KHI NHÀ VĂN LẠM BÀN LỊCH SỬ
- Nguyễn Mạnh Quang -
http://sachhiem.net/NMQ/KNV/Thungo.php
10-07-2008
Toàn tập:
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
MỘT SỐ SAI LẦM CỦA NHÀ VĂN
NGUYỄN NGỌC NGẠN
TRONG NHỮNG LỜI TUYÊN BỐ
VỀ LỊCH SỬ
THƯ NGỎ GỬI
NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC NGẠN
Thưa ông Nguyễn Ngọc Ngạn,
Chúng tôi không có ý định bình luận văn chương của
ông, một nhà văn đã có tên tuổi và đã được cảm tình của biết bao nhiêu
người, mà chỉ có mục đích trình bày một số những sai lầm của ông khi ông
đề cập đến một số sự kiện lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam trong
thời cận và hiện đại. Một số những sai lầm này nằm rải rác trong cuốn
Xóm Đạo của ông và một số nằm trong lời tuyên bố của ông trong cuốn băng
nhạc Paris By Night 81.
Trong cuốn Xóm Đạo, nơi trang 355, khi giải thích
câu hỏi do nhân vật thằng Anh đặt ra (với nhân vật Thông) là “Đạo Công
Giáo mang người Pháp vào chiếm nước ta!, có đúng như thế không anh
Thông?”, qua nhân vật Thông, ông đã đóng vai trò một ông thày dạy môn
lịch sử để giải thích câu hỏi này với nguyên văn như sau:
"Tại bố em không đọc lịch sử nên mới nghĩ như vậy.
Đạo Công Giáo truyền sang nước ta từ năm 1533, tức là từ đời vua Lế. Các
giáo sỹ đầu tiên đến Ninh Cường và Trà Lũ giảng đạo, có âm mưu chính trị
gì đâu! Hơn 300 năm sau thực dân Pháp mới xâm chiếm Việt Nam, là lúc đạo
Công Giáo đã vững vàng. Chính triều đình và phong trào Văn Thân giết
130 nghìn giáo dân đã gây nên cái hố chia rẽ càng ngày càng trầm trọng!”
Lời giải thích cho câu hỏi lịch sử trên đây của ông
cho thấy rõ ràng ông đã sửa một câu nói ĐÚNG với sự thật của lịch sử
thành một câu nói hoàn toàn TRÁI NGUỢC với sự thật lịch sử mà theo ý ông
như thế mới là ĐÚNG. Đây là tình trạng người không biết lịch sử lại đi
dạy người biết lịch sử. Thật là đáng buồn!
Lời giải thích này cùng với một vài lời nhận xét
khác cũng ở trong cuốn Xóm Đạo và những lời phát biểu của ông trong cuốn
băng nhạc Paris By Night 81 liên hệ đến lịch sử chứng tỏ ông không biết
rằng chính ông không biết gì về lịch sử thế giới và biết rất lơ mơ về
lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại. Thế nhưng, ông lại thích
dùng lịch sử để bào chữa và chạy tội cho Gíao Hội La Mã về những hành
động đã cấu kết với Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp trong việc đánh chiếm
và thống trị Việt Nam từ 1858 đến 1954. Đồng thời, lời giải thích lịch
sử theo kiểu trên đây của ông đã làm hạ giá ý nghĩa và lý tưởng cao đẹp
của tiền nhân ta trong các lực lượng nghĩa quân kháng chiến đánh đuổi
Liên Minh Xâm Lăng Pháp – Vatican để giành lại chủ quyền độc lập cho dân
tộc.
Ông cũng nên biết rằng, muốn giải thích một sự kiện
lịch sử, cần phải có căn bản lịch sử liên hệ đến sự kiện đó, nghĩa là
phải hiểu rõ cái bản lai diện mục của các thế lực hay tác nhân làm nên
lịch sử vì rằng mỗi một biến cố lịch sử thường thuờng là có nhiều dữ
kiện chồng chéo và đan kết chằng chịt với nhau, chứ không thể chỉ đưa ra
nhữhg lời tuyên bố khẳng định đơn thuần võ đoán một cách hết sức chủ
quan như ông đã viết hay tuyên bố như trên.
Chúng tôi không trách cứ ông về vấn đề ông không
biết lịch sử thế giới và cũng không trách cứ ông về chuyện ông hiểu biết
rất lơ mơ về lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại. Điều đáng
trách là ông không biết khả năng hữu hạn về kiến thức lịch sử của ông mà
ông lại thích dùng nó để chạy tội và bào chữa cho Giáo Hội La Mã về
những việc làm tội ác chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam từ mấy thế
kỷ nay.
Nhân tiện đây, chúng tôi cũng xin trình bày cái
nguyên do đã làm cho ông và hầu như tất cả những thế hệ sinh ra và lớn
lên ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 không hiểu biết gì về
tổng lược lich sử thế giới và chỉ biết lơ mơ về lịch sử Viêt Nam trong
thời cận và hiện đại.
Ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975, môn
sử trong chương trình học ở bậc trung học bị Giáo Hội La Mã (ở hậu
trường sân khấu chính trị) hạn chế và kiểm soát chặt chẽ:
1.- Về môn sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại,
có rất nhiều sự kiện hoặc là bị bưng bít (cắt xen), hoặc là bị sửa lại
(bóp méo) để tránh né không để cho học sinh biết được vai trò tích cực
của Giáo Hội La Mã cũng như của các giáo sĩ và tín đồ Da-tô trong việc
cấu kết với Liên Minh Pháp – Vatican trong suốt thời kỳ đánh chiếm và
thống trị Việt Nam từ năm 1858 cho đến năm 1945 và trong thời Kháng
Chiến 1945-1954.
2.- Về môn sử thế giới, học sinh không được học
toàn bộ các bài học lịch sử thế giới, mà chỉ được học lẩy một số bài
tượng trương. Đó là những bài không có liên hệ đến những việc làm tội ác
do chính Toà Thánh Vatican chủ động và trực tiếp gây ra như (1) việc
phát động các cuộc chiến thập tự (crusades), (2) việc thiết lập các Tòa
Án Dị Giáo (Inquisitions) và (3) việc cấu kết với các cường quyền và đế
quốc thực dân Âu Châu và Hoa Kỳ từ thời Trung Cổ tới ngày nay, (4) đời
sống bê bối thối tha, hoang đàng loạn luân dâm loàn của nhiều giáo
hoàng trong thời Trung Cổ, (5) những sự chia phe, chia phái, tranh giành
quyền lực, thanh toán và tàn sát lẫn nhau trong giáo triều Vatican để
độc chiếm quyền lực và ngôi vị giáo hoàng, (6) các phong trào nhân dân
thế giới vùng dậy chống lại Giáo Hội và các thế lực bảo thủ phản động
cấu kết với Giáo Hội [Thời Phục Hưng (The Renaissance 1300-1650), Phong
Trào Tranh Đấu Đòi Cải Cách Tôn Giáo (The Religious Reformation
1309-1648), Thời Đại của Lý Trí (the Age of Reason 1500-1789), Thời Đại
Cách Mạng Dân Chủ (The Age of Democratic Revolutions 1603-1815), Các
Phong Trào Phản Đối Xã Hội (Movements of Social Protest 1800-1900)],
thuyết hóa của nha bác học Charles Robert Darwin (1809-1882) v.v….
Bằng chứng hùng hồn cho sự kiện Giáo Hội La Mã kiểm
soát chặt chẽ môn sử trong chương trình học ở bậc trung học tại miền Nam
trong những năm 1954-1975 là bộ sách sử thế giới do học giả Nguyễn Hiến
Lê và ông Thiên Giang biên soạn vào năm 1956 bị cấm lưu hành, tác giả
Nguyễn Hiến Lê bị sỉ vả là “đầu óc đầy rác ruởi” và bị mật vụ theo dõi.
Sự kiện này được chính cụ Nguyễn Hiến Lế ghi lại rõ ràng trong cuốn Đời
Viết Văn Của Tôi với nguyên văn như sau:
"Đầu niên khóa 1954-55 trong chương trình Trung Học
Đệ Nhất Cấp có thêm môn Lịch- sử Thế-giới dạy trong 4 năm. Ông Thiên
Giang lúc đó dạy sử các lớp đệ lục, đệ ngũ. Tôi bàn với ông soạn chung
bộ sử thế giới càng sớm càng tốt cho học sinh có sách học, khỏi phải
chép "cua" (cours). Ông đồng ý. Chúng tôi phân công: tôi viết cuốn đầu
và cuốn cuối cho lớp đệ thất và đệ tứ; ông viết hai cuốn giữa cho lớp đệ
lục và đệ ngũ. Chúng tôi bỏ hết công việc khác, viết trong 6 tháng xong;
tôi bỏ vốn ra in; năm 1955 in xong trước kỳ tựu trường tháng chín. Bộ
(Lịch-sử Thế-giới) đó khá chạy, sau tôi nhường cho nhà Khai Trí tái bản.
Một chuyện đáng ghi là vì bộ (sử) đó mà năm 1956
tôi bị một độc giả ở Cần Thơ mạt sát (tôi) là "đầu óc đầy rác rưởi" chỉ
vì chúng tôi nhắc qua đến thuyết của Darwin về nguồn gốc loài người.
Chẳng cần nói ai cũng biết độc giả đó là người Công Giáo.
Sau đó lại có một linh mục ở Trung yêu cầu bộ Giáo
Dục cấm bán và tịch thu hết bộ (lịch sử thế giới) đó vì trong cuốn II
viết về thời Trung Cổ, chúng tôi có nói đến sự bê bối của một vài ông
Giáo-hoàng. Bộ phái một viên bí thư có bằng cấp cử nhân tiếp xúc với
tôi. Ông này nhã-nhặn khen tôi viết sử có nhiệt tâm, cho nên đọc hấp dẫn
như đọc bộ sử Pháp của Michelet; rồi nói rằng sách của tôi được bộ Thông
Tin cho phép in, lại nạp bản rồi, thì không có lý gì tịch thu, cấm bán
được, chỉ có thể ra thông cáo cho các trường đừng dùng thôi: cho nên ông
ta chỉ yêu cầu tôi bôi đen vài hàng trên hai bản để ông ta đem về nộp
bộ, bộ sẽ trả lời linh mục nào đó, còn bán thì tôi cứ bán, không ngại gì
cả. Tôi chiều lòng ông ta. Ông ta lại hỏi lớp mẫu giáo của tôi đã được
phép của bộ chưa. Tôi đáp: Đơn nộp cả năm rồi, giấy tờ đủ cả, tôi đã
nhắc Sở Giáo Dục thành phố, mà người ta cứ làm thinh, không cho phép mà
cũng không cấm. Ông ta chỉ gật đầu. Hồi đó bộ Lịch Sử Thế Giới của tôi
chỉ còn một số ít. Tôi hỏi các nhà phát hành, được biết có lệnh cấm các
trường ngoài Trung dùng nó, trong Nam thì không. Chỉ ít tháng sau bộ đó
bán hết. Tôi không tái bản. Công Giáo thời đó lên chân như vậy. Nghe nói
một ông tỉnh trưởng ở miền Tây không dám cho hội Phật Giáo cất chùa
trong thị xã và bảo: "Công Giáo cất nhà thờ, bây giờ Phật Giáo cũng xin
cất chùa, bộ các người muốn kình với Công Giáo hả?"
Một hôm bà láng giềng của tôi cho hay: "Ít lâu nay
tôi thấy ngày nào cũng có một hai người ngồi ở quán cà phê bên kia đường
nhìn về phía nhà thầy và nhà tôi như rình cái gì. Hôm qua một người vào
nhà hỏi tôi: "Ông Lê ở nhà bên lúc này đi đâu mà không thấy?" Tôi đáp:
"Ông ấy đau, nằm ở trong phòng, chứ đi đâu? Thầy cứ vô mà hỏi. Rồi họ
đi". Vậy là mật vụ rình tôi mà tôi không biết. Vì tôi là công chức thời
Pháp mà tản cư lâu quá, về lại không hợp tác với chính phủ Diệm, hay vì
bộ Lịch Sử Thế Giới mà họ theo dõi như vậy? Có lẽ cả hai.
Hơn một chục năm sau, một giáo sư ở Huế vào thăm
tôi, hỏi: "Tại sao hồi đó ông không làm đơn trình bày rằng ông đã dùng
sách nào để viết về các ông giáo hoàng thời Trung Cổ đó, rồi xin cho bộ
sử của ông được dùng trong các trường?" Tôi đáp: "Không khi nào tôi làm
việc xin xỏ đó". Sau ngày 30-4-1975, giáo sư đó lại thăm tôi nữa, bảo:
"Tôi phục tư cách của ông từ hồi đó". Nguyễn Hiến Lê, Đời Viết Văn Của
Tôi (Westminster, CA: Văn Nghệ,1986), tr. 99-101
Cũng vì bị Giáo Hôi kiểm soát chặt chẽ, cho nên
trong thời kỳ này, có rất nhiều sự kiện lịch sử quan trọng hoặc là bị
bưng bít, hoặc là bị bóp méo hay xuyên tạc rồi mới cho phép ghi vào
trong các sách giáo khoa, và sau đó mới cho phổ biến cho các trường học
để dạy cho học sinh.
Như vậy là có những sự kiện lịch sử hoàn toàn bị
bưng bít hay bị giấu nhẹm, không cho vào chương trình học, và có những
sự kiện lịch sử trước khi được đưa vào chương trình học đã bị xuyên tạc
bằng cách diễn dịch lươn lẹo với mục đích làm cho học sinh không nhận ra
có sự liên hệ khắng khít giữa Giáo Hội hay tu sĩ hoặc tín đồ Da-tô với
những sự kiện đó.
Những sự kiện lịch sử bị giấu nhẹm là:
1.- Việc Giáo Hội La Mã chủ trương đánh chiếm Việt
Nam. Chủ trương này nằm trong chính sách chung của Giáo Hội qua việc ban
hành Sắc Chỉ Romanus Pontifex vào ngày 8 tháng 1 năm 1454 trong thời
Giáo Hoàng Nicholas (1447-1455) và các thánh lệnh hay sắc chỉ khác tiếp
theo cũng được Giáo Hội ban hành trong thế kỷ 15. (Nguyên Vũ, Ngàn Năm
Soi Mặt (Houston, TX: Văn Hóa, 2002), tr.389-392.
2.- Việc Tòa Thánh Vatican đã ba lần gửi người đến
kinh thành Paris uốn lưỡi Tô Tần vận động chính quyền Pháp liên kết với
Giáo Hội xuất quân đánh chiếm Việt Nam để cùng thống trị và cùng chia
nhau lợi nhuận.
3.- Việc Giáo Hội liên kết chặt chẽ với Pháp trong
việc đánh chiếm và thống trị Việt Nam từ năm 1858 cho đến mùa thu năm
1954.
4.- Sự hiện diện của các nhà truyền giáo và tu sĩ
Da-tô trong đoàn quân viễn chinh Pháp với nhiệm vụ dẫn đường đưa lối
cho đoàn quân viễn chinh của Liên Minh Pháp - Vatican trong các chiến
dịch tấn chiếm Việt Nam từ năm 1858 cho đến khi Hiệp Ước Giáp Thân 1884
ra đời.
5.- Vai trò các tín đồ Da-tô được Giáo Hội đưa đến
chủng viện Pénang ở Mã Lai để huấn luyện kỹ thuật chống phá tổ quốc Việt
Nam rồi đưa họ về Việt Nam để phục vụ cho Liên Minh Pháp – Vatican, làm
các công việc thông ngôn, chỉ điểm, đưa đường dẫn lỗi cho Liên Quân Xâm
Lăng Pháp – Vatican trong các chiến dịch tấn công các cứ điểm phòng thủ
của quân dân ta cũng như trong các chiến dịch tấn công và tiêu diệt các
lực lượng nghĩa quân kháng chiến Việt Nam trong suốt thời kỳ từ năm 1958
cho đến 1945. Trong số những tên Da-tô Việt gian này có Ngô Đình Khả,
Nguyễn Hữu Bài, v.v..
6.- Việc đoàn ngũ hóa tín đồ Da-tô trong các xóm
đạo và tổ chức họ thành những đạo quân thứ 5 nằm tiềm phục tại địa
phương chờ nhận lệnh của các đấng bề trên để nổi lên tiếp ứng khi Liên
Quân Xâm Lăng Pháp – Vatican tiến đến tấn công một vị trí nào đó ở các
vùng gần bên.
7.- Vai trò của Linh-mục Trần Lục dẫn 5 ngàn giáo
dân Phát Diệm có võ trang đi tiếp viện cho đoàn quân Pháp dưới quyền chỉ
huy của Trung-tá Metzinger và Đại Úy Joffre trong chiến dịch tấn công và
tiêu diệt lực lượng nghĩa quân kháng chiến tại Chiến Lũy Ba Đình (Thanh
Hóa) dưới quyền chỉ huy của cụ Đinh Công Tráng vào những năm năm 1886 và
1887.
8.- Vai trò của tên Da-tô Việt gian Ngô Đình Khả
(phụ thân của Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu,
Ngô Đình Cẩn, Ngô Đình Luyện) cùng với Nguyễn Thân trong chiến dịch tấn
công và tiêu diệt căn cứ nghĩa quân kháng chiến của nhân dân ta dưới
quyền chỉ huy của nhà ái quốc Phan Đình Phùng. Ngô Đình Khả và Nguyễn
Thân là hai người chủ động trong việc đào mả cụ Phan lấy hài cốt đem đốt
thành tro, lấy tro trộn với thuốc súng, rồi bắn xuống sông Lam Giang để
trả thù cho những chiến dịch “Bình Tây Sát Tả” của nghĩa quân ta trước
đó. Cái truyền thống đào mả kẻ thù đã chết để trả thù là của đạo Da-tô
đã có ở Âu Châu từ thời Trung Cổ. (Trân Quý, Lòng Tin Âu Mỹ Đấy!
(Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1993), tr. 132-133.)
9.- Việc tên Da-tô Việt gian Ngô Đình Khả được
Liên Minh Thánh Pháp - Vatican gài vào triều đình Huế để theo dõi thái
độ và hành động của ông vua gỗ Thành Thái rồi báo cáo với chính quyền
bảo hộ.
10.- Việc Vatican và Pháp đồng thuận với nhau trong
việc bổ nhậm cựu Linh-mục Thierry d’ Argenlieu (vừa là người của Giáo
Hội La Mã vừa là người của Pháp) nắm giữ chức vụ Cao Ủy Đông Dương từ
ngày 17/8/1945 cho đến ngày 15/3/1947.
11.- Vai trò của Giáo Hội La Mã và giáo dân Việt
Nam đã liên tục chống lại tổ quốc Việt Nam qua những hành động chiến đấu
bên cạnh đoàn quân xâm lăng Pháp suốt trong thời Kháng Chiến Chống Pháp
1945-1954.
12.- Sự chuyển hướng mục tiêu tranh đấu của các lực
lượng nghĩa quân kháng chiến Việt Nam (từ 1858 đến 1945) trong việc
đánh đuổi Liên Minh Pháp-Vatican để giành lại chủ quyền độc lập cho dân
tộc. Trong sự chuyển hướng này, có mục nói về chủ trương loại bỏ chế độ
quân chủ dưới mọi hình thức kể cả trung ương tập quyền lẫn quân chủ lập
hiến. (Nếu đưa mục này vào trong chương trình sử ở bậc trung học, thì
làm sao nhà cầm quyền miền Nam có thể giải thích được việc Liên Minh
Pháp – Vatican chủ trương đưa ra “Giải Pháp Bảo Đại” để chống lại chính
quyền Kháng Chiến dưới quyền lãnh đạo của Mặt Trận Việt Minh?)
13.- Những bài học về Hội Nghị Genève và Hiệp Định
Genève 1954
14.- Những hành động của chính quyền Ngô Đình Diệm
vi phạm điều khoản quy định việc tổng tuyển cử thống nhất đất nước vào
tháng 7/1956.
Những sự kiện lịch sử bị diễn dịch lươn lẹo hay bị
bóp méo hoặc bị xuyên tạc.
Ngoài ra, lại còn có rất nhiều sự kiện lịch sử đã
bị cắt xén hay bị diễn dịch sai lạc (lươn lẹo) rồi mới được đưa vào
chương trình học ở bậc trung học. Như đã nói ở trên, mục đích của việc
làm bất chính này là nhằm để làm cho học sinh không nhận ra có sự liên
hệ khắng khít giữa những sự kiện đó với Giáo Hội hay tu sĩ hoặc tín đồ
Da-tô. Một trong những sự kiện này là chuyện Tòa Thánh Vatican cấu kết
với đế quốc thực dân Pháp mưu đồ bơi ngược dòng lịch sử, đưa ra Giải
Pháp Bảo Đại để phục hồi cái vương quyền lỗi thời của nhà Nguyễn với dã
tâm sử dụng nó làm bức bình phong che đậy cho mưu đồ bất chính dùng
người Việt đánh người Việt và dùng tín đồ Da-tô để cai trị đại khối dân
tộc thuộc tam giáo cổ truyền. Tiếp theo đó, họ lại khua chiêng gióng
trống tô vẽ cho ông vua gỗ này và bọn Việt gian phản quốc bán nước cho
Pháp và Vatican bằng những luận điệu bịp bợm với những cụm từ “chính
quyền quốc gia”, “chính nghĩa quốc gia”, “người Việt quốc gia” chiến
đấu dưới “lá cờ vàng ba sọc đỏ”, nhưng hết sức lúng túng, rồi từ đó gây
ra những lúng túng tiếp theo như những chiếc vòng khoen móc nối với nhau
trong một sợi giây chuyền:
1.- Lúng túng không thể giải thích được việc tái
lập vương quyền cho nhà Nguyễn bằng cái gọi là “Giải Pháp Bảo Đại”. Đây
là một hành động bơi ngược dòng lịch sử, nghĩa là đi ngược với trào lưu
tiến hóa của phong trào đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican với
bốn nhiệm vụ chính là (a) giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc, (b)
đập tan cái ách quân chủ phong kiến lỗi thời coi nhân dân như chó ngựa
đã đè nặng lên đầu lên cổ dân tộc ta từ mấy ngàn năm qua bằng cách thiết
lập chính quyền dân chủ tự do dân, vì dân và bởi dân, (c) thực hiện một
cuộc cách mạng xã hội, xóa bỏ hết tất cả những bất công xã hội, xóa bỏ
hết tất cả những tàn tích đế quốc, thực dân và phong kiến còn rớt lại,
(d) thực hiện một cuộc cách mạng ruộng đất để đem lại công bằng về kinh
tế cho người dân ở nông thôn và mang lại phúc lợi cho toàn dân theo đà
tiến hóa của nhân loại.
2.- Lúng túng trong việc biện minh sao cho thuân lý
về cái chính nghĩa khi khoác cho chính quyền bù nhìn Bảo Đại cái danh
xưng "chính quyền quốc gia" và "chính nghĩa quốc gia".
3.- Lúng túng khi phải gọi những tên Việt gian vốn
đã có thành tích làm tay sai cho Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược
Pháp Vatican từ trước năm 1945 và trong thời Kháng Chiến 1945-1954 là
"những người Việt quốc gia chân chính". Ai cũng biết rằng gọi những tên
Việt gian này là “những người Việt quốc gia chân chính” quả thật là
không ổn.
Làm sao những tên Việt gian như Lê Văn Hoạch,
Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Văn Tâm, Phan Văn Giáo, Trần Văn Hữu, Lê Văn
Viễn, v.v… lại có thể được gọi là những người quốc gia chân chính yêu
nước tranh đấu cho quyền lợi tối thượng của dân tôc?
Làm sao những tên quan lại làm tay sai cho chính
quyền bảo hộ Liên Minh Pháp Vatican trong thời kỳ từ tháng 3/1945 trở về
trước lại có thể được gọi là những người quốc gia chân chính yêu nước?
Làm sao có thể gọi những tên Việt gian này là những
người đã quyết tâm liều thân tranh đấu cho quyền lợi tối thượng của dân
tộc?
Chẳng lẽ những tên Việt gian khét tiếng làm tay sai
đắc lực cho liên minh giặc Pháp – Vatican như Trần Bá Lộc, Nguyễn Hữu
Độ, Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu Bài, Lê Hoan, Linh-mục Trần Lục, Nguyễn
Thân, Hoàng Cao Khải, Hoàng Trọng Phu, Ngô Đình Khôi, Hoàng Gia Mô,
Giám-mục Nguyễn Bá Tòng, Giám-mục Ngô Đình Thục, Cung Đình Vận, Vi Văn
Định, Nguyễn Duy Hàn, Ngô Đình Diệm, v.v…lại có thể được gọi là những
người quốc gia yêu nước hay sao?
Nếu như vậy, thì những tên Việt gian ác ôn làm tay
sai cho Liên Minh Pháp – Vatican trong thời Kháng Chiến 1945-1954 như Lê
Văn Hoạch, Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Văn Tâm (cọp Cai Lậy, nhân sĩ Bắc Hà
đã từng mắng thằng vào mặt là “Chó Tâm bồi Tây” bằng cụm từ “đại điểm
quần thần”), Trần Văn Hữu, Phan Văn Giáo, Lê Văn Viễn, Giám-mục Lê Hữu
Từ, Giám-mục Phạm Ngọc Chi, Linh-mục Hoàng Quỳnh (Phát Diệm), Linh-mục
Nguyễn Gia Đệ (Ninh Bình), Linh-mục Lương Huy Hân (Nam Định), Linh-mục
Nguyễn Kim Điền (Phát Diệm), Linh-mục Mai Đức Tín (Thái Bình), Linh-mục
Nguyễn Quang Ân (Thái Bình), Linh-mục Vũ Đức Luật (Thái Bình), Linh-mục
Mai Ngọc Khuê (Bùi Chu), v.v… và những sĩ quan người Việt trong đạo
quân đánh thuê cho Liên Quân Pháp – Vatican trong thời Kháng Chiến
1945-1954 cũng được gọi là những người Việt Quốc Gia yêu nước hay sao?
Nếu như vậy, thì những tên Việt gian bán nước cho
Liên Minh Mỹ – Vatican trong những năm 1954-1975 cũng có thể được gọi là
"những người Việt quốc gia chân chính" hay sao?
Nếu như vậy, thì những tên Việt gian làm mật vụ cho
Liên Minh Pháp – Vatican trong những năm 1945-1954 và đã từng nắm giữ
những chức vụ chỉ huy trong ngành mật vụ công an ở miền Nam như Trần Kim
Tuyến, Trần Khắc Kính, Trần Khắc Nghiêm, Lê Quang Tung, Lê Quang riệu,
Ngô Thế Linh, Nguyễn Văn Hai, Phan Quang Đông, Dương Văn Hiếu, Trần
Thiện Dzai, Mai Thế Quyền, v.v… cũng được gọi là những người Quốc Gia
yêu nước hay sao?
Ai cũng biết rằng tất cả những người được nêu lên
trên đây đều là những người được chính quyền Liên Minh Pháp – Vatican
đào tạo để phục vụ cho quyền lợi của hai thế lực này và đã có nhiều
thánh tích chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam hoặc là từ trước năm
1945 và hoặc là từ thời Kháng Chiến 1945-1954. Nếu gọi những hạng
người này là những “người Việt quốc gia yêu nước” thì quả thật là tội
nghiệp cho cụm từ “người Việt quốc gia yêu nước” và tội nghiệp cho ngôn
ngữ Viêt Nam!
Thực ra, những lúng túng này là do ý đồ nhập nhằng
đánh lận con đen bằng cách gom chung những tên Việt gian đã được nêu lên
trên đây vào với những người yêu nước chân chính trong các đảng phái và
phong trào cách mạng chống Liên Minh Pháp – Vatcian trong thời kỳ
1858-1945.
Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ Giáo
Hội La Mã là thủ phạm làm cho tín đô Da-tô cũng như tất cả những người
Việt khác sinh ra và lớn lên ở miền Nam Việt Nam trong những năm
1954-1975 không được học toàn bộ lịch sử thế giới, và cũng không được
học đầy đủ những bài học lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại.
Chính vì lẽ này mà phần lớn những lớp người này dù đã hoàn tất chương
trình trung học ở miền Nam cũng không biết gì về lịch sử thế giới và
biết rất lơ mơ về lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại.
Tình trạng này đã khiến cho họ khi nói hay viết về
lịch sử đều có một điểm chung là thiếu một bức tranh toàn cảnh, tức là
đã bỏ hết những nguồn lịch sử thế giới đã ảnh hưởng đến dòng sinh mệnh
của dân tộc ta, trong đó có Giáo Hội La Mã là quan trọng hơn cả.
Chính vì lẽ này mà ông (Nguyễn Ngọc Ngạn) đã phạm
phải những sai lầm trầm trọng trong lúc ông hứng chí viết và tuyên bố
những vấn đề có liên hệ đến lịch sử khi viết cuốn Xóm Đạo và khi điều
khiển chương trình Văn Nghệ thực hiện cuốn băng ca nhạc Paris By Night
81.
TÓM LƯỢC THÀNH TÍCH TỘI ÁC
CỦA GIÁO HỘI LA MÃ
Thưa ông Nguyễn Ngọc Ngạn,
Sự kiện ông phạm phải những sai lầm trầm trọng trên
đây giống như người ăn ốc nói mò là một sự thật đã được chứng minh rõ
ràng như 2 + 2 = 4. Như đã trình bày ở trên, sở dĩ ông đã rơi vào tình
trạng này là vì chính bản thân ông cũng như những người đồng lứa tuổi
với ông và những lớp người sinh ra và lớn lên ở miền Nam Việt Nam trong
những năm 1954-1975 đã không được học đầy đủ những bài học lịch sử
Việt Nam trong thời cận và hiện đại một cách chính xác, và cũng không
được học toàn bộ lịch sử thế giới. Cũng vì thế mà cả ông và họ đều không
biết gì về vai trò Tòa Thánh Vatican trên sân khấu chính trị Âu Châu
trong suốt thời Trung Đại và vai trò vô cùng quan trọng của Giáo Hội La
Mã trong việc cấu kết với các đế quốc thực dân xâm lược Âu Châu (Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha, Pháp và Bỉ) xuất quân đánh chiếm các quốc gia ở ngoài
lục địa Âu Châu làm thuộc địa để cướp đoạt tài nguyên và cưỡng bách các
dân tộc nạn nhân phải theo đạo Da-tô làm nô lệ cho Giáo Hội. Vì lý do
này, chúng tôi cố gắng trình bày phần tóm lược những quái chiêu và độc
kế cùng những thành tích tội ác khác của Tòa Thánh Vatican để ông có thể
nhìn thấy rõ bộ mặt thật của Giáo Hội La Mã với hy vọng ông không còn
hăng say ngụy biện để chạy tội cho cái “tôn giáo ác ôn” này nữa.
NHỮNG QUÁI CHIÊU VÀ ĐỘC KẾ DA TÔ
Nói đến những thành tích tội ác của Giáo Hội La Mã
trong gần hai ngàn năm qua là phải nói đến những quái chiêu và độc kế mà
Giáo Hội đã liên tục sử dụng để củng cố quyền lực và theo đuổi tham vọng
bá quyền thống trị toàn cầu rồi dùng bạo lực cưỡng bách các dân tộc nạn
nhân phải theo đạo Da-tô làm nô lệ cho Giáo Hội. Dưới đây là những quái
chiêu và độc kế này:
1.- Sử dụng những chuyện hoang đường láo khoét: Để
mê hoặc và lừa người đời vào cái thòng lọng mà các nhà viết sử gọi là
cái tròng Da-tô (Catholic loop) để siết cổ họ, Giáo Hội La Mã sử dụng
những chuyện cực kỳ hoang đường trong thánh kinh của người Do Thái và
trong mấy cuốn sách nhảm nhí nói về ông Jesus rồi thêm vào nhiều chuyện
huyễn hoặc khác nữa để tạo cho họ một ấn tượng hay niềm hy vọng rằng nếu
triệt để tin theo tất cả những lời rao truyền và lời dạy của Giáo Hội,
thì Chúa Cha Jehaovah và Chúa Con Jesus sẽ thương tình ban phước cho họ
được thỏa mãn những gì họ ước muốn. Thánh kinh của người Do Thái được
gọi là Cựu Ước, mấy cuốn sách nhảm nhí nói về ông Jesus được gọi là Tân
Ước, những tín lý do Giáo Hội La Mã bịa đặt ra kể từ ngày 20/5/325 trở
về sau được gọi là những truyền thống. Tất cả ba thứ chuyện hoang đường
láo khoét này được gom chung lại và được gọi là hệ thống thần học tín lý
Ki-tô La Mã. Ngoài những tín lý Ki-tô hoang đường này, Giáo Hội còn đặt
ra không biết bao nhiêu là giáo luật và tập tục khác nữa. Tất cả những
tín lý Ki-tô, giáo luật và tập tục trong Giáo Hội đều có mục đích duy
nhất na ná như chuyện cưới vợ cho ông thần Hà Bá ở khúc sông Chương Thủy
tại đất Nghiệp Đô thuộc nước Ngụy ở Trung Hoa trong thời tiền Tần. Thực
ra, hệ thống tín lý Ki-tô của Giáo Hội La Mã còn tinh vi và siêu việt
hơn chuyện cưới vợ cho Hà Bá trên đây rất nhiều, vì rằng chuyện cưới vợ
cho Hà Bá thuần túy có tính cách cưỡng bách nạn nhân phải tuân phục (nếu
không thì sẽ bị bọn cường hào ác bá và bọn đồng bóng địa phương khủng bố
và hãm hại), trong khi đó thì những tín lý Ki-tô vừa là một thứ công cụ
để mê hoặc tín đồ và người đời để gây cho họ một ấn tượng có hy vọng sẽ
được Chúa trả ơn, Chúa đền ơn, v.v…, vừa có tính cách lường gạt, lừa
bịp, vừa có tính cách cưỡng bách tín đồ phải tin rằng:
a.- Chúa Cha Jehovah, Chúa Thánh Thần và Chúa Con
Jesus tuy ba mà là một, là Đấng Toàn Năng, Toàn Thiện và có mặt ở khắp
mọi nơi. (Nặng tính cách hoang đường và nói láo nhằm để lừa bịp người
đời.) Toàn năng được hiểu là có quyền năng biến hóa vô cùng, biến không
thành có, và biến có thành không. Toàn thiện nghĩa là không hề làm điều
gì tổn thương hay thiệt hại đến tài sản, tinh thần, vật chất và sinh
mạng của bất kỳ một người nào hay một sinh linh nào.
b.- Giáo Hội là một tổ chức duy nhất đại diện cho
Chúa Cha Jehovah, Chúa Thánh Thần và Chúa Con Jesus toàn năng, toàn
thiện và có mặt ở khắp mọi nơi để quản lý loài người ở trên trái đất
này. (Nói láo, tự phong, vơ vào để lừa bịp người đời.)
c.- Những người nào tuyệt đối tín tưởng vào tin lý
Ki-tô, tuyệt đối tin rằng Giáo Hội là đại diện duy nhất của Chúa Cha
Jehovah, Chúa Thánh Thần và Chúa Con Jesus ở trên cõi trần gian này và
triệt để vâng lời Giáo Hội, thì sẽ được Chúa trả ơn, sẽ được ban cho
rất nhiều Hồng Ân Thiên Chúa, và sẽ được cho lên thiên đường hưởng nhan
Chúa đời đời. (Nói láo để lừa bịp người đời.)
d.- Những người nào KHÔNG tin tường vào tin lý
Ki-tô, KHÔNG tin rằng Giáo Hội là đại diện duy nhất của Chúa Cha
Jehovah, Chúa Thánh Thánh Thần và Chúa Con Jesus hay KHÔNG triệt để vâng
lời Giáo Hội, THÌ sẽ bị kết tội là tà giáo và sẽ bị Chúa Cha Jehovah,
Chúa Thánh Thần và Chúa Con Jesus đày xuống tới chín tầng địa ngục. (Nói
láo để hù dọa và khủng bố tinh thần người đời.)
Đây là một sự thật về Giáo Hội La Mã. Điều đau buồn
là sự thật này hết sức bỉ ổi vì toàn bộ hệ thống tín lý Ki-tô và những
lời dạy Giáo Hội không những mâu thuẫn với nhau [điều (d) mâu thuẫn với
đức tính Toàn Thiện ở trong điều (a), đúng là câu sau đá ngược câu
trước], mà còn là những gì phỉnh gạt, lừa dối, hù doạ, áp chế tín đồ và
người đời trong mưu đồ lôi kéo họ đi theo để tạo vây cánh, củng cố và
bành trướng thế lực của Giáo Hội.
Nói đến mâu thuân trên đây trong tín lý Ki-tô,
thiết tưởng cũng nên nói đến một trong những mâu thuẫn khác mà người
viết nghĩ rằng ai cũng biết. Đó là chuyện các ông giáo sĩ, tu sĩ và tín
đồ Da-tô thường lớn tiếng chê bai, dè bĩu và gièm pha những chuyện làm
phù làm phép trong những khi hành lễ của các ông bà làm nghề phù thủy
hay đồng bóng ở Việt Nam và cho là những chuyện mê tín dị đoan cần phải
dẹp bỏ và diệt trừ. Trong khi đó thì họ lại sùng bái và tôn vinh những
chuyện làm phù làm phép trong giờ hành lễ bảy phép bí tích của Giáo Hội
La Mã. Rõ ràng là cùng một hành động, nếu là của người khác thì họ cho
là mê tín dị đoan và cần phải diệt trừ, nhưng nếu là của Giáo Hội thì họ
lại coi là những phép bí tích có giá trị thiêng liêng và linh nghiệm.
Một chuyện khác đáng nói nữa là chuyện là cái chậu
(bồn) bằng đá chứa đựng một số lượng nước lã (gọi là nước thánh) nằm
chềnh ềnh ở ngay bên trong cửa lối vào nhà thờ mà hầu hết tín đồ khi đến
dự lễ đều ghé qua đó, dừng lại nhúng tay vào trong chậu nước này rồi
quệt lên trán một cách hết sức trịnh trọng. Không ai chối cãi được cái
tính cách mê tín dị đoan của hành động này.
Những người biết sử dụng lý trí đều cho rằng cái
chậu (bồn) nước thánh này mất vệ sinh và ghê tởm vì rằng có hàng trăm,
và có khi tới hàng ngàn người đã nhúng tay vào đó để làm như vậy. Với
tình trạng này, tất nhiên là có đủ mọi loại mồ hôi và đủ mọi loại vi
trùng, vi khuẩn của tín đồ sùng đạo này vương vãi vào trong đó. Thế
nhưng, hoặc vì họ không biết sử dụng lý trí, cho nên họ không biết được
cái chậu nước thánh này ghê tởm như vây, hoặc là họ chỉ nhớ đến lời dạy
của Giáo Hội rằng “niềm tin tôn giáo không cần phải sử dụng lý trí để
tìm hiểu”, cho nên họ không quan tâm đến tình trạng mất vệ sinh của cái
chậu nước thánh này.
Do những tính cách bịp bợm trên đây, các nhà viết
sử mới gọi đạo Da-tô là “đạo bịp”. Sự kiện này được học giả Charlie
Nguyễn ghi lại trong cuốn Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm với nguyên văn như
sau:
"Cho nên người ta gọi Công Giáo là đạo bịp hay đạo
dối, thật không sai chút nào. Nếu phải kể cho hết những chuyện bịp của
Công Giáo, chắc phải viết một tràng thiên tiểu thuyết thì may ra mới tạm
đủ.” (Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao
Điểm, 2000), tr. 272.
2.- Thánh hóa tất cả những gì của Giáo Hội hay
thuộc về Giáo Hội.- Để cho dễ dàng mê hoặc người đời tin tưởng vào những
chuyện hoang đường láo khoét trên đây, Giáo Hội đưa ra quái chiêu thánh
hóa tất cả những gì của Giáo Hội hay thuộc về Giáo Hội bằng những thuật
ngữ mang nặng tính cách thiêng liêng và thánh thiện. Đây là những thuật
ngữ mà chúng ta thường thấy như công giáo, Hội thánh duy nhất, thánh
thiện, công giáo và tông truyền, Hiền Thê của Thiên Chúa Làm Người,
Thiên Chúa toàn năng, toàn thiện, Chúa Cứu Thế, thiên thần, Đức Mẹ Đồng
Trinh, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đực Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ Đồng Công, Tòa
Thánh, Đức Thánh Cha, Đức Hồng Y, Đức Tổng Giám Mục, Đức Cha, liên minh
thánh (holy alliance), thánh lễ, thánh vật, mang chức thánh, đất thánh
(bất cứ cái gì của Giáo Hội hay thuộc về Giáo Hội cũng đều là thánh cả
hay có chữ thánh đi kèm theo). Cái gì cũng là đức, là thánh hết. Hầu như
tất cả những gì tốt đẹp thánh thiện đều bị Giáo Hội vơ vào và chiếm đoạt
hết. Ngay cả đến giáo dân dù là ngu dốt và ngu xuẩn đến đâu đi nữa cũng
được gọi là “dân Chúa”.
Việc sử dụng phẩm từ thánh và đức như trên là có
chủ tâm gây cho người đời lầm tưởng rằng bất kỳ cái gì thuộc về Giáo Hội
cũng thánh thiện và thiêng liêng, và bất kỳ ông tu sĩ nào của Giáo Hội
cũng đạo cao đức trọng và có khả năng đem lại cho tín đồ những may mắn
và ân sủng của Thượng Đế. Thâm ý của Giáo Hội là như vậy.
Thế nhưng, sự thật như thế nào? Nếu chịu khó tìm
đọc Cựu Ưỡc, Tân Ước, nhất là các sách Leviticus (26:1-18), Phục Luật
(6:14, 12: 2-3, 13: 6-9, 21:18-21, 22:13-23), Dân số (31:28, 31:40),
Xuất Hành (12:12, 13:12, 22:18, 20), và nhiều tài liệu lịch sử khác có
liên hệ đến ông Chúa Jesus, đến bà Maria, đến Giáo Hội La Mã và các ông
tu sĩ cao cấp trong giáo triều Vatican cũng như các ông tu sĩ Da-tô khác
ở khắp mọi nơi trên thế giới, chúng ta sẽ thấy rằng:
a.- Thiên Chúa Cha Jehovah này chỉ là một ác thần
cực kỳ tàn ngược, hết sức dã man, có đủ mọi thứ ác tính của một tên bạo
chúa ác độc nhất trong lịch sử loài người.
b.- Về chuyện ông Jesus là Chúa Ki-tô, sách sử đều
ghi rõ ràng rằng ông ta thực sự là con ông thợ mộc Joseph ở làng
Nazareth thuộc nước Do Thái. Khi lớn lên, chính ông ta cũng đã làm nghề
thợ mộc. Khi gần 30 tuổi, ông ta thường lui tới những chỗ đông người,
thích nói những lời khoa trương trong đó có những lời lẽ chửi rủa, phỉ
báng và chống bọn tu sĩ trong giáo phái Pharasees (một trong ba hệ phái
Do Thái (là Pharasees, Sadducess và Essenes) của đạo Do Thái ở nước Do
Thái lúc bấy giờ). Thời đó, hệ phái này làm tay sai đắc lực cho chính
quyền Đế Quốc La Mã, giống như tín đồ Da-tô người Việt làm tay sai đắc
lực cho chính quyền Liên Minh Pháp –Vatican trong những năm 1858-1954.
Chính vì lẽ này mà hệ phái Pharasees mới chủ động tìm bắt ông Jesus và
yêu cầu chính quyền La Mã xử tử ông. Đây là nguyên nhân tại sao, sau
này, Giáo Hội La Mã và tín đồ Da-tô thường dùng chữ Pharasees với ý
nghĩa khinh miệt là những “quân đạo đức giả”. Ông Jesus.bị chính quyền
Đế Quốc La Mã xử tử giống như một tên tội đồ thường phạm, bị đóng đinh
trên cái giá chữ thập, rồi đem đi cắm ở trên Núi Sọ cùng với hai tên tội
đồ khác cùng bị xử như vậy cùng ngày hôm đó. Rút cuộc, ông Jesus cũng
chết như bất kỳ tên tội đồ nào khác bị hành xử như thế. Như vậy chẳng
làm gì có chuyên ông Jesus sống lại và bay lên trời như Giáo Hội thường
rêu rao nói láo vơi tín đồ và người đời.
c.- Về chuyện bà Maria, chẳng làm gì có chuyện bà
ta là Đức Mẹ Đồng Trinh, và cũng chẳng làm gì có chuyện thiên thần hiện
xuống lén vào phòng ngủ của bà ta làm tình hay hiếp dâm bà ta khiến cho
bà ta có bầu rồi sinh ra ông Jesus. Trong thực tế, bà ta là vợ ông
Joseph (làm nghề thợ mộc) và có một đàn con với ông này. Chưa kể ông
Jesus, bà ta còn có ít nhất là 4 con trai khác và hai người con gái
nữa. Đây là sự thật lịch sử. Sự thật này được sách Encyclopedia
Britannica, Vol. 10 ghi nhận với nguyên văn như sau:
“Bốn người anh em và nhiều chị em gái của ông Jesus
đều được nói đến ở trong kinh sách của ông Mark 6. (Không có căn bản
nào trong bản văn này nói rằng những người anh chị em này là những người
cùng cha khác mẹ hay là anh em con chú con bác đối với ông Jesus, và làm
như vậy là phản lại động cơ giáo điều chủ nghĩa.) Tất cả các danh tính
bà con của ông Jesus chứng tỏ rõ ràng cái tính chất thuần túy Do Thái
của gia đình ông ta. Tên mẹ của ông Jesus là Mary (Miriam), tên bố ông
ta là Joseph, và tên các người em của ông ta là James (Jacob), Judas và
Simon (tên của những của những ông già đáng kính trong Cựu Ước)”. Nguyên văn: "Four of Jesus' brothers and several sisters are mentioned
in Mark 6. (There is no basis in the text for making them into half
brothers and half sisters or cousins, and to do so betrays a dogmatic
motive.) All his relatives' names testify the purely Jewish character of
the family: his mother's name was Mary (miriam), his father's, Joseph,
and his brothers', James (Jacob), Judas, and Simon (names of Old
Testament patriarchs)" M.J. Su “The birth and family of Jesus.”
Encyclopedia Britannica, Vol. 10, Ed. 1980, page 149.
Nói về thân thế của ông Jesus và chuyện bà Maria,
học giả Charlie Nguyễn viết trong cuốn Công Giáo Huyền Thoại Và Tội Ác
với nguyên văn như sau:
"Vào thế kỷ II sau Công Nguyên, triết gia Hy Lạp
Celsus đã truy tầm lai lịch thật của ông Jesus và đã phát hiện việc bà
Maria bị lính La Mã hiếp dâm. Theo triết gia Celsus, thì thủ phạm hiếp
dâm bà Maria là một người linh La Mã tên Panthera. Do tên người lính này
mà dân Hy Lạp đã chế ra tĩnh từ “Parthenos” để chế nhạo những người tin
bà Maria Đồng Trinh. Thay vì gọi tên bà Maria là Đức Mẹ Đồng Trinh
(Virgin Mother), thì người Hy Lạp gọi là “Parthenos Mother”, nghĩa là
Đức Mẹ bị tên lính Panthera cưỡng hiếp, đồng thời cũng là để chế diễu
Matthew đã xuyên tạc chữ ALMAH trong thánh kinh…” (Charlie Nguyên, Công
Giáo Huyền Thoại Và Tội Ác (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), tr.
210-211.
Mấy bản văn sử trên đây cho chúng ta thấy rõ cái
mửng tôn vinh ông Jesus và Bà Maria trong quái chiêu thánh hóa tất cả
những gì của Giáo Hội hay thuộc về Giáo Hội quả thật là cực kỳ trơ trẽn
và hết sức trắng trợn. Phải thành thực mà nói rằng, Giáo Hội La Mã quả
thật là một tập đoàn đại bịp trong lịch sử nhân loại. Điều khôi hài là
ngay cả trong thế giới văn minh với những tiến bộ về khoa học như thời
đại tin học ngày nay, cái tập đoàn này vẫn còn nhởn nhơ và ngang nhiên
tiếp tục diễn trò hề lường gạt người đời bằng những chuyện cực kỳ hoang
đường này. Ấy thế mà vẫn còn có người cho rằng tất cả những tín lý Ki-tô
và tất cả những lời rao truyền hay dạy dỗ của Giáo Hội đều là có thật,
chứ không phải là chuỵện hoang được bịa đặt ra đề lừa bịp người đời, và
vẫn trọng vọng cái tập đoàn lưu manh buôn thần bán thánh đại bịp này.
Ngoài những điều đã trình bày ở trên, còn rất nhiều
chuyện động trời khác hết sức thần sầu qủy khốc. Dưới đây là một vài
trường hợp điển hình.
A.- Giáo Hôi La Mã tự xưng là “Hiền Thê của Thiên
Chúa Làm Người” và là “Hội Thanh duy nhất, thánh thiện, công giáo và
tông truyền”, nhưng trong thực tế Giáo Hội chẳng có một chút gì là
“hiền thê” cả, mà chỉ là một con mụ “ác phụ” cực kỳ ghê tởm, chằng có gì
gọi là “thánh thiện tông truyền” cả, mà thực sự chỉ là một “tổ chức
Mafia ác độc tông truyền”. Bằng chứng là trong gần hai ngàn năm qua,
Giáo Hội đã gây ra hàng chục rặng núi tội ác chống lại nhân loại khiến
cho Giáo Hoàng John Paul II trong hơn mười năm cuối cuộc đời, đi đến đâu
cũng xin lỗi các dân tộc nạn nhân, tính ra tất cả có tới hơn 100 lần,
rồi chính ông và các vị chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican đã
phải đứng ra cáo thú tội ác với Chúa trong buổi đại lễ được tổ chức vô
cùng long trọng tại Quảng Trường Peter trong kinh thành Rome vào buổi
sáng ngày Chủ Nhật 12/3/2000. Khôi hài là trong buổi lễ này, cả Giáo
Hoàng John Paul II và các ông chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican
chỉ cáo thú tội ác với Chúa, chứ không hề có một lời xin lỗi và nhận
lãnh trách nhiệm về tinh thần, thể chất và vật chất cho các dân tộc nạn
nhân (trong đó có dân tộc Việt Nam) do những hành động tội ác của Giáo
Hội đã gây ra.
B.- Tất cả các nhà lãnh đạo và giới tu sĩ trong hệ
thống quyền lực của Giáo Hội đều tự xưng là những người mang chức thánh
và còn có chữ “đức” đi kèm theo nữa: đức thánh cha, đức hồng y, đức cha,
đức mẹ, đức ông, đức bà, cha bề trên, mẹ bề trên. Thế nhưng, trong thực
tế những người mang chức thánh có kèm theo chữ đức và những người tự
xưng là cha bề trên, là mẹ bề trên của giáo dân đã hành động như những
tên tàn tặc, những hung thần và những con quỷ dâm dục. Sự kiện này đều
được sách sử ghi lại rõ ràng. Đọc tiếp phần dưới của tập sách này, quý
vị sẽ thấy rõ sự thực đau lòng này.
C.- Tín đồ Da-tô thường tự xưng là “dân Chúa” và
“được Chúa Chọn” làm cho người ta cứ ngỡ là các ông bà “dân Chúa” và
“được Chúa chọn” hết sức tốt đẹp. Thế nhưng, trong thực tế, qua hành
động tội ác của những người “dân Chúa” trong các đoàn quân viễn chinh
trong các cuộc thập tự chiến ở Trung Đông và ở miền Nam nước Pháp trong
thời Trung Đại, trong các đoàn quân viễn chính trong quân đội Liên Minh
Tây Ban – Nha ở Mỹ Châu La-tinh và ở Phi Luật Tân trong thế kỷ 16, trong
quân đội Liên Minh Bồ Đào Nha – Vatican ở Phi Châu, trong các đoàn quân
Liên Minh Pháp – Vatican ở Đông Dương ở Bắc Phi và ở Trung Phi trong thế
kỷ 19 và 20, trong quân đội Liên Minh Bỉ - Vatican ở Congo, ở Rwanda,
qua những hành động của họ ở Croatia trong những năm 1941-1945, qua
những hành động của họ trong thời Kháng Chiến chống Liên Minh Pháp –
Vatican 1945-1954 của nhân dân Việt Nam, qua những thực tế mà người dân
miền Nam Việt Nam đã kinh qua với những khẩu hiệu được các ngài mang
chức thánh của họ nêu lên để dạy dỗ họ như là “Thà mất nước, chứ không
thà mất nước ”, “Nhất Chúa, nhì cha, thứ ba Ngô Tổng Thống”, qua cung
cách hành xử của họ đối với đất nước Việt Nam trong suốt chiều dài lịch
sử từ cuối thế kỷ 18 cho đến ngày nay, và qua cung cách hành xử đối với
đồng bào khác tôn giáo với họ, chúng ta thấy rõ họ chỉ là những quân ác
quỷ, uống máu người không biết tanh và là phường vong bản, phản quê
hương, phản dân tộc, phản ảnh đúng cái bản chất cuồng nô vô tổ quốc của
họ.
D.- Khi có quyền lực trong tay, đặc biệt là khi nắm
được quyền cai trị đất nước, bộ mặt thật của họ sẽ lòi ra còn tệ hơn cả
bất kỳ những hung thần bạo chúa nào trong lịch sử nhân loại.
(xem tiếp đoạn hai)
Các bài cùng tập
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Phụ Lục 1: Vì sao bỏ nước ra đi - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Khi Nhà Văn... - Lời Mở Đầu - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Bối Cảnh Lịch Sủ của Ba Nước - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - Khi Nhà Văn... - Thư Ngỏ - đoạn 2 - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - Khi Nhà Văn... - Thư Ngỏ - đoạn chót - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Nội Tình của Ba Nước - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Phụ Lục 2: Sai Lầm Trong Cuốn 1945-1995.. - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Sai Lầm Trong Cuốn "Xóm Đạo" - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Nếu Miền Bắc Không Tấn Công - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Chuyện giáo dân bị sát hại - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Đạo Công Giáo và Thực Dân - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Tiền Lương Quân Nhân Công Chức - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Việc kèm ghép các vị sư - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Trường Hợp Bắc Hàn - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Thư Ngỏ - đoạn 1 - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ ▪
Trang Nguyễn Mạnh Quang