KHI NHÀ VĂN LẠM BÀN LỊCH SỬ
- Nguyễn Mạnh Quang -
http://sachhiem.net/NMQ/KNV/Thungo1.php
10-07-2008
Toàn tập:
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
MỘT SỐ SAI LẦM CỦA NHÀ VĂN
NGUYỄN NGỌC NGẠN
TRONG NHỮNG LỜI TUYÊN BỐ
VỀ LỊCH SỬ
THƯ NGỎ GỬI
NHÀ VĂN NGUYỄN NGỌC NGẠN (đoạn hai)
3.- Độc kế chụp mũ và diễn biến của độc kế này.-
Độc kế này sử dụng tất cả những từ ngữ xấu xa nhất và những gì độc ác
nhất để gán cho tất cả thành phần đối tượng bị Giáo Hội La Mã chiếu cố.
Những thành phần này gồm có (1) tất cả các tôn giáo khác và tất cả những
nhóm dân không phải là tín đồ Da-tô, (2) tất cả những gì không phải là
của Giáo Hội hay không thuộc về Giáo Hội, (3) tất cả những thành phần
phản đối những hành động lạm quyền và tội ác của Giáo Hội, (4) tất cả
những thành phần hô hào và kêu gọi đổi mới, hủy bỏ những tập tục phong
kiến lõi thời trong xã hội Da-tô giáo, (5) tất cả những thành phần khởi
xướng cách mạng và tham gia cách mạng, đặc biệt là Cách Mạng Pháp 1789
cũng như các phong trào cách mạng bùng nổ ở Âu Châu vào những năm 1830,
1848, và (6) tất cả những tác giả có tác phẩm nói về những hành động
lạm quyền, nói về những rặng núi tội ác của Giáo Hội trong gần hai ngàn
năm qua và của các chế độ cha cố tay sai của Giáo Hội.
Tất cả đều bị Giáo Hội gọi là tà giáo, tà đạo, tà
thần, tà thuyết, tà ma, ngoại đạo, man di, mọi rợ, vô đạo, chống Chúa,
rối đạo, phá đạo, phản loạn, vô thần, Cộng Sản, Cộng Sản vô thần, Giao
Điểm, v.v…
Càng về sau, độc kế này càng có thêm nhiều quái
chiêu, tinh vi hơn và siêu việt hơn, nhưng cũng vẫn giữ cái bản chất thô
bạo, trắng trợn và hết sức trơ trẽn của nó. Mỗi lần có một phong trào
mới chống đối Giáo Hội, thì Giáo Hội lại sử dụng quái chiêu mới. Dưới
đây là diễn biến của độc kế này theo thời gian:
Năm 325, khi Hội Nghi Nicaea do Hoàng Đế
Constantine (280-335) triệu tập, khai mạc vào ngày 20/5/325 để bàn về
bản thể của ông Jesus trong tín lý Chúa Ba Ngôi. Tín lý này bị Giám-mục
Arius và một số tu sĩ đồng quan điểm với ông không đồng ý và phản đối.
Thế là những người phản đối này bị gán cho là “tà giáo” và bị đuổi ra
khỏi hội nghị. Sự kiện này được sách Living World History ghi nhận với
nguyên văn như sau:
"Thiên Chúa Giáo được tăng cường bằng một tín điều
chung. Vì ông Jesus không để lại bản văn viết nào về tín lý cho nên mới
có những tranh luận giữa các tín đồ về niềm tin Ki-tô. Để giải quyết vấn
đề này, năm 325, Hòang Đế Constantine cho triệu tập một hội nghị nhóm
họp ở Nicaea. Hội Nghị này sọan thảo một tín điều cho rằng Thượng Đế và
ông Jesus Ki-tô có cùng một linh thể. Tất cả mọi người tham dự hội nghị
đều đồng ý tín điều này, ngọai trừ một tu sĩ có tên là Arius và một số
đồ đệ của ông ta. Những người này cho rằng Thượng Đế và ông Jesus Ki-tô
có những linh thể khác nhau. Họ liền bị gán cho là tà giáo và bị trục
xuất ra khỏi hội nghị. Những năm sau đó, phe theo ông Arius và phe theo
quyết định tín điều Nicene tranh giành quyền lãnh đạo Giáo Hội. Cuối
cùng, phe Nicene chiến thắng. Thêm vào tín điều Nicene, hội nghị còn
khai triển những bản văn trong Thánh Kinh. Thánh Kinh của người Do Thái
mà lúc đầu Giáo Hội Kitô Do Thái chọn làm Thánh Kinh được gọi là Cựu Ước
Kinh và được thêm vào những cuốn sách biên sọan sau khi ông Jesus đã bị
hành hình. Có rất nhìều cuốn đuợc biên sọan sau khi ông Jesus qua đời,
nhưng chỉ có 27 cuốn được chọn, gom lại được gọi là Tân Ước Kinh." Nguyên văn: Christianity was strengthened by a common creed. Because
Jesus left no written messages, disputes about Christian beliefs arose
among his followers. To resolve this conflict, the emperor Constantine
convened the Council of Nicaea in 325. This body formulated a creed
supporting the doctrine that God and Christ were the same substance. All
members present agreed to the doctrine except a priest named Arius and
his few followers, who maintained that God and Christ were of different
substances. He and his followers were therefore banished from the Church
as heretics (persons who hold a belief different the accepted view). As
the years passed, the Nicenes and the Arians vied for leadership in the
Church, but finally, the Nicenes were victorious. In addition to the
Nicene Creed, there had developed an official book of sacred writings.
To the holy writings of the Jews, which the early Christians adopted and
called the Old Testament, were added religious writings compiled after
the death of Jesus. Twenty-seven of these compilations, or books, were
selected to make the New Testament..") Arnold Schrier & Walter Wallbank,
Living World History (Glenview, Ill: Scott, Foresman and Co, 1974), page
118-119.
Sau đó những người này bị truy lùng và bị tàn sát.
Ông Charlie Nguyễn ghi lại thảm trạng của họ với nguyên văn như sau:
“Năm 340, Đế Quốc La Mã tiêu diệt hết các giáo phái
Kitô đi ngược lại các giáo điều của Hội Nghị Nicaea do Hòang Đế
Constantine triệu tập vào năm 325 và chính thức đặt tên cho Giáo Hội
Kitô mới của toàn đế quốc là Công Giáo (tiếng La-tinh là Catholica,
tiếng Hy Lạp là Katholicos, có nghĩa là tôn giáo của hoàn cầu). Saint
Cyril of Jerusalem đã viết như sau: "Tất cả mọi người thờ Chúa đều phải
qui tụ trong một hệ thống thiêng liêng đặt dưới quyền cai trị của Giáo
Hoàng La Mã. Bất cứ ai không phải là thành viên của Giáo Hội đều bị vứt
bỏ ra khỏi cuộc đời này và điều quan trọng hơn là bị vứt bỏ ra khỏi cả
đời sau nữa." (All who worshiped God were united in one sacramental
system under the government of the Roman Pontiff. Anyone not a member of
the Church must be cast out of this life and more important, out of
next). Đây là một lệnh cưỡng bức toàn dân thuộc đế quốc phải theo đạo
Công Giáo. Mọi người chống đối đều bị giết. Riêng những người Kitô thuộc
giáo phái Arius (Arian Christians) bị giết trên 3.000 người.” Charlie
Nguyên, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001),
trang 18-19.
Đây là lần đầu tiên Giáo Hội La Mã liên hệ trực
tiếp đến việc sử dụng bạo lực khủng bố và tàn sát những người đồng đạo
không đồng ý về việc Giáo Hội bịa đặt ra tín điều Chúa Ba Ngôi. Kể từ
đây Giáo Hội liên tục bịa đặt thêm nhiều tín lý khác nữa và tiếp tục sử
dụng bạo lực tàn sát tín đồ còn nghi ngờ những tín điều do Giáo Hội bịa
đặt ra. Trên đà hăng say, dựa vào những tín điều ghi trong các sách
Leviticus (26:1-18), sách Phục Luật (12:2-3, 13: 6-9), Dân Số
(25:3-5) , Giáo Hội liên tục dùng bạo lực để hủy diệt các tôn giáo khác
và sát hại những thành phần không chịu khuất phục Giáo Hội bằng những
chiến dịch "làm sáng danh Chúa" trong "kế hoạch Kitô Hóa" các dân tộc
thuộc các tôn giáo khác bị chinh phục.
Từ đầu thế kỷ 14, nhân dân Âu Châu vùng lên tranh
đấu chống lại Giáo Hội La Mã và trở thành một phong trào mà sách sử gọi
là Thời Kỳ Phục Hưng và Cải Cách Tôn Giáo (The Renaissance and
Reformation –1309-1648). Lúc đầu, các thành phần tiền phong của thời kỳ
này hoạt động theo tinh thần của Chủ Nghĩa Nhân Bản (Humanism). Họ quan
tâm đến quyền làm người, hăng say chỉ trích những việc làm sai lầm của
Giáo Hội La Mã. Đồng thời, họ công khai bày tỏ mối hoài nghi và thắc mắc
về quyền lực của Giáo Hội. Sự kiện này được sách Men and Nations ghi
nhận như sau:
"Theo thời gian, Chủ Nghĩa Nhân Bản trở nên một
trường phái học thuật có một quan niệm nhân sinh mới. Một trong những
đặc tính của quan niệm nhân sinh mới này là tinh thần phê phán. Thí dụ
như một số tư tưởng gia trong phong trào này chỉ trích Giáo Hội La Mã,
chống đối những điều mà họ cho là thói hư, tật xấu, những khuyết điểm
trong tổ chức và trong việc quản trị của Giao Hội. Những người này vẫn
còn giữ vững niềm tin tôn giáo, nhưng họ không thể chấp nhận quyền lực
của Giáo Hội mà không hoài nghi và thắc mắc.” Nguyên văn: “As time went
on, Humanism became more than a certain type of scholarship; it also
came to mean a new outlook on life. One characteristic of this outlook
was a critical spirit. Some Humanists, for example, criticized the
Church, protesting against what they regarded as defects in its
organization and administration. Men like this remained religious, but
they were less inclined than earlier thinkers to accept Church authority
without question.”. Anatole G. Mazour & John M. Peoples, Men and
Nations – A World History (New York: Harcourt Brace Jovanovich. 1975),
p.294.
Càng về sau, sự chỉ trích và chống đối Giáo Hội
càng trở nên sôi sục và bùng lên thành những thế lực đối kháng chống lại
Giáo Hội bằng cả tư tưởng và vũ lực. Đây là Phong Trào Đòi Cải Cách Tôn
Giáo (The Reformation 1309-1648) với các phong trào Tin Lành của
Linh-mục Martin Luther (1483-1546), của nhà thần học John Calvin
(1504-1564) và Phong Trào Cách Mạng Dân Chủ (The Age of Democratic
Revolutions – 1603-1815). Vì các phong trào này được nhiều chính quyền
thế tục ở Đức cũng như ở nhiều quốc gia khác ở Bắc Âu và Tây Âu triệt
để ủng hộ, cho nên chính quyền các quốc gia này không chịu tuân lệnh
Vatican tóm cổ họ trao cho các Toà Án Dị Giáo của Giáo Hội xử lý rồi
đưa lên các giàn hỏa thiêu để thiêu sống họ. Không thể tru diệt được
họ, Giáo Hội bèn ra lệnh cho bộ máy tuyền truyền của Giáo Hội sử dụng
những từ ngữ như “thệ phản”, “chống Chúa”, “rối đạo” và “phá đạo” gán
cho họ.
Thực ra, những người theo đạo Tin Lành không hề
phản ai hết và cũng thờ Chúa Cha Jehovah, Chúa Thánh Thần và Chúa Con
Jesus như Giáo Hội La Mã chủ trương, chỉ khác có một điều là họ không
chịu tuân phục Tòa Thánh Vatican và loại bỏ những tín lý do chính
Vatican bịa đặt ra, trong đó có các tín điều về Bà Maria.
Từ đầu thế kỷ 16, nhiều tiến bộ khoa học và có
nhiều phát minh được thực hiện. Đáng kể nhất là:
a.- Galileo Galilei (1564-1642) cải tiến được loại
kính viễn vọng có khả năng hữu hiệu hơn để có thể chứng minh rằng trái
đất di chuyển chung quanh mặt trời, chứ không phải là mặt trời quay
chung quanh trái đất như trong thánh kinh của Giáo Hội La Mã đã nói.
Việc làm này chứng tỏ cho mọi người thấy rằng lời dạy trong Thánh Kinh
là láo khoét. Vì lý do này, Giáo Hội mới tóm cổ ông, cưỡng bách ông phải
từ bỏ công trình nghiên cứu trên đây của ông và bắt giam ông cho đến
ngày ông qua đời. Xin xem Vụ Án Galileo Galilei, Phần III, nói về Khổ
Nạn của Những Người Viết Văn Chân Chính, sách Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa
Toàn Thư 1954-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000).
b.- Nhà khoa học Johannes Kepler (1571-1630) khám
phá ra quy luật trái đất quay chung quanh mặt trời theo quỹ đạo hình bầu
dục, chứ không phải là hình tròn, và tốc độ di chuyển của trái đất tăng
lên khi đến gần mặt trời.
c.- Nhà khoa học Isaac Newton (1642-1727) khám phá
ra luật về quán tính (law of inertia), luật về trọng lực (law of
universal gravitation) được công bố vào năm 1687.
Khoa học càng tiến bộ, người ta càng nhìn ra những
tính cách bịp bợm trong thánh kinh và trong tín lý Ki-tô. Đây là nguyên
nhân TẠI SAO Giáo Hội lại quyết tâm trù ẻm và tru diệt các nhà khoa học.
Bằng chứng rõ rẹt nhất là nhà bác học Galileo Galilei (1564-1642) bị
Giáo Hội bắt giam cho đến khi ông qua đời.
Đồng thời, cũng vào thời gian này, ở Âu Châu còn
xuất hiện một phong trào cấp tiến với những tư tưởng gia cự phách như
John Lock (1632-1704), Voltaire (1694-1778) [tên thật là Francois
Arouet], Dennis Diderot (1713-1784), Montesquieu (1689-1755) Jean
Jacques Rousseau (1712-1788), v.v…. Các đại tư tưởng gia này tự nhận là
những người theo một tôn giáo mới là “tự nhiên thần giáo” (deism). Họ
mạnh bạo đưa ra những ý kiến nhắm vào Giáo Hội La Mã để phê phán rất gay
gắt. Họ đòi hỏi phải có sự khoan dung trong lãnh vực tôn giáo đối với
mọi người. Họ hô hào và kêu gọi mọi người chỉ nên tin vào những gì hữu
lý, đừng tin vào những điều nhảm nhí phi lý giống như những chuyện hoàng
đường ở trong thánh kinh hay tín lý Ki-tô. Vì lý do này mà các nhà viết
sử gọi thời kỳ này là Thời Đại Khoa Học và Lý Trí (Science and the Age
of Reason 1500 -1789), cũng gọi là Thời Đại Khai Sáng (The
Enlightenment). Đi xa hơn nữa, Voltaire còn khẳng định rằng Thượng Đế
không can thiệp vào đời sống con người ở trên thế gian này. Do đó, việc
dâng cúng lễ vật và cầu xin là vô ích. Ngoài ra, ông còn chỉ trích những
cuộc chiến tranh và những hành động bách hại nhân dân vì lý do tôn giáo.
Ông chỉ trích gay gắt những hành động tham ô thối nát trong Giáo Hội La
Mã.
Vì lẽ này mà Giáo Hội hết sức thâm thù họ và muốn
tóm cổ họ đưa lên giàn hỏa thiêu, nhưng vì không còn có quyền lực ở
những nơi họ trú ngụ, Giáo Hội đành phải thúc thủ, và gán cho họ là “vô
thần”. Cũng từ đó, Giáo Hội ra công nhồi sọ cho tín đồ rằng “vô thần” là
một tội ác xấu xa ghê tởm và hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn cả bọn phù
thủy và tà giáo. Nói về vô thần, Giáo-sư Trần Chung Ngọc viết:
“Theo định nghĩa, vô thần là không tin, từ chối,
không chấp nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa (Atheism = Disbelief in or
denial of the existence of God). Thiên Chúa ở đây phải hiểu là Thiên
Chúa của Ki-tô Giáo. Vô thần không có nghĩa là chống Thiên Chúa, vì
chống một cái không hiện hữu là một chuyện vô ích. Nói cho đúng ra, Vô
Thần nếu có chống, là chống sự mê tín của con người vào một Thiên Chúa
do chính con người bày đặt ra.” Trần Chúng Ngọc. “Cộng Sản Vô Thần, Phật
Giáo Cũng Vô Thần Thì Sao?” sachhiem.net ngày 23/3/2007.
Nói về cái nhìn của các nhà trí thức trong Thời Đại
Khoa Học và Lý Trí đối với hệ thống tín lý Ki-tô và việc họ lên án những
việc làm bất chính của Giáo Hội La Mã, sách Livng World History viết như
sau:
“Những người theo tự nhiên thần giáo cho rằng,
Thượng Đế tạo ra vũ trụ và đặt ra những quy luật thiên nhiền rồi để mặc
cho những luật thiên nhiên này vận hành, rằng Thượng Đế không can thiệp
vào đời sống hàng ngày của con người. Cầu xin để được Thượng Đế giúp đỡ
là vô ích. Do đó những lễ nghi và tế lễ trong tôn giáo không còn là vấn
đề quan trọng. Họ chỉ trích những cuộc gây lộn và bách hại nhau vì tôn
giáo. Vi Voltaire chỉ trích gay gắt tệ trạng tham nhũng trong Giáo Hội
cho nên Giáo Hội gọi ông là vô thần.” (Nguyên văn: The deists believed
that God created the universe, set it up to operate by natural laws, and
left it alone. Moreover, God did not interfere in the daily lives of
men. Believing that it was useless to pray for help, the deists felt
that religious rituals were unimportant. They criticized the quarrels
and persecutions resulting from religious differences. Because Voltaire
bitterly attacked the corruption he saw in organized religion, he was
called an atheist.” Arnold Schrier & Walter Wallbank, Living World
History (Glenview, Ill: Scott, Foresman and Co, 1974), p. 385.
Ngoài việc trình bày quan niệm về tự nhiên thần
giáo, ngoài việc chỉ trích những hành động bất khoan dung về tôn giáo,
ngoài việc lên án Giáo Hội phát động những cuộc chiến với chủ tâm tàn
sát những thành phần thuộc các tôn giáo khác, ngoài việc lên án nặng nề
tệ trạng tham nhũng trong Giáo Hội La Mã, các nhà đại trí thức tự nhiên
thần giáo còn hô hào và cổ võ nhân dân phải làm cách mạng để thay đổi
tận gốc những định chế chính trị đương thời bằng một định chế chính trị
hoàn toàn mới tiến bộ hơn, kêu gọi phải thăng tiến xã hội, giúp cho dân
nghèo và giới cần lao có một đời sống tốt đẹp hơn. Sự kiện này được sách
sử ghi lại như sau:
“Giống như nhiều người đương thời, John Locke tin
rằng tiến bộ chắc chắn sẽ đạt được nếu con người biết hành xử theo lý
trí. Theo lý thuyết về chính quyền của ông, mọi người đều có một số
quyền tự nhiên, phần lớn là quyền sống, quyền tự do và quyền tư hữu. Ông
cho rằng, khi người dân thiết lập chính quyền là họ đã trao cho chính
quyền cái quyền lực bảo vệ những quyền tự nhiên của họ. Việc này được
thực hiện bằng một thỏa hiệp mà ông gọi là xã ước (cũng gọi là dân ước)
giữa người dân và chính quyền. Nếu chính quyền không bảo vệ những quyền
tự nhiên này của người dân, thì người dân có quyền thiết lập một chính
quyền mới để thay thế nó.” Nguyên văn:“Like many men of his time, (John)
Locke believed that progress was certain if men would use their minds
and follow reason. According to his theory of government, men possessed
certain natural rights, chiefly to life, liberty, and property. When the
people established a government, he argued, they had given it the power
to protect these rights. This had been done by means of an agreement,
which he called a social contract, between the people and the
government. If a government did not protect their natural rights, Locke
said, the people had a right to establish a new government.” Arnold
Schrier & Walter Wallbank. Ibid., p. 383.
“Thời Đại Lý Trí khích lệ việc lo cho phúc lợi của
con người bởi vì các tư tưởng gia của thời đại này đòi hỏi phải cải cách
những tập quán mà họ cho là vô lý. Nhờ vậy, người dân được tự do tôn
giáo nhiều hơn, nhiều tiên bộ được thực hiện trong lãnh vực ý tế công
cộng cũng như việc đối xử với những người ốm đau và những người bị bệnh
tâm thần.” Nguyên văn: “The Age of Reason stimulated concern for the
welfare of all human beings because thinkers demanded reform of customs
that they considered unreasonable. Religious liberty greatly increased,
and notable improvements were made in public health and in the treatment
of the sick and the insane.”Arnold Schrier & Walter Wallbank. Ibid., p.
388.
Những tư tưởng trên đây của các nhà đại trí thức
của Thời Đại Lý Trí đã gây niềm hứng khởi cho những lớp người kế tiếp
hăng say tiến lên quyết tâm làm cách mạng để thay đổi tận gốc những quan
niệm lỗi thời về tôn giáo, chính trị và xã hội để có một xã hội mới
trong đó các quyền tự nhiên (natural rights) của con người phải được
triệt để tôn trọng. (Xin xem Cách Mạng Pháp 1789 trong Mục XXVI, Phần VI
của bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã.) Sách sử gọi
thời kỳ này là Thời Đại Cách Mạng Dân Chủ (The Age of Democratic
Revolutions – 1603-1815). Cuộc Cách Mạng Pháp 1789 được coi như là thành
quả rực rỡ nhất và huy hoàng nhất của Thời Đại Cách Mạng Dân Chủ.
Hiển nhiên là những lời hô hào cổ võ và việc làm
của các nhà đại tư tưởng trong Thời Đại Lý Trí và Thời Đại Cách Mạng đều
đụng chạm đến quyền lợi của Giáo Hội La Mã và giai cấp phong kiến phản
động. Vì thế mà cả hai thế lực này đều vô cùng tức giận và cùng muốn tru
diệt hết tất cả những người theo tự nhiên thần giáo và theo Cách Mạng
Pháp 1789 . Chính vì lẽ này mà kể từ đó hai thế lực này luôn luôn cấu
kết với nhau để chống lại mọi tư tưởng tiến bộ và chống lại tất cả mọi
cải cách về chính trị cũng như về xã hội, cùng nhau tìm đủ mọi cách để
hủy diệt những tiến bộ của khoa học, hủy diệt hết tất cả những thành quả
của Cách Mạng Pháp 1789.
Ai cũng biết rằng các tư tưởng gia trong Thời Đại
Lý Trí hô hào và kêu gọi mọi người “chỉ nên tin vào những gì hữu lý, và
đừng tin vào những gì vô lý bất khả tín, đặc biệt là những tín lý Da-tô
láo khoét”. Vì thế, Giáo Hội mới coi họ như là những kẻ tử thù và muốn
tru diệt cả về thể xác và uy tín thanh danh của họ.
Về thể xác, Giáo Hội sử dụng các chính quyền đạo
phiệt tay sai để truy lùng và tru diệt họ như Giáo Hội đã làm đối với
những người bị Giáo Hội gán cho là “tà giáo’, là “phù thủy” từ thế kỷ 4
cho đến lúc bấy giờ, và còn tiếp tục làm như vậy cho đến ngày nay (nếu
có hoàn cảnh). Thế nhưng, vào thời kỳ này, quyền lực của Giáo Hội ở
Pháp, ở Bắc Âu và ở Đông Âu đã bị suy yếu rất nhiều vì thế lực của Tin
Lành càng ngày càng mạnh. Cho nên Giáo Hội không thể tóm cổ và xử lý họ
như Giáo Hội đã tóm cổ và xử lý các linh-mục John Huss (1373-1415),
Savonarola Girolamo (1452-1498), Bruno Giordano (1548-1600), nhà bác
học Galileo Galilei (1564-1642) và hàng triệu nạn nhân khác trước đó.
Về uy tín và thanh danh, bộ máy tuyên truyền của
Giáo Hội và bọn văn nô Da-tô ra công nhồi sọ tín đồ rằng họ là những
người vô thần, và mô tả vô thần là những người vô cùng xấu xa, hết sức
độc ác, rồi dùng tất cả các phương tiện truyền thông và giáo dục của
Giáo Hội để loan truyền, phổ biến rộng rãi những lời vu khống này theo
sách lược “Tăng Sâm giết người” (nhắc đi nhắc lại nhiều lần) và “cả vú
lấp miệng em” (phổ biến ồ ạt và đồng loạt bằng nhiều phương cách khác
nhau như báo chí, lớp học, giờ lễ trong nhà thờ v.v…). Tất cả những việc
làm này chỉ có một mục đích duy nhất là gây cho mọi nguời có những ấn
tượng vô cùng xấu xa về những người bị Giáo Hội gán cho là vô thần. Làm
như vậy là Giáo Hội đã mang tội vu khống. Chúng ta nhớ lại điều răn thứ
9 của Giáo Hội nói là “không được làm chứng gian” (được hiểu là không
được vu khống). Mục đích của Giáo Hội đặt ra điều răn này là để dạy dỗ
tín đồ và mọi người không được nói dối (nói láo) với Giáo Hội, trong khi
đó thì Giáo Hội tha hồ nói láo và tha hồ vu khống cho những người nào
hay thế lực nào mà Giáo Hội không ưa thích hay thù ghét.
Tình trạng này khiến cho chúng ta nhớ lại trong các
chế độ độc tài toàn trị, đặc biệt là trong các chế độ độc tài tôn giáo
(đạo phiêt), luật pháp chuyên chế được làm ra là để bắt buộc giai cấp bị
trị phải thi hành triệt để, còn những thành phần nằm trong giới lãnh đạo
và giai cấp thống trị thì được đặc miền bằng nhiều cách: chính thức, bán
chính thức và không chính thức. Điển hình nhất là luật động viên, luật
hối đoái, v.v.. ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975. Rõ
ràng là ở đâu có tình trạng “Cường quyền thắng công lý” (La raison du
plus fort est toujours meilleure), luật pháp là do giai cấp thống trị
làm ra và được diễn dịch để phục vụ cho giai cấp thống trị. Hiện nay,
tình trạng này cũng đã và đang xẩy ra đối với cộng đồng đồng quốc tế tại
Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Sự kiện này được bà Kathy Schaefer viết trong
mục ý kiến bạn đọc có tựa đề là. “Rules we apply to others don’t apply
to U.S.” đăng trong tờ The News Tribune (Tacoma, Washington) ngày
29/3/2007, nơi trang B7 với nguyên văn như sau:
“Ông Tòa Hogan Hoa Kỳ nói rằng cựu Bộ Trưởng Quốc
Phòng Donald Rumsfeld không thể chịu trách nhiệm về những hành động có
liên hệ đến công việc của chính quyền. Vụ tranh tụng cho rằng tù nhân bị
đánh đập, bị treo ngược lên trần nhà bằng một sợi dây xích, bị đái lên
người, bị cho điện giật và bị đem ra làm như bị hành hình.Tại sao chúng
ta lại dùng thước đo những việc làm của ông Rumsfeld (nghĩa là của chính
quyền Tổng Thống Bush) khác với cái thước đo để đo lường những việc làm
của Saddam Hussein? Tại sao những việc làm của Hussein lại không được
coi là có liên hệ với việc làm của chính quyền của ông ta? Phải chăng
chúng ta có một bộ luật cho thế giới và một bộ luật khác cho riêng chúng
ta? Phải chăng Hussein đã không dùng lý luận này để biện minh cho những
hành động riêng của ông ta? Đây là một thí dụ tai sao thế giới nghĩ rằng
chính sách đối ngoại của chúng đáng khỉển trách."
Nguyên văn: “U.S. District Judge Hogan said that
former Defense Secretary Donald Rumsfeld cannot be held personally
responsible for actions taken in connection with his government job. The
lawsuit contends the prisoners were beaten, suspended upside down from
the ceiling by chains, urinated on, shocked, sexually humiliated,
burned, locked inside boxes and subjected to mock executions. Why is the
measuring stick we use to measure Rumsfeld ‘s (i.e., the Bush
administration’s) actions different than the one we used to measure
Saddam Hussein’s? Were Hussein’s actions not also taken in connection
with his government job? Do we have one set of rules for the rest of the
world and a different set for ourselves? Isn’t that the same reasoning
Hussein used in justifying his own actions? This is one example of why
the rest of the world thinks our foreign policies are somewhat
reprehensible.” Kaythy Schaefer. “Rules we apply to others don’t apply
to U.S.” The News Tribune [Tacoma] 29 March, 2007: B7.
Như đã trình bày ở trên, các tư tưởng gia tự xưng
là tín đồ “tự nhiên thần giáo” bị Giáo Hội gán cho là vô thần, không
những đã không làm điều gì xấu xa hay tàn ác, trái lại, họ còn dám xả
thân liều chết hô hào mọi người hãy hành xử theo lý trí để khỏi bị
(Giáo Hội) mê hoặc và lừa bịp bằng những tín lý Ki-tô. Hơn nữa, qua
những tư tưởng cùng việc làm của họ, họ quả thật là ân nhân, là cứu tinh
của nhân loại. Vì vậy mà lịch sử đã tôn vinh họ là những vĩ nhân của
loài người. Những người biết sử dụng lý trí và hiểu biết lịch sử thế
giới đều biết rõ sự thực là như vậy, vì rằng cho đến ngày nay, sách sử
đều ghi nhận những người như Galileo Galilei (1564-1642), Johannes
Kepler (1571-1630), Isaac Newton (1642-1727), John Lock (1632-1704),
Voltaire (1694-1778) [tên thật là Francois Arouet], Dennis Diderot
(1713-1784), Montesquieu (1689-1755) Jean Jacques Rousseau (1712-1788),
v.v… như là vĩ nhân và ân nhân của nhân loại. Chính vì vậy mà khi nói
đến họ, ngoại trừ Giáo Hội La Mã và nhũng tín đồ Da-tô cuồng tín hay
những người ít học, những người bình thường và có lý trí đều tỏ lòng
khâm phục và kính trọng.
Thiết nghĩ ràng chẳng cần phải là bậc vĩ nhân như
các bậc danh nhân đã được nêu lên trên đây, Nếu KHÔNG có lòng vị kỷ,
tham lợi, háo danh, KHÔNG có ý định hay hành động cưỡng bách người khác
phải làm theo ý muốn của mình, KHÔNG có ý nghĩ hay hành động tàn ngược
bắt nạt và sát hại những người khác để chiếm đoạt tài sản, KHÔNG hãm
hiếp đàn bà con gái, KHÔNG chiếm đoạt quyền lực một cách bất chính như
Giáo Hội La Mã đã làm, và đăc biệt là KHÔNG cúi mặt gục đầu cam tâm làm
tay sai cho quân cướp ngoại thù, đành lòng chống lại tổ quốc và dân tộc,
THÌ dù là vô thần cũng vẫn phải được coi là lương thiện, hiền lành, đáng
được ca ngợi và tôn vinh là thánh thiện, đáng được nêu gương cho mọi
người theo đó mà hành xử.
Thực ra, những người tự xưng là vô thần hay bị gán
cho là vô thần là những người “không chấp nhận sự hiện hữu của Thiên
Chúa” và “chống sự mê tín của con người vào một Thiên Chúa do Giáo Hội
La Mã bày đặt ra.” Như vậy, họ hoàn toàn chỉ là những người biết sử
dụng lý trí để hành xử. Nhờ vậy, họ mới biết rõ bộ mặt thật ghê tởm của
Giáo Hội La Mã. Chính vì biết rõ bộ mặt thật ghê tởm của Gíao Hội, cho
nên Giáo Hội mới coi họ như là kẻ tử thù và tìm đủ mọi cách tru diệt họ
về cả thanh danh uy tín lẫn thể xác bằng mọi cách và bằng bất cứ giá
nào. Nhưng vì vào thời kỳ này, các chính quyền Pháp, Đức và nhiều quốc
gia khác ở Âu Châu không còn tuyệt đối tuân phục Tòa Thánh Vatican nữa,
cho nên Giáo Hội không thể trừng trị họ như Giáo Hội đã làm đối với
những ngươi như John Huss (1373-1415), Savonarola Girolamo (1452-1498),
Bruni Giordano (1548-1600), Galileo Galilei (1564-1642) và hàng triệu
nạn nhân người Âu Châu khác trước đó không bao lâu. Cùng một nhận xét
như trên, Giáo-sư Trần Chung Ngọc viết:
"Tôi nghĩ rằng vài tài liệu như trên cũng đủ để cho
chúng ta phân biệt được thế nào là “vô thần” và thế nào là “hữu thần”.
Sau đây chúng ta sẽ thử xem trong lịch sử thế giới những ai là “vô
thần”.
Trước hết là Đức Phật, Đức Khổng Tử, Lão Tử ở Đông
Phương trong thế kỷ 6 trước thường lịch. Cùng thời với 3 nhân vật vĩ đại
của nhân loại trên, chúng ta thấy Simonides, một thi sĩ Hi Lạp. Rồi sau
đó là Empedocles, Aristotle, triết gia Hi Lạp; Demosthenes, nhà hùng
biện thành Athenes; Epicurus, triết gia Hi Lạp; Lucretius, triết gia La
Mã; Statius, Thi sĩ La Mã. Tất cả những nhân vật có tên trong lịch sử
trên đều sinh ra trước Giê-su. Trong cuốn Đức Tin Công Giáo, Giao Điểm
xuất bản năm 2000, trong phần phụ lục, tôi đã đưa ra danh sách 75 danh
nhân trí thức Âu Mỹ có thể xếp vào hạng những người vô thần. Phần này
cũng đã được đưa lên trang nhà Giao Điểm.
Bây giờ chúng ta hãy kể vài nhân vật “hữu thần” nổi
danh trên thế giới. Hiển nhiên các giáo hoàng, hồng y, tổng giám mục,
linh mục là những người “hữu thần” bậc nhất. Mở danh sách các giáo
hoàng ra chúng ta thấy có bao nhiêu giáo hoàng nổi tiếng trên thế giới,
thuộc loại “lưu danh muôn thuở” hay “lưu xú vạn niên”.? Lloyd M. Graham
đã viết trong cuốn Những Dối Trá và Huyền Thoại Của Thánh Kinh
(Deceptions and Myths of the Bible): “Đối với hàng triệu linh hồn bị
lạc dẫn...một ngàn năm tội ác và đồi bại (của giáo hội Công giáo) được
làm nhẹ đi qua lời giải thích hời hợt là “chỉ có vài giáo hoàng xấu”.
Nếu những người giải thích như vậy mà lương thiện, họ phải thừa nhận
rằng thật ra chỉ có vài giáo hoàng tốt” (For millions of misguided
souls..., a thousand years of crime and corruption are glossed over with
the statement, “There were a few bad popes.” Were their informers
honest they would admid there were a few good). Sau đây là một thí dụ
điển hình: Edward Gibbon (1737-1794), một Sử gia người Anh đã viết:
“Những tội nghiêm trọng nhất đã bị dẹp bỏ, Người đại diện của Chúa Ki Tô
(Giáo hoàng John XXIII, 1414) chỉ bị kết tội là ăn cướp, sát nhân, hãm
hiếp, giao hợp đồng giống, và loạn luân (The most serious charges were
suppressed; the Vicar of Christ (Pope John XXIII, 1414) was accused only
of piracy, murder, rape, sodomy, and incest.) Một số chi tiết về các
giáo hoàng đồi bại này đã được trình bày trong cuốn Đức Tin Công Giáo,
chương II, tôi không nhắc lại ở đây nữa. Ngoài ra chúng ta còn phải kể
Hitler, Mussolini, Franco, Pétain, MacCarthy, Von Papen, Himmler,
Goebbels, Palevich v..v.., tất cả đều là những người “hữu thần”. Nhưng
tội ác của họ đối với nhân loại ra sao? Công Giáo “hữu thần”, nhưng
Công Giáo đã gây nên bao nhiêu thảm trạng cho nhân loại?
Riêng về Việt Nam thì những ai là “vô thần” theo
nghĩa không biết đến, không tin, không công nhận sự hiện hữu của Thiên
Chúa của Ki Tô Giáo? Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Quốc sư Vạn
Hạnh, Lý Thường Kiệt, Trần Bình Trọng, Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông, Trần
Nhân Tông, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Phan
Đình Phùng, Đinh Công Tráng, Hồ Chí Minh v...v... Những bậc tiền nhân
này đã làm gì cho nước Việt nếu không phải là có công đánh đuổi xâm
lăng, bảo toàn chủ quyền, nền độc lập quốc gia, hoặc làm rạng danh nền
văn hóa Việt Nam? Còn những kẻ “hữu thần” là ai? Pétrus Ký, Nguyễn
Trường Tộ, Paulus Của, Trần Bá Lộc, Nguyễn Thân, Trần Lục, Ngô Đình Khả,
Nguyễn Bá Tòng, Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi, Hoàng Quỳnh v..v.. Họ là ai?
Toàn là Việt gian bán nước, theo giặc chống lại tổ quốc, hoặc cuồng tín,
nô lệ Vatican như Ngô Đình Diệm?
Ai có thể phủ nhận hay biện minh cho sự kiện bán
nước của Công Giáo qua văn kiện có tính cách khẳng định sau đây của
chính Giám mục Puginier, được trích dẫn trong cuốn Catholicisme et
Sociétes Asiatiques của Alain Forrest và Yoshiharu Tsuboi:
"Giám Mục Puginier viết rằng: "Không có các thừa
sai và giáo dân Ki Tô Giáo thì người Pháp cũng giống như những con cua
đã bị bẻ gẫy hết càng. Thí dụ như vậy, tuy tầm thường mộc mạc nhưng
không kém phần chính xác và mạnh mẽ. Thật vậy, không có các thừa sai và
giáo dân Ki Tô Giáo, người Pháp sẽ bị bao vây bởi toàn là kẻ thù; họ sẽ
không thể tin cậy vào một ai; họ sẽ chỉ nhận được những tin tức tình báo
sai lầm, cung cấp với ác ý để phá hoại tình thế của họ; họ sẽ bị đẩy
vào tình trạng không thể hoạt động được gì và sẽ phải hứng chịu những
thảm họa thực sự một cách nhanh chóng. Địa vị của họ ở đây sẽ không giữ
nổi được nữa, và họ sẽ bị buộc phải rời khỏi xứ, nơi đây quyền lợi và
ngay cả sự hiện diện của họ sẽ bị nguy hại."
(Sans les missionnaires et les
chrétiens, écrit Mgr. Puginier, les Francais seraient comme les crabes
auxquels on aurait cassé toutes les pattes. La comparaison, pour être
triviale, ne manque pas de justesse et de force. En effet, sans les
missionnnaires et les chrétiens, les Francais se verraient entourés
d'ennemis; ils ne pouraient se fier à personne; ils ne recevraient que
de faux renseignements, méchamment donnés pour compromettre leur
situation; ils se trouveraient donc réduits à l'impossibilité d'agir et
seraient rapidement exposés à des vrais désastres. Leur position ici ne
serait plus tenable, et ils ne verraient forcés de quitter un pays où
leurs intérêts et leur existence même serait compromis.)
Ai có thể phủ nhận hay biện minh
cho hành động bán nước của linh mục Trần Lục, người dẫn 5000 giáo dân đi
tiếp tay, hỗ trợ quân đội Pháp để hạ trung tâm kháng chiến Ba Đình của
Đinh Công Tráng? [Xin đọc Thập Giá Và Lưỡi Gươm của LM Trần Tam Tĩnh]
Ai có thể phủ nhận hay biện minh
cho sự kiện là giám mục Lê Hữu Từ đã theo lệnh chống Cộng của giáo hoàng
Pius XII, nhận vũ khí của Pháp khi Pháp trở lại Việt Nam, tổ chức những
“khu tự trị” (sic) Phát Diệm, Bùi Chu để giết dân ngoại đạo vô tội, đi
cướp phá các làng “lương”” dưới chiêu bài chống Cộng sản Vô Thần.
Vậy thì giữa “vô thần” cứu nước và
làm rạng danh nước, và “hữu thần” nô lệ ngoại bang, phản bội quốc gia,
người dân Việt nên chọn thứ nào? 93% dân Việt đã chọn “vô thần”, còn 7%
chọn “hữu thần”. Viết như trên không có nghĩa là tất cả 7% người dân
Việt theo Công giáo đều là những người bán nước, phản bội quốc gia.
Phần lớn họ là nạn nhân của một nền thần học ru ngủ xảo quyệt, không đủ
trí tuệ để nhận ra bộ mặt thật của tôn giáo họ, ham hố một sự “cứu rỗi”
không tưởng, tin theo luận điệu bịp bợm của giáo hội như giáo hoàng là
đại diện của Chúa trên trần, “Cha cũng như Chúa” có quyền tha tội hay
cầm giữ tội của họ v..v.., cho nên đã nhắm mắt theo lệnh của những linh
mục đầy tớ của Vatican mà không ý thức được những hành động phản quốc
của mình. Họ đáng thương hơn là đáng trách. Nhưng chính điều này đã
chứng tỏ rằng “hữu thần” hoàn toàn không có gì có thể gọi là đạo đức hơn
hay tốt đẹp hơn “vô thần” nếu không muốn nói là còn kém xa.” Trần Chung
Ngọc. “Không Thần” và “Có Thần” giaodiemonline tháng 4/2007.
Vì vào thời kỳ này, quyền lực của
Giáo Hội ở Pháp, ở Bắc Âu và ở Đông Âu đã bị suy yếu rất nhiều do thế
lực của Tin Lành càng ngày càng mạnh, Giáo Hội không thể tóm cổ và xử lý
họ như Giáo Hội đã tóm cổ và xử lý các linh-mục John Huss (1373-1415),
Savonarola Girolamo (1452-1498), Bruno Giordano (1548-1600), nhà bác học
Galileo Galilei và hàng triệu nạn nhân khác trước đó. Cho nên, ngoài
việc dùng cái loa tuyền truyền vu khống cho họ đủ điều xấu xa và xỉ vả
họ với dã tâm gây cho tín đồ có ấn tượng xấu xa về họ, Giáo Hội còn đưa
ra quái chiêu thế thủ bằng cách ra công nhồi sọ tín đồ rằng “Niềm tin tôn giáo không cần đến sự can thiệp của lý trí và cũng không cần đến sự
can thiệp của khoa học. ” Đồng thời, Giáo Hội cũng luôn luôn được nhắc
nhở tín đồ phải ghi lòng tạc dạ hai câu nói “Phúc cho ai không thấy mà
tin” và “Chỉ cần có niềm tin (tin vào Giáo Hội) bằng hạt cải, thì có thể
bứng cả trái núi quăng xuống biển.”
Câu nói chót trên đây là lấy trong
Matthew (21:18-22) trong chuyện cây vả bị Chúa Con Jesus “Toàn Năng,
Toàn Thiện” và “lòng lành vô cùng” nguyền rủa cho khô héo chỉ vì nó
không sinh trái vào lúc Chúa đang lúc đói lòng đi qua đó. Nguyên văn của
câu nói này như sau: “Đức Chúa Jesus đáp rằng: Quả thật, ta nói cùng
các ngươi, nếu các ngươi có đức tin, và không nghi ngờ chi hết, thì
chẳng những các ngươi làm được điều đã làm cho cây vả mà thôi, song dầu
các ngươi biểu hòn núi rằng: Hãy cất mình lên và quăng xuống biển, điều
đó cũng sẽ làm được. Trong khi cầu nguyên, các ngươi lấy đức tin xin
việc gì bất kỳ, thẩy đều được cả.”(Matthew (21:21-22).
Nguời Việt Nam ta có câu nói “Cái
kim trong giẻ lâu ngày cũng lòi ra”. Ngụ ý của câu nói này là “Hễ nói
láo thì sớm muộn rồi cũng lòi đuôi ra.” Câu chuyện cây vả trên đây đã
phơi bày tính cách bịp bợm trong lời dạy “Chúa Cha Jehovah, Chúa Con
Jesus Toàn Năng Toàn Thiện” của Giáo Hội. Những người biết sử dụng lý
trí không thể nào lại không đặt ra vấn đề là:
TẠI SAO Chúa bố Jehovah và Chúa con
Jesus TOÀN NĂNG lại bất lực không làm gì được quỷ Satan?
TẠI SAO Chúa Con Jesus đã “TOÀN
NĂNG” lại bất lực, không thể làm cho cây vả sinh trái cho Chúa ăn đỡ khi
Chúa đói lòng?
TẠI SAO Chúa Con Jesus đã “TOÀN
THIỆN” và “lòng lành vô cùng” lại đang tâm làm cho cây vả khô héo đi chỉ
vì nó không sinh trái cho Chúa ăn khi Chúa đói lòng?
Rõ ràng là nói láo cho nên mới xẩy ra tình trạng câu sau đá ngược câu
trước như trên!
Thế nhưng, tín đồ Da-tô, đặc biệt
là tín đồ Da-tô người Việt, đâu có biết sử dụng lý trí mà đặt ra những
vấn đề như trên! Cũng nên biết là thường thường mỗi một tín lý Da-tô hay
lời dạy của Giáo Hội La Mã cũng đều có chứa đựng một gian ý hoặc là
lừa bịp hoặc là vơ vào ở trong đó.
Giả dụ như tất cả tín đồ Da-tô đều
biết sử dụng lý trí để tìm hiểu những tín lý Da-tô, tìm hiểu những giáo
luật và lời dạy của Giáo Hội, thì họ sẽ không ngần ngại gì mà dứt
khoát giã từ cái “Giáo Hội Khốn Nạn” này (Nhiều tác giả, Vatican Thú Tội
và Xin Lỗi, (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000), tr. 92, giống như
những trường hợp của các ông Charlie Nguyễn, Giuse Phạm Hữu Tạo, Bác-sĩ
Nguyễn Văn Thọ và hàng trăm triệu tín đồ Da-tô khác ở Âu Châu, ở Bắc Mỹ
và ở nhiều nơi khác. Nếu như thế, chắc chắn là Giáo Hội La Mã sẽ phải
giải thể. Thực ra, ngày đó cũng không xa lắm đâu!
Kể từ đó, Giáo Hội dồn hết nỗ lực
vào việc dạy dỗ tín đồ rằng “đừng nghe những lời hô hào của các đại tư
tưởng gia của Thời Đại Lý Trí”,. rằng, “Niềm tin tôn giáo không cần đến
sự can thiệp của khoa học và lý trí.” Cho đến ngày nay, những lời dạy
này của Giáo Hội vẫn còn được nhắc đi nhắc lại ở trong các công đồng
Da-tô người Việt.
Cũng từ đó, Giáo Hội lên án gay gắt
các quyền tự do của người dân. Đó là các quyền tự do tôn giáo, quyền tự
do giáo dục, quyền sống và quyền làm người của mọi người dân. Những
quyền này đã được các đại tư tưởng gia trong Thời Đai Lý Tri gọi là
quyền tự nhiên của con người và đặt lên hàng đầu trong mục tiêu tranh
đấu của họ.
Song song với việc lên án gay gắt,
dè bỉu và gièm pha các đại tư tưởng gia của thời Đại Khoa Học và Lý Trí,
Giáo Hội dồn hết nỗ lực vào việc tìm cách nắm độc quyền về giáo dục để
khống chế chương trình học với dã tâm là để nhồi sọ tin đồ, rèn luyện
thanh thiếu niên theo ý đồ của Giáo Hội với mục đích kìm hãm họ trong
vòng tối tăm ngu dốt giống như con cừu mà Giáo Hội gọi là con chiên. Có
ngu như con cừu thì tín đồ mới tuyệt đối tin tưởng vào những tín lý
Ki-tô láo khoét của Giáo Hội. Có như vậy thì Giáo Hội mới có đất nương
thân để mà tồn tại.
Tất cả những gì trình bày trên đây
đều là những sự thật lịch sử. Tất cả những sự thật lịch sử này đều được
sách sử ghi lại rõ ràng. Sách Roman Catholicism viết:
“Danh sách những điều sai lầm: Giáo
Hoàng Pius IX (1846-1878) lên án những phong trào đòi tự do tôn giáo, tự
do hành động theo lương tâm, tự do ngôn luận, tự do báo chí, lên án cả
những khám phá về khoa học nếu không được sự chấp thuận của Giáo Hội La
Mã và khẳng định quyền lực của Giáo Hoàng phải bao trùm lên trên quyền
lực của các nhà cầm quyền thế tục.” Nguyên văn: “Syllabus of
Errors, proclaimed by pope Pius IX, and ratified by the Vatican council,
condemned freedom of religion, conscience, speech, press, and scientific
discoveries which are disapproved by the Roman Church, asserted the
pope’s temporal authority over all civil rulers.” Loraine Boettner,
Roman Catholicism, (Phillipsburg, New Jersey: The Presbyterian and
Reformed Publishing Company, 1962), p. 8.
Giáo-sư Lý Chánh Trung viết trong cuốn Tôn Giáo Và
Dân Tộc với nguyên văn như sau:
“Giáo Hội cần có một nền giáo dục công giáo độc lập
như một môi trường thiết yếu, không những để truyền bá giáo lý mà còn để
đào tạo thanh thiếu niên theo tinh thần công giáo.” Lý Chánh Trung, Tôn
Giáo Và Dân Tộc (Sàigòn: Lửa Thiêng, 1973), tr. 66.
Cũng trong tác phẩm này, nơi trang 76, ông ghi
nhận:
“Đức Giáo Hoàng Grégore XVI (1831-1846) đã gọi tự
do báo chí là “thứ tự do tai hại nhứt, đáng ghét nhứt, kinh tởm nhứt mà
một số người dám đòi hỏi một cách ồn ào cuồng nhiệt và quảng bá khắp
nơi…” Lý Chánh Trung, Sđd., tr. 76
Đồng thời, cũng từ đấy, Giáo Hội càng tích cực sử
dụng thủ đoạn gian ác để vơ vét, bóc lột và tích lũy tài sản cho đầy túi
tham. Ngoài những thủ đoạn làm tiền bất chính trắng trợn nhất là Bán
thánh (simony), bán chức vụ (selling office) trong chính quyền, từ đầu
thế kỷ 16, Giáo Hội còn sáng tác ra một mánh mung làm tiền mới là bán
chứng thư xá tội (indulgences) cho những tín đồ cuồng tín ngu dốt, lấy
tiền chi phí cho bộ máy đàn áp nhân dân của Giáo Hội, chi phí cho những
việc làm phô trương cái oai thế của Giáo Hội để lòe bịp người đời qua
việc xây cất những ngôi nhà thờ vĩ đại với những tháp chuông cao chót
vót lên đến tận lưng trời, và chi phí cho cuộc sống huy hoàng, ăn chơi
đàng điếm, loạn luân, dâm loàn của các giáo hoàng và các vị chức sắc cao
cấp trong Giáo Hội (như đã trình bày đầy đủ trong Mục VI, Phần I trong
bộ sách LịchSử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã). Tình trạng này khiến
cho nhân dân Âu Châu còn nằm trong vòng kèm tỏa của Giáo Hội vốn đã đói
khổ điêu linh lại càng trở nên đói khỏ điêu linh hơn nữa và càng trở nên
căm phẫn và thù ghét Giáo Hội nhiều hơn. Lời phát biểu của nhà báo
Jacques René Hebert (Nov. 15, 1757- March 24, 1794) cho chúng ta thấy rõ
sự kiện này:
"Các bạn người Pháp, các bạn hãy nói cho tôi nghe
xem có được không? Nếu cái người mà các bạn gọi là Đức Thánh Cha cướng
quyết chống lại luật pháp của các bạn, các bạn có ngu xuẩn và hèn hạ đến
độ phải từ bỏ luật pháp của các bạn không?. Các bạn hy vọng gì ở một ông
Giáo Hoàng? Đ.M Giáo Hoàng, hãy tin ở tôi đi, bây giờ là đến lượt các
bạn; cả trong mười thế kỷ qua, Giáo Hoàng đã áp bức các bạn quá nhiều
rồi.". Nguyên văn: “Tell me, Frenchmen, is it possible? if that man you
call the Holly Father takes it into his head to oppose your laws, do you
dare, are you stupid and base enough, to give them up? What do you
expect from a Pope? Screw the Pope, believe me; it is your turn at last;
for ten centuries the Pope has screwed you." .E. Boshier, The French
Revolution (New York, W. W. Norton & Company, 1988), tr 155.
Sau này, tới thời Liên Minh Thánh (Vatican – Anh –
Áo - Phổ - Nga) đánh đổ chính quyền của Hoàng Đế Napoléon I vào năm 1814
và đưa người em của Vua Louis XVI lên ngai vàng, lấy vương hiệu là
Louis XVIII (1814-1824) [sau đó Charles X (1824-1830) lên kế vị] tái
lập vương quyền cho dòng họ Bourbon, Giáo Hội mới tìm cách trừng phạt
những thành phần theo tự do thần giáo và những nguời đã từng theo Cách
Mạng 1789 bằng cách ban hành nhiều luật mang nặng tính cách trả thù
những thành phần nói trên, trong đó, đáng kể nhất là luật, cấm báng bổ
thần thánh, tức là cấm người dân, không được nói gì đụng chạm đến Giáo
Hội hay đụng chạm đến những tín lý của Giáo Hội. Sự kiện này được sách
sử ghi lại với nguyên văn như sau:
"Trong thời gian hai ông Villele và Polignac giữ
chức vụ thủ tướng chính phủ, những mối oán thù chất chứa trong lòng từ
trước thì bây giờ được giới qúi tộc và Giáo Hội tha hồ phóng tay rửa
hận. Bất cứ chuyện gì họ cũng nhớ đến để trả thù và rất khó cho họ thông
cảm cho bất kỳ một chuyên gì. Họ mua chuộc, đút lót trong các thủ tục
tiến hành bầu cử để loại bỏ những người thuộc thành phần tư sản (ra khỏi
danh sách ứng cử viên); họ gia tăng gấp bội ngân khoản ngành cảnh sát để
ngăn cản tự do báo chí và tự do tư tưởng. Họ bổ nhậm một ông giám mục
làm viện trưởng viện đại học để lọai bỏ các tư tưởng tiến bộ. Họ tài trợ
cho những chiến dịch ồn ào gọi là "sứ mệnh" để tu bổ và đi trồng cây chữ
thập (thánh giá) khắp trong toàn quốc, mà có một số vẫn còn tồn tại cho
tới ngày nay. Họ dám ban hành một đạo luật trừng phạt những người bị kết
tôi là "phạm thượng" hay "xúc phạm thần thánh" với những hình phạt hết
sức là tàn ác dành cho những người nào bị cho là làm rối lọan hay phá vỡ
các cuộc lễ lạc tôn giáo hay báng bổ thần thánh, dù rằng đạo luật này
khó có thể thi hành được. Và cuối cùng, vào năm 1825, họ cho thông qua
hàng tỉ bạc (tiền Pháp) để bồi thường 3 phần trăm trái phiếu cho những
người trốn đi sống lưu vong ở nước ngoài trong thời Cách Mạng
(1789-1815). Đạo luật này hạ nhục và làm khiếp sợ những người đã mua tài
sản do chính quyền Cách Mạng bán cho. Họ còn bàn luận đến việc phục hồi
chế độ quyền trưởng nam mà chưa bao giờ được áp dụng ở nước Pháp. Đồng
thời, họ còn gửi một đoàn quân đến Tây Ban Nha để tái lập đế quyền cho
tên bạo chúa Ferdinand VI sau khi hắn ta đã bị lực lương tự do tại
Caditz đe dọa.”..Nguyên văn: “Under the governments of Villele and
Polignac, the delayed rancor of aristocracy and Church were unleashed.
They had forgotten nothing and understood hardly anything. They tampered
with electoral procedures to exclude the bourgeois; they multiplied the
financial and police obstacles to freedom of the press and expression.
They appointed a bishop to head the state university in order drive out
lively minds; they sponsored loud compaign called "missions" of
reparation and planted crosses all over the countryside, some still
visible today. They dared to promulgate a law against "sacrilege" that
fixed harsh penalties for anyone who disrupted religious ceremonies or
profaned "sacred vessels." although it proved impossible to enforce. And
finally they passed the "billion for the exiles" in 1825, a simple
indemnity of modest 3 percent bonds for those who had been "despoiled"
by the Revolution. This act scandalized and terrified the former owner
of national properties. There was also discussion of reestablishing the
right of primogeniture, which had never applied generally throughout
France. At the same time an expedition blessed by the absolute monarchs
of Europe went to Spain to restore the despot Ferdinand VII to his
throne after he had been threatened by a liberal rebellion at Caditz.”
Pierre Goubert, The Course of French History, Trans. by Maarten Ultee
(New York: Franklin Watts, 1988),tr. 370-371.
Từ năm 1848, khi bản Tuyên Ngôn Cộng Sản của hai
ông Karl Marx (1818-1883) và Friedrich Engels (1820-1895) được công bố
(vào năm 1848), Giáo Hội cố gắng nhồi sọ tín đồ rằng “Cộng Sản” là tất
cả những gì xấu xa nhất và độc ác nhất. Cũng từ đó, bộ máy tuyên truyền
của Giáo Hội và bọn văn nô Da-tô sử dụng hai chữ “Cộng Sản” và từ kép
“Công Sản vô thần” để gán cho (1) tất cả những người bất đồng quan điểm
với Giáo Hội, (2) những người chống lại những việc làm tội ác của Giáo
Hội và (3) những người có ấn phẩm trình bày những việc làm tội ác của
Giáo Hội và của các chính quyền cha cố tay sai của Giáo Hội.
Vấn đề đặt ra là TẠI SAO Giáo Hội La Mã lại thù
ghét Cộng Sản và chống Cộng Sản một cách cực kỳ dữ dội như vậy? Thắc mắc
này được Giáo-sư Trần Chung Ngọc giải thích như sau:
“Tại sao Ki Tô Giáo lại chống Cộng một cách điên
cuồng bất kể thủ đoạn như vậy? Thật là dễ hiểu, vì lý thuyết của Marx
đã vạch trần bộ mặt thật của Ki Tô Giáo, kết quả là đưa Ki Tô Giáo vào
con đường suy thoái không có cách nào cứu vãn. Hiện tượng này thật là
rõ rệt, không những chỉ ở Âu Châu, cái nôi của Ki Tô Giáo, mà còn ở khắp
nơi trên thế giới, kể cả Bắc Mỹ. Học giả Công giáo Joseph L. Daleiden
đã viết trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng (The Final Superstition,
Prometheus Books, New York, 1994): “Căn nguyên sự thù ghét của giáo hội
Công giáo đối với Cộng Sản là giáo hội ý thức được rằng Cộng Sản, về ảnh
hưởng, là một địch thủ tôn giáo.” (The root of the (Catholic) Church’s
antipathy toward Communism is its realization that Communism is, in
effect, a rival religion).
Cũng vì vậy mà Ki Tô Giáo, nhất là Công giáo, đã
dùng mọi thủ đoạn, khai thác sự cuồng tín và mê muội của tín đồ, gây căm
thù trong đầu óc họ đối với Cộng sản mà Ki Tô giáo gán cho hai chữ Vô
Thần, hàm ý Cộng sản chống Thần của Ki Tô Giáo. Cùng một sách lược,
trước sự phát triển của Phật Giáo ở Tây phương, giáo hoàng John Paul II
đã viết cuốn Bước Qua ngưỡng Cửa Hi Vọng trong đó ông ta phê bình: “Phật
giáo đại để là một hệ thống “vô thần”” (Buddhism is in large measure an
“atheistic” system). Câu viết đần độn lắt léo này chỉ có mục đích đồng
hóa “vô thần” của Cộng Sản với “vô thần” của Phật Giáo để giữ đám tín đồ
đừng đi theo Phật Giáo. Giáo hội cũng tận dụng mọi phương tiện truyền
thông tuyên truyền để tẩy não đám tín đồ có đầu mà không có óc, cấy vào
đầu óc họ một ý niệm là “Vô thần tất nhiên phải xấu, chỉ có tôn giáo
“hữu thần” mới là tốt” trong khi sự thực lại trái ngược hẳn lại. Những
người vô thần nổi tiếng từ xưa tới nay đều là những bậc thông thái, có
đạo đức, chứ không tàn bạo, ngu đần, vô đạo đức như một số giáo hoàng
thờ thần trong cái tôn giáo thờ thần là Công giáo như lịch sử đã chứng
minh. Và trong những xã hội Ki Tô Giáo “hữu thần”, tỷ lệ những tội ác
như giết người, cướp của, loạn luân, con giết cha mẹ, cha mẹ giết con,
ma túy v..v.. đã vượt trội những xã hội “vô thần.”
……
Hai chữ “vô thần” hầu như bao giờ cũng đi liền với
hai chữ “Cộng sản” trong những bản văn chống Cộng ở hải ngoại, và ngay
cả ở trong nước. Không biết Cộng sản nghĩ sao, chứ riêng tôi, mỗi khi
tôi đọc đến bốn chữ “Cộng sản vô thần” tôi lại mỉm cười thương hại cho
sự đần độn trí thức của các tác giả viết ra những từ này. Bởi vì “vô
thần” là biểu hiện của tự hào, của danh dự, của sự tiến bộ trí thức.
Phần phân tích sau đây sẽ chứng minh luận cứ này.
Kết hợp Vô Thần với Cộng Sản là một thủ đoạn tuyên
truyền xuyên tạc xảo quyệt mà Ki Tô Giáo nói chung, đặc biệt là Công
Giáo La Mã, dùng để gây hận thù tôn giáo, mê hoặc đám tín đồ thấp kém mê
tín và cuồng tín, trong sách lược chống Cộng trước đây. Ngoài ra, khai
thác lòng sùng tín đượm màu mê tín của giáo dân, giáo hội Công giáo cũng
còn cho “Đức mẹ Maria” hiện ra ở Fatima để chống Cộng với 3 điều bí mật:
1) Cảnh tượng của hỏa ngục; 2) tiên đoán Nga Sô sẽ cải đạo theo Công
giáo; và 3) một bí mật không được tiết lộ cho đến năm 1960, nhưng tòa
Thánh đã dấu kín cho đến cuối thế kỷ 20, và khi John Paul II tiết lộ thì
không ai biết đó là thật hay giả (Xin đọc Công Giáo Chính Sử, Chương
VII, Mục 7.1: Huyền Thoại Fatima), nhưng điều chắc là, theo một số
chuyên gia về Công giáo, thì điều “bí mật” sau cùng này là điều giáo hội
phịa ra để đánh bóng vai trò của John Paul II trước tình trạng suy thoái
hiện thời của giáo hội.”. Trần Chung Ngọc. “Cộng Sản Vô Thần, Phật Giáo
Cũng Vô Thần Thì Sao?” sáchhiem.net ngày 23/3/2007.
Quái chiêu sử dụng hai chữ “Cộng Sản” và từ kép
“Công Sản vô thần” để gán cho những thành phần đối tượng trên đây được
tín dồ Da-tô người Việt triệt để áp dụng. Rõ ràng nhất là mấy năm gần
đây, ông Da-tô Matthew Trần ở Houston, Texas, công bố trên các diễn đàn
điện tử một danh sách (bảng phong thần hay sổ đen) dài lê thê hàng ngàn
những người Việt hải ngoại mà ông gán cho họ là Cộng Sản, Cộng Sản nằm
vùng và Cộng Sản vô thần, trong đó có cả anh em trong nhóm Giao Điểm và
dĩ nhiên là có cả tên người viết. Những nạn nhân bị ông nêu đích danh
trong cái bảng phong thần này đều là những người:
1.- Hầu hết vừa không phải là tín đồ Da-tô, vừa
lên án tên bạo Chúa Da-tô Ngô Đình Diệm là thằng “tam đại Việt gian.” .
2.- Có liên hệ đến phong trào Phật Giáo hay học
sinh sinh viên chống chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm trong những
năm 1954-1963.
3.- Đã từng tham dự hay ủng hộ: (a) cuộc đảo chánh
ngày 11/11/1963. (b) vụ hai ông Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử bỏ bom
Dinh Độc Lập và lúc hơn 7 giờ sáng ngày 27/2/1962, (c) cuộc Cách Mạng
1/11/1963.
4.- Có những bài viết hay ấn phẩm trình bày những
hành động khuất tất và tội ác của Giáo Hội La Mã trong gần hai ngàn năm
qua và của chế độ đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm.
Cũng nên biết ông Da-tô Matthew Trần hiện nay ở vào
tuổi trên 70 gần 80, là em ruột của ông Tướng Da-tô Trần Văn Trung (Cục
Trưởng Cục Chiến Tranh Tâm Lý ở miền Nam Việt Nam trước ngày 30/4/1975).
Trước ngày chính quyền và quân đội miền Nam Việt Nam rã đám, ông Da-tô
Matthew Trần đã mang lon đại tá trong quân đội miền Nam. Với cấp bậc đại
tá và với cái tuổi trên 70 gần 80, có thể là ông ta đã từng là tên lính
bắt gà trong đạo quân đánh thuê cho Liên Minh Pháp – Vatican trong thời
Kháng Chiến 1945-1954. Tuy nhiên, điều này không quan trọng.
Người Việt Nam ta có câu nói, “Khôn văn tế, dại văn
bia”. Văn tế còn được hiểu là văn nói, và văn bia được hiểu là văn viết
và đem ra công bố cho bàn dân thiên hạ đều biết như trường hợp ông Da-tô
Matthew Trần công bố cái bảng phong thần trên đây. Với trường hợp này,
ta không thể nói ông MatthewTrần là dại vì rằng người ta nói “vì dại nên
mới trót lỡ phát ngôn bừa bãi trong lúc bốc đồng hăng máu.” Nhưng ở đây
là văn viết kê ra một danh sách với cả hàng ngàn người, tất nhiên là
phải có tính toán, phải có chuẩn bị và thời gian chuẩn bị có thể lên tới
nhiều ngày, nhiều tuần hay nhiều tháng. Với sự tính toán và chuẩn bị
công phu như vậy, chúng ta không thể bảo rằng ông ta dại mới làm như
vậy, mà phải nói là ông ta ngu xuẩn mới làm như vậy. Theo các nhà tâm lý
học và di truyền học, cao hay lùn, béo (mập) hay gầy ốm khẳng khiu,
thông minh hay ngu xuẩn, thật thà chân chât hay gian manh xảo trá, nóng
nẩy hay trầm tĩnh đều là những đặc tính di truyền từ đời tổ tiên, ông bà
hay cha mẹ truyền lại. Người viết không biết và cũng không dám khẳng
định cái đặc tính ngu xuẩn trong việc làm này của ông Matthew Trần có
phải di truyền hay không. Điều này chỉ có chính bản thân ông Matthew
Trần và thân nhân bà con ruột thịt hay những người quen biết toàn bộ gia
đình hay gia phả nhà ông mới rõ ràng.
Điều đáng nói là khi công bố bảng phong thần này,
Matthew Trần đã ở vào cái tuổi thất thập cổ lai hy. Về học vấn, rất có
thể ông ta theo học tại các trường đạo ở bậc tiểu và trung học, có thể
là ông ta đã học xong bậc trung học, học hết lớp 12, cũng có thể ông ta
học được mấy năm đại học về ngành thần học (ban triết). Cũng nên biết
cái được gọi là kiến thức thần học là một thứ kiến thức “tán hươu tán
vượn” bịp bợm chỉ dùng đề lừa bịp và lường gạt người đời đúng như ông
Charlie Nguyễn đã ghi nhận:
“Cái gọi là sự học vấn của các trường tôn giáo hoặc
sự uyên bác của học sĩ Ulamas thực chất chỉ là một môn học “tán hươu tán
vượn” về những điều huyễn học của thần học (theology). Thần học của Hồi
Giáo cũng tương tự như thần học Do Thái Giáo và Ki-tô Giáo. Thần học là
một môn học đầy tính chất hoang tưởng viển vông nhảm nhí. Càng đi sâu
vào thần học, con người càng lún sâu vào “ốc đảo tâm linh” xa rời thực
tế và dầy đặc những định kiến sai lầm. Những mảnh bằng “Tiến Sĩ Thần
Học” là những giấy chứng chỉ công nhận sự ngu xuẩn của kẻ được cấp. Chỉ
đến khi có cơ duyên tỉnh ngộ, kẻ đó mới cảm thấy xấu hổ là đã được cấp
những mảnh bằng về thần học mà thôi.” Charlie Nguyễn, Thực Chất Đạo Công
Giáo Và Đạo Chúa (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2003), tr. 335-336.
Về địa vị và chức vụ, ông ta đã được thăng lên đến
cấp bậc đại tá và cũng có thể đã từng giữ một hay nhiều chức vụ quan
trọng trong chính quyền miền Nam trong những năm trước ngày 30/4/1975.
Như vậy là ông ta có đủ cả tuổi đời được coi như là chín chắn, học vấn
khá đủ không thể bảo là ngu dốt, chức vụ đủ để cho đời biết mặt cũng là
một người có quyền cao chức trọng trong chính quyền miền Nam Việt Nam
trong những năm trước ngày 30/4/1975. Ấy thế mà khi công bố cái bảng
phong thần này, ông ta lại không biết rằng làm như vậy là một hành động
của một tên vô học cực kỳ ngu xuẩn. Thế mới biết rằng, một khi đã trở
thành một tín đồ Da-tô cuồng tín, dù là có bằng cấp học vấn ở vào cỡ
nào đi nữa, dù là đã từng nắm giữ những chức vụ cao trọng trong các
chính quyền cha cố ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975, và dù
là đã già đầu hơn 70 tuổi, thì cũng vẫn ngu xuẩn, ngu xuẩn không khác gì
những hạng người vừa mang dòng máu ngu dốt di truyền, vừa mất dạy, vừa
vô học.
Đó là nói về cái mũ Cộng Sản, Cộng Sản nằm vùng và
cộng sản vô thần mà ông Da-tô Matthew Trần đã chụp lên đầu những người
Việt hải ngoại thuộc các tôn giáo khác và bất đồng chính kiến với ông.
Thế nhưng, đối với những người như Trần Tam Tình
(linh mục), NguyễnThanh Sơn (linh mục), Charlie Nguyễn (Bùi Văn Chấn)
Giuse Phạm Hữu Tạo, Bác-sĩ Nguyễn Văn Thọ, Lý Chánh Trung, Peter de Rosa
(tác giả sách Vicars Of Christ), Malachi Martin, (tác giả của những cuốn
The Decline And Fall of The Church, Rich Church, Poor Church, The Keys
Of This Blood, v.v…) Avro Manhattan (tác giả những ấn phẩm Vietnam: Why
Did We Go?, The Vatican Holocaust, v.v..), Ralph Woodrow (tác giả sách
Babylon Mystery Religion), O.C. Lambert (tác giả sách Catholiciism
Against Itself), Lloyd M. Graham (tác giả sách Deceptions and Myths of
the Bible), Loraine Boettner (tác sách Roman Catholicism), v.v…, Giáo
Hội không thể gán cho họ là Cộng Sản và Cộng Sản vô thần, Cộng Sản nằm
vùng được vì họ đều là những tín đồ của Giáo Hội, trong đó có nhiều
người đã từng là tu sĩ hay cán bộ đắc lực của Tòa Thánh Vatican.
Với những người này, nếu chụp cái mũ “Cộng Sản” hay
“Cộng Sản vô thần” hoặc Cộng Sản nằm vùng lên đầu họ, thì ngược ngạo
quá. Do đó, bộ máy tuyền truyền của Giáo Hội và bọn văn nô Da-tô mới sử
dụng một quái chiêu khác, gọi họ là “những người bất mãn” (trường hợp
Giáo-sư Lý Chánh Trung), “những kẻ điên khùng” (trường hợp Linh-mục
Nguyễn Thanh Sơn, ông Charlie Nguyễn), hoặc là “những người rối đạo”,
hay “những người chống Chúa” (trường hợp Linh-mục Trần Tam Tỉnh, Bác-sĩ
Nguyễn Văn Thọ, ông Giuse Phạm Hữu Tạo).
Đồng thời, bộ máy tuyền truyền của Giáo Hội và bọn
văn nô Da-tô cũng gán ghép từ vô thần vào với đạo Phật để khích lệ tìn
đồ Da-tô thù ghét tôn giáo này. Sự kiện này cũng được Giáo Hoàng John
Paul II khẳng định rõ ràng trong cuốn Crossing The Threshold Of Hope
bằng câu văn: “Buddhism is in large measure an atheistic system.” (Trên
một bình diện rộng lớn, đạo Phật là một hệ thống vô thần.)” John Paul
II, Crossing The Threshold Of Hope (New York, Alfred A. Knoff, 1994), .
p.86.
Tệ hơn nữa, họ còn tìm đủ mọi mánh mung để gièm pha
và hạ giá đạo Phật và đạo Khổng. Về đạo Phật họ sáng tác ra những câu
thơ lúc bát và nói là thi ca dân gian để mạt sát mạt sát các nhà sư
như:
Ba cô đội gạo lên Chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư.
Sư về sư ốm tương tư,
Ốm lăn ốm lóc cho sư trọc đầu.
Một người bạn đã từng dạy ở trường Đại Học Văn Khoa
cho biết, những người có quyền thế trong trường Đại Học Văn Khoa (đa số
là tín đồ và tu sĩ Da-tô) đòi đem những câu văn này vào chương trình
giảng dạy của nhà trường. Ông bạn này đã phản đội việc làm này, nhưng
không có hiệu quả..
Đối với đạo Khổng, họ cũng dùng những mánh mung
tương tự như vậy để hạ nhục tôn giáo này. Trong những năm sống ở miền
Nam (1955-1975) và ở Hoa Kỳ từ năm 1975 cho đến ngày nay, thỉnh thoảng
người viết thấy trên báo chí và diễn đàn điện tử có câu thơ “Váy Đình
Bẳng Bảng buông chùng cửa Khổng.” mà người viết cho là quái lạ. Câu thơ
này làm cho người viết hoài nghi và thắc mắc rồi để ý tìm hiểu nguốn
gốc hay xuất xư của nó. Mãi tới gần đây, tình cờ được đọc bài viết
“Hoàng Cầm – Yêu Thương và Tha Thứ là Cái Lối của Cuộc Sống” của tác
giả Đinh Hương Bình đăng trên trang nhà giaodiemonline tháng 3/2007,
người viết mới biết là câu thơ trên đây nguyên gốc là một câu thơ mở đầu
trong bài thơ La Diêu Bông của Thi-sĩ Hoàng Cầm được sáng tác vào một
ngày trong những tháng rét lạnh của mùa Đông năm 1959. Dưới đây là
nguyên văn bài thơ nay:
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng,
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều cuống rạ.
Chị bảo
Đứa nào tìm được Lá Diêu Bông
Từ nay ta gọi là chồng.
Hai ngày em tìm thấy Lá
Chị chau mày
Đâu phải Lá Diêu Bông.
Mùa đông sau Em tìm thấy Lá
Chị lắc đầu
Trông nắng vãn bên sông.
Ngày cưới chị
Em tìm thấy Lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim.
Chị ba con
Em tìm thấy Lá
Xòe tay phủ mặt chị không nhìn.
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc Lá
Đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu Bông hỡi!
Ới Diêu Bông!
Hoàng Cầm – Rét 1959
Mánh mung của bọn văn nô Da-tô để
làm hạ giá những tôn giáo khác và các thành phần trong xã hội bị Giáo
Hội La Mã và bọn chúng chiếu cố là như vậy!
(xem tiếp đoạn chót)
Các bài cùng tập
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Phụ Lục 1: Vì sao bỏ nước ra đi - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-15 - Khi Nhà Văn... - Lời Mở Đầu - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Bối Cảnh Lịch Sủ của Ba Nước - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - Khi Nhà Văn... - Thư Ngỏ - đoạn 2 - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2004-08-16 - Khi Nhà Văn... - Thư Ngỏ - đoạn chót - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Nội Tình của Ba Nước - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Phụ Lục 2: Sai Lầm Trong Cuốn 1945-1995.. - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Sai Lầm Trong Cuốn "Xóm Đạo" - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Nếu Miền Bắc Không Tấn Công - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Chuyện giáo dân bị sát hại - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Đạo Công Giáo và Thực Dân - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Tiền Lương Quân Nhân Công Chức - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Việc kèm ghép các vị sư - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Trường Hợp Bắc Hàn - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ 2013-11-08 - Khi Nhà Văn... - Thư Ngỏ - đoạn 1 - Nguyễn Mạnh Quang -
▪ ▪
Trang Nguyễn Mạnh Quang