LỊCH SỬ HOA KỲ
(3 tác giả)
Nguyễn Mạnh Quang dịch
http://sachhiem.net/NMQ/LSHK/LSHK10.php
| bản rời | « Xem Mục Lục » | 12 tháng 9, 2009
(tiếp theo Chương tám)
pypypy
CHƯƠNG X
TINH
THẦN ĐỘC LẬP ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIA NÃ ĐẠI,
TRUNG VÀ
NAM MỸ
“Tôi thề trước…linh hồn tổ
tiên, thề với danh dự và quê hương rằng ngày nào mà chưa đập tan được xiềng xích
áp bức, thì tôi nhất định không thể ngồi yên khoanh tay bình thản được”. Người
nói những lời lẽ quan trọng này không phải là một dân thuộc địa Anh tự hứa để
ủng hộ cách mạng Hoa Kỳ, mà là của một nhà ái quốc của thuộc địa Venezuela ở Nam
Mỹ. Như các bạn đã biết, cuộc cách mạng của 13 thuộc địa ở Hoa Kỳ chỉ là một
trong những tiếng súng làm rung chuyển và tách rời Tân thế giới ra khỏi Cựu thế
giới. Hậu quả của những tiếng súng này là nhiều Tân quốc gia được thành lập tại
Tây bán cầu. Năm 1825, các thuộc địa Tây Ban Nha phải dùng đến lưỡi kiếm đẫm máu
để cắt đứt liên hệ với mẫu quốc. Ba Tây không còn là thuộc địa của Bồ Đào Nha
nữa, mà đã trở thành một quốc gia độc lập. Trong tất cả các quốc gia Âu châu
thiết lập đế quốc ở Mỹ châu, chỉ có Anh quốc là còn giữ được một thuộc địa rộng
lớn là Gia Nã Đại. Nhưng dù sao thì Gia Nã Đại cũng không tranh đấu đòi độc lập
mà chỉ đòi cho được hưởng quyền tự trị.
Điều quan trọng
đối với người Hoa Kỳ là nên biết một vài điều về các quốc gia láng giềng cùng ở
Tây bán cầu này. Chương này sẽ bàn về những gì xảy ra ở Gia Nã Đại cũng như ở
Trung và Nam Mỹ vào thời kỳ sau cuộc cách mạng Hoa Kỳ. Chương này cũng sẽ nói về
việc Gia Nã Đại đã tiến hành cuộc cách mạng “hòa bình” như thế nào, và các thuộc
địa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã giành được độc lập ra làm sao. Để có thể theo
dõi những điểm quan trọng trong chương này, chúng ta sẽ tìm hiểu những câu hỏi
dưới đây:
1. Cuộc cách
mạng Hoa Kỳ đã ảnh hưởng đến Gia Nã Đại như thế nào?
2. Gia Nã Đại
đã giành được chính quyền tự trị qua cuộc cách mạng hòa bình như thế nào?
3. Các thuộc
địa Tây Ban Nha đã giành được độc lập ra sao?
4. Ba Tây đã
được độc lập như thế nào?
¨
PHẦN MỘT
CUỘC
CÁCH MẠNG HOA KỲ ĐÃ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
GIA NÃ
ĐẠI NHƯ THẾ NÀO?
Trước khi chúng ta có thể
hiểu được cuộc cách mạng Hoa Kỳ đã ảnh hưởng đến Gia Nã Đại như thế nào, chúng
ta hãy nhớ lại vào năm 1763. Đây là năm Anh quốc đã đánh bại đối phương để chiếm
được Tân Pháp.
- Chính phủ Anh
cố gắng thâu phục lòng tin tưởng của dân chúng ở Tân Pháp
Dân chúng ở Tân Pháp vào
năm 1763 nêu lên nhiều thắc mắc: “Bây giờ thì những gì đang và sẽ xảy ra cho
chúng ta?” Nhà cầm quyền mới sẽ bắt chúng ta không được sử dụng ngôn ngữ của
chúng ta nữa? Họ cũng không cho chúng ta được hành đạo theo tôn giáo của chúng
ta nữa? Mặc dầu theo các điều khoản trong thỏa hiệp đầu hàng là dân chúng ở vùng
Tân Pháp vẫn có quyền duy trì ngôn ngữ và tôn giáo của họ, nhưng có nhiều mối lo
ngại cho rằng thỏa hiệp này sẽ không được thi hành. Dân thuộc địa Pháp tự hỏi
“Liệu rằng đất đai trong làng xóm của chúng ta có bị cướp đoạt để phân phối cho
người Anh không?”
Dân thuộc địa
người Pháp cảm thấy thoải mái khi hay tin rằng chính phủ Anh không có ý định
buộc người Pháp nói tiếng Anh và cũng không có ý định bắt buộc họ sống theo tập
quán của người Anh. Như chúng ta đã biết, vào lúc này, các thuộc địa mới bắt đầu
nói đến tự do, định nghĩa về các quyền lợi (căn bản). Anh quốc biết rằng nếu dân
định cư người Pháp cho rằng tân chính quyền sai quấy thì họ sẽ sẵn sàng nghe
theo những lời lẽ nguy hiểm của những dân thuộc địa Anh ở phía Nam. Cho nên Anh
quốc vẫn tiếp tục duy trì hình thức chính quyền mà dân thuộc địa đã từng quen
thuộc. Chính phủ Anh cũng hứa rằng dân thuộc địa người Pháp vẫn có quyền thờ
phượng theo giáo hội Công giáo, và vẫn được duy trì đất đai của họ. Anh quốc hy
vọng rằng bằng cách đối xử tử tế, Anh quốc sẽ chiếm được lòng tin và lòng trung
thành của dân Gia Nã Đại gốc Pháp.
- Cuộc xâm
lăng của người Hoa Kỳ vào Gia Nã Đại thất bại
Anh quốc hoàn toàn có lý
khi nghĩ rằng xáo trộn ở 13 thuộc địa rất có thể ảnh hưởng đến Gia Nã Đại [2].
Sau khi các thuộc địa Anh tại Mỹ chiến đấu chống lại mẫu quốc chẳng được bao lâu
thì Ethan Allen và một lực lượng mang danh hiệu là Green Mountain Boys mở một
cuộc tấn công bất ngờ vào quân Anh. Như các bạn đã biết, lực lượng này chiếm
những đồn ải của quân Anh tại Grown Point và Ticonderoga ở bên hồ Champlain.
Việc tấn chiếm hai đồn này một cách can đảm đã mở đường sang Gia Nã Đại. Biết rõ
rằng Anh quốc sẽ sử dụng Gia Nã Đại để tấn công các thuộc địa, cho nên Hội Nghị
Lục Địa quyết định phải hành động mau lẹ. Quân lực Hoa Kỳ được gửi đi để đánh
sang Gia Nã Đại, và chiếm được Montreal trong nhiều tháng, nhưng lại không chiếm
được thủ đô Quebec. Khi tăng viện của quân Anh tiến tới sông Saint Laurence thì
quân Mỹ phải rút khỏi Gia Nã Đại.
- Các thuộc
địa Mỹ châu không được người Pháp ở Gia Nã Đại ủng hộ
Các nhà lãnh đạo các thuộc
địa biết rằng người Gia Nã Đại gốc Pháp không ưa người Anh, cho nên Hội Nghị Lục
Địa gửi một phái đoàn đi Montreal để thuyết phục người Gia Nã Đại gốc Pháp trợ
giúp các thuộc địa. Cùng đi với phái đoàn có cả ông Benjamin Franklin, một nhân
vật nổi tiếng về tài thuyết phục. Nhưng nhân dân Montreal cũng không thích gì
người Mỹ. Họ không ưa quân sĩ thô bạo lỗ mãng của thuộc địa chiếm đóng thành phố
của họ. Họ căm giận bọn lính tráng bắt họ phải bán thực phẩm và các phẩm vật
khác để lấy một thứ tiền giấy vô giá trị. Thực ra, nhân dân Montreal càng thấy
quân sĩ lục địa (quân Mỹ), họ lại càng không hăng hái tham gia phong trào tranh
đấu giành độc lập. Sứ mạng cầu viện của phái đoàn thất bại, và những hy vọng
mong được Gia Nã Đại trợ giúp cũng tan biến như mây khói.
Từ đó hai lãnh
thổ Anh ở Bắc Mỹ đi theo hai chiều hướng khác biệt. Mười ba thuộc địa tranh đấu
giành độc lập, trong khi Gia Nã Đại vẫn tiếp tục là lãnh thổ của Anh quốc.
- Những
người thuộc địa trung thành (với Anh quốc) đi Nova Scotia
Dù rằng Gia Nã Đại không
liên kết với các thuộc địa nhưng cũng bị ảnh hưởng sâu xa bởi cuộc cách mạng Hoa
Kỳ. Như các bạn đã thấy rằng không phải mọi người trong mười ba thuộc địa đều
ủng hộ việc tranh đấu giành độc lập tách rời khỏi mẫu quốc. Có lẽ có tới một
phần ba dân thuộc địa là những người trung thành đứng về phía Anh quốc. Sau khi
chiến tranh chấm dứt, người ta vẫn còn căm thù những người trung thành này. Một
số người trung thành trở lại Anh quốc. Tuy nhiên vẫn còn có nhiều người ở lại Mỹ
châu. Tại sao họ lại không đi đến lãnh thổ của Anh quốc ở về phía Bắc? Chính phủ
Anh tại Gia Nã Đại sẵn sàng đón nhận và thu xếp công việc chuyển vận họ. Họ sẽ
được cấp phát ruộng đất, dụng cụ và các đồ tiếp liệu hằng ngày để có thể khởi
lập lại cuộc đời.
Sau khi thỏa
hiệp hòa bình được ký kết vào năm 1783, nhiều người trung thành lũ lượt lên tàu
ở Nữu Ước để đi về quê hương mới. Có cả những nhà quý tộc ăn mặc sang trọng mang
theo cả nô lệ và tài sản mà họ có thể mang đi được. Cũng có những thương gia,
bác sĩ, luật sư, quân nhân, công nhân và nông dân. Đợt di cư của những người
trung thành này khiến cho Hoa Kỳ mất đi nhiều người giàu có nhất và học thức
nhất.
Ba chục ngàn
người tỵ nạn khỏe mạnh không nhà lên tàu thuyền đi Nova Scotia. Đoàn tàu tỵ nạn
tiến vào bỏ neo ở Halifax, thành phố thủ đô của Nova Scotia. Bạn hãy tưởng tượng
thành phố vốn đã đông đúc từ trước,bây giờ lại phải chứa thêm hàng ngàn người
cần phải có lương thực, nhà ở và đất đai cho họ sinh nhai. Chẳng bao lâu, những
người trung thành này được cấp phát đất đai, và họ tản mát đi lập các làng định
cư và đốn cây ở các vùng đất phì nhiêu để trồng tỉa ở Nova Scotia. Một số người
đi New Brunswick, thẳng tới phía Bắc của tiểu bang Maine ngày nay, và tới gần
đảo Prince Edward. Không bao lâu, Nova Scotia và các vùng đất phụ cận trở thành
thuộc địa của Anh quốc.
- Những
người trung thành khác tới Gia Nã Đại bằng đường bộ
Trong thời kỳ cách mạng,
nhiều người trung thành (với Anh quốc) từ các vùng phía Tây ở các thuộc địa di
chuyển sang Gia Nã Đại. Sau khi chiến tranh chấm dứt, tiểu bang New York có tới
chừng 10 ngàn người vượt biên giới chạy sang Gia Nã Đại. Phần lớn những người
này định cư ở phía Bắc hồ Ontario và dọc theo thượng lưu sông Saint Laurence ở
phía Tây Montreal. Vùng đất này từng là một phần của tỉnh Quebec của người Pháp
ngày trước. Những người dân định cư mới này được chính phủ Anh cấp phát đất đai,
dụng cụ, và chẳng bao lâu những căn nhà gỗ mọc lên và làng thôn mở rộng tới vùng
hoang vu.
- Những
người nói tiếng Anh khởi lập Gia Nã Đại thuộc Anh
Hẳn các bạn còn nhớ dân cư
ở Tân Pháp rất thưa thớt. Vào lúc người Anh làm chủ vùng lãnh thổ này, dân số ở
đây chỉ có chừng 80 ngàn. Các bạn sẽ dễ dàng thấy rằng nhiều ngàn người trung
thành từ Hiệp chủng quốc chạy sang làm gia tăng dân số ở đây. Ngoại trừ ở phía
Đông tỉnh Quebec ngày xưa ra, người Pháp không còn chiếm đa số dân ở Tân Pháp
nữa. Hơn nữa lại có thêm số lớn người nói tiếng Anh tiếp tục đổ xô tới Gia Nã
Đại. Nhiều người Hoa Kỳ ở vùng biên cương tiến tới vùng Ngũ đại hồ vào hồi đầu
thế kỷ thứ XIX. Cũng có nhiều người từ quần đảo Anh cũng di cư đến nữa. Cho nên
chúng ta có thể nói rằng cuộc cách mạng Hoa Kỳ đã đưa đến việc khởi lập Gia Nã
Đại thuộc Anh như ngày nay.
- Dân Gia Nã
Đại nói tiếng Anh đòi được hưởng thêm nhiều quyền tự do
Cuộc cách mạng Hoa Kỳ còn
ảnh hưởng sang quốc gia láng giềng ở phía Bắc về một phương diện khác. Người Anh
ở tỉnh Quebec không hài lòng sống theo luật pháp áp dụng cho những người Gia Nã
Đại gốc Pháp. Họ mong mỏi có một loại chính phủ giống như loại chính phủ ở các
thuộc địa Mỹ trước kia mà họ có thể tuyển chọn đại diện vào đó. Mặt khác, dân
Gia Nã Đại gốc Pháp sinh sống ở phía Đông tỉnh Quebec muốn duy trì ngôn ngữ
phong tục tập quán của họ. Họ rất ít chú ý đến việc tham dự vào chính quyền. Anh
quốc phải làm thế nào để hài lòng cả dân Gia Nã Đại gốc Pháp lẫn gốc Anh?
Năm 1791, Anh
quốc quyết định chia tỉnh Quebec ngày xưa làm hai tỉnh gọi là Thượng Gia Nã Đại
và Hạ Gia Nã Đại. Thượng Gia Nã Đại là phần đất phía Tây của tỉnh Quebec ngày
xưa, nơi mà nhiều người trung thành đến định cư. Hạ Gia Nã Đại là nơi mà đa số
người Pháp sinh sống. Mỗi tỉnh có một chính quyền riêng biệt. Đứng đầu mỗi tỉnh
là một vị Thống đốc do Anh quốc bổ nhậm. Mỗi vị Thống đốc lại chọn một số người
kỳ mục có uy tín vào Hội đồng chính phủ. Đồng thời, dân trong tỉnh cũng bầu một
số người vào một hội đồng khác. Dĩ nhiên là người Anh ở Thượng Gia Nã Đại rất
hài lòng với sự xếp đặt này. Đồng thời, Anh quốc cũng hy vọng người Pháp ở Hạ
Gia Nã Đại dần dần cũng học hỏi người Anh để tham dự vào chính quyền.
¨
PHẦN HAI
GIA NÃ
ĐẠI GIÀNH ĐƯỢC QUYỀN TỰ TRỊ BẰNG MỘT
CUỘC
CÁCH MẠNG HÒA BÌNH
Chẳng bao lâu,
người Gia Nã Đại trở nên bất mãn với Tân chính phủ của họ, và sau đó là xảy ra
sự bất hòa giữa dân chúng Gia Nã Đại và Anh quốc. Thực ra, trong thế kỷ thứ XIX,
cuộc bất hòa này đã đưa đến việc cải tiến trong chính phủ. Cách mạng không cần
thiết phải có chiến tranh và đổ máu. Có thể tiến tới cách mạng một cách ôn hòa.
Trong phần này, chúng ta sẽ tìm hiểu nhân dân Gia Nã Đại đã thực hiện cuộc cách
mạng ôn hòa như thế nào để đạt được quyền tự trị.
- Kế hoạch
của chính phủ Anh để kềm chế Gia Nã Đại
Các chính phủ của Thượng và
Hạ Gia Nã Đại đều không cho dân chúng hưởng quyền tự trị như ở 13 thuộc địa Anh
trước kia (Hiệp Chủng Quốc). Những người cầm quyền ở Anh quốc cho rằng những lầm
lẫn đắt giá trước kia đã đưa đến việc mất 13 thuộc địa. Cho nên họ không muốn
những lầm lẫn này tái diễn ở Gia Nã Đại nữa. Quốc hội Anh sẽ không đánh thuế một
thuộc địa nào nữa.
Nhưng các nhà
lãnh đạo tại Anh cũng cho rằng “Chúng ta đã mất 13 thuộc địa không phải chỉ vì
chúng ta đã đánh thuế ở 13 thuộc địa này, mà còn vì chúng ta đã cho các thuộc
địa này quá nhiều tự do để điều hành công việc nội bộ. Chúng ta phải kềm chế
thuộc địa còn lại ở Mỹ châu của chúng ta khiến cho thuộc địa này sẽ không còn có
cơ hội nào để nổi loạn nữa. Chúng ta sẽ cho phép dân chúng ở đây bầu các hội
đồng lập pháp, chúng ta sẽ ban bố cho họ quyền đánh thuế để điều hành chính
quyền. Nhưng hội đồng lập pháp sẽ không có đầy đủ quyền hành để làm luật. Vị
Thống đốc do Anh quốc bổ nhậm và Hội Đồng quản trị do vị Thống đốc chọn lựa sẽ
kiểm soát chính quyền tỉnh hạt. Bằng cách như vậy thì dân chúng Gia Nã Đại sẽ
không có khái niệm về quyền tự do và tự trị”.
- Dân Gia Nã
Đại đòi hỏi phải cải cách trong chính phủ
Được ít lâu, dân Gia Nã Đại
ở các tỉnh đều nhận thức được rằng viên thống đốc và Hội đồng quản trị của ông
ta nắm thực quyền kiểm soát chính phủ. Những người cầm quyền ở đây rất ít chú ý
tới nguyện vọng của Hội đồng lập pháp. Họ điều hành chính quyền theo ý riêng của
họ và tuân hành chỉ thị của mẫu quốc, chứ không phải là theo ý muốn của dân
chúng Gia Nã Đại. Nói một cách khác, chính quyền các tỉnh không chịu trách nhiệm
với dân chúng Gia Nã Đại. Dần dần dân chúng bắt đầu đòi phải có điều mà họ gọi
là chính quyền có trách nhiệm. Họ mong muốn có hội đồng lập pháp do họ bầu lên
phải có thực quyền để điều hành mọi công việc trong tỉnh hạt. Họ cũng mong muốn
Anh quốc để cho họ có nhiều tự do hơn để điều hành công việc nội bộ của họ.
Tại Hạ Gia Nã
Đại, nơi mà người Anh và người Pháp cùng sinh sống trong cộng đồng, dân chúng
càng chống đối viên thống đốc và Hội đồng quản trị dữ dội hơn. Người Pháp (dân
Gia Nã Đại gốc Pháp) lại sợ rằng chính phủ Anh bắt họ nói tiếng Anh và phải sống
theo phong tục tập quán của người Anh, điều mà họ không bao giờ chấp nhận được.
Họ là những người Pháp và họ nhất định duy trì ngôn ngữ, phong tục, tập quán của
người Pháp. Vì người Pháp chiếm đa số trong Hội đồng lập pháp, nếu họ không
thích kế hoạch của vị thống đốc, họ sẽ không bỏ phiếu để chấp thuận thuế khóa
điều hành chính quyền. Một vài vị lãnh tụ nóng nảy kêu gọi nổi loạn.
Mối bất hòa ở
Thượng Gia Nã Đại không phải là mối bất hòa giữa người Pháp và người Anh. Thực
ra, đó là mối bất hòa giữa những người mong muốn có chính quyền trách nhiệm và
những người giàu có có thế lực trong chính quyền muốn duy trì chính quyền như
vậy. Khi mối bất hòa càng trở nên dữ dội, các lãnh tụ cải cách kêu gọi dân chúng
nổi loạn, nếu những ý nguyện của họ không được thỏa mãn. Người ta đã nói rất
nhiều đến việc giành độc lập. Năm 1837 có nhiều biến cố bùng nổ. Dân chúng nổi
loạn và có đụng độ giữa những người nổi loạn với nhân viên của chính quyền. Tuy
nhiên, chẳng được bao lâu thì các cuộc nổi loạn này bị quân đội của chính phủ
dập tắt.
- Lord
Durham đề nghị thay đổi trong chính phủ Gia Nã Đại
Những cuộc nổi loạn và lòng
phẫn uất của dân chúng khiến cho chính phủ Anh xúc động mạnh. Tại Anh, những
người khôn ngoan nói “Đường lối hiện tại của chúng ta ở Gia Nã Đại đã thất bại.
Chúng ta phải làm cái gì khác hơn nếu không thì chúng ta sẽ mất các tỉnh này như
chúng ta từng mất 13 thuộc địa trước kia….”. Vì vậy cho nên Anh quốc cho gửi một
chính khách tài ba, khôn ngoan là Lord Durham sang Gia Nã Đại để nghiên cứu tình
hình, và nếu cần thì đề nghị phải thực hiện những gì cần thiết để cứu vãn tình
thế.
Bản tường trình
của Lord Durham cho thấy rõ Anh quốc cần phải thay đổi thái độ không những đối
với Gia Nã Đại, mà còn đối với tất cả các thuộc địa ở trên thế giới. Ông cảnh
cáo rằng Anh quốc phải từ bỏ ý niệm cho rằng các thuộc địa phải tồn tại cho
quyền lợi của mẫu quốc. Ông nói rằng các vị đại diện do dân chúng bầu vào Hội
đồng Lập pháp phải có nhiều quyền hành hơn. Lord Durham tin tưởng rằng chỉ có
một cách duy nhất để giữ các tỉnh Gia Nã Đại ở trong đế quốc Anh là phải ban bố
cho dân chúng ở đây đầy đủ những quyền tự do như những người dân ở chính quốc
Anh được hưởng. Nói một cách khác là phải có chính phủ có trách nhiệm. Ông cũng
đề nghị rằng phải thống nhất hai tỉnh Gia Nã Đại lại dưới quyền điều hành của
một chính phủ duy nhất.
- Gia Nã Đại
tiếp nhận chính quyền có trách nhiệm
Sau bản tường trình của
Lord Durham được ít lâu thì Thượng và Hạ Gia Nã Đại hợp nhất thành một tỉnh dưới
quyền cai trị của một vị thống đốc. Tuy nhiên, phải mất nhiều năm sau đó Anh
quốc mới chịu để Gia Nã Đại có chính phủ có trách nhiệm. Sau cùng, vào năm 1846,
chính phủ có trách nhiệm được thành lập ở Gia Nã Đại. Viên Thống đốc bổ nhậm
đảng viên của đảng nào kiểm soát được Hội đồng Lập pháp vào Hội đồng Quản trị.
Và Hội đồng Quản trị này quyết định mọi chính sách của chính phủ. Như vậy, nhân
dân Gia Nã Đại đã giành được quyền kiểm soát các công việc của họ ngoại trừ một
số các vấn đề như quốc phòng, ngoại thương, và việc ký các thỏa hiệp (với ngoại
quốc). Quốc hội Anh vẫn còn nắm quyền kiểm soát các vấn đề này.
Chính phủ có
trách nhiệm với dân chúng ở Gia Nã Đại đã thực hiện được mà không cần phải có
chiến tranh. Ngay khi dân chúng Gia Nã Đại thỏa mãn được các đòi hỏi thì mọi
cuộc bàn luận về việc giành độc lập cũng không còn nữa. Anh quốc cũng tin tưởng
rằng dân chúng trong các tỉnh Gia Nã Đại có đủ khả năng để tự trị. Về phần nhân
dân Gia Nã Đại thì họ cũng tỏ ra trung thành và quý mến mẫu quốc.
¨
PHẦN BA
CÁC
THUỘC ĐỊA TÂY BAN NHA ĐÃ TRANH ĐẤU NHƯ THẾ NÀO ĐỂ GIÀNH ĐỘC LẬP?
Đầu thế kỷ thứ
XIX, trước khi Gia Nã Đại có chính quyền có trách nhiệm với dân chúng, cũng có
nhiều biến cố sôi sục ở các thuộc địa Tây Ban Nha. Cuộc nổi dậy ở các thuộc địa
Tây Ban Nha khiến cho chúng ta nhớ lại một vài khía cạnh của cuộc nổi dậy ở các
thuộc địa Anh. Các thuộc địa Anh cũng như các thuộc địa Tây Ban Nha đều bất bình
chống lại mẫu quốc chỉ vì những luật lệ điều hành thương mại và thuế khóa. Các
thuộc địa Anh cũng như các thuộc địa Tây Ban Nha đều phải chiến đấu và phải trải
qua những trận đánh dữ dội đẫm máu mới giành được độc lập.
Tuy nhiên,
trong cuộc tranh đấu giành độc lập, các thuộc địa trên đây có nhiều sự khác
biệt. Các thuộc địa Tây Ban Nha gặp nhiều khó khăn hơn là các thuộc địa Anh:
1. Mười ba
thuộc địa Anh nằm trọn trong một giải đất hẹp dọc theo vùng duyên hải. Trong khi
đó lãnh thổ của các thuộc địa Tây Ban Nha chiếm gần hầu hết Nam Mỹ, Trung Mỹ, Mễ
Tây Cơ, và một phần đất mà ngày nay thuộc về Hiệp Chủng Quốc.
2. Trong các
thuộc địa Tây Ban Nha, nhiều nơi có các dãy núi cao và các rừng rậm ngăn cách
các làng định cư. Các bạn có thể mường tượng sự khó khăn trong việc gửi các
thông điệp hay di chuyển quân đội từ nơi này tới nơi khác.
3. Một sự khác
biệt nữa là sự khác biệt trong các chính quyền. Dân thuộc địa Anh được hưởng một
số quyền tự do, và về nhiều phương diện họ được hưởng quyền tự trị. Nhưng ở các
thuộc địa Tây Ban Nha, dân chúng quằn quại dưới ách thống trị sắt máu của hoàng
đế Tây Ban Nha. Họ không có một cơ hội nào để được hưởng quyền tự trị. Mặc dầu
những khó khăn trên đây, nhân dân các thuộc địa Tây Ban Nha đã giành được độc
lập. Chúng ta phải công nhận rằng họ đã hoàn thành được một kỳ công tuyệt vời.
s
CÁC THUỘC ĐỊA TÂY BAN NHA CÓ NHỮNG LÝ DO ĐỂ NỔI LOẠN
- Dân thuộc địa
Tây Ban Nha đã chịu đau khổ như thế nào?
Trong chương III, chúng ta
đã biết rằng Tây Ban Nha kiểm soát các công việc mậu dịch ở các thuộc địa rất
gắt gao. Càng ngày, những người sinh sống bằng nghề buôn bán càng trở nên căm
giận những luật lệ thương mại của chính quyền. Nhưng có lẽ người Creoles (người
Tây Ban Nha sinh đẻ ở Tân thế giới) là những người kêu than dữ dội nhất. Các
chức vị quan trọng ở chính quyền thuộc địa cũng như ở trong giáo hội đều lọt vào
tay người Tây Ban Nha (sinh đẻ ở Tây Ban Nha). Người Tây Ban Nha khinh rẻ những
người Creoles như là những người hạ cấp. Thật là dễ hiểu tại sao người Creoles
xuất thân từ các gia đình tử tế và có trình độ học vấn cao đã chống lại thái độ
của người Tây Ban Nha.
Ngoài ra còn có
nhiều nỗi thống khổ phiền muộn khác nữa. Nhiều dân thuộc địa tin rằng đã đến lúc
nhân dân có quyền nói lên tiếng nói về phương cách điều hành việc cai trị đất
nước. Đối với Tây Ban Nha, những tư tưởng như vậy hình như là nguy hiểm và phải
cố gắng ngăn chặn tư tưởng này để khỏi lan rộng ra các thuộc địa. Dân thuộc địa
không được phép mua sách báo ngoại trừ trường hợp được chính quyền Tây Ban Nha
chấp thuận. Không một ấn phẩm nào về cuộc cách mạng Hoa Kỳ được phép lưu hành ở
trong các thuộc địa Tây Ban Nha. Thật ra, nếu không có phép đặc biệt, thì không
một dân thuộc địa Tây Ban Nha nào được phép đi sang Hoa Kỳ viếng thăm hay du
lịch, vì sợ rằng người ta sẽ đem các tư tưởng độc lập về nói lại ở trong các
thuộc địa.
- Các cuộc
cách mạng Pháp và Hoa Kỳ ảnh hưởng vào các thuộc địa Tây Ban Nha
Dù rằng có những luật lệ
khắt khe như vậy, tin tức từ khắp nơi trên thế giới vẫn có thể lọt vào trong các
thuộc địa Tây Ban Nha. Dân chúng ở đây cũng biết rằng hiện thời các thuộc địa
của Anh ở Mỹ châu đã được độc lập. Họ cũng được biết về cuộc đại cách mạng bùng
nổ và lan tràn khắp nước Pháp vào năm 1789. trong thời kỳ cách mạng, người dân
Pháp đã đạp đổ ách thống trị của nhà vua và của bọn quý tộc để thành lập nền
Cộng hòa. Tin tức như vậy truyền từ người này sang người khác ở trong các thuộc
địa Tây Ban Nha và được nhiều người hăng say bàn cãi. Nếu dân tộc của các quốc
gia khác đã đập tan xiềng xích trói buộc họ thì tại sao nhân dân các thuộc địa
Tây Ban Nha lại không thể đứng lên làm như vậy? Thanh niên Creoles du học ở Âu
châu trở về bắt đầu tích cực tranh đấu cho độc lập. Nhiều hội kín được tổ chức ở
nhiều nơi trong các thuộc địa để tiến hành cách mạng chống lại Tây Ban Nha. May
mắn cho các thuộc địa là vào đầu thế kỷ thứ XIX, Tây Ban Nha bị lôi cuốn vào các
cuộc chiến tranh ở Âu châu cho nên quốc gia này không đủ thời giờ chú ý đến các
thuộc địa ở Mỹ châu. Các thuộc địa đã chọn đúng lúc này để quật khởi.
s
MỄ TÂY CƠ THIẾT LẬP NỀN ĐỘC LẬP
- Linh mục
Hidalgo khởi đầu công cuộc trường kỳ tranh đấu cho nền độc lập của Mễ Tây Cơ
“Viva la Independencia”
(Độc lập muôn năm). Những từ ngữ trên đây đã gây xúc động mạnh do vị linh mục
Miguel Hidalgo, một vị tu sĩ ở trong một làng Mễ Tây Cơ tên là Dolores, hô lên.
Hidalgo đã hy sinh suốt đời để giúp đỡ và dạy dỗ dân da đỏ ở Mễ Tây Cơ, những
người dân lê kiếp đọa đày dưới ách thống trị của Tây Ban Nha. Ông đã thiết lập
kế hoạch bí mật để quật khởi chống lại bọn thống trị Tây Ban Nha ở Mễ Tây Cơ.
Linh mục Hidalgo hy vọng rằng nếu Mễ Tây Cơ được độc lập thì sẽ cải thiện được
kiếp sống khốn cùng của người da đỏ.
Khẩu hiệu
“Tiếng thét của nhân dân Dolores” của Hidalgo đã thúc giục đồng bào da đỏ tiến
lên con đường cách mạng. Mặc dầu lúc đầu quân cách mạng chiếm giữ được nhiều thị
trấn, nhưng vì quân sĩ da đỏ thiếu huấn luyện nên đã không thể nào chống cự nổi
được với quân đội Tây Ban Nha được gửi đến đàn áp. Quân cách mạng bị đánh bại,
Hidalgo bị bắt và bị hành hình. Đầu ông được đặt trong chiếc lồng sắt mang đi
khắp các đường phố để cảnh cáo những người nào khác có ý định quật khởi chống
lại Tây Ban Nha.
Nhưng cách mạng
đã không ngừng lại với cái chết của Hidalgo. Hàng ngàn người trốn vào các vùng
núi để tiếp tục chiến đấu dưới sự điều khiển của các nhà lãnh đạo mới. Nhiều
người mestizos (những người Tây Ban Nha lai da đỏ) lên đường theo loạn quân
(cũng có thể gọi là quân cách mạng). Qua nhiều năm trường gian khổ, quân cách
mạng tiếp tục chiến đấu, tấn kích bất ngờ vào các thị trấn rồi rút lui vào trong
các vùng đồi núi.
- Người
Creoles tiếp tục phong trào tranh đấu giành độc lập và đạt được thắng lợi
Nếu chỉ có người da đỏ và
người mestizos ở Mễ Tây Cơ chiến đấu không thôi thì cuộc chiến giành độc lập có
lẽ đã chẳng bao giờ thành công được. Những người Creoles đã theo dõi cuộc đấu
bất cân xứng giữa loạn quân và người Tây Ban Nha, và đã chụp lấy cơ hội để giành
quyền kiểm soát chính quyền Mễ Tây Cơ. Họ chuẩn bị tham gia vào loạn quân, và
khi công cuộc tranh đấu giành độc lập đã hoàn toàn thắng lợi thì họ chiếm lấy
chính quyền cho chính họ.
Một vị sĩ quan
trẻ tuổi người Creoles đầy tham vọng tên là Agustin de Iturbide cầm đầu kế hoạch
này. Họ đánh lừa các lãnh tụ người da đỏ nhận trợ giúp của họ. Liên kết với lực
lượng của người da đỏ, người Creoles đánh chiếm thị trấn Mexico và buộc người
Tây Ban Nha phải ra đi. Sau khi Iturbide và quân sĩ của ông tuyên bố Mễ Tây Cơ
độc lập vào năm 1821 thì họ không dùng những người da đỏ trong chính quyền nữa.
- Mễ Tây Cơ
và Trung Mỹ giành độc lập
Iturbide không quan tâm đến
những tư tưởng dân chủ. Ông muốn chính ông và người Creoles kiểm soát chính
quyền. Cho nên cuộc cách mạng vào lúc khởi đầu đã được dân da đỏ nhiệt liệt ủng
hộ nhưng lại tan đi vào khi Iturbide lên ngôi hoàng đế xứ Mễ Tây Cơ. Tuy nhiên,
nhiều người Creoles không ưa ý đồ của hoàng đế cho nên sau đó chừng một năm,
Iturbide bị đưa đi đày. Cuối cùng sau 14 năm trường chiến đấu, nền cộng hòa Mễ
Tây Cơ được thành lập vào năm 1824. Cũng vào lúc này, các tỉnh ở các thuộc địa
khác của Tây Ban Nha, nơi mà ngày nay gọi là Trung Mỹ, cũng tuyên bố độc lập.
s
BOLIVAR VÀ SAN MARTIN GIẢI PHÓNG NAM MỸ
Trong khi nhân dân Mễ Tây
Cơ tiến hành cách mạng chống lại Tây Ban Nha thì ở Nam Mỹ cũng xảy ra nhiều biến
cố quan trọng. Nói về nền độc lập của Nam Mỹ là nói về câu chuyện của ba nhà đại
lãnh tụ Miranda, Bolivar và San Martin.
- Miranda,
người cha đẻ của cách mạng ở Venezuela
Francis Miranda chào đời ở
Venezuela, và lớn lên đã hy sinh gần trọn đời cho chính nghĩa tự do của nhân dân
Nam Mỹ. Một thời ông đã từng sống ở Âu châu. Và cũng tại Âu châu, ông đã đi thăm
nhiều nước để yêu cầu các chính quyền các quốc gia này viện trợ cho ông trong
cuộc tranh đấu giành độc lập cho quê hương. Sau khi Hoa Kỳ giành được tự do,
ông cũng kêu gọi Hiệp Chủng Quốc viện trợ. Miranda cũng tổ chức những người
Creoles đã từng đi du học ở Âu châu về tham gia vào một hội đoàn ái quốc. Những
bài diễn văn nảy lửa của ông đã lôi cuốn được nhiều thanh niên lên đường gia
nhập tổ chức tranh đấu giành độc lập. Khi trở về Venezuela lãnh đạo phong trào
cách mạng chống lại Tây Ban Nha thì Miranda đã già rồi. Ông già Miranda với mái
đầu bạc trắng đi trên đường phố Caracas được dân chúng tung hô nhiệt liệt. Tuy
nhiên, chỉ một năm sau đó một trận động đất ghê gớm đã tàn phá Caracas và chấm
dứt công trình cách mạng của ông. Người Tây Ban Nha bắt giam ông và ông từ giã
cõi đời ở trong nơi tù ngục của bọn thống trị Tây Ban Nha.
- Bolivar
trở thành nhà lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân Venezuela
Bây giờ thì chúng ta nói
tới nhân vật khiến cho nhiều người thích thú nhất trong trang sử vùng đất này.
Người dân Nam Mỹ sẽ mãi mãi ghi nhớ và kính mến người thanh niên trẻ tuổi Simon
Bolivar. Bolivar đã trở thành một người tiêu biểu cho tự do đối với nhân dân Nam
Mỹ giống như George Washington đối với nhân dân Hiệp chủng quốc.
Bolivar là con
một gia đình Creoles giàu có thế lực ở Caracas. Ông là một thanh niên chững chạc
đẹp trai, có dáng người mảnh khảnh và đôi mắt đen sáng ngời. Giống như những
thanh niên Creoles khác, Bolivar được đào luyện thành một quân nhân. Lớn lên,
ông kết hôn với một thiếu nữ trẻ đẹp Tây Ban Nha, nhưng hạnh phúc gia đình của
ông đã vong yểu vì cái chết đau thương bất ngờ của người vợ kiều diễm. Thấy cuộc
sống không còn hứng thú, Bolivar quyết định đi Âu châu. Cũng tại Âu châu, ông
gặp Miranda và bị khích động bởi lòng nhiệt thành của vị lão thành yêu nước
Miranda. Ông quyết định hy sinh cuộc đời còn lại để giải phóng quê hương yêu
dấu. Đó cũng là lời thề của Bolivar mà chúng ta đã ghi ở đầu chương X này. Sau
này, khi Miranda qua đời, ông trở thành vị lãnh tụ của các nhà cách mạng ở
Venezuela.
- Bolivar giành
được độc lập cho nhân dân vùng phía Bắc Nam Mỹ
Bolivar gặp rất ít trở ngại
trong việc thu thập một đạo quân cách mạng để chiến đấu chống lại người Tây Ban
Nha. Ông có sức quyến rũ tự nhiên và dễ dàng lôi cuốn người ta theo con đường
cách mạng do ông hướng dẫn. Ông thu thập được một đạo quân hai ngàn một trăm
chiến binh. Nhiều người trong đoàn quân này đã từng là những người cao bồi bất
khuất ở vùng đồng bằng Venezuela. Thấy rằng quân đội Tây Ban Nha còn quá mạnh
so với lực lượng của ông, Bolivar quyết định một nước liều. Ông dẫn đoàn quân
của ông băng qua dãy núi Andes cao chót vót tiến vào xứ Colombia kế cận. Ông đã
làm cho quân Tây Ban Nha ở đó bất ngờ và đánh bại được đạo quân này.
Bấy giờ Bolivar
mới tin rằng quân lực của ông đã đủ mạnh để trở lại chiến đấu chống lại quân Tây
Ban Nha ở ngay tại Venezuela. Năm 1821, trong một trận ác chiến, quân đội của
ông đánh cho quân Tây Ban Nha phải đào tẩu ra khỏi vùng phía Tây quốc gia
Venezuela. Không bao lâu, toàn thể vùng phía Bắc Nam Châu Mỹ giải thoát được ách
thống trị của người Tây Ban Nha. Bolivar đi đến đâu cũng được hoan hô cuồng
nhiệt. Để tỏ lòng ghi nhớ công ơn của ông, dân chúng đặt cho ông biệt danh
“Người giải phóng”. Tuy nhiên, Bolivar còn cảm thấy rằng ông vẫn chưa hoàn thành
sứ mạng. Còn nhiều thuộc địa khác vẫn còn đang chiến đấu cho tự do. Ông cho rằng
ngày nào mà chưa đánh bại được quân thù chưa chiếm được hết các đồn lũy Tây Ban
Nha, và quân Tây Ban Nha chưa bị đánh đuổi ra khỏi Nam Mỹ thì không có phần đất
nào của Nam Mỹ được độc lập. Giai đoạn kế tiếp của ông là phải đánh bại đạo quân
hùng mạnh của Tây Ban Nha ở Peru.
- San Martin
trở thành nhà lãnh đạo ở miền Nam (Nam Mỹ)
Trong sứ mạng mới này,
Simon Bolivar được nhà lãnh tụ khác là Jose de San Martin đến cộng tác. San
Martin chào đời ở Argentina. Dù là ông đã từng phục vụ trong quân đội Tây Ban
Nha hàng 20 năm trời, nhưng ông vẫn yêu mến quê hương. Sau cuộc quật khởi của
nhân dân Argentina lật đổ chính quyền Tây Ban Nha (năm 1810) được ít lâu, San
Martin hồi hương tham gia quân đội khởi nghĩa. Dù rằng quê hương ông đã được
giải phóng, nhưng, cũng như Bolivar, San Martin cho rằng phải đánh bại quân đội
Tây Ban Nha ở toàn thể Nam Mỹ châu.
- San Martin
giải phóng Chí Lợi
Chí Lợi và Peru vẫn còn
quằn quại dưới ách thống trị của người Tây Ban Nha. San Martin đặt vấn đề là tại
sao không vượt dãy núi Andes tới Chí Lợi để giải phóng quốc gia này rồi dùng
đường biển tiến vào tấn công Peru? Ông hạ lệnh luyện quân và thu thập các đồ
quân nhu, quân cụ và lương thực để thi hành sứ mạng khó khăn này. Sau khi Tây
Ban Nha đánh bại cuộc khởi nghĩa của nhân dân Chí Lợi, nhều nhà ái quốc Chí Lợi
lên đường gia nhập quân lực của ông. Sau 3 năm chuẩn bị, đạo quân của núi Andes
lên đường tiến công. Quân sĩ phải ra công di chuyển các đại pháo và các đồ trang
bị qua các ngọn núi cao phủ đầy tuyết. Họ phải dùng các xe trượt tuyết để kéo
đại pháo qua các vùng tuyết phủ và băng qua các cầu bắc ngang qua suối. Họ phải
dùng cả giày cho lừa nữa. Phải trèo ngược lên ngọn núi cao để tiến xuống Chí
Lợi. Cuộc tiến quân này quả là một trong những chiến công quân sự vĩ đại nhất
trong lịch sử. Cuộc tấn công bất ngờ của San Martin đã thành công, và chỉ một
năm sau đó, đất nước Chí Lợi được hoàn toàn giải phóng thoát khỏi ách thống trị
của người Tây Ban Nha.
- San Martin
tiến vào Peru
Sau khi đánh bại được quân
Tây Ban Nha ở Chí Lợi, San Martin tính đến việc thi hành giai đoạn 2 của kế
hoạch. Năm 1821, ông đem quân đổ bộ vào vùng bờ biển ở phía Bắc thành phố Lima,
thủ đô của Peru. Trong khi quân đội Tây Ban Nha lui sâu vào nội địa thì quân đội
của ông tiến vào Lima. Nhân dân thủ đô Lima nhiệt liệt chào mừng ông. Ngay sau
đó, Peru tuyên bố độc lập. Tuy nhiên, San Martin cho rằng tự do chỉ thật sự hoàn
toàn thắng là khi nào đã hoàn toàn tiêu diệt được lực lượng hùng mạnh của Tây
Ban Nha ở Peru. Ông cũng hiểu rõ rằng hiện thời ông chưa có đủ quân để đánh bại
được Tây Ban Nha.
- San Martin
từ chức nhượng quyền cho Bolivar
Trong khi đó thì Bolivar
đem quân tiến vào phía Nam. Được tin này, San Martin thu xếp hợp cùng Bolivar để
bàn luận về kế hoạch đánh bại hoàn toàn quân Tây Ban Nha. Không ai biết rõ được
những gì xảy ra trong cuộc họp này. Cả hai người cùng đều muốn rằng toàn thể Nam
Mỹ phải được độc lập. Nhưng Bolivar là người nhiều tham vọng, thèm khát những
vinh quang và tiếng tăm lừng lẫy. Mặt khác, San Martin không có tham vọng để trở
nên nổi tiếng. Bolivar đã thuyết phục San Martin giữ quân đội ở Peru và để cho
ông hoàn thành sứ mạng hành quân này. Dù sao đi nữa, vào lúc chiến thắng đã ở
trong tầm tay, San Martin, con người đã có công rất nhiều cho chính nghĩa độc
lập của đất nước giờ đây lại từ giã Peru. Sau đó, ông đi Âu châu và tiêu dao
ngày tháng của cuộc đời còn lại ở trên phần đất này.
- Chính
quyền Tây Ban Nha ở Nam Mỹ bị chấm dứt
Với hai đạo quân hợp nhất
dưới quyền chỉ huy của ông, Bolivar đoạt được chiến công một cách mau lẹ. Năm
1824, ông đánh bại được quân đội hùng mạnh cuối cùng của Tây Ban Nha trong trận
đánh Ayacucho. Chiến thắng này không những giải phóng được Peru mà còn hoàn
thành nền độc lập cho toàn thể thuộc địa Tây Ban Nha ở Nam Mỹ. Giấc mơ của
Miranda, Bolivar và San Martin đã trở thành sự thật.
Sau khi giành
được độc lập, các thuộc địa của Tây Ban Nha trước kia, giờ đây trở thành các
nước cộng hòa tự do với các tổ chức chính quyền theo khuôn mẫu cơ cấu chính
quyền của Hiệp chủng quốc. Dân chúng của mỗi nước cộng hòa tuyển chọn Tổng thống
và bầu các đại biểu vào các cơ quan lập pháp. Tuy nhiên, các tân quốc gia cộng
hòa này phải đương đầu với biết bao nhiêu là khó khăn. Những người đã có công
chiến đấu cho tự do lại không có kinh nghiệm trong việc điều hành chính quyền
như ở 13 thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ trước kia. Trước khi hiểu được phương cách tự
trị, nhân dân Nam Mỹ phải kéo lê hàng hơn trăm năm, trải qua biết bao nhiêu cơn
binh lửa chiến tranh và cách mạng để rồi lại quằn quại dưới ách thống trị của
các nhà độc tài.
¨
PHẦN BỐN
BA TÂY
ĐÃ GIÀNH ĐƯỢC ĐỘC LẬP NHƯ THẾ NÀO?
Chúng ta chưa nói về chuyện
nước Ba Tây, một quốc gia lớn rộng nhất trong các quốc gia Nam Mỹ. Không giống
như các nước khác ở Nam Mỹ, Ba Tây được người Bồ Đào Nha khám phá và đến định
cư. Ngày nay, dân Ba Tây vẫn còn nói tiếng Bồ Đào Nha. Chúng ta hãy tìm hiểu một
cách tổng quát những biến cố xảy ra ở phần đất này.
- Người Bồ
Đào Nha đòi chủ quyền và định cư ở Ba Tây
Năm 1500, một nhà hàng hải
người Bồ Đào Nha tên là Pedro Cabral từ Bồ Đào Nha theo con đường hàng hải của
Da Gama tới Ấn Độ. Chuyện rằng, một trận bão đã thổi giạt chiếc thuyền bé nhỏ
của ông tới chỗ phình lớn nhất của Nam Mỹ, nơi gần Châu Phi nhất. Vì phần đất
này nằm ở phía Đông đường phân ranh do giáo hoàng vạch ra để phân chia vùng ảnh
hưởng cho 2 quốc gia Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Ông đòi cho Bồ Đào Nha làm chủ
vùng đất này. Vào lúc Bồ Đào Nha đang làm giàu nhờ việc buôn bán với Ấn Độ nên
rất ít chú ý đến phần đất này. Tuy nhiên, cũng có một vài làng định cư được
thiết lập ở Ba Tây.
Không bao lâu,
người Bồ Đào Nha thấy rằng đất đai ở Ba Tây rất phì nhiêu và rất thuận tiện cho
việc trồng mía. Tin này làm cho nhiều người đến đây định cư, và sau đó ít lâu,
có nhiều đồn điền sản xuất đường cho phần lớn Âu châu. Ba Tây lúc bấy giờ không
có nhiều dân da đỏ như ở Peru hay Mễ Tây Cơ. Họ du nhập nhiều người da đen từ
Phi Châu tới để làm việc ở các đồn điền. Xứ Ba Tây được đặt dưới quyền cai trị
của một vị thống đốc do hoàng gia bổ nhậm, và được chia làm nhiều quận huyện,
mỗi quận huyện được đặt dưới quyền cai trị của một vị quý tộc Bồ Đào Nha.
Đầu thế kỷ thứ
XIX, có chừng 3 triệu dân ở Ba Tây. Thành phố thủ đô là Rio de Janeiro có chừng
một trăm ngàn dân, và dọc theo vùng bờ biển có nhiều thị trấn. Nhiều mỏ vàng và
kim cương được khai thác ở Ba Tây. Tuy nhiên, phần lớn dân chúng tập trung ở các
đồn điền rộng lớn với nhiều dặm đường trồng mía cùng những nhà máy sản xuất
đường, và nhà cửa của công nhân ở ngay trong đồn điền.
- Ba Tây trở
thành quê hương của hoàng đế Bồ Đào Nha
Ba Tây tranh đấu giành độc
lập nhưng Ba Tây không phải tranh đấu trường kỳ và đổ máu như các thuộc địa Tây
Ban Nha. Năm 1808, vì chiến tranh liên miên tàn phá các quốc gia Âu châu, hoàng
gia Bồ Đào Nha đến cư ngụ tại thành phố thủ đô Ba Tây. Chiến tranh đã khiến cho
hoàng đế John của nước Bồ Đào Nha và hàng trăm nhà quý tộc Bồ buộc phải vượt đại
dương sang Mỹ châu tỵ nạn.
Lúc đầu, dân
thuộc địa rất lấy làm hân hoan và hãnh diện được hoàng gia và các nhà quý tộc
đến cùng sống trên mảnh đất quê hương của họ. Nhưng không được bao lâu thì người
Bồ và người Ba Tây sinh lòng đố kỵ lẫn nhau. Người Bồ vốn quen sống trong cảnh
huy hoàng lộng lẫy của triều đình Âu châu, quay ra khinh rẻ giai cấp thượng lưu
Ba Tây. Về phía dân bản địa Ba Tây thì căm giận hoàng đế John đã ban bố những
chức vụ quan trọng trong chính quyền cho những người Bồ Đào Nha của nhà vua. Cho
nên, dù rằng hoàng đế John đã thực hiện được nhiều công việc hữu ích cho Ba Tây,
nhưng nhân dân Ba Tây cũng bàn luận đến vấn đề Ba Tây giành độc lập để thoát
khỏi ảnh hưởng của Bồ.
- Dom Pedro
không chịu rời Ba Tây
Khi chiến tranh ở Âu châu
chấm dứt, và đời sống ở Âu châu đã trở lại bình thường thì hoàng đế John cùng
với triều đình trở lại Bồ. Nhà vua để lại người con trai còn trẻ là Pedro ở lại
thay nhà vua cai trị t. Nhà vua để lại người con trai còn trẻ là Pedro ở lại
thay nhà vua cai trị Ba Tây. Hoàng tử Dom Pedro là một người đẹp trai nhưng
bướng bỉnh và được nhân dân Ba Tây vô cùng thương mến, vì chính ông rất quan tâm
đến các vấn đề xã hội ở Ba Tây. Khi chính phủ Bồ hạ lệnh cho ông phải hồi hương
thì ông giận dữ và từ chối. Toán quân Bồ Đào Nha cố gắng buộc ông phải hồi hương
nhưng ông đã cưỡng bách được toán quân này phải xuống tàu trở về Âu châu.
- Ba Tây
giành được độc lập
Chính phủ Bồ không chịu
chấp nhận cho Dom Pedro ở lại Ba Tây. Khi hay tin này Dom Pedro xé cờ Bồ ra khỏi
bộ quân phục của ông và la lên rằng “Đã đến lúc phải được độc lập hay là chết!”.
Dân chúng Ba Tây cảm thấy vô cùng phấn khởi trước thái độ thách đố của ông với
Bồ Đào Nha. Năm 1822, Pedro được phong lên làm hoàng đế Ba Tây với vương hiệu là
Pedro I. Cuối năm đó toàn thể quân đội Bồ bị trục xuất ra khỏi Ba Tây và Bồ phải
công nhận nền độc lập Ba Tây. Sau này, người con của Pedro I lên làm vua là
Pedro II, ông được mọi người kính mến. Trong 50 năm trị vì nước Ba Tây, ông đã
thực hiện được biết bao nhiêu công trình tốt đẹp cho dân chúng. Sau này, Ba Tây
trở thành một nước cộng hòa, nhưng nhân dân Ba Tây vẫn còn nhớ công ơn của hoàng
đế Pedro II.
Chúng ta tạm
chấm dứt câu chuyện về tinh thần tự do bắt nguồn từ 13 thuộc địa của Anh ở Bắc
Mỹ lan tràn ảnh hưởng sang các quốc gia kế cận ở Gia Nã Đại cũng như các quốc
gia Trung và Nam Mỹ. Và chúng ta cũng sẽ tìm hiểu tinh thần thân hữu giữa các
quốc gia láng giềng như thế nào trong một chương sau.
Chú thích:
[2]
Các bạn thường quen với cái tên Gia Nã Đại. Chúng tôi dùng danh xưng
“Bắc Mỹ thuộc Anh”. Thật ra toàn thể vùng này mãi đến năm 1867 mới gọi
là “Gia Nã Đại”.
[3]
Con số các vị thẩm phán Tối cao Pháp viện đã thay đổi nhiều lần. Ngày
nay, kể cả chủ tịch Tối cao Pháp viện có tất cả là 9 vị thẩm phán.
[4]
Đảng của ông Jefferson có tên dài là “Cộng Hòa Dân Chủ”. Sau đó được
rút gọn là đảng “Cộng Hòa”. Chúng ta không nên nhầm lẫn với đảng Cộng
hòa ngày nay. Thực ra đảng Cộng hòa thời bấy giờ là tiền thân của đảng
Dân chủ ngày nay.
[5]
Năm 1813, quân Mỹ tràn vào Thượng Gia Nã Đại đốt phá các cong thự trong
thành phố thủ đô, nơi mà ngày nay gọi là Toronto. Quân Anh đốt phá điện
Capitol và Tòa Bạch Ốc để trả thù.
[6]
Chúng ta dùng từ ngữ Đông Bắc tiện hơn là từ ngữ Tân Anh vì các tiểu
bang New York, Pennsylvania và New Jersey ở dọc theo duyên hải Đại tây
dương ở miền Trung cũng bị ảnh hưởng trong sự phát triển thương mại này.
[7]
Chúng ta muốn nói miền Nam cũ là những thuộc địa
miền Nam, và là những tiểu bang trong 13 tiểu bang đầu tiên: Maryland,
Virginia, North và South Carolina và Georgia.
[8]
Năm 1808, Quốc hội thông qua một đạo luật định rằng từ đây sẽ không được
du nhập nô lệ vào Hoa
Kỳ nữa. Nhưng cũng vào thời kỳ
này, số sinh của nô lệ lại gia tăng mau chóng. Dù rằng các tiểu bang
miền Bắc đã hủy bỏ chế độ nô lệ, nhưng vẫn không có luật lệ nào cấm mua
bán nô lệ cả.
[9]
Thành phố Cleaverland được viết lại như thế này “Cleverland”. Không ai
biết chắc là làm thế nào và tại sao người ta lại bỏ đi một chữ “a”.
Chuyện rằng, một ông chủ tờ báo đã bỏ chữ “a” này đi để làm cho ngắn cái
tên này, và cũng là làm cho tựa đề của ông ở trên tờ báo được đẹp hơn.
[10]
Chúng ta nên nhớ rằng vào thời kỳ Hoa Kỳ
mới lập quốc, vì đất đai rẻ cho nên người ta dễ dàng có đất, vì thế mà
những điều kiện bầu cử này cũng không quá khó khăn.
[11]
Để ghi nhớ nước Cộng hòa
có mang cờ con gấu ngắn ngủi, ngày nay ở California, các cột cờ đều mang
hai lá cờ: Cờ Hoa Kỳ
ở trên và cờ có hình con gấu ở dưới.
[12]
Miền Nam đặt tên lại chiếc
tàu Virginia là Merrimac.
[13]
Bản tuyên ngôn giải phóng nô lệ được ban hành vào thời kỳ chiến tranh
dưới thời Tổng thống
Lincoln. Bản tuyên ngôn này không
áp dụng cho những dân nô lệ ở trong các tiều bang nô lệ không ly khai.
Năm 1865, bản tu chính án thứ 13 mới mãi mãi xóa bỏ chế độ nô lệ trong
toàn thể lãnh thổ Hoa Kỳ.
(xem tiếp : Chương XI)
Các bài cùng tập Lịch Sử Hoa Kỳ
▪ 2004-08-15 - LSHK-1- Marco Polo và những chuyện kỳ thú ở Đông phương - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 0000-00-00 - LSHK-1- Marco Polo và những chuyện kỳ thú ở Đông phương - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-2- Magellan tìm ra con đường đi vòng quanh thế giới - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-3- Những Lá Thư Của Phillip Andrew - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-4- Việc Thành Lập 13 Thuộc Địa Anh - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-5- Dân Chúng Sống Ở Thuộc Địa Anh Như Thế Nào? - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-6- Nước Pháp Thắng Rồi Lại Bại - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-7- Người Anh Cai Trị Các Thuộc Địa Như Thế Nào? - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-8- Dân Thuộc Địa Chống Lại Anh Quốc - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2022-07-05 - MƯỜI BA THUỘC ĐỊA ANH GIÀNH ĐỘC LẬP - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2014-07-04 - LSHK-9- 13 Thuộc Địa Anh Giành Độc Lập - Nguyễn Mạnh Quang dịch -
▪ 2004-08-15 - LSHK-1- Marco Polo và những chuyện kỳ thú ở Đông phương - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-10- Tinh Thần Độc Lập Ảnh Hưởng Khắp Mỹ Châu - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-11- 13 Tiểu Bang Kết Thành 1 Quốc Gia - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-12- Tân Chính Phủ Trung Ương - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-13- Hoa Kỳ Được Các Quốc Gia Khác Kính Nể - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-14- Miền Đông Bắc Trở Thành Trung Tâm Kỹ Nghệ - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-15- Miền Nam Trở Thành Vương Quốc Bông Vải - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 0000-00-00 - LSHK-16- Chế Độ Dân Chủ Theo Đà Mở Rộng Biên Cương - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - LSHK-17- Toàn Quốc Trở Nên Dân Chủ Hơn - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 1 2 ▪ >>>
Trang Lịch Sử