị dìm vào hồ nước. “Cùm”, “gông” và “trụ roi da” thường đặt trước
nhà thờ nơi mà những người đi lại có thể chế nhạo hay ném bất cứ thứ gì vào tội
nhân bất hạnh.ư
Dĩ nhiên chúng
ta cũng cần nhớ rằng các hình phạt này cũng thông dụng ở Anh quốc vào thời bấy
giờ. Vì thế cho nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi ta thấy những người Thanh
giáo nghiêm khắc này tin tưởng rằng những hình phạt khắt khe trên đây là cách
duy nhất để giữ cho người dân khỏi vi phạm luật lệ.
- Người dân
miền Tân Anh tin tưởng ở giáo dục
Vì việc đọc thánh kinh rất quan trọng cho mọi tín
hữu Thanh giáo nên số trẻ em ở miền Tân Anh đi học nhiều hơn các nơi khác. Thật
ra vào đầu năm 1647, ở Massachusetts đã thông qua một đạo luật bắt buộc các làng
nếu có đủ một số gia đình ấn định thì phải có một trường cho trẻ em đi học. Bấy
giờ người ta chỉ dạy đọc, viết và số học. Trẻ em thời đó không học nhiều như các
em ở các lớp tiểu học ngày nay, nhưng chúng hiểu tường tận những gì chúng được
dạy. Sách “Hornbook” dạy các mẫu tự a, b, c… Hornbook là một cái khung bằng cây
giữ các tờ giấy bài học được bao bằng bìa trong suốt. Sách giáo khoa thì khó
hiểu và tẻ nhạt. Các sách như vỡ lòng đã nói ở trang 105 có dạy về tôn giáo và
cách cư xử kèm theo bài học. Thầy giáo rất nghiêm khắc. Cậu học trò nào vô lễ sẽ
bị đánh đòn ngay tức khắc.
Trong các cộng
đồng rộng lớn hơn, có vài trường cao cấp hơn gọi là trường dạy tiếng Latin
(Latin grammar school). Năm 1636, tức là chỉ có 6 năm sau khi Massachusetts được
thành lập, thuộc địa này đã có trường đại học. Một vị mục sư tên là John Harvard
đã tặng hết các sách của ông và một nửa số tiền của ông để khởi lập trường đại
học này. Đại học Harvard là đại học lâu nhất ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, trong những
lúc đầu, quan niệm về đại học không giống như quan niệm của chúng ta ngày nay,
vì mục đích chính của trường là đào tạo thanh niên trở thành những mục sư.
- Số lượng
sách báo gia tăng đồng thời với sự phát triển của miền Tân Anh
Ở những nơi mới định cư, mỗi người đều phải làm cực
nhọc để mưu sinh. Họ chỉ có ít thời giờ nhàn rỗi để đọc sách. Vì thế nên không
lấy gì làm ngạc nhiên khi thấy dân thuộc địa trong bao nhiêu năm mà chỉ có thể
có số ít sách báo và tạp chí. Nhưng sau năm 1700, sự làm ăn cực nhọc khó khăn
nhất không còn nữa, và sách, báo, tạp chí càng ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Vì
dân miền Tân Anh rất chú ý đến đạo giáo cho nên một vài cuốn sách lúc đầu là
những sách thuyết giáo và các sách bàn về vấn đề tôn giáo. Niên giám là một hình
thức tài liệu đọc phổ thông đặc biệt, trong đó dân chúng có thể đọc những tin
tức hữu ích về mùa màng, thời tiết, v.v.. Niên lịch hay niên giám thường chỉ là
tài liệu đọc ở các quận thuộc đồng quê. Càng ngày dân chúng càng thích đọc lịch
sử vào buổi khởi lập của thuộc địa. Khi các thuộc địa càng trở nên rộng lớn hơn,
dân chúng lại càng đọc báo chí nhiều để hiểu biết những gì đang xảy ra ở ngoài
nơi cư ngụ của họ. Tuy nhiên, báo chí thời thuộc địa rất khác với báo chí thời
nay. Tờ báo lúc bấy giờ rất nhỏ và chỉ phát hành một tuần một lần thôi. Tin tức
thường được loan chậm trễ nhiều ngày có khi tới hàng vài tuần.
Lối sống ở
miền Tân Anh khác hẳn với lối sống ở các thuộc địa khác. Chúng ta đã biết đời
sống ở miền Tân Anh, vì vậy chúng ta có thể so sánh đời sống ở miền này với đời
sống ở các vùng khác.
¨
PHẦN HAI
KHÍ HẬU VÀ ĐẤT ĐAI Ở MIỀN NAM THUẬN LỢI
CHO VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC ĐỒN ĐIỀN
- Đời sống ở
miền Nam khác hẳn với đời sống ở miền Tân Anh
Toàn bộ miền Nam hiện lên khác hẳn. Đồng ruộng bát
ngát dọc theo bờ biển miền Nam không còn có những nông trại và những làng quê
như những vùng quê đồi núi trập trùng như ở miền Tân Anh. Thực ra các nông trại
rộng lớn mênh mông gọi là đồn điền phủ kín cả các vùng đồng bằng phì nhiêu. Cho
nên các thuộc địa miền Nam thường gọi là “ Các thuộc địa đồn điền”.
Dân định cư ở
miền Nam không gặp phải khí hậu gay gắt và đất đai cằn cỗi bất thuận lợi cho
việc canh tác như ở miền Tân Anh. Đất đai ở miền Nam phì nhiêu rất thuận lợi cho
việc trồng mùa. Thuốc lá được trồng ở đây trước nhất và là nông phẩm quan trọng
nhất. Sau này người ta trồng lúa gạo và cây chàm (dùng để nhuộm) ở các thuộc địa
miền cực Nam. Các nông phẩm này được bán giá cao cho nên các nhà trồng tỉa muốn
khai thác được càng nhiều càng tốt. Vì việc canh tác các loại cây trên đây đã
làm cho đất đai mau kiệt quệ, cho nên họ thường để đất hưu canh mỗi năm để cho
đất phục hồi màu mỡ. Vì những lý do trên đây mà các nhà điền chủ càng ngày càng
có khuynh hướng mua thêm nhiều đất đai. Theo chiều hướng này mà các đồn điền lớn
được phát triển.
- Các đồn
điền cần nhiều nhân công
Các đồn điền rộng lớn có khi tới hàng trăm hàng
ngàn mẫu, cho nên không có nhà điền chủ nào có thể tự mình canh tác được. Họ cần
phải có nhân công để giúp việc. Một mặt họ mướn người da trắng nghèo khó ở
Âu châu do các công
ty mậu dịch tài trợ chuyên chở sang Tân thế giới. Như chúng ta đã biết, những
người công nhân da trắng có ký giao kèo này (indentured servants) là những người
nghèo ở Âu Châu cam kết sẽ làm cho bất kỳ ông chủ nào ở Châu Mỹ trả tiền phí tổn
cho họ vượt Đại tây dương đi Tân thế giới. Mặt khác các ông chủ đồn điền tìm
kiếm nhân công bằng cách mua những người nô lệ da đen. Người nô lệ trọn đời
thuộc quyền ông chủ và hoàn toàn bị kiểm soát. Thường thường thì các ông chủ
thích các nô lệ da đen hơn các công nhân da trắng, vì các công nhân da trắng chỉ
làm việc cho họ một vài năm rồi sẽ được tự do. Vì thế nên nô lệ đã lan tràn khắp
nơi ở miền Nam, nhất là vào thời kỳ sau năm 1700.
Cung ứng cho
nhu cầu của một số đông đảo nhân công trong đồn điền rộng lớn là một công việc
phải được xếp đặt. Nhiều người được huấn luyện thành những công nhân cần thiết
cho nhu cầu. Chúng ta hãy theo dõi đoạn văn dưới đây do chính người con của một
vị chủ đồn điền viết:
“Trong đám nô
lệ của cha tôi có những người thợ mộc, thợ đóng thùng, thợ cưa, thợ rèn, thợ
nhuộm da, thợ thuộc da, thợ đóng giày, thợ quay sợi, thợ dệt vải, thợ đan,
v.v....Những người thợ mộc và thợ cưa thì lo việc xây nhà xây cửa, kho chứa, các
chuồng gia súc, cày, bừa, cống v.v... Thợ đóng thùng thì làm những thùng lớn để
chứa thuốc lá... Thợ thuộc da và thợ nhuộm thì thuộc và sửa các da sống... cho
con số tiêu thụ lớn lao của đồn điền, và cho những người thợ đóng giày dùng để
đóng giày cho nô lệ da đen... Thợ rèn thì chế tạo và sửa tất cả các đồ nguội (đồ
sắt), cần dùng cho đồn điền như cày, bừa, dây xích, răng bừa, đinh chốt,
v.v...Thợ quay sợi, thợ dệt vải và thợ đan thì lo dệt may những vải thô và bít
tất cho người da đen dùng và những đồ khá hơn cho các gia đình người da
trắng....
Ba tôi không
giữ một người nào để làm quản lý hay thư ký cho chính ông. Ông lo giữ gìn sổ
sách của ông, và trong việc điều hành ngôi nhà nói trên với sự trợ giúp của một
vài người nô lệ thân tín hoặc đôi khi một vài người con của ông. Mọi việc điều
hành trong nhà đại khái là như vậy...”
Dĩ nhiên, không
phải tất cả các đồn điền đều rộng lớn như vậy, và còn có nhiều nông trại nhỏ ở
miền Nam. Chính vì vậy mà lối sống ở miền Nam rất khác biệt với miền Tân Anh.
- Thương mại
bành trướng và phát triển ở miền Nam
Các nhà trồng tỉa ở miền
Nam thấy rằng việc trồng thuốc lá và các nông phẩm khác rất dễ bán cho người Anh
quốc và rất có lời. Nhờ những tiền lời này họ có thể mua ở Anh những đồ dùng cá
nhân như các đồ đạc và quần áo đẹp. Theo chiều hướng này, nền giao thương trở
nên thịnh vượng giữa các chủ đồn điền ở thuộc địa và các thương gia ở Anh quốc.
Các hải cảng như Charleston, South Carolina, Savanah và Georgia trở thành các
trung tâm thương mại.
- Đời sống ở
các đồn điền miền Nam không giống như ở miền Tân Anh
Thay vì quây quần với nhau
trong làng như những người ở thuộc địa miền Tân Anh, những người giàu có ở thuộc
địa miền Nam sống riêng ở các đồn điền xa xôi của họ. Vị trí thuận lợi nhất của
các đồn điền là ở gần bờ sông, nơi mà tàu bè có thể ghé vào để bốc thuốc lá lên
tàu. Ngôi nhà của chủ đồn điền được xây ở gần bờ sông, thường là nhà rộng rãi và
đắt tiền. Nhà bếp thường được cất riêng để mùa hè không bị hơi nóng làm khó
chịu. Các túp lều của tôi tớ hay nô lệ ở cách đó một khoảng trống. Chủ đồn điền
thường cưỡi ngựa đi dọc theo ven sông để cai quản công việc.
Chủ đồn điền và
toàn thể gia đình đều sống đời sung túc. Thời giờ nhàn tản của họ dùng để đi
thăm viếng và giải trí, hoặc săn bắn, hoặc cưỡi ngựa và chơi các môn thể thao.
Nhà họ lúc nào cũng rộn tiếng cười của bạn bè hoặc thân nhân. Đi ăn tiệc, đàn
ông thì mặc áo choàng nhung, quần ngắn đến đầu gối bằng nhung hay sa tanh, mang
vớ dài bằng lụa, đôi giày có các khóa rộng bằng bạc. Đàn bà thì lại còn chưng
diện sang trọng hơn nữa. Các bà mặc áo lụa hoa, đi giày gót cao bọc sa tanh. Đời
sống đầy đủ và cách ăn mặc theo thời trang của người miền Nam thật là trái ngược
với đời sống khắc khổ và cách ăn mặc lam lũ đơn giản của người Thanh giáo miền
Tân Anh.
- Miền Nam
còn khác hẳn với miền Tân Anh về các vấn đề giáo dục và tôn giáo
Bạn có thể nhận thấy sự
khác biệt về giáo dục và tôn giáo nữa ở các thuộc địa miền Nam và miền Bắc. Mỗi
làng gọn ghẽ ở miền Tân Anh đều có thể có một trường riêng, nhưng ở các đồn điền
thênh thang ở miền Nam trẻ con ở phân tán rải rác nên chỉ được dạy tại nhà. Hay
trong vài trường hợp lẻ tẻ, các thầy giáo từ Anh quốc đến dạy trẻ em tại các đồn
điền. Con trai của các chủ đồn điền giàu có được cho học đại học ở bên Anh. Tuy
nhiên, những người khác thì đi học ở đại học Williams và đại học Mary ở
Virginia. Đây là trường đại học thứ nhì được thành lập ở các thuộc địa Anh. Vì
đời sống nhộn nhịp, các nhà địa chủ ở miền Nam ít thích đọc sách hơn những người
ở Tân Anh. Không có một cố gắng đáng kể nào để giúp cho việc giáo dục các trẻ
con của những người nô lệ và của các công nhân.
Cũng như sự
khác biệt giữa vấn đề giáo dục của hai miền, tôn giáo cũng khác nhau… Hầu hết
những người ở miền Nam đều thuộc giáo hội Anh hơn là thuộc giáo hội Thanh giáo
khắc khổ ở Massachusetts. Mặc dù những người miền Nam đều đi lễ ngày chúa nhật,
tôn giáo vẫn không ảnh hưởng đến đời sống của họ như đã ảnh hưởng đến những
người ở Tân Anh. Cũng không có những mục sư đầy uy tín như ở Tân Anh. Những hình
phạt cũng nghiêm khắc, nhưng dân chúng chưa hề bị phạt vì những tội lầm lẫn nhỏ
nhặt.
¨
PHẦN BA
ĐỜI
SỐNG Ở CÁC THUỘC ĐỊA MIỀN TRUNG NHƯ THẾ NÀO?
Các thuộc địa
miền Trung nằm giữa miền Tân Anh và miền Nam. Miền này không giống hẳn miền nào
trên đây. Không những miền Trung nằm giữa hai miền Bắc và Nam, mà đời sống ở
miền Trung có nhiều điểm giống cả hai miền.
Thí dụ như đất
đai và khí hậu ở các thuộc địa miền Trung phì nhiêu và thuận lợi cho việc canh
tác hơn ở miền Tân Anh nhưng không hoàn toàn tốt và thuận lợi bằng đất đai và
khí hậu ở các thuộc địa miền Nam. Về phương diện kỹ nghệ và thương mại, các
thuộc địa miền Trung được xếp hàng thứ nhì sau Tân Anh. Công việc mậu dịch buôn
bán được xúc tiến tại hai hải cảng lớn: hải cảng New York nằm ngay ở cửa sông
Hudson, và hải cảng Philadelphia ở gần cửa sông Delaware.
Các thuộc địa
miền Trung còn là một sự pha trộn của hai miền Tân Anh và miền Nam về nhiều
phương diện khác. Ở đây không những có đồn điền rộng lớn như ở miền Nam mà còn
có những nông trại nhỏ và các làng quê giống như ở Tân Anh. Thay vì chỉ có một
tôn giáo như người Thanh giáo ở Massachusetts, các thuộc địa miền Trung có những
người Quakers, người công giáo và những người thuộc các tôn giáo khác. Thực ra ở
vùng này tư tưởng tự do tôn giáo đã được minh xác ngay từ lúc đầu ở
Pennsylvania, nơi mà những người theo đạo Thiên Chúa được tự do định cư lập
nghiệp. Các thuộc địa ở miền Trung có nhiều trường học hơn ở miền Nam nhưng
không nhiều bằng ở miền Tân Anh. Ngay chính những người dân cũng mang tính chất
pha trộn hơn bất kỳ nơi nào. Những người đến các thuộc địa miền Trung định cư
lập nghiệp là những người thuộc nhiều quốc gia khác nhau ở Âu Châu. Ở đây có
hàng ngàn người Đức và Tô Cách Lan (đã sống ở Ái Nhĩ Lan một thời gian). Dĩ
nhiên cũng có hàng ngàn người Pháp, Ái Nhĩ Lan, Tô Cách Lan, Thụy Điển và người
Hòa Lan như các bạn đã thấy. Các thuộc địa miền Trung đã được đặt tên theo đúng
ý nghĩa của nó.
¨
PHẦN BỐN
ĐỜI
SỐNG DÂN CHÚNG Ở MIỀN BIÊN CƯƠNG RA SAO?
Cho tới đây,
chúng ta đã đọc qua về đời sống thuộc địa ở các miền định cư lâu đời và được
định cư yên ổn hơn, đó là những miền dọc theo bờ biển Đại tây dương. Về hướng
Tây, có một miền khác gọi là biên thùy ở về phía Tây sau lưng các thuộc địa
trên. Nếu chúng ta muốn có một bức tranh trung thực về đời sống các thuộc địa
Anh quốc vào thế kỷ thứ 18, chúng ta cũng nên biết rõ về miền Tây này.
- Tại sao dân
chúng di chuyển về miền biên cương?
Miền biên cương là một miền
ven biển xa các làng định cư nhất, nơi đó toàn là người da trắng sinh sống. Rừng
rú ở miền Tây chứa đầy cạm bẫy của thần chết. Người ta phải làm lụng vất vả mới
có ăn và nơi trú ngụ. Thế thì tại sao cả đàn ông lẫn đàn bà lại dám lìa bỏ các
cộng đồng định cư an toàn của họ để đến sống trong cảnh hoang dã như vậy?
Đây là một vài
nguyên do:
1. Như chúng ta
biết, lúc nào cũng có những người thích phiêu lưu. Vùng biên cương đã lôi cuốn
những người này, mặc dù họ phải đương đầu với bao nhiêu nguy hiểm khó khăn.
2. Có những
người khác không thích những cộng đồng định cư, nơi mà suốt quanh năm ngày tháng
họ phải nghe người ta bảo phải nên làm những gì và tránh những gì. Những người
này mong mỏi được sống một mình nơi hoang dã. Họ tin vào trí thông minh của
chính họ và bất chấp các luật lệ nhà nước. Họ đi về miền Tây để được tự do sống
theo ý họ.
3. Tại các dòng
sông, dòng suối và trong rừng rậm ở miền Tây có những thú vật có những bộ lông
có thể bán được giá cao ở miền Đông. Vì thế nhiều người khác di chuyển về phía
Tây để bắt thú bán lông.
4. Lại có những
người khác di chuyển về miền biên thùy vì đất đai ở đây rất rẻ. Đất rẻ là yếu tố
hấp dẫn những người không đủ tiền mua đất gần nhà cũ của họ ở duyên hải Đại Tây
dương. Thí dụ những công nhân khế ước da trắng thường đi về vùng biên cương để
lập cuộc đời mới khi mãn hạn phục vụ chủ nhân.
5. Sau cùng,
nhiều người Âu Châu không hài lòng với cuộc sống nên đã lên đường thẳng tiến tới
miền biên cương để tự do sống và thờ phượng theo ý mình. Với những trường hợp
riêng, rất đông người Tô Cách Lan và Ái Nhĩ Lan đã băng qua các thuộc địa miền
Trung để tới miền biên cương lập nghiệp.
- Những
người khai phá đã tiến về phía Tây bằng cách nào
Khi những người khai phá
tiến về phía Tây thì họ đi theo con đường dễ nhất để tiến sâu vào nội địa. Họ cố
tìm những con đường không có dốc (Luật lệ rừng xanh ngày xưa là không bao giờ
vượt qua cái gì nếu có thể đi vòng quanh được, và đừng dẫm lên cái gì nếu có thể
bước qua được). Sông ngòi vẫn là những thông lộ tốt hơn hết. Dân đi định cư lập
nghiệp có thể dùng bè hay tàu thuyền đi trên sông thì tốt hơn là phải tìm đường
đi xuyên qua rừng rú. Thứ nữa là người ta thường đi qua các thung lũng và các
vùng lòng chảo giữa các ngọn đồi. Bản đồ trong trang 106b cho ta biết rõ những
con đường chính mà dân đi khai phá thường dùng để tiến sâu vào nội địa.
Một số người
lại đi ngược dòng sông Connecticut. Nhiều người khác lại đi ngược dòng sông
Hudson để tiến vào sông Mohawk rồi ngược dòng sông này đi về hướng Tây. Nhóm
khác thì lại đi theo sông Susquehanna. Nhóm khác nữa thì lại ngược dòng sông
Potomac để đi vào sông Shenandoah. Họ tiến vào thung lũng Virginia nằm giữa hai
dãy núi Blue Ridge ở phía Đông và Allegheny ở phía Tây. Vào năm 1760, tất cả các
đất đai dọc theo các giang lộ này đã hoàn toàn được chiếm cứ (xem bản đồ trang
106b).
Trước khi cách
mạng Hoa Kỳ bùng nổ vào năm 1775, dân định cư đã bắt đầu tiến qua các vùng đèo
nằm trong dãy núi Allegheny tới vùng sườn núi thoai thoải và tiến tới tận sông
Mississippi. Họ đi từng nhóm, khi dùng đường sông, khi dùng đường bộ. Họ đi bộ
và đi ngựa. Các đồ gia dụng được gói bằng các bao da và được mang trên lưng
ngựa. Khi họ tới nơi nào họ muốn lập nghiệp thì họ dừng lại. Người định cư càng
tiến dần về phía Tây thì đường biên giới của các làng định cư cũng tiến dần về
phía Tây.
- Đời sống
đầy nguy hiểm ở vùng biên cương
Dân định cư phải đương đầu
với không biết bao nhiêu là hiểm nguy. Vì một phần họ ở rất gần lãnh địa của
người Pháp ở Gia Nã Đại và thung lũng sông Ohio. Nếu chiến tranh bùng nổ (với
người Pháp) thì họ sẽ là người đầu tiên bị tấn công. Mối nguy hiểm khác nữa là
những người da đỏ. Người da đỏ thù ghét người da trắng vì đã đốn cây rừng và
giết hại thú rừng của họ. Bất kỳ lúc nào người da đỏ cũng có thể tấn công bất
ngờ vào các làng định cư lẻ loi, cho nên dân định cư phải luôn luôn canh chừng
bọn người man rợ tiến vào làng.
Để tự phòng
chống lại những nguy hiểm thường trực trên đây, dân định cư thường phải xây các
công sự tăng cường phòng thủ làng xóm. Họ trồng những khúc gỗ đẽo nhọn để làm
hàng rào gọi là Stockade. Tại mỗi góc của hàng rào (Stockade) họ xây một cái
chòi hai tầng gọi là Blockhouse (lô cốt) để canh chừng lúc bình yên, và chiến
đấu khi có chiến tranh. Họ phải tích trữ lương thực, nước uống và đạn dược trong
hàng rào để sử dụng vào khi có người da đỏ tấn công. Dân định cư dũng cảm phải
thiết lập các chòi canh, khai hoang các vườn ruộng ở ngoài hàng rào, và khi
người da đỏ hiếu chiến tới gần thì ẩn náu ở bên trong.
Khi không có
chiến tranh với người da đỏ thì các làng định cư được dùng như là một thương
điếm, nơi mà người da trắng đổi chác hàng hóa với người da đỏ để lấy da thú. Tuy
nhiên, có một số người da trắng thích tự đánh bẫy bắt thú rừng hơn là mua da thú
của người da đỏ. Những người này thường luôn luôn vắng mặt ở làng định cư, và
đối với họ làng định cư chỉ là một cơ sở hành dinh, một nơi để mua những gì họ
cần và bán những da thú mà họ bẫy được.
- Nhà cửa và đồ
đạc trong nhà của người dân miền biên cương
Dân đi khai phá phải sống ở
nơi hoang dã xa nơi làng định cư cũ. Họ phải chế tạo và trồng trọt tất cả những
gì họ cần dùng. Nhà ở của họ thường là nhỏ bé, có lẽ chỉ rộng chừng mười hai bộ,
và mười bốn bộ chiều dài, và được làm bằng những khúc gỗ mà đường kính chỉ lớn
hơn một bộ hay hơn được gắn vừa khít với nhau ở các góc. Khe hở giữa các khúc gỗ
thì được trét bằng đất sét dẻo. Mái nhà thì được lợp bằng những tấm ván dài. Cửa
thì gồm những tấm gỗ lớn tách ra làm hai gọi là puncheon. Mặt cong của các tấm
gỗ này thì quay ra ngoài, tức là mặt ngoài của cửa. Mặt phẳng quay vào bên trong
và phía bên trong thì có cây xà vững chắc đóng chéo ngang. Người ta cắt bỏ một
hay hai khúc gỗ để làm cửa sổ. Chiếc lò sưởi to lớn chiếm gần hết một đầu nhà.
Xuyên qua bên trong ống khói có buộc một cái sào móc sợi dây xích để treo nồi
nấu.
Hầu hết các đồ
đạc trong nhà là do chính họ chế tạo lấy. Vì đồ đạc quá nặng nên mỗi khi di
chuyển họ không thể mang theo được. Giường ngủ thì được làm bằng cây dương đào,
lạch giường thì dùng các vỏ cây du hay những mảnh cây hồ đào kết lại. Người ta
làm ghế đẩu bằng cách gắn ba chân vào một mảnh gỗ cưa đôi. Cái chân ghế thì được
cố ý làm cho hơi khác nhau một chút để có thể thích hợp với nền nhà không bằng
phẳng. Bàn thì được làm bằng nhiều mảnh gỗ cưa đôi. Các chân thì được lắp vào
phía mặt cong và nhám, như vậy thì mặt bằng phẳng được dùng làm mặt bàn. Họ làm
tủ chén bằng cách đóng ghép những thanh gỗ dựa vào tường nhà.
- Thực phẩm
và quần áo của người biên cương thì thanh đạm và đơn giản
Ở nơi hoang dã rừng rú có
đầy thú rừng để cho dân ở đây có thể săn bắn dùng làm thực phẩm. Không thiếu gì
rùa, cá ở các sông ngòi và chim muông ở đó đây. Sau khi đã khai hoang các khu
rừng, họ có thể trồng bắp và lúa mì. Họ cũng có thể nuôi một con bò, vài con
heo. Vào thế kỷ thứ XVIII, một số nông dân ở miền biên cương bắt đầu nuôi gia
súc. Giống như các đồ đạc trong nhà, quần áo của họ đều do chính họ may lấy và
thường là được may bằng da thú. Người ta may áo bằng da dê và mũ bằng da gấu. Đó
là dấu hiệu của người ngoài biên cương. Đôi khi họ mặc áo bằng vải do gia đình
dệt lấy, và các bà vợ cũng thường ăn mặc như vậy.
۞
Các đoạn văn
trên đây đã cho các bạn thấy rằng lối sống ở nhiều nơi trong các thuộc
địa khác hẳn nhau. Sự khác biệt này càng rõ rệt, vì người dân ở vùng này không
có cùng hoạt động với người dân ở vùng khác. Sự đi lại rất khó khăn nên nhiều
người từ khi sinh ra đời cho đến lúc chết không đi ra khỏi ngoài thuộc địa của
mình. Người dân thuộc địa tự coi mình là người Virginia, người Pennsylvania hay
là người New York hơn là họ tự coi họ là người Mỹ. Các tổ chức chính quyền rất
giống nhau. Hầu hết người dân thời thuộc địa đều nói được tiếng Anh, và vì việc
nói cùng một ngôn ngữ khiến họ dễ dàng kết hợp lại với nhau. Những điều làm cho
các thuộc địa Anh liên kết chặt chẽ hơn cả là vì họ có những vấn đề giống nhau
cần phải giải quyết. Đó là nhu cầu mưu sinh ở một nơi xa xăm cách Âu châu hàng
ba ngàn dặm... là phải đốn cây phá rừng, trồng trọt và phải đương đầu với người
da đỏ. Chính vì có những công việc giống nhau như vậy và vì phải giải quyết
những vấn đề chung mà cả 13 thuộc địa sau này đã có thể thống nhất thành một
quốc gia.
(còn tiếp : Chương VI)
Các bài cùng tập Lịch Sử Hoa Kỳ
▪ 2004-08-15 - LSHK-1- Marco Polo và những chuyện kỳ thú ở Đông phương - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 0000-00-00 - LSHK-1- Marco Polo và những chuyện kỳ thú ở Đông phương - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-2- Magellan tìm ra con đường đi vòng quanh thế giới - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-3- Những Lá Thư Của Phillip Andrew - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-4- Việc Thành Lập 13 Thuộc Địa Anh - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-5- Dân Chúng Sống Ở Thuộc Địa Anh Như Thế Nào? - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-6- Nước Pháp Thắng Rồi Lại Bại - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-7- Người Anh Cai Trị Các Thuộc Địa Như Thế Nào? - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-8- Dân Thuộc Địa Chống Lại Anh Quốc - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2022-07-05 - MƯỜI BA THUỘC ĐỊA ANH GIÀNH ĐỘC LẬP - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2014-07-04 - LSHK-9- 13 Thuộc Địa Anh Giành Độc Lập - Nguyễn Mạnh Quang dịch -
▪ 2004-08-15 - LSHK-1- Marco Polo và những chuyện kỳ thú ở Đông phương - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-10- Tinh Thần Độc Lập Ảnh Hưởng Khắp Mỹ Châu - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-11- 13 Tiểu Bang Kết Thành 1 Quốc Gia - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-12- Tân Chính Phủ Trung Ương - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-13- Hoa Kỳ Được Các Quốc Gia Khác Kính Nể - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-14- Miền Đông Bắc Trở Thành Trung Tâm Kỹ Nghệ - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-15- Miền Nam Trở Thành Vương Quốc Bông Vải - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 0000-00-00 - LSHK-16- Chế Độ Dân Chủ Theo Đà Mở Rộng Biên Cương - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-17- Toàn Quốc Trở Nên Dân Chủ Hơn - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 1 2 ▪ >>>
Trang Lịch Sử