KHI NHÀ VĂN LẠM BÀN LỊCH SỬ
- Nguyễn Mạnh Quang -
http://sachhiem.net/NMQ/KNV/PhanI3.php
10-07-2008
Toàn tập:
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
PHẦN I
LỜI TUYÊN BỐ CỦA ÔNG NGẠN TRONG CUỐN
VIDEO PARIS BY NIGHT SỐ 81 (5)
III.- NỘI TÌNH CÁC NƯỚC:
ĐỨC, NAM HÀN VÀ MIỀN NAM VIỆT NAM
Sau khi bị
qua phân, nội tình của ba nước Tây Đức, Nam Hàn và miền Nam Việt Nam
cũng hoàn toàn khác nhau. Phần trình bày dưới đây cho ta thấy rõ sự kiện
này:
NỘI TÌNH TÂY ĐỨC
Vào năm
1948, Nga Xô ra lệnh phong tỏa thành phố Berlin khiến cho tình hình thế
giới trở nên vô cùng căng thẳng, nhưng rồi vấn đề này cũng được giải
quyết. Dù sao thì tình trạng này cũng khiến cho tam cường Mỹ, Anh và
Pháp phải lo ngại, không biết lúc nào Nga Xô lại làm cho tình hình
nghiêm trọng nữa! Vì lẽ này mà Anh, Mỹ Pháp đồng thuận hợp nhất ba vùng
nằm dưới quyền quản trị của họ để thành một vùng gọi là Tây Đức với hy
vọng tạo nên Tây Đức đủ sức tự cường về kinh tế và đủ mạnh về chính trị.
Tây Đức được phép tổ chức bầu cử để chọn người vào Quốc Hội Lập Hiến,
soạn thảo hiến pháp giống như hiến pháp của các nước dân chủ Tây Phương
và Bắc Mỹ, nghĩa là cũng có điều khoản “tôn giáo tách rời khỏi chính
quyền”. Nói cách khác, tức là không có vấn nạn Giáo Hội La Mã với tình
trạng tu sĩ và tín đồ Da-tô tác oai tác quái, thao túng chính quyền.
Những người lãnh đạo chính quyền cũng như dân biểu trong quốc hội Tây
Đức đều do nhân dân Tây Đức tuyển chọn qua các cuộc bầu cử dân chủ công
bằng và bỏ phiếu kín, theo từng nhiệm kỳ như đã quy định trong hiến pháp
của họ.
Nhờ vậy mà tại Tây Đức, không có một ông
lãnh đạo chính quyền nào của Tây Đức tổ chức một buổi đại lễ vô cùng
long trọng, rồi thỉnh mời vị khâm sứ đại diện Vatican đến làm chủ lễ
dâng Tây Đức Giáo Hội La Mã dưới danh nghĩa là Đức Mẹ Vô Nhiễm. Và cũng
không có một ông giám hay mục sư hoặc ông tu sĩ nào ngồi bên cạnh ông
thủ tướng trên khán đài vào những khi có đại lễ hay quốc lễ. Các ông
thống đốc các tiểu bang và các ông tỉnh trưởng, quận trưởng tại các địa
phương khi mới đến nhậm chức không phải trình diện một ông lãnh chúa áo
đen hay ông mục sư nào cả.
NỘI TÌNH NAM HÀN
Sau khi chiến tranh Triều Tiên chấm dứt
vào ngày 27/7/1953, Nam Hàn trở thành một căn cứ quân sự của Hoa Kỳ và
chính quyền Nam Hàn dồn nỗ lực vào việc củng cố chính quyền. Trong mấy
năm đầu, Nam Hàn nằm dưới quyền lãnh đạo của Tổng Thống Da-tô Lý Thừa
Vãn. Là một tín đồ Da-tô được Hoa Kỳ nuôi dưỡng và đưa về cầm quyền ở
Nam Hàn, Tổng Thống Lý Thừa Vãn của Nam Hàn cũng có những đặc tính Da-tô
cuồng tín như tất cả những tín đô Da-tô cuồng tín khác. Một trong những
đặc tính này là ông đã biến chính quyền cúa ông thành một chế độ đạo
phiệt Da-tô hết sức bạo ngược. Chính vì vậy mà ông bị sử gia Nigel
Cawthorne quy liệt vào danh sách 100 tên bạo chúa tàn ngược nhất trong
lịch sử nhân loại từ thời cổ đại cho đến ngày nay. Dưới đây là bản văn
của sử gia Nigel Cawthorne nói về bạo chúa Da-tô Lý Thừa Vãn:
"Trong những năm Nhật chiếm đóng
Triều tiên từ năm 1910 cho đến năm 1945, Lý Thừa Vãn sống ở Hoa Kỳ vận
động cho nước ông được độc lập. Năm 1919, ông được đưa lên làm tổng
thống Chính Phủ Lưu Vong Lâm Thời Triều Tiên.
Năm 1945, ông trở về Triều Tiên, tổ chức
những đội võ trang khủng bố và giết hại những đối thủ chính trị. Năm
1948, khi Hoa Kỳ và Liên Xô thất bại trong việc bàn luận thống nhất miền Nam Bắc
Triều Tiên, ông trở thành tổng thống Nam Hàn. Năm 1950, khi Kim Nhật
Thành (Chủ Tịch Bắc Hàn) xua quân tấn công Nam Hàn, ông kêu cứu Liên
Hiệp Quốc và được tổ chức quốc tế này cứu viện.Tuy nhiên, khi Liên Hiệp
Quốc cố gắng thương thuyết hòa bình thi ông lại kéo dài cuộc chiến vơi
hy vọng sẽ toàn thắng. Vào lúc quan trọng (trong khi hai bên thương
thuyết), ông phóng thích những tù binh chống Cộng khiến cho Kim Nhật
Thành tức giận và tái khởi chiến tranh.
Những kỳ bầu cử tổng thống được tổ chức
vào những năm 1952, 1956 ông đều đắc cử, và đặc biệt là kỳ bầu cử tổng
thống vào năm 1960, ông đắc cử với 90 phần trăm số phiếu. Ở ngôi vị tổng
thống, ông sử dụng quyền lực độc tài chuyên chính, thanh trừng Quốc Hội,
ra lệnh cấm, không cho Đảng Tiến Bộ đối lập hoạt động và xử tử vị lãnh
tụ của đảng này với tội danh là phản nghịch. Đồng thời, ông kiểm soát
chặt chẽ việc bổ nhậm các chức vụ xã trưởng và cảnh sát trưởng.
Việc gian lận trong kỳ bầu cử tổng thống
vào năm 1960 một cách quá trắng trợn làm cho sinh viên tổ chức hàng loạt
những cuộc biểu tình chống ông. Ông ra lệnh đàn áp hết sức dã man và làm
cho anh em sinh viên bị tổn thất nặng nề (chết và bị thương rất nhiều –
NMQ). Tình trạng này khiến cho Quốc Hội nhất tề bỏ phiếu đòi ông phải từ
chức. Ngày 27/4/1960, ông phải rời khỏi nước đi sống lưu vong ở Hawaii
rồi chết ở đây.”
Nguyên văn: “During the Japanese occupation of Korea from 1910
to 1945, Syngman Rhee was in the United States, agitating for Korean
independence. In 1919 he was elected president of the Korean Provisional
Government in exile.
Returning to Seoul in 1945, he organised
strong-arm squads to murder or intimidate political rivals. When talks
between the US and the Soviet Union on reunifying the northern and
southern zones that they occupied failed in 1948, he stood as president
South Korea. When Kim II-Sung invaded in 1950, he called for – and
received – United Nations’ help. However, when UN tried to make peace,
Rhee prolonged the fighting in the hope of total victory. At a crucial
moment, he released anti-Communist prisoners of war infuriated Kim
II-Sung and restarting the war.
Rhee was re-elected 1n 1952, 1956 and
1960 – with 90 per cent of the vote that year. As president he took
dictatorial powers, purging the National Assembly, banning the
opposition Progressive Party, and executing its leader for treason. He
also controlled the appointment of village mayors and police chiefs.
The blatant election fraud of 1960
provoked student demonstrations, which were suppressed with heavy
casualties, but a unanimous vote of the Natonal Assembly called for
Rhee’s resignation. On 27 April 1960, Rhee went into exile in Hawaii,
where he died.” Nigel Cawthorne, TYRANTS History’s 100 Most Evil
Despots & Dictators (London: Arcturus, 2004), p.138.
Sau đó, Nam Hàn cũng rơi vào tình trạng
nằm dưới ách thống trị của bọn quân phiệt. Nhưng nhân dân Nam Hàn còn có
may mắn:
1.- Các nhà lãnh đạo chính quyền và các
vị tướng lãnh trong quân đội không phải là những tên Hàn gian đã từng
làm tay sai cho quân xâm lăng Nhật trong thời Nhật chiếm đóng cho đến
khi Nhật đầu hàng vào ngày 15/8/1945.
2.- Không có vấn nạn Giáo Hội La Mã,
nghĩa là không có vấn nạn tu sĩ và tín đồ Da-tô thao túng chinh quyền,
hà hiếp nhân dân và cướp đoạt tài nguyên quốc gia, bòn rút của công để
làm của riêng và cống hiến cho Giáo Hội La Mã. Nói một cách khác là từ
tháng 4 năm 1960, chính quyền Nam Hàn tuyệt đối không có chủ trương bơi
ngược dòng lịch sử, thiết lập chế độ đạo phiệt Da-tô như các nước Âu
Châu trong thời Trung Cổ.
3.- Không có những vụ tẩu tán tài sản,
tiền bạc chuyển ra ngoại quốc như ở miền Nam Việt Nam trong những năm
1954-1975.
NỘI TÌNH MIỀN NAM VIỆT NAM
Dù là được khoác cho danh xưng Việt Nam
Cộng Hòa hay là gì đi nữa,
trong thực tế, miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 vừa là
thuộc địa của Hoa Kỳ (đuợc Hoa kỳ dùng làm tiền đồn
ngăn chặn làn sóng Cộng Sản theo nhu cầu chiến lược của Hoa Kỳ), vừa là thuộc địa của Vatican (với các nhân vật lãnh đạo chính
quyền đều là tín đồ Da-tô do Tòa Thánh Vatican chọn lựa, hay do các vị
tu sĩ Da-tô có thế lực ở Việt Nam đưa lên). Như vậy, suốt trong thời gian từ ngày 7/7/1954
cho đến ngày 30/4/1975, ngoại trừ trong một thời gian ngắn từ 1/1/1963
đến tháng 3/9//1967, miền Nam Việt Nam ở vào tình trạng một cổ hai tròng
và chính quyền miền Nam vừa làm tay sai cho Hoa Kỳ, vừa làm tay sai đắc
lực cho Giáo Hội La Mã. Đặc biệt hơn nữa là những người lãnh đạo chính
quyền và những người nắm giữ các chức vụ chỉ huy các cơ quan quan trọng
trong bộ máy cai trị đều là tín đồ Da-tô và đều có những thành tích đã
từng là Việt gian bán nước cho Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp
– Vatican trong thời 1858-1945 và trong thời Kháng Chiến 1945-1954:
CHÍNH QUYỀN MIỀN NAM VIỆT NAM
LÀM TAY SAI CHO HOA KỲ
Chính
quyền Việt miền Nam do Hoa Kỳ dựng nên và nuôi dưỡng từ ngày được cho ra
đời vào tháng 7/1954 cho đến khi rã đám vào ngày 30/4/1975. Bằng chứng
là tất cả mọi khoản tiền chi phí cho mọi thứ từ đồ trang bị trong các
văn phòng, việc thiết lập và trang bị các cơ sở, việc trả lương hàng
tháng cho các nhân viên chính quyền từ ông tổng thống cho đến các anh
tùy phái hay lao công trong công sở cũng như từ ông đại tuớng nắm giữ
chức vụ tổng tham mưu trưởng cho đến anh binh nhì vô danh tiểu tốt trong
quân đội đều do Hoa Kỳ đài thọ và tất cả những người này đều có tên
trong sổ lương của Hoa Kỳ.
Các nhà nghiên cứu
về miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975, đều có một nhận xét
chung là hầu như tất cả mọi việc làm trong các cơ quan chính quyền cũng
như trong quân đội đều do Hoa Kỳ chủ động, làm chương trình, bỏ tiền ra
tài trợ rồi thúc đẩy chính quyền Việt Nam phải thi hành dưới sự cố vấn
và giám thị của người Hoa Kỳ. Điển hiển là việc cải cách điền địa được
tiến hành từ năm 1957 là một trong những bằng chứng rõ ràng nhất cho sự
kiện này. Theo sự hiểu biết của người viết, đề xướng ra chương trình cải
cách ruộng đất vào lúc đó là Mỹ, soạn thảo chương trình truất hữu ruộng
đất của những điền chủ có trên 200 mẫu Anh (acre) để bán cho nông dân
không có ruộng cày cũng là Mỹ, bỏ tiền ra đài thọ cho những tốn phí thi
hành chương trình này cũng là Mỹ, bỏ tiền ra ứng trước để trả liền 10%
trị giá ruộng đất cho các chủ điền có ruộng bị truất hữu cũng là Mỹ. Đây
là một sự thật lịch sử. Mấy đoạn văn sử dưới đây trích ra từ trong sáchViệt Nam Niên Biểu 1939-1975 Tập I C: 1955-1963
và trong sách
Vietnam: A Dragon Embattled
cho chúng ta thấy rõ đầu mối của sự thật này:
“Thứ Ba, 5/7/1956.- SÀIGON: Diệm
tiếp Reinhardt và Barrows về kế hoạch cải cách ruộng đất. Tham dự có
Nguyễn Hữu Châu, Nguyễn Ngọc Thơ và Ladejinsky, cố vấn cải cách ruộng
đất của Diệm. VNCH trù tính mua lại khoảng 1 triệu mẫu đất của chủ điền
rồi bán lại cho dân. Mỗi chủ điền từ nay chỉ được sở hữu từ 60 đến 200
mẫu. (trước đây, khoảng 6,000 (6 ngàn) chủ điền làm chủ 45% đất
ruộng miền Nam, vào khoảng 1 triệu mẫu). Dự trù giá mua một mẫu tư 5,000
(5 ngàn) tới 15,000 (15 ngàn) đồng; như thế sẽ cần một ngân khoản 7 tỉ
đồng hay 200 triệu Mỹ kim. Sẽ trả chủ điền 10-15% bằng tiền mặt, sau đó
trả bằng trái phiếu quốc gia từ 10 đến 15 năm. Thơ yêu cầu Mỹ cho vay
hay viện trợ từ 10 tới 20 triệu Mỹ kim để trả trước cho chủ điền. (Trong
thư gửi PTT Richard Nixon ngày 6/7, tăng lên từ 20 tới 30 triệu Mỹ kim.
Nông dân sẽ phải trả tiền mua đất
trong vòng 5 năm, không phải trả tiền lời. (FRUS, 1955-1957, I: Tài liệu
337).” Chính Đạo, Việt
Nam Niên Biểu 1939-1975 Tập I C: 1955-1963 (Houston, TX: Văn Hóa,
2000), tr 98.
Chính quyền Việt
Nam chỉ có việc thi hành những gì Mỹ đã hoạch địch sẵn. Ấy thế mà chính
quyền Việt Nam còn luơn lẹo, qua mặt Mỹ bằng nhiều cách. Một trong những
cách này là không rớ tới khối ruộng đất khổng lồ gần 400 ngàn mẫu Anh
của Giáo Hội La Mã (đã cướp đoạt được của nhân dân ta trong thời gian từ
năm 1862 cho đến năm 1954). Sự
kiện này được sử gia Joseph Buttinger ghi lại như sau:
"Hơn nữa, hàng trăm ngàn anh em
nông dân được Sở Nông Nghiệp Tín Dụng giúp đỡ bằng cách cho vay tiền làm
vốn mà trước kia họ phải vay của bọn chủ nợ tư nhân với giá cắt cổ.
Nhưng vì không có đại diện thực sự của họ cho nên đại khối nông
dân ở nông thôn vẫn tiếp tục là nạn nhân (bị bóc lột) của giới địa chủ
và viên chức chính quyền. Giá nộp tô hợp pháp được quy định là 25% mà
hầu như khắp nơi không có ai quan tâm hay để ý tới. vì rằng tá điền
thường cho là nếu không quá 30% là may mắn lắm rồi. Ngay cả những năm
sau năm 1960, khi Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam phát động cuộc chiến
chống lại chính quyền miền Nam là lúc tranh giành lòng dân, lôi kéo nhân
dân về phía mình, mà tình trạng này vẫn như vậy. Các ông địa chủ có
quân lính trở lại các vùng do Việt Minh kiểm soát trước đó để đòi
nông dân phải nộp tô cho họ với giá cao hơn giá chính quyền ấn định.
Chỉ có sự đồng thuận hay tiếp tay của chính quyển thì giới địa chỉ mới
làm được như vậy.
Anh em nông dân bất mãn vì không được
quyền chiếm hữu những đất đai không có chủ mà chính họ đã liên tục canh
tác cho đến lúc đó. Đây là sự thực. Ngay cả với 43 ngàn giáo dân Bắc Kỳ
đến định cư ở Cái Sắn cũng chống lại những khế ước về chính sách nộp tô
như vậy, nhất là lúc đó chính quyền đã cắt giảm tiền trợ cấp định cư
cho họ.
Việc thi hành chương trình cải cách
điền địa một cách vụn vặt và chắp vá trong một pham vi hạn hẹp như vậy
đã gây tai hại cho việc cải tiến về chính trị của đất nưỡc. Sự kiện này
cũng cho chúng ta thấy rõ những lời cao rao rằng chế độ của ông Ngô
Đình Diệm là một chế độ cách mạng chỉ là những lời tuyên truyền giả dối
rỗng tuếch. Ông Diệm không có khả năng nhận thức được rằng cuộc cách
mạng quốc gia chỉ có thể hoàn thành được vào khi mà tất cả những tàn dư
của chế độ thuộc địa cũ đã bị quét sạch, và bằng những chương trình cách
mạng cấp tiến về xã hội và kinh tế. Đối với đại khối nông dân, trong
thời chế độ thực dân thuộc địa, giai cấp địa chủ phong kiến bóc lột
họ là một sự thực. Vì thế cho nên, chỉ khi nào chế độ thực dân thuộc
địa bị xóa bỏ thì khi đó mới có thể chấm dứt được chế độ địa chủ bóc
lột giai cấp nông dân.
Trong thực tế, vì không bị loại bỏ bởi
chương trình cải cách điền địa, giai cấp địa chủ đã từng cấu kết với
chế độ thực dân thuộc đía trong nhiều thập niên, đã thành công trong
việc đòi lại những quyền lợi của họ trong thời chế độ Diệm. Tối đại đa
số trong số 6,300 địa chủ (đa số là nhũng địa chủ vắng mặt) chiếm hữu
45% ruộng lúa ở miền Nam. Đại đa số những địa chủ này không bị ảnh hưởng
bởi chương trình cải cách điền địa của chính phủ, vi rằng họ chỉ làm
chủ vào khoảng 300 mẫu, giới hạn mà luật lệ nhà nước quy định cho phép
được giữ lại (không bị truất hữu), Tuy nhiên, ngay cả trong số 2,500 địa
chủ chiếm hữu 40 phần trăm ruộng lúa ở miền Nam, cho tới cuối năm
1962, cũng chỉ có 1,584 địa chủ bị truất hữu một phần ruộng đất của họ
mà thôi. Ruông đất do Giáo Hội La Mã làm chủ ước lượng vào khoảng 370
ngàn (370,000) mẫu không hề bị đụng (rớ) tới.
"
[Nguyên văn:"Furthermore, the
plight of hundreds of thousands of peasants was eased by the National
Agrarian Credit Office, which was created in April, to supply peasants
in temporary needs funds with loans previously obtainable only at
usurious rates. But the absence of any kind of democratic representation
of the peasnts meant that the rural masses continued to be victimized by
landlords and government officials. The legal rent of 25% of crop was
widely disregarded - tenants considered themselves lucky if their rent
was no more 30 per cent. Even after 1960, when insurrection made the
struggle for peasant loyalty the overriding political issue, abusive
treatemt of peasants remained widespread. Landlords, returning with the
army to former guerrilla-held regions, extracted rents far above the
legal limit. Since this was possible only with the help or acquiescence
of the Saigon appointed local officials, the peasants more often than
not regretted having returned to government control. The peasants also
resented not getting the ownership of formerly unocuppied land, but
instead being settled on it as tenants. This was true even of land
which the refugees, largely through their own efforts, had opened for
cultivation. "At the Cái Sắn development in southwestern Vietnam, for
example there was so much resistance to tenancy contracts by the 43.000
resettled refugees that the government cut off daily subsistence payment
in order to bring the refugees around."
The narrow scope and the fragmentary
execution of the agrarian reform, so fateful for the country's political
evolution, reveal a great deal about Diem's political philosophy and the
hollowness of his claim that his was a revolutionary regime. Diem was
unable to see that Vietnam's national revolution could be completed and
all remenants of colonialism wiped out only through radical economic and
social reforms. For the peasant masses, exploitation under feudal land
regime had been the dominant reality of colonialism. Colonialism,
therefore, would not end for them until landlordism was abolished.
Far form being eliminated by a
thorough agrarian reform, the landlords, for decades the associates of
the colonial regime, were in fact the group that, more than any other,
succeeded in asserting its interests under Diem. A maximum of 6,300
persons (most of them absenteee landlords) owned 45 per cent of all rice
land in the South. The vast majority of them were not at all affected by
the land-transfer program, since they owned less than the approximately
300 acres the law permitted them to retain. But even of the 2,500 who
owned 40 per cent of the Southern rice land, only 1,584 had been partly
expropriated by late 1962. (Land held by the Roman Catholic Church,
estimated about 370,000 acres was not subject to transfer."] Joseph
Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled (New York: Frederick A.
Praeger, 1967), pp 932-933.
Về quân
sự, Hoa Kỳ cũng làm sẵn chương trình, đặt ra kế hoạch cho việc tuyển mộ
và huấn luyện quân đội, rồi bỏ tiền ra đài thọ các phí khoản của tất cả
mọi việc thiết lập và trang bị các trung tâm nhập ngũ và huấn luyến, bỏ
tiền ra trả lương cho quân lính được tuyền mộ. Về huấn luyện, Hoa Kỳ nắm
giữ công việc huấn luyện và huấn lưyện theo tiêu chuẩn quân sự của Hoa
Kỳ. Về chiến thuật và chiến lược, các cố vấn quân sự Hoa Kỳ soạn thảo
kế hoạch tác chiến và đưa ra cho sĩ quan người Việt thi hành, mọi quyết
định của các sĩ quan Việt Nam trong các kế hoạch hành quân hay bất cứ
việc gì đều phải được Hoa Kỳ chấp thuận. NẾU không được Hoa Kỳ chấp
thuận mà các sĩ quan Việt Nam cứ tự ý làm, thì sẽ viên chức đó sẽ bị coi
là qua mặt Hoa Kỳ và sẽ bị cảnh cáo. NẾU ở mức độ trầm trọng, ngân
khoản tài trợ cho phần vụ mà chính quyền miền Nam đã qua mặt Hoa Kỳ sẽ
bị cắt đứt, hoặc là sẽ loại bỏ những thành phần có trách nhiệm về việc
làm mà không được Hoa Kỳ cho phép. Trầm trọng hơn nữa, thì ngay cả người
lãnh đạo chính quyền sẽ bị thay thế bằng một người khác biết điều và dễ
bảo hơn. Bằng chứng là việc Hoà Kỳ trừng phạt anh em nhà Ngô về việc
làm quá trớn với những hành động tấn công các chùa chiền, càn quét, truy
lùng bắt giam hàng ngàn tăng ni và Phật tử ở Sàigòn và nhiều thành phố
lớn ở miền Nam Việt Nam trong đêm 20 rạng ngày 21/8/1963. Những sự kiện
liên tiếp xẩy ra trong mùa hè 1963 cho đến ngày Cách Mạng 1/11/1963 mà
chúng tôi ghi lại dưới đây giúp cho chúng ta nhìn thấy rõ ràng vấn đề
này. Sách Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 - Tập IC: 1955-1963 viết:
“Thư
Tư, 21/8/1963: Sàigòn, 01G00: Nhu sử dụng Lực Lượng Đặc Biệt và Cảnh Sát
mặc giả quân phục tấn công chùa chiền, bắt giữ tăng ni. Lê Quang Tung và
(Nguyễn [Trần?] Văn Tư, Giám Đốc Cảnh Sát Đô Thành chỉ huy.
Tại chùa Xá Lợi (Sàigòn), Tịnh Khiết, Tâm Châu cùng Ủy Ban Liên Phái Bảo
Vệ Phật Giáo đề bị bắt. Hơn 30 người bị thương, 2 người khác mất tích
(Gravel, II:210; Tâm Châu 1994:19). Hai tăng sĩ chạy được qua USOM, gần
chùa Xá Lợi (không có Thượng Tọa Trí Quang).
[Xem thêm Phạm Trọng Nhân, “Cuốn sổ tay của một nhân viên ngoại giao
nhân vụ tấn công chùa Xá Lợi;” Bách Khoa, số 169 (15/1/1964), tr. 31-43,
và số 170 (1/2/1964), tr. 21-31]
Chỉ riêng tại Sàigòn, số tăng ni Phật tử bị bắt lên tới 2,000 người.
Ngoại trừ Tịnh Khiết được phóng thích ngay, hầu hết các lãnh tụ tăng ni
đều bị bắt. Họ bị giam giữ tại những sà lan nổi trên sông Sàigòn. [Xem
25/8/1963]
Tại Huế, khoảng 3 giờ đêm, tiếng mõ, tiếng chuông, tiếng kêu cầu cứu
vang lên khắp nơi. Đồng bào quanh chùa đánh mõ, gõ thùng thiếc báo nguy.
Đợt tấn công đầu, Cảnh Sát bị đẩy lui. Sau đó, Đỗ Cao Tri cho lệnh nổ
súng. Những giáo sư, sinh viên và học sinh tranh đấu cũng bị bắt giữ.
(Nguyễn Ngu Í 1964b:37-44).”
Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 - Tập IC: 1955-1963
(Houston, TX: Văn Hóa, 2000), tr. 318-319.
Chiến dịch
tấn công các chùa chiền vào đêm 20/8/1963 khiến nhân dân ta và nhân dân
thế giới vô cùng căm phẫn đối với anh em nhà Ngô. Chứng kiến cảnh chùa
chiền bị tấn công, và tăng ni cùng Phật tử bị truy lùng, bị tra tấn và
đánh đập, anh em học sinh, sinh viên không thể khoanh tay đứng nhìn quân
lính Da-tô của chính quyền phóng tay hành hạ và sát hại đồng bào, thân
nhân, bà con của họ. Vì thế, họ đã phải quyết tâm liều thân cùng nhau
đứng lên biểu dương tinh thần để cho nhân dân thế giới nhìn thấy rõ bộ
mặt thật ghê tởm của chế độ tàn ngược của tên bạo chúa Da-tô Ngô Đình
Diệm. Sự kiện này được cụ Đoàn Thêm ghi lại trong cuốn 1945-1964 Việc
Từng Ngày với nguyên văn như sau:
“25/8/1963:
Sinh viện, học sinh biểu tình rất đông trước chơ Bến Thành ủng hộ Phật
Giáo. Cảnh Sát can thiệp. Có xô xát. Một số người bị thương. Một thiếu
nữ bị chết (Quách Thị Trang). 1.380 bị bắt đưa xuống trại Huấn Luyện
Quang Trung.” Đoàn Thêm, 1945-1964 Việc Từng Ngày (Los
Alamitos, CA: Xuân Thu, 1980?), tr.
Hành động
bách hại Phật giáo, học sinh, sinh viên một cách tàn ngược như trên của
chính quyền đạo phiệt nhà Ngô liền bị Hoa Kỳ phản ứng mãnh liệt và tìm
biện pháp mạnh để ngăn chặn và trừng phạt anh em nhà Ngô. Sự kiện này
đuợc cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Robert McNamara ghi lại trong cuốn
In Retrospect – The Tragedy And Lessons Of Vietnam với nguyên văn như
sau:
“Khi
tin tức về những hành động bạo hành ở Miền Nam Việt Nam được báo cáo về
tới thủ đô Hoa Thịnh Đốn vào ngày 24/8, nhiều viên chức đã nhìn thấy là
cơ hội phải hành động chống lại chế độ Ngô Đình Diệm. Hoa Kỳ phải hành
động, phải tiến hành một cuộc đảo chánh trước khi quá trễ.Tôi cho rằng
đây là một việc làm quan trọng nhất trong thời chính quyển của hai Tổng
Thống Kennedy và Johnson.
Người tiên khởi hành động này là Roger Hilsman, người kế nhiệm Averell
Harriman, giữ chức vụ phụ tá ngoại trưởng, đặc trách Viễn Đông Sự Vụ.
Hilsman là người tốt nghiệp Trường Võ Bị West Point, thông minh, khắc
nghiệt, thiếu tế nhị, nói nhiều, đã từng kinh qua chiến tranh du kích
trong thời Thế Chiến Thứ Hai và đã trở thành một học giả nắm vững tình
hình.
Hillsman khởi thảo một bức điện văn gửi cho ông đại sứ mới bổ nhậm tới
Sàigòn là Henry Cabot Lodge Jr. và nhập đề bằng câu văn lên án các hành
động của ông Nhu:
Dù cho giới quân sự chủ trương thiết quân luật hay chính Nhu bày trò cho
họ làm vậy, nhưng rõ ràng là Nhu đã lợi dụng chuyện này để tấn công
chùa chiền… Điều này cũng cho thấy rõ ràng là Nhu đang tìm cách nắm
quyền lãnh đạo. Chính phủ Hoa Kỳ không thể dung thứ tình trạng quyền
hành nằm ở trong tay Nhu. Phải cho Diệm cơ hội thoát khỏi bàn tay của
Nhu và đám tay chân của hắn và thay thế vào đó bằng những nhân vật chính
trị và quân sự có khả năng..
Nếu ông (Cabot Lodge) đã làm hết mọi cố
gắng rồi mà Diệm vẫn còn ngoan cố và từ chối hợp tác, thì chúng ta phải
tính đến việc phải loại luôn cả Diệm…. Đồng thời, ông nói cho các nhân vật lãnh đạo quân
sự tại đó biết rằng Hoa Kỳ sẽ không thể tiếp tục chu cấp cho Chính Phủ
Việt Nam về quân sự lẫn kinh tế trừ phi… họ phải (thả tự do cho các tăng
ni đã bị bắt) ngay tức khắc cùng với sự loại bỏ Nhu ra khỏi sân khấu
chính trị. Chúng ta phải cho Diệm một cơ hội hợp lý để loại bỏ Nhu,
nhưng nếu Diệm cứ ngoan cố, thì phải để cho ông ta biết rằng chúng ta
không ủng hộ ông ta nữa. Đồng thời, ông (Đại Sứ Cabot Lodge) cũng nên
nói cho các nhân vật chỉ huy quân sự biết rằng chúng ta sẽ trực tiếp hậu
thuẫn cho họ trong khoảng thời gian chuyển tiếp sau khi chính phủ trung
ương bị lật đổ.
… Song song với những việc làm trên đây, ông đại sứ nên cùng với các
đồng sự gấp rút cứu xét đến việc lựa người lãnh đạo kế tiếp và phác họa
một kế hoạch thật chi tiết để chúng ta có thể sẽ thay thế Diệm luôn nếu
cần.”
Nguyên văn: “As reports of
the violence flowed into Washington on August 24, several officials we
had left behind saw an opportunity to move against the Diem regime.
Before the day was out, the United States had set in motion a military
coup, which I believe was one of the truly pivotal dicisions concerning
Viet Nam made during the Kennedy and Johnson Administrations.
The
man who took the initiative was Roger Hilsman, Jr., who had succeeded
Averll Harriman as assistatnt secretary of states for Far Eastern
Affairs. Hilsman was a smart, abrasive, talkative West Point graduate
who had been involved in guerrilla combat in World War II and had
subsequently become an academic. He and his associates believed we could
not win the war with Diem and, therfore, Diem should be removed.
Hilsman began the action by drafting a cable to our brand new ambassador
in Saigon, Henry Cabot Lodge, Jr. The cable started with a condemnation
of Nhu’s actions:
It
is now clear that whether the military proposed martial law or whether
Nhu tricked them into it, Nhu took advantage of its imposition to smash
pagodas… Also clear that Nhu has maneuvered himself into commanding
position.
U.S. Government cannot tolerate situation in which power lies in Nhu’s
hands. Diem must be given chance to rid himself of Nhu and his coterie
and replace them with best military and political personalities
available.
If,
in spite of all your efforts, Diem remains obdurate and refuses, then
we must face the possibility that Diem himself cannot be preserved.
…
We must at same time also tell key military leaders that U.S. would find
it impossible to continue support GVN [government of Vietnam] military
and economically unless… steps [to release the arrested monks] are taken
immediately which we recognize requires removal of the Nhus from the
scene. We wish to give Diem reasonable opportunity to remove Nhus, but
if he remains obdurate, then we are prepared to accept the obvious
implication that we can no longer support Diem. You may also tell
appropriate military commanders we will give them direct support in any
interim period of breakdown central government mechanism.
…
Concurrently with above, Ambassador and country team should urgently
examine all possible alternative leadership and make detailed plans as
to how we might bring about Diem’s replacement if this should become
necessary.” Robert McNamara, In Retrospect – The Tragedy And
Lessons Of Vietnam (New York:Times Books Random House, 1995),
pp.52-53
Phần trình
bày trên đây cho chúng ta thấy rõ các nhà cầm quyền miền Nam chỉ là
những người được Hoa Kỳ đưa lên để làm tay sai cho Hoa Kỳ. NẾU họ
không phải là tín đồ Da-tô và chỉ triệt để thi hành những chỉ thị hay
quyết định của Hoa Kỳ đưa ra thì miền Nam đã khá hơn và có thể đã giống
như Nam Hàn hay Đài Loan. Khốn nỗi, họ là những tín đồ Da-tô với bản
chất La Mã hơn cả La Mã, họ chỉ biết triệt để tuân hành lệnh truyền của
Tòa Thánh Vatican và tuân hành một cách vô điều kiện “đến nỗi có
những linh mục nói rằng “Tòa Thánh đánh rắm cũng khen thơm.” Nhiều
tác giả,Tại Sao Không Theo Đạo Chúa Tuyển Tập 2 (Spring, TX: Ban
Nghiên Cứu Đạo Giáo, 1998), tr.116 . Vì thế họ mới trở thành những người
“Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”, mới lươn lẹo không
thi hành nghiêm chỉnh những quyết định của Hoa Kỳ đưa ra trong chương
trình cải cách ruộng đất bằng cách tránh né, không rớ tới 370 ngàn mẫu
Anh để bảo vệ quyền lợi của Giáo Hội La Mã, mới tiến hành những
“chiến dịch làm sáng danh Chúa” bằng bạo lực, tàn sát tới 300 ngàn
người dân ở các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Nam, Quy Nhơn và Khánh Hòa (Liên
Khu V), mới đem quân tấn công các chùa chiến, lùng bắt và giam cầm cả
mấy ngàn tăng ni và Phật tử, rồi lại đàn áp một cách hết sức dã man
phong trào học sinh sinh viên như đã trình bày ở trên. Những trường hợp
nêu lên trên đây vừa cho chúng ta thấy rõ bộ mặt thật của chính quyền
miền Nam là làm tay sai cho Hoa Kỳ, vừa phơi bày cho nhân dân thế giới
thấy rõ cái đặc tính tàn ngược của chế độ đạo phiệt Da-tô làm tay sai
đắc lực cho đế quốc Vatican tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ.
CHÍNH QUYỀN MIỀN NAM VIỆT NAM
LÀM TAY SAI ĐẮC LỰC CHO VATICAN
Tài liệu lịch sử cũng như thực tế cho
thấy rằng Giáo Hội La Mã và Hoa Kỳ tạo dựng nên chính quyền miền Nam
Việt Nam để làm tay sai cho hai thế lực này. Vấn đề này đã được trình
bày đầy đủ trong Mục XXIII, Phần V (ien Minh Mỹ Vatican Thống Trị Miền
Nam Việt Nam) trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã.
Chìn vì thế mà miền Nam Việt Nam mới có vấn nạn Giáo Hội La Mã
với thảm trạng chính quyền dung dưỡng và bao che cho tu sĩ và tín đồ
Da-tô thi nhau nhũng lạm công quyền, tác oai tác quái, bách hại đại
khối nhân dân thuộc các tôn giáo khác. Dựa vào cái thế đã đưa được tín
đồ lên nắm quyền lãnh đạo chính quyền và nắm giữ các chức vụ chỉ huy các
cơ quan quan trọng trong bộ máy đàn áp nhân dân, ngồi ở hậu trường, Giáo
Hội nắm độc quyền các phương tiện sản xuất và kiểm soát tất cả mọi phạm
vi sinh hoạt trong xã hội để bốc hốt, cướp đoạt tài sản quốc gia, kinh
tài bất chính, ăn bớt tiền ngoại viện, áp bức, bóc lột nhân dân bằng
trăm phương ngàn kế và tẩu tán của cải tiền bạc ra ngoại quốc, rồi
chuyển về nhà kho của nước Chúa trong Tòa Thánh Vatican. (Xin xem các dữ
kiện ghi trong đoạn 4 của Phần III ở dưới.)
Vấn nạn Giáo Hội La
Mã chỉ xẩy ra ở những nước bị áp đặt theo chế độ đạo phiệt Da-tô, nghĩa
là tại các quốc gia mà Tòa Thánh Vatican đã xoay sở đưa được tín đồ
Da-tô tin cẩn lên nắm chính quyền làm tay sai cho Giáo Hội. Đây là những
trường hợp như ở Croatia trong những năm 1941-1945, ở miền Nam Việt Nam
trong những năm 1954-1975, ở Rwanda trong năm 1994, v.v… Nói đến vấn
nạn Giáo Hội La Mã là phải nói đến những đặc điểm chính sau đây:
(hình Thượng Tọa
Thích Quảng Đức tự thiêu,
nguồn:
http://vi.wikipedia.org/wiki/)
1.- Chủ trương
“thần quyền chỉ đạo thế quyền” của Giáo Hội La Mã. Chủ trương này đưa đến việc
phải thiết lập chế độ đạo phiệt Da-tô bằng bộ máy cảnh sát trị với những
tổ chức cảnh sát, công an, và mật vụ như thiên la địa võng. Tại miền Nam
Việt Nam, thực trạng này được sử gia Joseph Buttinger ghi lại rõ ràng ở
trong cuốn Việt Nam: A Dragon Enmbattled rằng, trong thời Đệ Nhất Công
Hòa có tới 13 tổ chức công an và mật vụ khác nhau (Joseph Buttinger,
Việt Nam:A Dragon Enmbattled (New York: Frederick A, Praeger, 1967, tr.
956). Trong cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Westminster, CA: Văn
Nghê, 1993, nơi trang 645, Cụ Đỗ Mậu cũng nói đến các tổ chức công an
này. Đây là là công cụ cho chính quyền sử dụng trong việc thi hành “chính
sách bất khoan dung” bằng bạo lực đối với đại khối nhân dân
thuộc các tôn giáo khác.
2.- Thi hành chính
sách bất khoan dung.- Chính sách dã man này đã được
Tòa Thánh Vatican chủ trương từ thời Trung Đại (Trung Cổ). Để có thể
thực hiện chủ trương này, Giáo Hội dùng hai phương cách:
2.1.- Đối với những
người đã nằm dưới quyền sinh sát của Giáo Hội mà còn bị tình nghi là
không tuyệt đối tin tưởng vào tín lý Kitô hay chế độ Giáo Hoàng
(papacy), Giáo Hội cho thiết lập các Toà Án Dị Giáo (Inquistions) cùng
với những dụng cụ tra tấn vô cũng ghê gớm và những hình phạt cực kỳ dã
man để khủng bố và trừng trị họ. Muốn biết rõ những hành động dã man và
các dụng cụ tra tấn nạn nhân của các Tòa An Dị Giáo này ghê gớm như
thế nào, quý vị hãy tìm đọc sách Công Giáo Chính Sử của Giáo-sư Trần
Chung Ngọc (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000) nơi các trang 99-117.
Ngoài ra, quý vị cũng có thể nhìn thấy tận mặt những dụ cụ tra tấn này ở
trong viện bảo tàng (Wax Museum) tại thành phố Victoria ở trên đảo
Vancouver thuộc (Canada) nằm sát cạnh tiểu bang Washington (Hoa Kỳ).
2.2.- Đối với những
người dân ở những vùng kế cận các quốc gia nằm dưới quyền kiểm soát của
chính quyền đạo phiệt và nếu chính quyền này ở thế mạnh, Giáo Hội sẽ cho
phát động các cuộc chiến gọi là thánh chiến (holy war) đem quân tấn công
đánh phá và chiếm đất với mục đích hủy diệt các nền văn hóa, văn minh
bản địa và cuỡng bức các dân tộc nạn nhân phải theo đạo Da-tô làm nô lệ
cho Giáo Hội.
2.3.- Đối với các
dân tộc xa xôi như ở các lục địa châu Phi, châu Mỹ, Châu Đại Dương và
Châu Á, Giáo Hội liên kết chặt chẽ và hùn hạp với các đế quốc Bồ Đào
Nha, Tây Ban Nha, Bỉ và Pháp đem quân đi đánh chiếm đất đai làm thuộc
địa để cùng chia lợi nhuận cùng khai thác tài nguyên và cùng nô lê hóa
người dân bản địa. Riêng về phần Tòa Thánh Vatican, vấn đề hủy diệt nên
văn hóa và văn minh của người dân bản địa được coi là quan trọng hơn cả.
Cũng nên biết,
trong việc cấu kết và hùn hạp làm ăn với các đế quốc thực dân xâm lược
trên đây, phần hùn của Giáo Hội gồm có (1) các tin tức tình báo chiến
lược tại các vùng mục tiêu, (2) các đạo quân thứ 5 gồm toàn những tín đồ
Da-tô bản địa tiềm phục ở trong các xóm đạo, sẵn sàng nổi lên tiếp ứng
khi hữu sự, và (3) nhân sự (tín đồ Da-tô bản địa) làm những công việc
đưa đường dãn lối, thông ngôn, phục vụ trong bộ máy đàn áp và cai trị
tại địa phương. Sự kiện này đã xẩy ra trong thời đoàn quân viễn chinh
của Liên Minh Pháp – Vatican tiến vào tấn chiếm Việt Nam khởi đầu vào
năm 1858 và thống trị nước ta cho đến năm 1945, được tái diễn trong
những năm Kháng Chiến 1945-1954. Rồi tiếp tục như vậy ở miền Nam từ
tháng 7/1954 cho đến ngày 30/4/1975.
Cho đến ngày nay
(tháng 3/2007), chủ trương thần quyền chỉ đạo thế quyền và chính sách
bất khoan dung dã man này vẫn còn được Giáo Hội La Mã và tín đồ Da-tô
triệt để thi hành nếu quyền hành chính trị lọt vào trong tay họ hay hoàn
cảnh cho phép. Bằng chứng là cho đến nay, Tòa thánh Vatican vẫn chưa hề
ban hành một sắc lệnh hay thánh lệnh nào khẳng định việc hủy bỏ chủ
trương và chính sách dã man này. Chúng ta biết rằng khi Hoa Kỳ muốn hủy
bỏ Tu Chính Hiến 18 (chủ trương cấm sản xuất và phân
phối rượu trên lãnh thổ Hoa Kỳ) được ban hành vào năm 1919 ,
Quốc Hội phải ban hành Tu Chính Hiến 21 trong đó nói rõ là hủy bỏ Tu
Chính Hiến 18 (Repeal of Amendment 18) được ban hành vào năm 1933.
Trong khi đó thi Tòa Thánh Vatican chưa hề ban hành một sắc lệnh nào để
hủy bỏ các sắc lệnh hay thánh lệnh Dudum cum ad nos (1436) và Rex Regum
(1443) do Giáo Hoàng IV (1431-1447) ban hành, các sắc lệnh Divino amore
communiti (1452) và Romanus Pontifex (8/1/1454) do Giáo Hoàng Nicholas V
(1447-1455) ban hành, sắc lệnh Inter caetera (1456) do Giáo Hoàng
Callistus III (1455-1458) ban hành, sắc lệnh Aeterni Regis (1481) do
Giáo Hoàng Sixtus IV (1471-1484) ban hành, và các thánh lệnh inter
caetera (3-4/5/1493), Eximiae devotionis (3/5/1493), Dudun siquidem
(23[26?]/9/1493) do Giáo Hoàng Alexander VI (1492-1503) ban hành. Vì
giới hạn của tập sách này, chúng tôi không thể ghi lại được hết tất cả
nội dung của các sắc lệnh hay thánh chỉ trên đây Tuy nhiên, chúng tôi có
thể khẳng định rằng các sắc lệnh hay thánh chỉ trên đây đều có nội dung
đại khái như sau:
“Sắc lệnh được
phát xuất từ nguyên lý rằng đất đai thuộc về Chúa Ki-tô, và người đại
diện của Chúa Ki-tô có quyền sử dụng tất cả những gì không do tín đồ của
Chúa chiếm hữu, những kẻ ngoại đạo không thể là kẻ chiếm hữu hợp lý bất
cứ một mảnh đất nào. Phần đất ban cấp nằm trong tay những kẻ ngoại đạo
đã mặc nhiên khiến cho họ phải tuân phục trước hạnh phúc lớn hơn, trước
việc họ đổi đạo dù tự ý hay bị cưỡng bách theo Luật Thiên Chúa.” Cao
Huy Thuần, Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam (Los
Angeles, CA: Hương Quê, 1988), tr 7.
Riềng về nội dung Sắc Lệnh Romanus
Pontifex do Giáo Hoàng Nicholas V (1447-1455) ban hành vào ngày 8/1/1454
được Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi trong cuốn Thập Giá Và Lưỡi Gươm với
nguyên văn như sau:
"...., quyền lợi của Bồ Đào Nha đã
được phân định rõ ràng trong sắc chỉ "Romanus Pontifex" do Đức (Giáo
Hoàng) Nicholas V (1447-1455) ra ngày 8 tháng Giêng năm 1454. Theo quyền
lực Chúa ban và quyền lực của Tòa Thánh, Đức Giáo Hoàng ban cho triều
đình Lisbon (Bồ Đào Nha) "toàn quyền tự do xâm lăng, chinh phục, chiến
đấu, đánh giặc và khuất phục tất cả các quân Sarrasins (tức người Ả
Rập), các dân ngoại đạo và các kẻ thù khác của Giáo Hội, gặp bất cứ nơi
nào: được toàn quyền chiếm cứ tất cả các vương quốc, lãnh địa, vương
hầu, đất đô hộ và tài sản của chúng; toàn quyền chiếm đoạt tất cả của
nổi và của chìm của chúng và bắt tất cả chúng nó làm nô lệ vĩnh viễn".
Khi ban quyền cho người Bồ Đào Nha
được chiếm mọi thứ lợi lộc kể trên, Giáo Hoàng đồng thời cũng muốn mở
mang nước Chúa sang các miền xa xôi. Và để nhà vua Bồ Đào Nha yên tâm
hơn, Giáo Hoàng ra lệnh cấm không một ai khác được phép đặt chân tới các
vùng đất ấy nếu không có phép của nhà vua, dành cho nhà vua độc quyền
buôn bán và ra vạ tuyệt thông tức khắc cho bất kỳ ai dám hành động ngược
lại." Trần Tam Tỉnh,
Thập Giá và Lưỡi Gươm (Paris: Sudestasie, 1978), trang 14-15
Lịch sử cho thấy
rằng, từ thời trung cổ (cũng gọi là trung đại) cho đến ngày nay, tất cả
các chế độ cha cố (đạo phiệt Da-tô) ở bất kỳ quốc gia nào cũng đều triệt
để tuân hành các sắc chỉ hay thánh lệnh trên đây. Cũng vì thế mà các
chính quyền này đã sử dụng bạo lực tối đa để bách hại những nhóm dân
thuộc các tôn giáo khác và tàn sát họ bằng trăm phương ngàn kế. Tại miền
Nam Việt Nam, trong thời gian 1954-1963, con số nạn nhân bị sát hại lên
đến hơn 300 ngàn người. Độc giả có thể kiểm chứng sự kiện này qua các
cuốn sách (1) Đảng Cần Lao của tác giả Chu Bằng Lĩnh (San Diego, CA: Mẹ
Việt Nam, 1993, tr. 133), (2) Thập Giá và Lưỡi Gươm của Linh-mục Trần
Tam Tỉnh (Paris: Sudestasie, 1978), tr.130-131) và Vịetnam why did we
go? của tác giả Avro Manhattan (Chino, CA: Chick Publication, 1984, tr.
117, (4) Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation của Nguyễn
Mạnh Quang (Houston, TX: Đa Nguyên, 2004), tr. 126-133.
Việc tàn sát người dân thuộc các thành
phần tôn giáo khác trong chế độ đạo phiệt Da-tô không phải chỉ xẩy ra ở
miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1963. Việc làm dã man như vậy của
Giáo Hội La Mã đã từng xẩy ra ở Âu Châu trong suốt thời trung cổ, ở
Châu Mỹ La-tinh, ở Phi Luật Tân và ở Phi Châu trong các thế kỷ 16, 17,
và 19, ở Croatia trong những năm 1941-1945 (trước miền Nam Việt Nam) và
ở Rwanda (Phi Châu) vào năm 1994 (sau miền Nam Việt Nam). Sự kiện này
chứng tỏ rằng ở bất kỳ thời đại nào và ở bất kỳ nơi nào, hễ có một tín
đồ Da-tô của Giáo Hội La Mã lên cầm quyền, thì việc thiết lập chế độ đạo
phiệt Da-tô và tàn sát những nhóm dân thuộc các tôn giáo khác là điều
tất nhiên không thể nào tránh được. Xin lấy trường hợp tên Da-tô Ante
Pavelich được Giáo Hội đưa lên cầm quyền ở Croatia qua việc cấu kết với
Đức Quốc Xã và Phát Xít Ý, chỉ vỏn vẹn vào khoảng bốn năm (1941-1945) và
chính quyền đạo phiệt cúa tên bạo chúa Da-tô này đã tàn sát tới 700 ngàn
người dân thuộc Chính Thống Giáo, Hồi Giáo và Do Thái Giáo trong một
quốc gia chỉ có hơn 2 triệu dân. Sự kiện này được sử gia Avro Manhattan
ghi lại với nguyên văn như sau:
"Trong thời kỳ Croatia là quốc gia độc
lập và lấy đạo Da Tô làm quốc giáo, có trên 700 ngàn đàn ông, đàn bà và
trẻ em bị giết hại. Nhiều người bị hành hình, bị tra tấn, bị bỏ cho chết
đói, bị thiêu sống và thiêu cho đến chết. Hàng trăm người bị cưỡng bách
phải theo đạo Da Tô (Thiên Chúa La Mã). Các ông linh-mục của Giáo Hội La
Mã làm quản giáo tại các trại tù tập trung; nhiều tu sĩ khác của Giáo
Hội là sĩ quan trong các đơn vị quân đội đã phạm tội ác tàn bạo. 700
ngàn trong tổng số dân có mấy triệu người tức là khoảng 1/3 dân số bị
các đoàn lính dân quân Da Tô giết hại." Nguyên văn: During the
existence of Croatia as an independent Catholic State, over 700,000 men,
women and children perished. Many were executed, tortured, died of
starvation, buried alive, or were burned to death. Hundreds were forced
to become Catholic. Catholic padres ran concentration camps; Catholic
priests were officers of the military corps which committed such
atrocities. 700,000 in a total population of a few million,
proportionally, would be as if one-third of the USA population had been
exterminated by a Catholic militia.”
Avro Manhattan, The Vatican’s Holocaust (Springfield, MO: Ozark
Book, 1988), tr. vii..
Muốn biết
chế độ đạo phiệt của bạo chúa Da-tô Ante Pavelich ở Croatia tham tàn,
bạo ngược và dã man như thế nào, xin quý vị đọc thêm Chương 11 với tựa
đề là “Về Chuyện Sợ Người Da-tô Giáo” trong sách Thực Chất Của Giáo Hội
La Mã - Quyển Một (Tacoma, WA TXB, 1999).
Vụ tàn sát dã man ở Rwanda vào năm
1994 được oe Lauria
của tờ The Boston Globe ghi
nhận là 800 ngàn người. Bài báo của ký giả này với tựa đề là
"U.N.'s inaction blamed for Rwanda killings" U.S. Belgium also
criticized in report on 1994 genocide in African country" được tờ
The News Tribune (Tacoma) số ra ngày Thứ Sáu 17/12/1999 đăng lại với
nguyên văn như sau::
"New York: Vì Liên Hiệp Quốc đã
không quan tâm đến những lời cảnh cáo nhắc đi nhắc lại về nạn tàn sát
người tập thể diến ra ở Rwanda vào năm 1994, khiến cho 800 ngàn người
Tutsisi và Hutus ôn hòa bi sát hại trong vòng chưa đầy 100 ngày. Đây
là bản báo cáo của một ủy ban độc lập vào ngày Thứ Năm (vừa qua).
Bản báo cáo nói
rằng, cộng đồng thế giới đã không ngăn chặn thảm trạng diệt chủng này và
cũng không ngăn chặn cái nạn này ngay từ khi nó bắt đầu xẩy ra. Sự việc
này bắt nguồn từ "sự thiếu tài nguyên và thiếu ý chí chính trị" cả
trước và sau khi thiểu số người Hutus tiến hành việc tàn sát người
Tutsus khởi đầu từ ngày 6 tháng 4 năm 1994.
Các chuyên viên điều
tra nói rằng, ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan, người cầm đầu
lực lượng duy trì hòa bình, Hoa Kỳ và Bỉ, tất cả đều phải chịu trách
nhiệm về việc không chặn đứng thảm trạng giết người diệt chủng này. Bản
báo cáo cho rằng Hoa Kỳ đã đặt vấn để tốn phí cho lực lượng duy trì hòa
binh lên trên việc cứu sồng sinh mạng con người và tố cáo Bỉ đã triệt
thoái quân đội quá mau, bỏ rơi hai ngàn người ở trường kỹ thuật và để
mặc cho nhiều người bị sát hại.
Bản báo cáo ghi nhận
lần thứ hai trong vòng hai tháng rằng Liên Hiệp Quốc nhìn nhận đã thất
bại, không thể chặn đứng được thảm trạng tàn sát tập thể này mà đáng
lý ra có thể ngăn chặn được. Trong một bản báo cáo nội bộ vào tháng 10,
Liên Hiệp Quốc đã nhận trách nhiệm về thảm trạng tàn sát hầng ngàn
tín đồ Hồi giáo người Bosnia trong năm 1995 ở Srebrebia, thuộc xứ Bosnia.
Trong lời tuyên bố
hôm Thứ Năm (vừa qua), ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Annan nói rằng,
"cả hai bản báo cáo - một của riêng tôi và một của ủy ban độc lập điều
tra ở Rwanda - phản ảnh sâu xa sự quyết tâm trình bầy sự thật về những
thảm trạng này." Ông đã yêu cầu cho điều tra vụ thảm sát ở Rwanda vào
tháng 3. Ban điều tra bắt đầu làm việc vào tháng 6. Ủy ban này do Thủ
Tướng Ingvar Carlson của nước Thụy Điển làm trưởng ban. Bản báo cáo dày
58 trang nói rằng lệnh của Hội Đồng An Ninh Liên Hiệp Quốc ban hành cho
lực lượng duy trì hòa bình ở Rwanda không đầy đủ và những điều ghi trong
đó không được rõ ràng. Bản báo cáo cũng nói rằng các viên chức Liên Hiệp
Quốc kể cả ông Tổng Thư Ký Annan đã không hành động gì sau khi nhận được
bằng chứng rõ ràng về vụ diệt chủng có kế họach rất là chu đáo, và ông
cựu trưởng đòan Liên Hiệp Quốc Boutros Boutros -Ghahi đã không thông
báo cho Hội Đồng An Ninh biết về tín tức này.
Trong lời tuyên bố
vào hôm Thứ Năm, ông Tổng Thư Ký Annan thú nhận rằng Liên Hiệp Quốc đã
khoanh tay đứng nhìn trong khi thảm trạng diệt chủng dưới một hình thức
thuần túy là tội ác ghê gớm nhất xẩy ra." Tất cả chúng tôi đềi cảm thấy
hối hận sâu xa vì rằng chúng tôi đã không làm gì hơn để ngăn chặn tội
ác này. Khi xẩy ra tội ác này có Quân Đội Liên Hiệp Quốc ở đó. Nhưng đạo
quân này lại không nhận được lệnh và cũng không được trang bị những thứ
cần thiết để thì hành nhiệm vụ ngăn chặn những hành động tội ác diệt
chủng này. Nhân danh Liên Hiệp Quốc, tôi nhìn nhận sự thất bại này và
xin bày tổ lòng hối tiếc và ân hận sâu xa của tôi về thảm trạng này."
(Đây là nguyên
văn bản tin này bằng Anh ngữ: "New York.- The United Nations
ignored repeated warnings of an impending massacre in Rwanda in 1994,
paving the way for an orgy of ethnic killing that left 8000,000
Tutsis and moderate Hutus dead in less than 100 days, in an
independent panel reported Thursday.
"The international
community did not prevent the genocide, nor did it stop the killing once
the genocide had begun," the report said. This stemmed from a "lack of
resources and political will" before and after the massacre of Tutsis by
the minority Hutus began Aptil 6, 1994.
U.N. Secretary
Geneal Kofi Annan, then head of U.N. peacekeeping forces, the United
States and Belgium all bear some responsibility for failing to stop the
genocide, the investigators said. The report suggested the United States
put controlling the cost of peacekeeping operations above saving lives
and accused Belgium of pulling its peacekeeping troops out too quickly -
at one point abandoning 2,000 people in a technical school and leaving
many of them to be murdered.
The findings marked
the second time in two months the U.N. has acknowledged failing to stop
mass killings that could have been prevented. In an internal report in
October, the U.N. accepted blame for the massacre of thousands of
Bosnian Moslem men in 1995 in Srebrenia, Bosnia.
"Both reports - my own on
Srebrenica and that of the independent inquiry on Rwanda - reflect a
profound determination to present the truth about these calamities,"
Annan said Thursday in a statement. Annan requested the inquiry into the
Rwanda massacre in March. The panel, which began work in June, was
headed by former Swedish Prime Minister Ingvar Carlson. The 58 page
report said the mandate the Security Council gave the U.N. peackeeping
force in Rwanda was inadequate and its rules of engagement unclear. It
said U.N. officials, including Annan, failed to act after receiving
direct evidence of a carefully planned genocide, and former U.N. chief
Boutros Boutros-Ghahi did not inform the Security Coincil of the
information.
In a statement
Thursday, Annan admitted the U.N. stood by during a genocide of the
"purest and most evil form."
"All
of us must bitterly regret that we did not do more to prevent it. There
was a United Nations force in the country at the time, but it was
neither mandated nor equipped for the kind of forceful action which
would have been needed to prevent or halt the genocide. On behalf
of the "U.N.', I acknowledge this failure and express my deep remorse."
Joe Lauria
(The Boston Globe) "U.N.'s inaction blamed for Rwanda killings"
The News Tribune [Tacoma] December 17, 1999.
So với con số nạn
nhân bị các chế độ cha cố sát hại ở Croatia và ở Rwanda, chúng ta thấy
con số nạn nhân bị chế độ cha cố Ngô Đình Diệm sát hại trong những năm
1954-1963 ít hơn rất nhiều, ít hơn một nửa (50%). Tuy nhiên, không phải
vì thế mà ta có thể kết luận rằng mức độ tham tàn, bạo ngược và dã man
của chế độ cha cố Ngô Đình Diệm và tín đồ Da-tô người Việt còn thua xa
mức độ tham tàn, bạo ngược và dã man tàn ngược của chế độ cha cố Ante
Pavelich ở Croatia trong những năm 1941-1945 và chế độ cha cố của
Giám-mục Augustin Misago ở Rwanda trong năm 1994. Dưới đây là lý do hỗ
trợ cho luận cứ này:
Thứ nhất, miền Nam Việt Nam và chính
quyền Da-tô Ngô Đình Diệm là do Hoa Kỳ tạo dựng nên, cho nên Hoa Kỳ có
trách nhiệm về những việc làm của chính quyền này. Đây là cái trách
nhiệm con dại cái mang. Vì thế mà Hoa Kỳ phải ngăn chặn những hành động
quá trớn của đứa con ngu xuẩn mà Hoa Kỳ đã sinh đẻ ra nó.
Thứ hai, sự hiện diện của Toà Đại Sứ
Hoa Kỳ, Phái bộ CIA, các phóng viên báo chí quốc tế và hơn 16 ngàn cố
vấn Mỹ ở miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ đã làm cho chính quyền Ngô Đình
Diệm, các ông giám mục, linh mục và giáo dân người Việt phải dè chừng,
không dám công khai tàn sát nhân dân miền Nam một cách quá lộ liễu và
trắng trợn. Dù vậy, chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm cũng đã sát hại
tới hơn 300 ngàn người.
"Giang sơn dị cải,
bản chất nan di." ngoại trừ những tín đồ Da-tô đã thức tỉnh như những
người trong Phong Trào Lý Trí (Age of Reason, 1500-1789) ở Âu Châu, hay
những tín đồ Da-tô người Việt như bác sĩ Nguyễn Văn Thọ, Giáo-sư Lý
Chánh Trung, Linh-mục Trần Tam Tỉnh, Linh-mục Nguyễn Thanh Sơn, học giả
Charlie Nguyễn (Bùi Văn Chấn), nhà báo Phạm Hữu Tạo, v.v…, bản chất
cuồng tín và chủ trương tàn sát những người thuộc các tín ngưỡng khác
của Giáo Hội La Mã và tín đồ Da-tô ngoan đạo ở bất cứ nơi nào cũng vẫn
nguyên vẹn. Cái bản chất ghê tởm này được thể hỉện ra qua cung cách hành
xử của chính quyền đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm cũng như của các ông tu
sĩ và tín đồ Da-tô ngoan đạo (cuồng tín) người Việt đối với những người
thuộc các tôn giáo khác ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975.
Các nhà viết sử đã ghi nhận những đặc tính hung dữ, háo chiến, tham tàn,
huênh hoang, và ác độc của họ giống như Giáo Hội La Mã và tín đồ Da-tô
Tây Ban Nha trong thời Trung Cổ.
Để kiểm chứng vấn
đề này,quý vị hãy:
A.- Đọc lá thư đề
ngày 25/2/1955 của ông Da-tô Nguyễn Văn Chức (Phát Diệm) gửi Thủ Tướng
Ngô Đình Diệm (đã ghi lại ở trên),
B.- Quan sát bản
chất cuồng tín của tín đồ Da-tô người Việt qua những thái độ lố bịch
trịch thượng cũng như những ngôn ngữ và hành động thô bạo của họ đối với
những người đồng hương thuộc các tôn giáo khác ở Bắc Mỹ từ năm 1975 cho
đến ngày nay,
C.- Hãy lấy việc sử gia Bernard B. Fall
nhận xét về đặc tính cuồng tín của ông Ngô Đình Diệm (đã trình bày đày
đủ trong tiểu mục 2, phần nói về Ảnh Hưởng của Những Quái Chiêu và Độc
Kế của Giáo Hội La Mã ở trên) : “Lòng tin đạo đã biến ông ta
thành con người hiếu chiến đến độ tàn nhẫn như một vị Đại Pháp Quan của
Tòa Án Dị Giáo trong thời Trung Cổ ở Tây Ban Nha.”. “một đứa con tinh
thần (của Giáo Hội La Mã) với niềm tin hung hăng, dữ tợn và hiếu chiến…”
(His faith is made less of the kindness
of the apostles than of the ruthless militancy of the Grand Inquisitor);
(A spiritual son of a fiercely aggressive and militant faith rather than
of the easygoing and tolerant approach of Gallican Catholicism.)
Bernard F. Fall, The Two Vietnams (New York: Frederick A. Praeger,
1964), p. 236.
D.- Nhìn vào cái
"bảng phong thần" do ông Da-tô Matthiew Trần (Houston, Texas) đã công bố
và phổ biến trong các diễn đàn điện thư từ mấy năm nay.
Ngoài ra, còn
nhiều trường hợp về những thái độ và hành động lố bị trịch thượng hung
hãn vi phạm nhân quyền của những tín đồ Da-tô người Việt ở Hoa Kỳ đối
với những người thuộc các tôn giáo khác và những nạn nhân gán cho là
làm lợi cho Cộng Sản có thể dùng làm cơ sở để suy nghiệm ra thảm trạng
của nhân dân miền Nam sống dưới ách thống trị của chế độ đạo phiệt Da-tô
trong những năm 1954-1975, đặc biệt là những người dân ở các tỉnh Thừa
Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Khánh Hòa, Biệt Khu Hải Yến và
tất cả những vùng kế cận với các trại định cư của tín đồ Da-tô Bắc Việt
di cư, và cũng là để nghiệm ra thảm cảnh của dân ta sau này NẾU chẳng
may mà có một tín đồ Da-tô lên nắm quyền lãnh đạo chính quyền. Dưới đây
là những vụ điển hình đã xẩy ra ở Hoa Kỳ từ năm 1995 cho đến năm 2004
để chúng ta có thể căn cứ vào đó để suy nghiệm ra cung cách hành xử của
tín đồ Da-tô người Việt nếu vì một hoàn cảnh nào họ lại được đưa lên nắm
quyền lãnh đạo đãt nước như những năm 1954-1975 ở miền Nam Việt Nam:
a.- Tháng 8/1995: Một nhóm tín đồ
Da-tô người Việt cố gắng phá thối buổi ra mắt cuốn sách Đối Thoại
Với Giáo Hoàng John Paul II do anh em trong nhóm Giao Điểm tổ chức
ở Westminster, California vào ngày 19/8/1995.
b.- Tháng 6/1996: Một nhóm tín đồ
Da-tô do các ông Bùi Bỉnh Bân, Đoàn Thế Cường và Vạn Võ Hành Khuyên dẫn
đầu đến chùa Việt Nam ở Garden Grove, California vào thượng tuần
tháng 6 năm 1996 để hạch sách thày Pháp Châu về điều mà họ cho rằng
nhà sư này có “thái độ thân Cộng”.
c.- Từ năm 1996:.-Từ khi cuốn băng
Thúy Nga Paris 40 được phát hành vào năm 1996, bộ máy các cơ quan truyền
thông do những tín đồ Da-tô là chủ mở những chiến nhục mạ nhà văn Nguyễn
Ngọc Ngạn, MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên . Rồi từ đó, các ca sĩ như Hương Lan,
Ái Vân, Băng Kiều, Thanh Tuyền, Thanh Lan, Ngọc Huyền, Hồng Nhung, Trần
Thu Hà, Thu Phương, Lam Trường, Phương Thanh, v.v…,tất cả cũng đã trở
thành nạn nhân của bọn người cuồng nô vô tổ quốc này. Tệ hại hơn nữa, cả
những người ái mộ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng bị “đàn con Chúa ngoan
đạo của Chúa Jesus” ghét cay ghét đắng và bị chụp mũ là thân Cộng
hay Cộng Sản nằm vùng.
d.- Ngày 20/12/1997: Một nhóm tín đồ
Da-tô mưu đồ phá thối buổi hội thảo văn hóa của anh em văn nghệ sĩ Bắc
Mỹ do Tiến-sĩ Vũ Ngự Chiêu và người viết tổ chức tại Seattle, Washington
vào ngày 20/12/1997.
e.- Tháng 5/1998: Một nhớm tín đồ
Gia-tô tổ chức và tham dự vụ biểu tình và bao vây ngôi chùa Đức Viên ở
San Jose khởi đầu vào buổi chiều ngày 18/5/1998 và kéo dài trong nhiều
ngày, khi Đại Lão Hòa Thượng Thích Dũng từ Việt Nam qua Hoa Kỳ tham quan
và lưu trú tại đây.
f.- Năm 1998: Tín đồ Da-tô và phần tử
được ưu đãi trong các chính quyền miền Nam Việt Nam trong những năm tổ
chức những vụ biểu tình thị uy và khủng bố tinh thần ông Trần Trường chủ
tiệm cho muớn băng Video tại thành phố Westminster, California trong
nhiều ngày vào năm 1998 (?) khi ông này trưng hình ông Hồ Chí Minh và lá
cờ đỏ sao vàng ở trong cửa tiệm của ông ta. Trong khi đó, hàng năm cứ
đến ngày 1/11, tín đồ Da-tô người Việt tại các địa phương ở Bắc Mỹ tổ
chức lễ giỗ tên Da-tô tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm một cách vô cùng
rầm rộ thì chẳng có ai nói gì cả.
g.- Tháng 7 năm 2001: Bà Minh Anh
Hodge, Giám đốc Chương Trình ESL, Ngoại Ngữ và Tiểu Học tại Nha Học
Chánh Tacoma, Washington cũng trở thành nạn nhân của các ông “thà mất
nước, chứ không thà mất Chúa” chỉ vì, khi được mời thuyết trình về
đề tài Người Việt Tị Nạn Ở Washington vào cuối tháng 4/2000 tại Tacoma
Community College (kỷ niệm 25 năm của nguời Việt tị nạn), bà đã cho
trình chiếu nhiều tấm hình về cuộc chiến Việt Nam trong đó có tấm hình
Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, hình Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan đang
nhắm bắn một tù nhân với hai tay bị trói quặp lại sau lưng và hình em bé
Kim Phúc bị cháy phỏng bởi bom lửa (Napalm) với thân hình trần truồng
vừa chạy vừa khóc trong kinh hoàng. (Độc giả có thể kiểm chứng sự
kiện này bằng cách tiếp xúc với bà Minh Anh Hodge hay các nhân viên
trong ban giảng huấn ESL hoặc nhân viên văn phòng ESL và Ngoại Ngữ tại
Sở Học Chánh Tacoma).
h.- Tháng 7/2003: Tín đồ Da-tô người
Việt biểu tình vớimưu đồ phá thối buổi ra mắt cuốn sách Trả Ta Sông
Núi của Cựu Đại Tá Phạm Văn Liễu được tổ chức ở San Jose,
California vào tháng 7/2003.
i.- Tháng 4 và tháng 5/2004: Ông Da-tô
Nguyễn Xuân Tùng hai lần chỉ huy đoàn người đồng đạođến bao vây ngôi
Chùa Việt Nam ở Garden Grove, California với mục đích khủng bố tinh thần
thày Thích Pháp Châu vì rằng nhà sư này vừa là chủ bút tạp chí Hoa Sen
vừa là trưởng ban điều hành Đài Phát Thanh Quê Hương Việt Nam: Lần thứ
nhất xẩy ra vào 27/10/2002 và lần thứ hai xẩy ra vào ngày ngày 24/4/2004
kéo dài tới ngày 31/5/2004 (tất cả là 55 ngày), trong đó có ngày đại lễ
Phật Đản vào ngày 30/5/2004.
(Độc giả có thể kiểm chứng sự
kiện này bằng các tiếp xúc với thày Pháp Châu ở ngôi chùa này).
j.- Tết Giáp Thân 2004: Trong dịp này,
ông Nguyễn Cao Kỳ về thăm Việt Nam. Thế là bộ máy các cơ quan truyền
thông của “những người con của Chúa Bố Jehovah, Chúa Con Jesus lòng lành
vô cùng” mở chiến dịch chửi bới hạ nhục ông Kỳ và những người Việt hải
ngoại về thăm quê hương bằng những ngôn từ Da-tô cực kỳ vô giáo dục.
Điển hình là vụ tổ chức một buổi lễ tẩy chay ông Kỳ. Rồi mới đây lại có
thêm một nạn nhân nữa là nhạc sĩ Phạm Duy. Những hành động vừa vô học
vừa độc tài này còn tệ hơn chế độ Phát xít Ý và Đức Quốc Xã.
Những nạn nhân của muời (10) trường
hợp trên đây đều bị gán cho là "Cộng Sản" hoặc "Công Sản nằm vùng" hay
"tiếp tay cho Cộng Sản" và “cán bộ tuyên vận của Cộng Sản”. Những sự
kiện này chứng tỏ rằng tín đồ Da-tô người Việt, “những người con Chúa
toàn thiện và lòng lành vô cùng” bất chấp cả các quyền tự do tư
tưởng, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tôn giáo, tự do di chuyển,
v.v… của mọi người được hiến pháp và luật pháp Hoa Kỳ triệt để bảo vệ.
Ta có thể coi những
trường hợp trên đây như là những tài liệu sống để có ý niệm rõ ràng về
những đặc tính hung hăng, dữ
tợn, hiếu chiến, tham tàn, ngược ngạo và dã man của tín đồ Da-tô người
Việt, rồi từ đó chúng ta có thể
nhìn ra thảm cảnh của nhân dân miền Nam nằm dưới ách thống trị tham tàn
và bạo ngược của các chính quyền đạo phiệt Da-tô trong những năm
1954-1975.
Chính vì Toà Thánh Vatican có chủ
trường thần quyền chỉ đạo thế quyền và quyết tâm thi hành chính sách bất
khoan dung đối với những tín đồ Da-tô còn nghi ngờ những tín lý Ki-tô
hay không tỏ ra tuyệt đối trung thành với giáo hoàng, chính vì
việc Tòa Thánh Vatican ban hành các sắc lệnh hay thánh chỉ bạo ngược
nặng tính cách khủng bố và ăn cướp (như đã trình bày ở trên) và đòi hỏi tín đồ của Giáo
Hội phải theo đó mà hành xử vào khi nắm được quyền lực ở trong tay,
chính vì Giáo Hội có chủ trương đem quân đi tấn chiếm các quốc gia
có các nhóm dân tộc thuộc các tôn giáo khác để “làm sáng danh Chúa”
bằng bạo lực, tàn sát họ hay cưỡng bách họ làm nô lệ và hủy diệt hết tất
cả nền văn hóa và văn minh của họ, chính vì các nhà lãnh đạo các
chế độ đạo phiệt Da-tô luôn luôn hăm hở và hăng say thi hành triệt để
những sắc lệnh hay thánh lệnh quái đản trên đây để phục vụ cho tham vọng
bá quyền của Giáo Hội trong mưu đồ thống trị toàn cầu và nô lệ hóa nhân
loại, chính vì giáo Hội đã biến người dân hiền lành thành những
tídn đồ Da-tô hung dữ, hiếu sát, khát máu, tham tàn, ngược ngạo và dã
man đối với những người thuộc các tôn giáo khác, chính vì con số
nạn nhân đã bị Giáo Hội và tín đồ của Giáo Hội sát hại trong gần hai
ngàn năm qua lên tới trên 250 triệu, cho nên văn hào Voltaire mới gọi
đạo Da-tô là “Cái Tôn Giáo Ác Ôn” học giả Henri Guillemin mới gọi
Giáo Hội La Mã là “Cái Giáo Hội Khốn Nạn” (L’Église Malheureuse)
, học giả Charlie Nguyễn mới gọi “đạo ác ôn” này là “Đạo Máu”
và “Đạo Bịp” Charlie Nguyên, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm
(Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000), tr. 272 và 278, và nhà báo Long Ân
mới đưa ra nhận xét về “cái Giáo Hội Khốn Nạn” này với nguyên
văn như sau:
“Con người đã
nhân danh tôn giáo để làm những chuyện điên cuồng nhất, đã nhân danh tôn
giáo để biện minh cho quyền lực phi nhân áp đặt lên đầu kẻ khác. Con
người đã phản lại tôn giáo, đã chặt đứt cây cầu đưa đến cuộc tìm kiếm
chính mình, đã cúi đầu đi trên bốn chân để từ con người trở về với nguồn
gốc của con người súc sinh.” Nguyễn Mạnh Quang, Việt Nam Đệ Nhất
Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000), tr. 340.
Phần trình bày trên
đây cho chúng ta thấy rằng trong tương lai, nếu vì một hoàn cảnh nào đó
mà tín đồ Da-tô (Công Giáo) có cơ hội lên nắm chính quyền ở Việt Nam,
chắc chắn là sẽ có cuộc tắm máu vô cùng khủng khiếp, và con số nạn nhân
sẽ không giới hạn ở một vài ba triệu người mà phải lên đến hàng chục
triệu người. Nạn nhân đầu tiên tất nhiên là mấy triệu đảng viên Cộng Sản
và thân nhân ruột thịt của họ. Nạn nhân kế tiếp là những người đã từng
tham gia hai cuộc chiến giải phóng dân tộc 1945-1954 và giải phóng miền
Nam 1954-1975 cùng với thân nhân ruột thịt của họ. Kế tiếp là những
người tham gia vào các phong trào chống đối chính quyền đạo phiệt Da-tô
Ngô Đình Diệm trong những năm 1954-1963 và thân nhân ruột thịt của họ sẽ
được chiếu cố tận tình. Tiếp theo là những người viết sử và những người
cầm bút đã từng có những bài viết hay ấn phẩm nói lên những sự thật về
những việc làm dã man tàn ngược của Giáo Hội La Mã trong gần hai ngàn
năm qua và của các chính quyền đạo phiệt Da-tô ở miền Nam trong những
năm 1954-1975. Tất cả những người này đã được ông Da-tô Matthew Trần ở
Houston (Texas) ghi vào sổ phong thần của ông ta rồi. Có thể còn có
những ông Da-tô người Việt khác cũng đã thiết lập sổ phong thần tương
tự.
3.- Nắm hết các phương tiện sản
xuất và khống chế hết tất cả phạm vị sinh hoạt trong xã hội.- Chủ
trương của Giáo Hội đã được trình bày trong phần nói về Những Quái Chiêu
Và Độc Kế (tiểu mục 4) ở trên. Xin xem lại tiểu mục này. Chủ trương này
được ghi rõ ràng thành văn bản trong lý thuyết thần học Ki-tô của Giáo
Hội. Lý thuyết thần học lưu manh này đã tạo nên lý do thuận lợi cho tu
sĩ và tín đồ Da-tô thao túng chính quyền để cướp đoạt tài sản quốc gia
và phóng tay bóc lột nhân dân. Tại miền Nam Việt Nam, trong những năm
1954-1975, chính quyền đã bị các ông tu sĩ và tín đồ Da-tô thao túng để
vơ vét và bốc hốt tận tình. Dưới đây là một số những nhân vật lẫy lừng
về vấn đề này mà nhân dân miền Nam trong thời bấy giờ ai cũng biết:
3.1.- Bà Cả Lễ và
ông Ngô Đình Cẩn nắm độc quyền cung cấp gạo cho miền Trung rồi tự ý tăng
giá gạo để cắt cổ người dân, nắm độc quyền bao thầu cung cấp thực phẩm
cho các trung tâm huấn luyện binh sĩ, các trường sĩ quan và hạ sĩ quan
trong toàn lãnh thổ. Ngoài ra, ông Cẩn còn nắm độc quyền bao thầu các
dịch vụ xây cất các doanh trại cho quân đội và các cơ sở của chính
quyền.
3.2.- Giám-mục Phạm
Ngọc Chi lãnh 38 triệu đô la tiền viện trợ Mỹ để tùy nghi sử dụng.
3.3.- Linh-mục Đinh
Xuân Hải nổi tiếng về vụ bắt nạt dân trong vùng Phú Thọ Hòa (Tân Bình,
Gia Định) và ăn cướp đất của dân ở đây. Đó là chưa nói đến những vụ ăn
cắp hàng hóa Mỹ của ông linh mục này và tay chân của ông ta. Báo chí Sài
Gòn trong thời gian này đã tường thuật rõ ràng về việc Linh-mục Hải sai
tay chân dùng thanh gỗ đóng đinh 10 phân đánh túi bụi lên thân thể một
Thiếu tá phòng vệ an ninh phi cảng Tân Sơn Nhất, khi ông Thiếu tá này
phát hiện ra hành động ăn cắp hàng hóa PX Mỹ, giây kẽm gai, cọc sắt từ
phi trường Tân Sơn Nhất được tàng trữ tại xóm đạo của ông ta. Ông Thiếu
tá Không quân này phải nằm điều trị tại nhà thương gần nửa năm trời vẫn
chưa bình phục. Trong khi đó Linh mục Hải và bọn thủ túc vẫn lên mặt
vênh váo nhậu Martell với thịt cầy, tuyên bố "thằng nào không biết điều
thì cứ nhìn cái gương thằng Ng.” [tên vị Thiếu tá bị hành hung]."
3.4.- Linh-mục Vũ
Thạch Nghi ở Bình Thủy (Cần Thơ) đồng mưu với môt ông tá Không Quân họ
Ôn ở căn cứ Không Quân Bình Thủy về vụ ăn cắp một chiếc xác máy bay đem
bán, bị phát giác.
3.5.- Linh-mục
Nguyễn Lạc Hóa nổi tiếng là một lãnh chúa áo đen ở Biệt Khu Hải Yến (Cà
Mâu).
3.6.- Linh-mục Tô
Đình Sơn nổi tiếng trong các chiến dịch "làm sáng danh Chúa" và tàn sát
hàng chục ngàn nạn nhân ở Phú Yên.
3.7.- Linh-mục
Nguyễn Bá Lộc, một lãnh chúa áo đen khét tiếng ở Cái Sắn về những hành
động bắt nạt dân bên lương trong vùng và làm học bạ giả, rồi ép hiệu
trưởng Trường Trung Học Nguyễn Trung Trực (Rạch Giá) phải ký tên ở dưới
trong những học bạ này để bán cho khách hàng.
3.8.- Linh mục Trần
Đình Vận khét tiếng là một hung thần ở Dốc Mơ, Long Khánh về thành tích
bắt nạt dân bên lương ở vùng kế cận và bóc lột đồng bào, xây ngôi nhà
thờ lớn nhất miền Nam Việt Nam.
3.9.- Linh-mục Tông
ở Chương Thiện là một trong những hung thần đối với người dân bên lương
ở các vùng chung quanh.
3.10.- Linh-mục Cao
Văn Luận nắm độc quyền trong dịch vụ cho sinh viên xuất ngọai du học và
cấp học bổng cho sinh viên du học.
3.11.- Linh-mục Mai
Ngọc Khuê quản nhiệm họ đạo Tân Sa Châu (Tân Bình, Gia Định) có liên hệ
chặt chẽ với các tổ chức công an, mật vụ trong chính quyền đạo phiệt
Da-tô Ngô Đình Diệm và cũng là người phụ trách việc tuyển mộ và cung cấp
nhân sự vào làm việc trong các tổ chức ác ôn này cũng như đặc trách việc
tuyền mộ những giáo dân xung vào các đội biệt kích gửi đi hoạt động phá
hoại ở miền Bắc.
3.12.- Linh-mục
Trần Dzu và Linh-mục Nguyễn Quang Lãm là hai tên hung thần trong ngành
báo chí, và cũng là cán bộ tuyên truyền của Giáo Hội và của chế độ.
3.13.- Giám-mục
Nguyễn Văn Thuận nắm độc quyền tiếp nhân tiền viên trợ nhân đạo của
Liên Hiệp Quốc và của các quốc gia tiền tiến viện trợ cho miền Nam.
Ngoài ra ông là người chủ mủ mưu trong vụ, ăn cắp vỏ đồng đại bác đem
bán lấy một số tiền lên đến 800,000,000 (8 trăm triệu đồng.)
3.14.- Bà Ngô Đình
Nhu nắm độc quyền bao thầu cung cấp quân nhu và văn phòng phẩm cho quân
đội và chính quyền. Những năm 1957-1960, một cái bút chì lọai số 02 giá
ở ngoài thị truờng là 02 đồng, giá thành tính với chính phủ (tiền viện
trợ Mỹ) là 20 đồng.
3.15.- Ông Ngô Đình
Nhu và sau đó Tướng Ngô Du nắm độc quyền buôn bán thuốc phiện và bạch
phiến từ miền Trung chuyển vận về Chợ Lớn phân phối.
3.16.- Tướng Đỗ Cao
Trí nổi danh về tội ác cướp đoạt vợ người, ăn cướp, vơ vét của dân vào
những khi hành quân. Theo một nhân chứng, có lần ông Trí còn định bắt
một ông Tướng Tư lệnh Sư đoàn phải nạp tiền; nhưng ông này không chịu.
3.17.- Tướng Nguyễn
Văn Toàn nổi tiếng về tham nhũng, được báo chí miền Nam phong cho tước
"Quế Tướng quân" trong thời gian nắm Tư lệnh Sư đoàn 2. Thành tích hãm
hiếp gái tơ của "Quế Tướng quân" cũng lừng danh thiên hạ.
3.18.- Tướng Đặng
Văn Quang nổi tiếng về việc cầm đầu đường dây buôn bán thuốc phiện và
bạch phiến trong những năm sau khi ông Nguyễn Văn Thiệu được Hoa Kỳ và
chân tay của Giáo Hội La Mã đưa lên làm tổng thống.
3.19.- Ông Nguyễn
Văn Bửu (em chồng của một người chị hay em của ông Ngô Đình Diệm), tay
đầu nậu kinh tài của Đảng Cần lao, nắm độc quyền các đường hàng hải chạy
trong nước và quốc ngoại, độc quyền dịch vụ khai thác quế và tôm đông
lạnh. Sau năm 1963, tài sản của Bửu được Tướng Edward Lansdale ước lượng
vào khoảng 400 triệu Mỹ Kim; nhưng chẳng hiểu lọt vào tay ai.
3.20.- Bác sĩ Trần
Kim Tuyến, Giám Đốc cơ quan mật vụ “Sở Nghiên Chính Trị và Xã Hội Phủ
Tổng Thống” cũng là một tay kinh tài khác của Đảng Cần Lao ở miền Nam,
có liên hệ mật thiết với dịch vụ buôn bán thuốc phiện và bạch phiến của
Ngô Đình Nhu, nắm độc quyền xuất cảng lông vịt, v.v...
3.21.- Vụ "Còi Hụ
Long An" trong thời quân phiệt Da-tô Nguyễn Văn Thiệu đã đi vào lịch sử.
Tệ trạng tham nhũng
ở miền Nam trong những năm 1954-1975 đều được rất nhiều tác giả nói đến
trong các tác phẩm của họ. Đó là những ấn phẩm Thập Giá và Lưỡi Gươm
Linh-mục Trần Tam Tỉnh (Paris, Sudestasie, 1978), Việt Nam Máu Lửa Quê
Hương Tôi của cụ Đỗ Mậu (Wesminster, Caliifornia, Văn Nghệ, 1993), Việt
Nam: Một Trời Tâm Sự của cựu Tương Nguyễn Chánh Thi (Los Alamitos,
California, 1987), Công Và Tội của ông Nguyễn Trân (Los Alamitos,
California, 1992), Cõi Phúc Và Giây Oan Tập Một của nhà văn J. Ngọc
(Houston, TX., Văn Hóa, 1995), Nhật Ký của Đỗ Thọ (Sàigon, Đồng Nai,
1970), v.v… Rất nhiều sách báo của các tác giả người Âu Mỹ cũng nói đến
tệ trạng tham nhũng ở miền Nam Việt Nam thời bấy giờ.
Trong cuốn The
Politics of Heroin Southeast Asia (New York: Harper Colophon Books,
1972), tác giả Alfred W. McCoy dành hẳn Chương 5 gồm 78 trang (149-222)
nói về chuyện làm ăn trong đường dây buôn bán nha phiến do chính những
nhân vật cao cấp trong chính quyền chủ trương và điều khiển từ nhập cảng
đến phân phối và mở tiệm bán sỉ, bán lẻ và các tiệm hút công khai ở
trên toàn lãnh thổ đặc biệt là ở Sàigòn và Chợ Lớn. Trong cuốn sách này,
tác giả Alfred W. McCoy nêu lên đích danh của những nhân vật cao cấp
trong các chính quyền miền Nam. Đó là những băng đảng như: băng đảng
nhà Ngô (Diem’s Dynasty and the Nhu Bandit) với các tổ chức công
an, mật vụ do chính Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến trực tiếp chỉ huy;
băng đảng Nguyễn Cao Kỳ (The New Opium Monopoly) với những nhân vật
như Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tướng Vĩnh Lộc, Tướng Lê Nguyên Khang, Thủ
Tướng Nguyễn Văn Lộc, Đại Tá Lưu Kim Cường, bà Nguyễn Thị Lý (chị ruột
ông Nguyễn Cao Kỳ) v.v…; băng đảng Nguyễn Văn Thiệu (Thieu takes
command) với Tướng Đặng Văn Quang, Tướng Hoàng Xuân Lãm, Tướng Lữ Lan,
Tướng Nguyễn Văn Toàn, Đề Đốc Chung Tấn Cang, Phó Đề Đốc Lâm Nguyên
Tánh, Hải Quân Đại Tá Nguyễn Thanh Châu, Hải Quân Đại Tá Diệp Quang
Thùy, Hải Quân Đại Tá Nguyễn Hữu Chí,Tướng Nguyễn Văn Minh, Tướng Trần
Văn Hai; v.v…; băng đảng Trần Thiện Khiêm (The Khiem Appartus:
All in the family) với những tên tuổi như Tướng Đỗ Kiến Nhiễu, Tướng
Trần Thanh Phong, Trần Thiện Khởi, Đại Tá Trần Thiện Thanh, Giám Đốc Nha
Thương Cảng Sàigòn Trần Thiện Phương; đặc biệt là có cả băng đảng dân
biểu Quốc Hội ở Hạ Viện (The Lower House: Heroin Junkets), gồm những
thành viên của Khối Độc Lập mà hầu hết là những dân biểu người Công Giáo
Bắc Kỳ di cư như dân biểu Nguyễn Quang Luyện (trưởng khối), Phạm Hữu
Giáo, Phạm Chí Thiện, Võ Văn Mầu, Hoàng Thông, Nguyễn Văn Chinh.
Tình trạng
các ông tu sĩ Da-tô và các ông tướng tá làm mưa làm gió trên sân khấu
chính trị, thao túng chính quyền để tham nhũng và buôn bán nha phiến
thời bấy giở đã làm nẩy sinh ra thành ngữ “Nhất đĩ nhì cha, tam sư
tứ tướng”.
4.- Cái
nhìn của nhân dân đối với những người lãnh đạo của chính quyền miền Nam
Việt Nam.- Miền Nam Việt Nam
được Liên Minh Mỹ- Vatican cho ra ra đời vào ngày 20/7/1954 và rã đám
vào ngày 30/4/1975. Trong thời gian này, miền Nam có 7 người lãnh đạo
chính quyền. Đó Là các ông Bảo Đại đã được Liên Minh Pháp – Vatican đưa
lên cầm quyền từ ngày 2/6/1948 bị Ngô Đình Diệm truất phế vào ngày
23/10/1955), Ngô Đình Diệm (7/7/1954-1/11/1963), Dương Văn Minh
(2/11/1963-30/1/1964), Nguyễn Khánh (30/1/1965-19/2/1965), Phan Khắc Sửu
(19/2/1965-19/6/1965), Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ
(19/6/1966-3/9/1967) và Nguyễn Văn Thiệu (3/9/1967-30/4/1975). Thời gian
cầm quyền của các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Phan Khắc Sửu và
Nguyễn Cao Kỳ vừa quá ngăn ngủi, vừa bị bọn cuồng nô Da-tô dùng trăm
phương ngàn kế để chống đối, phá rối và triệt hạ bằng mọi giá. Trong
thời gian này, bọn đầu nậu tay sai của Giáo Hội huy động tất cả các giáo
dân trong các đoàn thể như Hội Thánh Giuse Lao Công, Hội Nghĩa Binh, Hội
Con Đức Mẹ, Công Giáo Tiến Hành, Đạo Binh Xanh, Đoàn Thiếu Nhi Thánh
Thể ở các khu chung quanh Sàigòn và các vùng lân cận như các trại định
cư Tân Sa Châu, Xóm Mới, Bùi Môn, Gò Vấp, Bình Trưng (Tân Lập), Tam Hà,
Tân Hiệp, Hố Nai, Gia Kiệm, Dốc Mơ, Xuân Lộc, Bình An, v.v…. đưa về
Sàigòn tham dự vào các cuộc biểu tình chống đối bất kỳ chính quyền nào
không có tín đồ Da-tô nắm vài trò lãnh đạo, đặc biệt là họ nhắm vào các
ông Dương Văn Minh, Nguyễn Chánh Thi, Phan Huy Quát, Phan Quang Đán,
v.v…. Hăng say và hung dữ nhất trong các đoàn thể này là Lực Lượng Đoàn
Kết dưới quyền chỉ huy của Linh-mục Hoàng Quỳnh và ông Da-tô Nguyễn Gia
Hiến (anh ruột ông Da-tô Nguyễn Gia Kiểng). Qua mục tiêu tranh đấu và
khẩu hiệu “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa” của họ, chúng ta
thấy những hành động của họ đúng như lời các nhà truyền giáo đã dạy dỗ
họ ngay từ khi họ trở thành tín đồ Da-tô. Lời dạy dỗ này được cụ Nguyễn
Xuân Thọ ghi lại trong cuốn Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống
Thuộc Địa Pháp ở Việt Nam – 1858-1897 với nguyên văn như sau:
“Các
vị truyền giáo còn yêu cầu họ đừng thừa nhận quyền lực nhà Vua và luật
pháp nước họ.“Đức Giáo Hoàng ở La Mã mới là vị vua tối cao duy
nhất của họ, họ chỉ biết tuân phục quyền lực của Tòa Thánh Vatican.”
Nguyễn Văn Thọ, Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp
ở Việt Nam – 1858-1897 (Saint Raphael, Pháp, TXB, 1994), tr. 17.
Chính
trong thời gian này, một trong những người chỉ huy giáo dân trong các
cuộc biểu tình ở Sàigòn là Linh-mục Hoàng Quỳnh đã đưa ra khầu hiệu quái
đản “Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa” nhằm để khích động đám
con chiên cuồng tín tham dự các cuộc biểu tình hăng say nghe theo lệnh
truyền của ông ta. Sự kiện này được nhà viết sử Chu Văn Trình ghi nhận
như sau:
“Ngày
28/8/1964, ….Linh-mục Hoàng Quỳnh (Tổng Quỳnh) xách động các phần tử
cuồng tín từ các trại định cư Xóm Mới, Hố Nai, Gia Kiệm, Bùi Môn biểu
tình trước Bộ Tổng Tham Mưu đòi hỏi yêu sách phục quyền cho các phần tử
Cần Lao với khẩu hiệu: “Thà mất nước, không thà mất Chúa”, “Đả đảo
Dương Văn Minh”. Chu Văn Trình, Văn Sử Địa (Tavares, Fl: Ban
Tu Thư Tự Lực, 1989), tr.80.
Như vậy,
nói đến những người lãnh đạo miền Nam, chúng ta chỉ nên nói đến ba
người đáng kể là các ông Bảo Đại, Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu.
Cả ba ông
này đều là những người đã có thành tích làm Việt gian bán nước cho Liên
Minh Pháp – Vatican trong thời 1884-1954, và đều do Vatican và Pháp hay
Hoa Kỳ chọn lựa rồi đưa lên cầm quyền để phục vụ cho quyền lợi của
Vatican và Pháp hay Hoa Kỳ, chứ không phải do nhân dân Việt Nam chọn lựa
rồi đưa lên lãnh đạo để phục vụ cho quyền lợi của dân tộc Việt Nam. Sự
kiện này hoàn toàn khác hẳn với các nhà lãnh đạo chính quyền Tây Đức và
chính quyền Nam Hàn (sau ông Tổng Thống Da-tô Lý Thừa Vãn bị lật đổ).
Với những
sự thật như đã nêu lên trên đây, thiển nghĩ rằng, dưới mắt người Việt
Nam và nhân dân thế giới, cả ba ông Bảo Đai, Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn
Thiệu đều bị coi là những tên Việt gian đầu sỏ làm tay sai cho liên quân
giặc xâm lăng Pháp – Vatican và đều bị nhân dân Việt Nam khinh rẻ và
nguyền rủa đời đời.
Vì cả ba
ông này đều là tín đồ Da-tô và đều do sự sắp đặt của Giáo Hội La Mã hay
tu sĩ Da-tô đưa lên cầm quyền, cho nên miền Nam Việt Nam mới có “Vấn nạn
Giáo Hội La Mã”. Trong khi đó, tại Tây Đức, các nhà lãnh đạo của chính
quyền Tây Đức là do nhân dân Đức tuyển chọn qua một cuộc bầu cử được tổ
chức đúng như các quốc bầu cử tự do, bỏ phiếu kín tại các nước tự do
khác ở Bắc Mỹ và Tây Âu. Tại Nam Hàn, ngoại trừ thời gian từ năm 1948
đến ngày 27/4/1960 dưới quyền bạo chúa Da-tô Lý Thừa Vãn, các nhà lãnh
đạo đều do quân đội hay quân dân Nam Hàn chọn lựa đưa lên cầm quyền và
kể từ ngày 27/4/1960, quốc gia này coi như là không còn có vấn nạn Giáo
Hội La Mã nữa.
Các bài cùng tập
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Phụ Lục 1: Vì sao bỏ nước ra đi - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Khi Nhà Văn... - Lời Mở Đầu - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Bối Cảnh Lịch Sủ của Ba Nước - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - Khi Nhà Văn... - Thư Ngỏ - đoạn 2 - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - Khi Nhà Văn... - Thư Ngỏ - đoạn chót - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Nội Tình của Ba Nước - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Phụ Lục 2: Sai Lầm Trong Cuốn 1945-1995.. - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Sai Lầm Trong Cuốn "Xóm Đạo" - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Nếu Miền Bắc Không Tấn Công - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Chuyện giáo dân bị sát hại - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Đạo Công Giáo và Thực Dân - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Tiền Lương Quân Nhân Công Chức - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Việc kèm ghép các vị sư - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Trường Hợp Bắc Hàn - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Thư Ngỏ - đoạn 1 - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ ▪
Trang Nguyễn Mạnh Quang