VIỆT NAM MÁU LỬA

QUÊ HƯƠNG TÔI

- Hoành Linh Đỗ Mậu -

http://sachhiem.net/HOANHLINH/VNMLphlucE.php

01 tháng 11, 2007

 

PHỤ LỤC "E"


Mười một bài đọc thêm

 

 

 

1. Hội hè đình đám của người Thiên Chúa giáo

Hội hè Đình Đám-Toan Ánh

2. Bức thư Ngô Đình Thục gởi Toàn quyền Decoux

Tạp chí Lên Đường- Số ra mắt, Houston, Texas, Hoa Kỳ

3. Ngô Đình Diệm có một đứa con trai

Hồi ký Việt Nam Nhân Chứng - Trần Văn Đôn

4. Ngôi biệt thự mùa hè của bà Ngô Đình Nhu

Người Bình Dương - Tạp chí Tia Sáng số 26, Houston, Texas, Hoa Kỳ

5. Bản án tử hình Ngô Đình Cẩn

Tòa án Cách mạng - Tạp chí Tia Sáng số 21, Houston, Texas, Hoa Kỳ

6. Bức công điện tòa Đại sứ Mỹ đánh về Hoa Thịnh Đốn

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ - Sưu tầm của tướng Nguyễn Chánh Thi

7 . Trương Đình Cát và Hà Như Chi

Hồi ký Việt Nam Một Trời Tâm Sự - Nguyễn Chánh Thi

8 . Thư ngỏ gửi ông Hứa Hoành

Trần Ngọc Lý - Tạp chí Tia Sáng số 22, Houston, Texas, Hoa Kỳ

9. Luật sư, Nghề hay Nghiệp ?

Võ Văn Quan - Tạp chí Ngày Nay số 99, Kansas, Hoa Kỳ

10. Đầu hàng

Vân Xưa - Trích từ Lột Mặt Nạ Những Con Thò Lò Chính Trị

11. Giải tỏa về Cái chết của Tướng Trịnh Minh Thế

Trịnh Minh Sơn - Trích từ Tạp chí Góp Gió số 112, phát hành ngày 7-2-2003 và www.dongduongthoibao.net/view.php?storyid=336  

12. Lời Phân trần của Tướng Dương Văn Minh về ngày 30 tháng 4 năm 1975

       Trần Viết Đại Hưng

        (Hai bài “đọc thêm” số 11 và 12, như những chứng liệu lịch sử, chỉ mới được thêm vào trong Ấn bản Điện tử 2007)


HỘI HÈ CỦA ĐỒNG BÀO THIÊN CHÚA GIÁO

 

* Tác giả: Toan Ánh

* Trích từ: Hội Hè Đình Đám của Toan Ánh

 

 

Nói đến hội hè đình đám của nhân dân ta, tôi muốn nói ít dòng về hội hè của các đồng bào theo đạo Gia Tô. Đối với các đồng bào này, lẽ tất nhiên đình đám không có, nhưng không phải vì thế mà không có hội hè. Những hội hè này, tôi đã hân hạnh trình bày cùng bạn đọc trong “Tín Ngưỡng Việt Nam” quyển hạ, khi nói về Thiên Chúa giáo từ trang 5 đến trang 74, nhất là trong các mục lễ tiết và đám rước. Đấy là những dịp hội hè hàng năm về tôn giáo của các đồng bào Thiên Chúa giáo.

Ngoài các hội hè hàng năm trên, các đồng bào Thiên Chúa giáo cũng còn có những dịp khác để chung vui hội hè cùng nhau, thí dụ như khi một Cha được vinh thăng Giám mục, hoặc khi Đức Giám mục được một ân hưởng gì của Tòa Thánh, hoặc của Chính phủ.

Bắt đầu viết chương này, soạn giả vẫn có ý định tìm những tài liệu về các hội hè của đồng bào Thiên Chúa giáo, trong những dịp bất thường. May mắn Tổng Thư Viện Việt Nam đã có những tài liệu này trong tập Autour des Fêtes du 3 Décembre 1940 à Phát Diệm (Chung quanh đại lễ ngày 3-12-1940 ở Phát Diệm).

Tập sách này có hai phần chữ Pháp và chữ Việt mang số M 1040 của Tổng Thư viện Quốc gia nói về Đại Lễ Tấn Phong Đức Giám mục Phan Đình Phùng và lễ gắn Bắc Đẩu Bội Tinh cho Đức Giám mục Nguyễn Bá Tòng. Sách do nhà in Ngô Tử Hạ ấn hành và do Chánh, Phó Giám mục, Linh mục và các giáo hữu địa phận Phát Diệm chủ trương.

Chúng tôi in tập nhỏ này làm kỷ niệm cuộc lễ đã tổ chức tại Phát Diệm ngày 3 Décembre 1940, và để thành thực cảm ơn các bậc vị trong đạo ngoài đời đã quá yêu mà đến - có đấng bởi chốn xa xôi đến dự lễ này - để cám ơn những đấng bậc vì nhẽ quan trọng bó buộc, không thể đến được; để cám ơn một số rất đông các thân hào quý khách không đăng tên trong báo chương; và để cám ơn các bậc ân nhân cùng hết thảy những người đã thịnh tình hộ giúp bất kỳ cách nào cho cuộc lễ này được một cách rực rỡ xán lạn như nguyện” (trang 67).

Mấy dòng chữ nói trên đủ nói lên tính cách quan trọng của buổi lễ và sự hân hoan của đồng bào Gia Tô giáo với sự thành công tưng bừng của buổi lễ.

Để tránh mọi sự sai lầm khi viết lại, cũng như để bạn đọc lĩnh hội hết mọi sự quan trọng của cuộc hội hè, đại lễ này, soạn giả xin trích đăng nguyên văn như sau đây bài tường thuật đã in trong cuốn Autour des Fêtes du 3 Décembre 1940 à Phát Diệm trên từ trang 33 đến trang 41:

 

CUỘC ĐẠI LỄ TẤN PHONG GIÁM MỤC VÀ GẮN HUY CHƯƠNG TẠI PHÁT DIỆM

Ngay từ chiều ngày 2 Décembre, khu nhà thờ Phát Diệm đã hiện ra trong cảnh tưng bừng sáng sủa. Giữa những hàng cột cờ giáo sắc nhởn nhơ theo chiều gió bay, giữa chừng chòm cây xanh biếc pha màu vàng nhạt, giữa các khải hoàn môn mới dựng lên để nhắc lại cuộc thắng trận vẻ vang của tấm lòng bác ái và đức hiếu hòa đạo Công giáo... Ngôi thánh đường đồ sộ, nguy nga đứng sững trước mặt khán quan, hình như lôi hút hết tinh thần của nhân vật xung quanh. Tòa thánh điện lịch sử đó hôm nay ra mắt với công chúng trong bộ áo chạm trổ những cảnh rồng vờn, phượng múa, những thánh tích về tôn giáo... đầy vẻ linh động, đầy tinh thần ái quốc, đầy mỹ thuật Việt-Nam, trông thực “uy phong hùng tráng như đội quân xếp hàng ra trận”. Ngôi thánh đường đó tuy đã nhiều tuổi, mà vẫn trẻ trung, sắc đẹp lộng lẫy càng thêm trẻ, trẻ như một vị công chúa xiêm áo rực rỡ đợi ngày lễ tân hôn... Đứng ở lầu chuông mà ngắm nghía, chúng tôi không khỏi chạnh lòng hoài cảm... nhớ ơn một linh mục, một bức gương anh hùng dũng cảm, trung quân ái quốc trong lịch sử Rồng Tiên và thế kỷ vừa qua: Cụ Trần Lục mà trong óc chúng tôi còn phảng phất như thấy dáng người, tuy đã khuất núi... mà nay còn cao nhời kêu gọi xứ Bắc Kỳ: “Hãy cất tiếng reo hò mừng rỡ, hỡi người xon sẻ không sinh, hãy hớn hở mừng vui khoái trá” vì từ nay đây Bắc kỳ không còn thẹn mặt với Trung Nam. Ngày mai, lễ tấn phong Đức cha Phan Đình Phùng, Bắc kỳ sẽ góp với Hội Thánh hoàn cầu một giám mục đủ bề tài đức.

Mồng 3 Décembre - Từ lúc tinh mơ, chúng tôi nhận thấy quân quan nhà binh: lính khố xanh, khố đỏ, lính kèn, lính thủy, lính thị vệ quan Thủ Hiến Đông Dương... đã lục tục rẽ màn sương tới khu nhà thờ Phát Diệm một cách vui vẻ. Hình như họ đã đến đưa tin cho Phát Diệm rằng: “Lúc này sự tối tăm còn bao phủ mặt đất... Nhưng người hãy dậy đi, hãy thả hào quang ra... Thiên Chúa đã giải sáng trên mình người... Kìa muôn dân theo ánh sáng đang tuôn lại với ngươi... Ngươi hãy ngó chung quanh, vua chúa đang đến cùng ngươi...”. Thế rồi một lúc sau, khi nhà binh đã dàn xếp xong để giữ trật tự, các ô tô theo đàng quan lộ Ninh Bình, Phát Diệm nối đuôi nhau, rít còi chạy, đưa tới Phát Diệm một lớp người thượng lưu, quan chức pha vào làn sóng bình dân, trên bến dưới thuyền, đường rộng ngõ hẻm, đang cuồn cuộn đổ tới nhà thờ Phát Diệm.

Đúng bảy giờ rưỡi, một hồi chuông lanh lảnh gieo tiếng bạc trên không trung, báo hiệu đã tới giờ hành lễ. Các vị Giám mục, hàng giáo sĩ, các sinh viên thần học, lễ phục chỉnh tề, rước đức tân Giám mục ra nhà thờ. Vào thánh điện vừa xong, thời đoàn xe quan Thủ Hiến Đông Dương, cùng với quý phu nhân Decoux tới nơi. Đi theo ngài, có quan Thống sứ Grand Jean, quan Đổng Lý Văn Phòng Gautier, quan Thanh Tra Chính Trị Erard, quan Chánh Văn Phòng phủ Thống Sứ Queinec, quan Thủy Quân Trung úy De Trégomain, quan Chánh Văn Phòng phủ Toàn Quyền: ông Sylvestre de Sacy, các quan sở Liêm Phóng theo hộ giá và nhiều vị thượng quan. Đức Cha Nguyễn Bá Tòng dung nhan hớn hở, nụ cười vui tươi lúc nào cũng như một, ra ứng tiếp quan Thủ Hiến. Các quan chức nhà binh giàn hàng thi lễ, bồng súng chào. Hội Tây nhạc nhà binh cử bài quốc ca. Quan Thủ Hiến vừa bước chân xuống xe, ngài tiến thẳng lại mồ cụ Trần Lục. Hai tay kính cẩn đặt vòng hoa trên nấm mồ vị Nam tước. Một phút yên lặng: quan Toàn Quyền cảm động kính điếu một vị anh hùng, một bậc quốc công danh vang bốn bể... mà nay, lần thứ nhất, ngài mới được nhìn những công cuộc vĩ đại như tiếng ca khen đức tài. Thực là một buổi nhất sơ, mà buổi nhất sơ này lại được đứng trước mồ vị Nam tước Phát Diệm càng thêm cảm xúc ai tình... Vị Thủ Hiến Đông Dương đưa cặp mắt đầy cảm động không thể giấu được, ngó chung quanh lũ con dân chồng chịt như nêm cối, bao nhiêu con mắt đổ dồn vào Ngài. Ngài cảm động hơn nữa, vì nghĩ tới Cụ Trần Lục, người cha đã giáo hóa con dân biết trọng lễ nghi trật tự, kỷ cương, và là vị phúc tinh đã đem sự hòa bình thân thiện cho dân tộc Pháp-Nam mà ngài vừa mắt thấy tai nghe những chứng chỉ thành thực do những cuộc đón chào các hương lý phủ, huyện, đứng chực hai bên đường Ninh Bình-Phát Diệm biểu diễn... Vẫn giữ nét mặt cảm động và suy nghĩ, quan Toàn Quyền cùng với các quan khác theo Đức Cha Nguyễn Bá Tòng hướng đạo tiến vào thánh đường.

Tám giờ rưỡi đúng, cử hành lễ tấn phong do Đức Cha Drappier Khâm Sứ chủ sự. Hai vị Giám mục thụ phong là Đức Cha De Cooman, Giám mục Thanh Hóa và Đức Cha Nguyễn Bá Tòng. Trên gian cung thánh trang hoàng rực rỡ, theo nền mỹ thuật Việt-Nam, những ngọn nến trên bàn thờ thi nhau cháy, hình như cố công để thắng át những tia sáng pha mầu sơn đỏ do bàn thờ và các khung ảnh chiếu ra... Chúng tôi nhận thấy một ghế riêng gần ngai Giám mục, để kính biếu vị Thủ Hiến Đông Dương. Bên Thánh Thư, chầu lễ có các vị Giám mục, các Đức Cha: De Cooman Thanh Hóa, Eloy Vinh, Chaize Hà Nội, Artaraz Bắc Ninh, Gomez Hải Phòng, Hồ Ngọc Cẩn Bùi Chu, Lemasle Huế, Vandael Hưng Hóa, Ngô Đình Thục Vĩnh Long. Liền đó, chúng tôi nhận thấy các vị truyền giáo người Pháp, Tây Ban Nha, Bỉ, Bồ Đào, các vị linh mục bản quốc Việt Nam rất đông. Các dòng tu: dòng thánh Đa Minh, dòng Trappe, dòng Phanxicô, dòng Cứu Thế, các cha Sulpiciens... đông đúc chầu lễ gần các Đức Cha. Các thầy dòng anh em trường Công giáo cũng có ghế kinh riêng.

Nhà thờ Phát Diệm chật ních. Trong mấy hàng ghế đầu dưới bàn thánh, chúng tôi nhận thấy quý phu nhân Decoux, cụ Võ Hiển Hoàng Trọng Phu, quan Thông Sứ Grandjean, Đại úy Caux, Thanh tra Chính trị Erard, Thanh tra Chính trị Trung kỳ; cụ Jardin đại diện quan Khâm sứ Trung kỳ Gratfeuil, quan Công sứ Ninh Bình, Công sứ Thanh Hóa, Chánh Sở Liêm Phóng Bắc kỳ: ông Pujol, cụ Vi Văn Định, các quan theo hộ giá quan Toàn Quyền, cụ Tổng Đốc Vũ Ngọc Hoành, quan Thanh Tra Học Chính Bắc Kỳ Courtoux, cụ Hộ Pháp Huế, các quan Tuần Phủ, Tri Phủ, Tri Huyện... và các công chức nhà nước đông vô kể. Ngay sau ghế Decoux phu nhân có các bà nữ tu dòng Oiseaux, dòng Notre Dame des Missions và dòng Thánh Giá. Liền đấy là anh em thân thích Đức Cha mới.

Lễ tấn phong khởi hành sau khi các quan an tọa. Các sinh viên Thần Học và Hội Ca Nhạc Phát Diệm cử kính xin ơn Chúa, Thánh Thần, Đức Giám Mục chủ phong, lễ phục uy nghiêm ngồi trên tòa quay xuống. Ngồi trên ghế phủ thảm đối diện với ngài, là vị Giám mục sắp thụ phong. Sau khi đã cầu nguyện theo nghi lễ, Đức Giám Mục chủ phong ngồi ghế trên phản bàn thờ quay ra. Vị Giám Mục thụ phong thưa: có sắc phong. Ngài truyền cho một vị Linh mục cao tiếng đọc cho công chúng nghe. Cha Lucas Lý, bề trên chủng viện Phúc Nhạc, vừa dứt tiếng đọc xong đạo sắc, Giám Mục chủ phong đưa Deo Gratitas tạ ơn Chúa. Liền đó tiếp theo nghi lễ “khảo hạch”. Hai Giám Mục thụ phong và Tân Giám Mục đọc kinh cầu lễ, hành lễ một trật với vị tấn phong.

Lễ làm gần tới bài Phúc Âm, thì khởi hành cuộc tấn phong, lễ nghi dài, trang nghiêm, cảm động, khiến người dự lễ có lúc vui mừng hớn hở, lúc lại trầm ngâm suy nghĩ... Tiếng hát Veni Carator... và kinh cầu các Thánh vọng lên không, tiếng bổng tiếng trầm, hòa với điệu nhạc nhà binh, với tiếng phi cơ reo cười trên làn sóng khí, déo dắt du dương... khiến người dự lễ có lúc cao hứng hình như không còn nhớ mình ở vào cảnh nào! Đang khi đó, trên cung thánh lễ tấn phong cứ lần lượt cử hành: xức dầu tay, xức trên đầu, làm phép nhẫn, làm phép mũ gậy. Đức Giám Mục chủ phong trao mũ gậy cho tân Giám Mục, chỉ quyền ngài coi sóc con chiên giáo hữu. Ngài trao nhẫn ngụ ý rằng đức tân Giám Mục phải giữ lòng trung thành với Đức Tin, với Giáo Hội Roma, cũng như người bạn trăm năm một dạ cầm sắt với phu quân mình. Ngài lại trao sách Phúc Âm, chỉ quyền trao giảng giáo lý là phận sự của vị Giám Mục. Thế rồi Giám Mục chủ phong và thụ phong cũng nhau tiến hành cho hết lễ Misa. Lễ xong, đức Giám Mục chủ phong đội mũ vàng, trao gậy ngọc, xỏ nhẫn cho vị tân phong; đặt ngài trên tòa mình và quay xuống cách oai nghiêm như mừng và giới thiệu Giám Mục cho con chiên giáo hữu. Bấy giờ các sinh viên trường Thần Học và hội ca vịnh cử bài Ta Deum ngợi khen tán tụng Chúa. Đồng thời, tân Giám Mục mũ gậy uy phong tráng lệ đi làm phép cho dân. Hát xong bài ca tán tụng Chúa, Đức Cha mới ban phép lành đầu tiên cho giáo hữu... Đức tân Giám Mục bái gối ba lần cám ơn Đức Cha chủ phong chức, nhời vạn tuế “Thọ Tràng”. Kết thúc nghi lễ tấn phong, ba vị Giám Mục chủ phong, thụ phong cùng với Tân Giám Mục theo lễ nhạc trao đổi cho nhau những cái hôn thánh sạch, kèm nhời chúc tục.

Theo sau cuộc lễ tấn phong là lễ gắn huy chương cho Đức Cha Nguyễn Bá Tòng do quan Toàn Quyền chủ sự. Vị Thủ Hiến Đông Dương và các Giám Mục cùng quan khách từ nhà thờ tiến ra phương đình. Hội nhạc nhà binh cử bài hào vui vẻ. Quan Toàn Quyền và phu nhân Decoux ngồi giữa hai Đức Cha Drapier và Nguyễn Bá Tòng. Một viên thanh niên trong hội Nam Thanh Công Giáo bước ra đọc một bài chúc từ cám ơn quan Toàn quyền đến thăm Phát Diệm, chỗ mấy chục năm trước cha Trần Lục đã đón tiếp hai vị Toàn Quyền là De Lanessan và Rousseau. Mừng quan Toàn Quyền đã nhờ tại ngoại giao lỗi lạc mà tránh cho xứ Đông Dương một cơn khủng bố. Quan Toàn Quyền đứng lên nói ít nhời tỏ lòng quyến luyến Phát Diệm và Đức Cha Nguyễn Bá Tòng. Ngay hôm mới gặp Đức Cha lần đầu ở Tam Đảo, ngài đã cảm phục và hứa sẽ đến Phát Diệm thăm Đức Cha. Nay được như ý sở nguyện, Ngài rất lấy làm thỏa dạ. Thỏa dạ vì trong buổi đến thăm Đức Cha này Ngài lại được cái vui sướng tự tay gắn Bắc Đẩu Bội Tinh cho Đức Cha. Ngài chúc cha vừa mới thụ phong được một cuộc tông đồ sung mãn. Sau một hồi vỗ tay, quan Toàn Quyền mời Đức Cha Tòng xuống trước sân rộng giữa đội lính thủy bồng súng chào. Sau một tiếng hô rất mạnh mẽ, Ngài tuốt gươm bạc cầm trong tay và cứng cát tuyên bố thay mặt cho Thống Tướng Pétain, quốc trưởng Pháp kính tặng Đức Cha Tòng Ngũ Hạng Bắc Đẩu Bội Tinh. Thế rồi Ngài tiến đến Đức Cha hai tay kính cẩn gắn huy chương mà chính Ngài tặng Đức Cha. Lùi ra mấy bước, Ngài cầm chiếc gươm bạc sẽ đặt lên hai vai của Đức Cha. Hội nhạc cử bài quốc ca. Quan Toàn Quyền kết thúc lễ gắn huy chương bằng một cái áp má thịnh tình và lòng trọng kính, Quan Toàn Quyền lên an tọa. Đức Cha Tòng đọc bài diễn văn tỏ lòng cám ơn chính phủ, tỏ lòng trung thành con dân Việt-Nam đối với Mẫu Quốc. Sau tràng pháo tay đáp lại bài chúc từ của Đức Cha, các sinh viên trường Thần Học cùng với đội nhạc Thủy Quân cử bài ca tụng Thiên Chúa và Chúa muôn dân. Điệu hát êm đềm pha mạnh mẽ cùng với ý nghĩa trong bài hát khiêu gợi lòng cảm động vui mừng từ người cho tới cảnh vật xung quanh. Các học sinh trường thầy dòng, 180 cậu bé tý hon, ăn vận, gián sắc ra diễn thể thao khiến cho Đức Khâm Sứ, quan Toàn Quyền, các Đức Cha và quan khách nâng cốc Champagne ngó ra tưởng đâu như mình đang đứng trước vườn hoa xem đàn bướm chập chờn bay múa. Phải, đó thực là vườn hoa của cụ cố Trần Lục, trong vườn vừa mới nở một bông hoa, vị Giám Mục tiên khởi Bắc Kỳ, mà nay những con bướm linh thiêng kia rủ nhau bay nhởn nhơ để chào hoa! Cạn cốc “Nam Sơn” chúc câu “Tràng Thọ” cho hai Giám Mục Phát Diệm, rồi quan Toàn Quyền và các quan tùy hành đi thăm nhà chung Phát Diệm một lúc đoạn lên xe đi Nam Định theo chương trình đã chỉ định.

Mười hai giờ trưa, trong một rạp nhớn dựng ở một khu vườn nhà chung, Đức Cha Tòng có thiết đãi các Giám Mục, Linh Mục và các quan khách khắp ba kỳ. Gian nhà lợp tranh, bài trí có vẻ mỹ thuật, và đúng tinh thần nhà tu. Trên vách mỗi gian có treo những tấm huy chương khẩu hiệu của Đức Giáo Hoàng và các vị Giám Mục dự tiệc hôm ấy chen lấn vào với cờ Tòa Thánh, cờ nước Pháp và cờ vàng đỏ của triều Nam. Đàng trước có bầy vườn cảnh, đủ thứ hoa, cùng với những bệ đá trưng bầy các pho tượng mỹ thuật làm cho hơn ba trăm khách dự tiệc tưởng như mình đang ở giữa một vườn bách thảo. Chủ tiệc là Đức Cha Khâm Sứ, dự tiệc có các Đức Cha và quan chức chúng tôi đã kể ở trên. Quan Toàn Quyền vì không thể ở lại dự tiệc được, có phái đoàn Thanh Tra Chính Trị Erard đại diện, Đức Cha Tòng và các cha nhà chung Phát Diệm, niềm nở tiếp các vị thượng khách. Tiếp các món ăn có hội viên của Hội Thanh Niên Công Giáo Phát Diệm dưới tay hướng dẫn khôn khéo của ông Nguyễn Bá Tụng, y sĩ Ninh Bình. Chủ khách an tọa thì hội hát trường Thần Học cử bài “Les Martyrs Aux Arènes” cái cung hát thực hay và cảm động, giọng hát mô tả được tài thuật của nhà nhạc L. de Rilé mà ai cũng đã nghe danh. Khách dự tiệc ngừng tay nghe hát, lòng cảm xuất không khỏi đem lòng thán phục những bậc anh hùng Công Giáo ở nước ngoài cũng như ở nước ta, đã đổ máu để mua cho mình sự hòa bình thân ái, mua cho mình bữa tiệc có tình gia thất hôm nay. “Tứ Hải Giai Huynh Đệ” bữa tiệc pha chủng tộc, pha tôn giáo, pha giai cấp! Thực là một bữa “Tiệc Lòng”. Vì bấy nhiêu trái tim cùng đổ một dịp theo với những nhịp kèn nhà binh của đội thứ bốn lính khố đỏ Nam Định thổi mừng khi ăn tiệc. Tiếng cười, tiếng nói, chén tạc chén thù một lòng thân thiện hợp quần. Vui vẻ hơn nữa, lúc đó khách quan nghĩ tới hằng bốn năm nghìn anh em bần khổ được nhà chung có nhã ý phát chẩn cho trong một khu chợ rộng gần sông Tri Chính. Thế là khắp mọi giai cấp trong xã hội cùng chung vui trong dịp lễ này.

Mãn tiệc, Đức Cha Drappier đứng ra chúc mừng hai Đức Giám Mục Phát Diệm. Ngài ca tụng các thánh tử đạo và chúc cho Tân Giám Mục một bước tương lai hưng thịnh theo nề nếp các thánh tử đạo. Tiếp nhời, Đức Cha Cooman cùng một giọng điệu rất tự nhiên vui vẻ thay mặt cả địa phận Thanh Hóa mà chúc mừng hai Đức Cha Phát Diệm và cả địa phận Phát Diệm. Ngài nhắc lại tình nghĩa xưa kia lúc hai địa phận còn là một. Ngài nhắc lại câu xưa kia người đã chúc cho Ngài cũng trong cái khu nhà chung Phát Diệm này mà chúc cho Đức Cha mới được “Ad multos annos”. Đức Cha Nguyễn Bá Tòng trước hết mừng Đức Cha phó mới của Ngài. Ngài rất cảm động mà tỏ lòng vui sướng vì từ nay Ngài đã yên ủi có một người bạn, và hơn thế nữa có một người em thân tình cùng Ngài chia gánh nặng mà ngày nay đã già yếu càng thấy nặng nhọc. Ngài hết lòng thành thực cám ơn hết mọi đấng bậc đã tỏ mối thịnh tình đến dự lễ ngày hôm nay; cám ơn các cha, các quan chức và các thân hào mọi nơi đã nhiệt thành cộng tác vào làm cho cuộc lễ này được thập phần mỹ mãn. Sau bài chúc từ của cha Gellégo đọc thay tất cả các cha về dòng Thánh Đa Minh, Đức Cha Phan Đình Phùng, cái vui của bữa tiệc hôm nay, đứng lên cám ơn Đức Cha Khâm Sứ, các Đức Cha, các quan khách, các cha trong các địa phận và thân hào các sứ đã tới dự cuộc lễ mừng Ngài. Ngài không quên nhắc đến cụ Trần Lục và Đức Nguyên Giám Mục Marcou mà tỏ dạ hăng hái đi sau Đức Cha Nguyễn Bá Tòng để nối dõi nề nếp chư vị anh hùng đó. Sau một hồi pháo tay, ông Lê Văn Đức, hình như quá cảm động, tiến ra giữa nhà tiệc hô hào và ca tụng tấm lòng hợp nhất của hai dân tộc Pháp-Nam mà bữa tiệc hôm nay là một chứng chỉ. Liền đó hội hát các thầy Thần Học hát bài giã tiệc. Điệu hát véo von, cảm động vẫn một vẻ vui, thế là hoàn toàn.

Hồi 4 giờ chiều, Đức Cha mới ra công đường tiếp khách đại biểu các địa phận. Sau khi các cha địa phận Phát Diệm và các địa phận khác mừng Ngài xong, Ngài ra rạp dọn trước lầu chuông nhà thờ để các giáo hữu tới bái yết. Năm giờ hơn, tại nhà thờ chính có chầu thánh thể long trọng hát kinh tạ ơn Chúa.

Bước chân lên xe, bỏ Phát Diệm ra đi, chúng tôi bùi ngùi cảm động, lòng nguyện chúc cho Đức tiên khởi Giám Mục mà thiên hạ đã tặng là “Nam Hải Phúc Tinh” và Giám Mục thứ nhất Bắc Kỳ được niên tràng thọ cửu, để đem ánh sáng tin lành trải ra khắp giải đất Lạc Hồng, khiến mọi người nhìn biết và yêu mến cha chung ở trên Trời. Lòng chúng tôi cũng rất thán phục cách tổ chức khôn khéo của Đức Cha Nguyễn Bá Tòng và các cha cùng thân hào Phát Diệm, làm cho cuộc lễ tấn phong này được phần mỹ mãn: Chúng tôi đã đi xa mà lòng còn bùi ngùi nhớ cảnh Phát Diệm...

Giang sơn cẩm tú nước nhà

“Địa Linh nhân kiệt” (*) quả là không sai

Thực Phát Diệm cảnh Bồng Lai

Hóa công dành để sinh người tài hoa.

(*) Bốn chữ trong bức cuốn thư rất đẹp của thân hào Trung Nam Bắc kính mừng hai Đức Cha Phát Diệm nhân dịp lễ 3 Décembre 1940.

 

NHẬN ĐỊNH CỦA TẠP CHÍ ÁNH SÁNG DÂN TỘC

Bài tường thuật buổi đại lễ tại Phát Diệm trên đây cho ta thấy giữa Thực dân Pháp và người Thiên Chúa giáo Việt Nam đã có quá trình liên hệ mật thiết như tình cha con ruột thịt. Không chỉ Tâm và Cảnh buổi lễ đã nhịp nhàng hòa cùng một điệu mà văn chương tường thuật buổi lễ mô tả cái nghĩa nặng tình dài đã ràng buộc mối thâm tình giữa người Pháp và người Thiên Chúa giáo Việt Nam khó có một sức mạnh nào lay chuyển nổi. Hãy đọc đoạn văn trích lại dưới đây để thấy mối ân tình đó sâu đậm khắn khít đến mức độ nào:

... Quan Thủ Hiến vừa bước chân xuống xe, tiến thẳng lại mộ cụ Trần Lục hai tay kính cẩn đặt vòng hoa trên nấm mộ vị Nam Tước. Một phút yên lặng: quan Toàn Quyền kính điếu một vị anh hùng, một vị quốc công danh vang bốn bể... Quan Toàn Quyền Decoux cảm xúc ai tình. Ngài cảm động hơn nữa khi nghĩ tới cụ Trần Lục là vị Phúc Tinh đã đem sự hòa bình thân thiện chi dân tộc Pháp-Nam...

... Quan Toàn Quyền đưa cặp mắt đầy cảm động ngó chung quanh lũ con dân chằng chịt như nêm cối, bao nhiêu con mắt đổ dồn về Ngài...

... Đức Cha Nguyễn Bá Tòng đọc diễn văn bày tỏ lòng cảm ơn chính phủ, tỏ lòng trung thành con dân Việt Nam đối với Mẫu Quốc. Mừng quan Toàn Quyền nhờ tài ngoại giao lỗi lạc mà tránh cho Đông Dương một cơn khủng bố.

... Những tấm huy chương khẩu hiệu của Đức Giáo Hoàng và các vị Giám Mục, dự tiệc hôm ấy chen lấn vào với cờ Tòa Thánh, cờ nước Pháp và cờ vàng đỏ của Triều Nam...

Hình như văn chương lâm ly của những bài diễn văn, những lời tuyên bố chưa đủ bộc lộ hết sợi dây liên ái, người ta còn đặt tên cho buổi tiệc tiếp theo buổi Đại Lễ là “Bữa tiệc hợp nhất pha chủng tộc, pha tôn giáo, bữa tiệc gia thất, bữa tiệc lòng” để “mọi con tim cùng đổ một dịp theo với những điệu kèn nhà binh của người đội lính khố đỏ” thứ lính bảo vệ cho quyền lực người Pháp tại Đông Dương.

Thử hỏi người tín đồ Thiên Chúa giáo nào khi đọc bài tường thuật buổi đại lễ tại Phát Diệm, nơi được coi là thủ đo tinh thần của Thiên Chúa Giáo Việt Nam, lại không xúc cảm ngậm ngùi, lại không tự hào kiêu hãnh? Xúc cảm ngậm ngùi vì được là hậu duệ của người cha chung là linh mục Trần Lục, tự hào kiêu hãnh vì được làm con dân hiếu thảo của Decoux, của Pétain, của Mẫu Quốc Pháp.

Nhà văn Toan Ánh bảo rằng người Thiên Chúa giáo vô cùng hân hoan với buổi đại lễ quan trọng đó cho nên khi đăng bài tường thuật buổi lễ vào quyển Hội Hè Đình Đám ông đã cẩn thận nói rõ ông trích nguyên văn từ quyển “Autour des Fêtes du 3 Décembre 1940 à Phát Diệm” để khỏi mang tiếng sai lầm, xuyên tạc.

Buổi lễ vĩ đại và long trọng thật nhưng thái độ hân hoan cao độ của người Thiên Chúa giáo lại tạo ra nhiều thắc mắc cho đại khối dân tộc Việt Nam, những thắc mắc cần phải được giải tỏa để sự thật của lịch sử khỏi bị bóp méo, đó là mục đích của bài nhận định này.

Trước hết là trường hợp của Đức Cha Nguyễn Bá Tòng, vị Giám Mục Việt Nam cao cấp nhất thời bấy giờ được toàn quyền Decoux thay mặt Quốc trưởng Pétain gắn Bắc Đẩu Bội Tinh.

Bắc Đẩu Bội Tinh là thứ huân chương cao quý nhất của nước Pháp và chỉ được trao tặng cho những ai có sự nghiệp lớn lao đối với nước Pháp, vậy Đức Cha Tòng là nhà tu hành Việt-Nam đã có công nghiệp vĩ đại nào mà lại được Chính phủ Pháp đền ơn bằng cái vinh dự to lớn đó? Phải chăng công nghiệp của ngài là đã theo chân cố Linh mục Trần Lục xây dựng cho chế độ thuộc địa của Pháp tại Đông Dương một hậu thuẫn gồm khối người Thiên Chúa giáo Việt Nam chỉ biết trung thành với Mẫu Quốc Pháp, một khối người trở thành con dân của nước Pháp như chính Ngài đã long trọng tuyên bố trước sự hiện diện của đông đảo Giám Mục, Linh Mục, bà sơ và hàng vạn giáo dân và cũng để thực hiện chính sách Đồng Hóa của các cố đạo ngoại quốc như Alexandre de Rhodes, Pigneau du Béhaine, Puginier v.v... đã chủ trương.

Thứ hai là trường hợp Linh Mục Trần Lục. Ông là ai và đã làm gì mà được người Pháp và giáo dân Thiên Chúa giáo Việt Nam hết lòng trọng vọng, được tôn vinh là Nam Tước, là Quốc Công, là Phúc Tinh, là anh hùng danh vang bốn bể...?

Theo tác phẩm “Dieu et Cesar” phần nói về “Les Catholiques dans L’histoire du Vietnam" của Linh Mục Trần Tam Tĩnh (Librairie Sud Est Asie, Paris 75005), thì cụ Trần Lục nguyên là linh mục tại Phát Diệm, sau khi giúp Pháp dẹp tan các phong trào kháng Pháp tại hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An, ông còn lập được một chiến công vĩ đại là triệt hạ được chiến khu Ba Đình của lãnh tụ Cần Vương Đinh Công Tráng, một chiến khu kiên cố từng làm cho quân Pháp nhiều phen bị thiệt hại nặng nề.

Theo quyển “Những Trận Đánh Pháp” của Lãng Nhân (Zeiklers Hoa Kỳ xuất bản) thì trong trận đánh phá chiến khu Ba Đình, các giáo đoàn Phát Diệm, Kẻ Sở, Điền Hộ, Bồ Xương đã cung cấp cho đạo quân Thực dân Pháp 5.000 giáo dân để lo việc đào hầm và vận lương. Tất nhiên Ba Đình thất thủ.

Cũng theo sách này thì Trần Lục khi làm Linh Mục ở Phát Diệm hay ỷ thế hà hiếp dân chúng, nên nhân một vụ lộng hành bị cụ Phan Đình Phùng, lúc còn làm Tri Phủ Yên Khánh (Ninh Bình) nọc ra đánh, vì thế cụ đã bị thuyên chuyển về Kinh. Sau đó cụ trở thành một lãnh tụ Cần Vương, 10 năm gian lao kháng Pháp. Sự nghiệp và tên tuổi của anh hùng Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng v.v... được ghi vào sử xanh dân tộc hàng ngàn năm chói lọi và được đặt tên cho các đại lộ, công viên, trường học từ Bắc chí Nam để nhân dân muôn đời ghi nhớ. Hai tiếng “Ba Đình” lừng lẫy cũng được đặt cho công trường lớn nhất, đẹp nhất tại Thủ đô Hà Nội khi toàn dân vùng lên đáp lời thề sông núi, bảo vệ quê hương mùa Thu năm 1945.

Cũng cần nói thêm rằng trong bức thư Giám Mục Ngô Đình Thục gởi cho Toàn Quyền Decoux tháng 8 năm 1944, ông kể lể việc thân phụ của ông là Ngô Đình Khả đã theo Nguyễn Than cầm quân đánh phá chiến khu của cụ Phan Đình Phùng và sau khi tiêu diệt được chiến khu này ông đã đào mả cụ Phan Đình Phùng lấy xác trộn với thuốc súng bắn đi cho mất tích (Tạp Chí Lên Đường số ra mắt, ngày 1/10/88, Houston). Vấn đề được đặt ra là nếu cụ Phan Đình Phùng, Đinh Công Tráng là anh hùng dân tộc thì tại sao linh mục Trần Lục, một tay sai đắc lực của quân xâm lăng Pháp đã tiêu diệt các phong trào Cần Vương kháng Pháp lại được người Thiên Chúa giáo tôn vinh là Phúc Tinh, là anh hùng danh vang bốn bể...?

Nếu cụ Phan Đình phùng, Đinh Công Tráng và hàng vạn lãnh tụ, đảng viên của phong trào Cần Vương vốn thân là những người yêu nước kháng Pháp, thì tại sao quyển giáo sử của Linh mục Phan Phát Hườn và báo chí của người Thiên Chúa giáo, nhất là trong vụ phong Thánh Tử Đạo năm 1988, lại chửi rủa phong trào Văn Thân, Cần Vương?

Nếu Trần Lục làm tay sai đắc lực cho Pháp, được tôn vinh là Phúc Tinh, là Anh Hùng thì ta có thể đặt câu hỏi là 117 Tử Đạo được phong thánh có thật là tử vì đạo hay có thể đã tử vì cầm súng theo giặc Tây sát hại đồng bào?

Nếu Trần Lục, Ngô Đình Khả, Trần Bá Lộc, Huyện Sĩ, Tạ Văn Phụng và vô số linh mục, con chiên theo lệnh các giáo sĩ ngoại quốc và quân xâm lăng Pháp, giúp Pháp xâm chiếm Việt Nam như hàng trăm sách sử ngoại quốc và Việt Nam đã mô tả đầy đủ và rõ ràng, thì tại sao ông Trần An Bài lại bảo rằng người Thiên Chúa giáo bị xuyên tạc (thư gửi Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, phản kháng bang giao Mỹ-Việt Cộng ngày 19-5-1989)? Tại sao ông Cao Thế Dung bảo rằng “Cha ông người Công giáo hiện nay không mang tội phản quốc?” (bài thuyết trình trước Phong trào Công giáo Quốc dân).

Thứ ba là tại sao Giám mục Nguyễn Bá Tòng trong buổi Đại Lễ tại Phát Diệm lại cất cao lời ca tụng toàn quyền Decoux “đã nhờ tài ngoại giao lỗi lạc mà tránh cho Đông Dương một cơn khủng bố”.

Có phải tài ngoại giao đó là việc Decoux đã nhượng bộ quân đội Nhật Bản (tháng 6 năm 1941) một sự nhượng bộ để Nhật trả giá bằng sự bán đứng lực lượng Phục Quốc của cụ Trần Trung Lập tại biên giới Hoa-Việt, một sự nhượng bộ để quân đội Nhật được vào chiếm đóng Đông Dương gây cho nhân dân Việt Nam phải chịu cảnh một cổ đôi ba tròng và một trận đói làm chết hàng triệu người (1945), một sự nhượng bộ để Pháp tiếp tục làm chủ nhân của đất nước ta chờ ngày quân đồng minh đổ bộ đánh đuổi quân Nhật.

Vấn đề còn phải đặt ra là trước cao trào giải thực khắp thế giới và trong lúc toàn thể các đảng phái cách mạng, các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo lợi dụng cuộc thế chiến thứ hai (1939-1945) làm lung lay các đế quốc, lợi dụng Đông Dương mất liên lạc với chính quốc, lợi dụng sự tranh dành quyền lực giữa Pháp và Nhật tại Đông Dương để đồng loạt, bí mật hay công khai hoạt động chống Pháp để dành lại độc lập cho nước nhà, thì tại sao Thiên Chúa giáo Việt Nam lại vẫn khư khư ôm chân giặc Pháp, chỉ muốn Pháp làm chủ đất nước Việt Nam, lại còn tự nguyện làm con dân Mẫu Quốc Pháp như bài tường thuật buổi Đại lễ tại Phát Diệm đã xác định, như lời tuyên bố của Giám Mục Nguyễn Bá Tòng trước mặt vợ chồng Toàn Quyền Decoux?

Nêu ra những thắc mắc trên đây chúng tôi chỉ muốn làm sáng tỏ một số sự kiện lịch sử. Và nếu sự thật lịch sử được hóa giải thì chúng ta có quyền hi vọng một sự hòa đồng tôn giáo, một sự hòa hợp dân tộc, khơi dậy tình tự quê hương... để “người trong một nước phải thương nhau cùng”...

Trước năm 1975, một trí thức Thiên Chúa giáo, ông Lý Chánh Trung khi viết quyển “Tìm về dân tộc” và quyển “Tôn giáo và dân tộc”, kêu gọi người Thiên Chúa giáo Việt Nam nên từ bỏ nếp sống của người khách lạ sống chính ngay trên quê hương mình, ông đã thẳng thắn bộc lộ tâm tư, tâm tư của một tín đồ Thiên Chúa giáo sùng Đạo, nhưng biết đặt quyền lợi của Tổ Quốc lên trên tôn giáo và trên Vatican của một con chim lạc đàn chỉ muốn tìm về tổ ấm:

... Không tránh né một khía cạnh nào dẫu là một khía cạnh có thể gây ra bực dọc cho một số đồng đạo của tôi và cho riêng tôi nhiều nỗi khổ tâm... Muốn hóa giải thật sự không nên che dấu mà trái lại phải bộc lộ rõ rệt những mâu thuẫn ở mức độ sâu xa nhất của chúng...

Tiếc thay những lời kêu gọi trầm thống đó chẳng những đã không làm suy giảm mức độ mâu thuẫn và hận thù chỉ sâu sắc thêm. Lỗi tại ai? Mười năm dưới chế độ Thiên Chúa giáo trị của Ngô Đình Diệm, mười năm dưới chế độ Nguyễn Văn Thiệu, một chế độ Diệm không Diệm, 15 năm tại hải ngoại với cái gọi là Phong trào Phục hồi Tinh thần Ngô Đình Diệm mà bản chất chỉ là gây hận thù và chia rẽ, 15 năm với chiến dịch xuyên tạc nhục mạ những lực lượng dân tộc nhất là chưởi rủa phong trào Cần Vương, Văn Thân kháng Pháp nhân lễ Phong Thánh cho 117 tử đạo và cuối cùng là với âm mưu thỏa hiệp với Cộng Sản Hà Nội của Vatican (xem bài thuyết giảng của Linh mục Việt Châu “Ngày về Rất Gần”, một bài thuyết giảng mà báo Tia Sáng đã có lý khi nhận định rằng Linh mục Việt Châu đã tạo ra một bức tường ngăn cách và khinh thường những thành phần khác của dân tộc Việt Nam, và do đó nhắc nhở người ta nghĩ tới Giáo Hội Thiên Chúa giáo Việt Nam với truyền thống trước đây... luôn luôn cộng tác với đế quốc thực dân hay các bạo quyền bản địa), thì mâu thuẫn, hận thù, chia rẽ chỉ chất ngất thêm mà thôi!

Thật thế! Có lẽ vì cảm nhận được sự hận thù mâu thuẫn giữa đồng bào Lương và Giáo sẽ trầm trọng nguy kịch thêm chỉ có lợi cho Cộng Sản kéo dài nền bạo trị nên ông Cao Thế Dung, một trí thức Thiên Chúa giáo đã dõng dạc lên tiếng trước đại hội “Phong trào Công giáo Quốc dân” nhóm họp tại Nữu Ước tháng 5 năm 1989 với những lời lẽ vô cùng đanh thép:

Phải chống đối đến cùng việc Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ viện trợ cho Việt Nam Cộng Sản và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ viện trợ cho Việt Nam lúc này là một hành động cực kỳ nguy hiểm. Viện trợ riêng cho Công giáo Việt Nam lại càng nguy hiểm hơn. Chúng ta không thể chấp nhận để Công giáo Việt Nam trở thành một thứ giai cấp ưu đãi dưới chế độ tàn ngược lang sói. Đó là điều quan hệ nhất, quan hệ sinh tử đến danh dự và vận mệnh của Công giáo Việt Nam khiến chúng ta phải tích cực chống lại...

Không ngại búa rìu dư luận của nhóm đồng đạo cuồng tín, ông Cao Thế Dung còn phân tích rành mạch bài học đau thương quá khứ:

... Chúng ta không bao giờ quên bài học đau thương của Bá Đa Lộc và Chúa Nguyễn Ánh. Xin anh em dâng lời cầu nguyện để Đức Tổng Giám Mục Mahoney không thể nào trở thành Bá Đa Lộc của thời hiện đại. Tuy hoàn cảnh thật khác xưa, tuy túi bạc đô la khác với tàu đồng súng sắt của thực dân Pháp nhưng hậu quả cũng rõ như nhau-sẽ cô lập người Công giáo Việt Nam với đại khối dân tộc và sẽ tạo nên thù nghịch bất hạnh nhất, sai trái nhất giữa người Công giáo và đồng bào các giới nhất là các tôn giáo bạn là nạn nhân cùng khốn khổ của Cộng Sản Việt Nam...” (chúng tôi sẽ chất chính bài thuyết trình của ông Cao Thế Dung trong Ánh sáng Dân tộc số 3).

Cho nên khi viết lời nhận định cho bài “Hội Hè Đình Đám” của giáo sư Toan Ánh, chúng tôi không giám làm công việc khơi lại đống tro tàn của dân tộc trong quá khứ mà hậu quả là cuộc đô hộ của Cộng Sản ngày nay để một lần nữa kêu gọi các đồng bào Công giáo nào thật tâm muốn Tìm Về Dân Tộc nên xét lại thái độ trước chính sách thỏa hiệp của Vatican, chính sách có hại cho Dân Tộc Việt để tất cả người Việt chúng ta: Lương cũng như Giáo đồng tâm nhất trí chung lo đại sự quang phục quê hương, một quê hương đã tan nát do Phong Kiến, Thực Dân và Cộng Sản gây ra triền miên từ nhiều thế kỷ. Mong lắm thay !


BẢN DỊCH THƯ VIẾT BẰNG PHÁP NGỮ

CỦA GIÁM MỤC NGÔ ĐÌNH THỤC GỬI ĐÔ ĐỐC

JEAN DECOUX, TOÀN QUYỀN ĐÔNG DƯƠNG

 

* Trích từ: Tạp chí Lên Đường, số Ra mắt, Houston

 

Tòa Truyền Giáo Vĩnh Long, ngày 21 tháng 8 năm 1944

Vĩnh Long (Nam Kỳ)

Thưa Đô đốc,

Một Linh mục từ bổn Tòa được phái đi Saigon để lo việc cho chủng viện vừa cho tôi biết rằng hai người em của tôi đang bị truy tố tại Huế. Vì đã lâu không nhận được tin tức gì từ Huế, tôi không biết là điều tôi vừa được báo cáo có đúng sự thật hay không.

Tuy nhiên, nghĩ đến nỗi đau đớn và sự bất nhẫn rất đúng mà chắc chắn là Đô Đốc đã cảm thấy - nếu sự truy tố các em tôi là có thật, tôi vội viết thư này để bày tỏ với Đô Đốc nỗi đau đớn lớn lao của tôi về việc này.

Nếu hoạt động của hai em tôi được chứng tỏ là có hại cho quyền lợi nước Pháp thì - với tư cách của một Giám Mục, của một người An-nam, và với tư cách là người con của một gia đình mà phụ thân đã phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An-nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ-an, Hà-tịnh - tôi, tự đáy lòng, không chấp nhận (hoạt động của các em tôi).

Thưa Đô Đốc, tôi tuyên bố như vậy không phải với mục đích bảo toàn địa vị cá nhân của tôi: bởi vì nếu xét rằng cá nhân hèn mọn của tôi có thể phương hại đến quyền lợi của đạo (Thiên Chúa), tôi sẽ vui vẻ rời khỏi Tòa Giám Mục nầy ngay.

Lời tuyên bố của tôi chỉ có mục đích là tỏ cho Đô Đốc thấy rằng lòng tin tưởng trìu mến của Đô Đốc (đối với tôi) đã không bị đặt vào một kẻ bất xứng hay vô ơn.

Thưa Đô Đốc, tôi chưa bao giờ tiếc là đã xa Huế như thế nầy. Giá có mặt ở đấy thì tôi đã có thể khuyên răn các em tôi tốt hơn, và khi chuyện xẩy đến tôi đã có thể chống lại các chủ đích của các em tôi, nếu quả thật các em tôi có nghĩ đến những dự định có thể gây hại cho chính quyền lợi của nước Pháp.

Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô Đốc, tôi xin thú thực là không tin - cho đến khi được chứng minh ngược lại - rằng các em tôi đã phản lại truyền thống của gia đình chúng tôi đến như thế, một gia đình đã tự mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi ông cha của những quan lại bây giờ hầu hết đều chống lại Pháp và chỉ quyết định thiên về Pháp khi thấy có lợi.

Ngay chính các em tôi đã từng liên tục đưa mạng sống ra vì nước Pháp, trong cuộc nổi loạn của Cộng Sản. Diệm, người em kế tôi, suýt đã phải ngã gục dưới những phát súng của một Hoa kiều Chợ Lớn được phái đến Phan-rang với mục đích hại Diệm, Phan-rang là nơi mà Diệm đã mãnh liệt chống giữ lối xâm nhập vào An-nam của các cán bộ Cộng Sản được từ Nam Kỳ phái đến.

Lẽ tất nhiên, sự tận tụy của các em tôi trong quá khứ không phải là điều nêu ra để làm cớ mà biện hộ cho hoạt động bất cẩn của họ ngày hôm nay, nếu sự bất cẩn nầy được chứng tỏ là điều đã gây nên tội. Tuy nhiên, tôi không nghĩ là tôi đã làm chuyện vô ích khi kêu gọi đến sự khoan hồng đầy xót thương của Đô Đốc hầu xét với hảo ý trường hợp các em tôi. Đô Đốc không phải là người chỉ xét đến hiện tại mà lại bỏ quên đi quá khứ. Tôi nêu ra điều nầy khi xét thấy rằng thân phụ tôi là Ngô Đình Khả đã từng được vinh dự phục vụ nước Pháp dù sinh mạng bị hiểm nguy, và khi xét đến quá trình lâu dài của các em tôi, một quá trình được hình thành bằng lòng tận tụy vô bờ của các em tôi đối với nước Pháp, mà không sợ phải hy sinh mạng sống của mình cho nước Pháp.

Thưa Đô Đốc, một lần nữa bày tỏ với Đô Đốc tất cả niềm đau đớn của tôi trong vụ nầy, tôi xin Đô Đốc vui lòng nhận nơi đây lời kính chào trân trọng nhất của tôi.

 

Ngô Đình Thục

 


NGÔ ĐÌNH DIỆM CÓ MỘT ĐỨA CON TRAI

 

Trích từ: Tạp chí Ánh Sáng Dân Tộc số 1 tháng 5-1989, Fresno.

 

L.T.S. Đoạn văn dưới đây rút từ cuốn hồi ký “Việt Nam Nhân Chứng” của cựu Tướng Trần Văn Đôn. Tạp chí Ngày Nay ở Texas, Thằng Mõ ở San Jose và một số báo chí khác ở Nam Cali đã đăng tải. Có báo không đăng hoặc đã đăng đoạn nói về cuộc đảo chánh 1-11-1963 mà thôi như Hồn Việt chẳng hạn.

Dư luận đồn đại cuốn Việt Nam Nhân Chứng cũng sẽ là một quả bom nguyên tử làm nổ tung nhiều bí ẩn lịch sử động trời nhất là những bí ẩn nói về gia đình họ Ngô, và vụ nhà Ngô âm mưu bắt tay với Cộng Sản Hà Nội. Điều lạ lùng là khi gặp gỡ báo chí tại Santa Ana, Tướng Đôn tuyên bố sách của ông sẽ ra mắt độc giả vào tháng 11 năm 1988 nhưng mãi đến nay vẫn chưa thấy sách xuất hiện. Trong lúc đó có tin một nhóm người có giây mơ rễ má với nhóm Cần Lao thời Diệm vận động với Tướng Đôn đục bỏ đoạn nói về việc ông Diệm có một đứa con trai. Đồng thời báo chí thuộc phe ông Diệm mở chiến dịch bôi nhọ và hăm dọa Tướng Đôn và một số cựu Tướng lãnh khác. Họ dùng chiến thuật “tiên hạ thủ vi cường”, đánh phủ đầu để làm nhụt nhuệ khí tác giả cuốn “Việt Nam Nhân Chứng”. Trước cuộc tấn công hung hãn đó, có người đoán rằng có thể Tướng Đôn sẽ đình chỉ vĩnh viễn việc cho phát hành cuốn hồi ký, có thể giảm thiểu sự thật khủng khiếp của nhiều biến cố, nhiều sự kiện, nhiều bí ẩn dưới triều Ngô Đình Diệm sẽ làm choáng váng và nhức nhối cho một số người nào đó.

Chúng ta hãy chờ xem!

Ánh Sáng Dân Tộc

 

Sáng ngày 3-11-1963, tôi sai ông Lê Soạn cho lính vào dọn dẹp và góp nhặt tất cả giấy tờ, tài liệu trong dinh Gia Long vì ông Võ Văn Hải, Chánh văn phòng đặc biệt của ông Diệm, cho biết trong dinh Gia Long có nhiều tài liệu mật, đại sự không nên để lọt vào tay ai. Dương Văn Minh ký giấy ra lịnh cho Đại úy Đặng Văn Hoa đến dinh Gia Long gặp ông Võ Văn Hải và ông Quách Tòng Đức, cựu Đổng lý văn phòng ông Diệm để nhận hồ sơ và tài liệu.

Chính trong số tài liệu này mà tôi được biết ông Ngô Đình Diệm có một đứa con trai.

Hầu hết mọi người đều nghĩ rằng Ngô Đình Diệm không biết đến đàn bà, nhưng đâu mấy ai biết được Ngô Đình Diệm có đứa con trai. Sau đảo chánh 1 tháng 11 năm 1963, Võ Văn Hải, Chánh Văn phòng Đặc Biệt điện thoại cho tôi ngỏ ý muốn giao cho tôi một số hồ sơ mật về đại sự quốc gia. Võ Văn Hải nói:

- Tôi muốn giao cho Trung tướng để Trung tướng giữ cho kỹ!

Tôi đem về để trong văn phòng tôi ở bộ Tổng Tham mưu. Hàng ngày, sĩ quan văn phòng tôi trình tôi một số hồ sơ chọn lọc. Một hôm tôi được xấp hồ sơ, trong đó có một lá thư và một tấm hình chụp người đàn bà đứng bên một đứa con trai khoảng 13, 14 tuổi. Trong lá thư vắn tắt cho biết đứa con trai trong hình là con trai của Ngô Đình Diệm. Nếu không phải là con của Ngô Đình Diệm thì không một người đàn bà nào có gan vu khống như vậy được. Và nếu không phải là con thì Ngô Đình Diệm đâu cất giữ thư từ hình ảnh trong tủ tài liệu quan trọng?

Năm năm sau, tôi được cô T.N. cho tôi biết Ngô Đình Diệm có một đứa con trai, làm tôi sực nhớ đến lá thư và tấm hình. Hỏi ra thì mới biết lá thư và tấm hình kia là thân nhân của cô T.N., đem chuyển vào tận tay cho Ngô Đình Diệm năm 1958. Chồng dì thứ bảy của cô T.N. là bạn học của Ngô Đình Diệm, vì vậy khi Ngô Đình Diệm bổ vào làm Tuần Vũ ở Phan Thiết, giao du rất thân thiện với gia đình này. Người bạn học của Ngô Đình Diệm là Hoàng Tỷ làm Giám đốc trường Trung học ở Sài Gòn. Giám học của trường này là Antoine Lê Cang Đảm. Thỉnh thoảng Hoàng Tỷ lái xe về quê chơi và ưa chở Ngô Đình Diệm về nhà mình ở Sài Gòn. Hai người rất thân nhau, có lần Hoàng Tỷ lục bóp thấy Ngô Đình Diệm ít tiền nên biểu vợ lén bỏ tiền vào bóp cho Ngô Đình Diệm tiêu. Ngô Đình Diệm biết cho nên khi lên Tổng thống, lần nào ra kinh lý Phan Thiết, Ngô Đình Diệm đều đến mộ Hoàng Tỷ cúi đầu tưởng niệm, và năm nào đến 28, 29 tết cũng điện ra cho Trung tá Tỉnh Trưởng Bình Thuận, lúc ấy là Nguyễn Quốc Hoàng, cho người mang tiền đến để bà Hoàng Tỷ cúng chồng.

Năm 1958, cô T.N. có tiếp một người đàn ông quen biết với các anh chị cô, cho cô biết Ngô Đình Diệm có đứa con trai 14 tuổi. T.N. hỏi:

- Đứa nhỏ đang ở đâu?

- Má nó dắt nó ra đây rồi và chúng tôi định nhờ dì cô là bà Đốc Tỷ chuyển tin này vào cho Tổng thống biết rằng ông đang có đứa con trai.

- Lấy nhau từ lúc nào? Tại sao ông Diệm lại không biết mình có một đứa con?

- Họ lén lút lấy nhau trong lúc ông Diệm bôn đào trốn Pháp. Rồi ông Diệm trốn ra Huế trong khi đất nước loạn ly nào giặc Nhật, chiến tranh Pháp-Việt, ông Diệm đi luôn ra ngoại quốc...

- Bà ấy quê ở đâu?

- Hậu Giang, con gái của một gia đình trí thức.

- Ông Diệm đi đâu xuống đó?

- Cô không biết Giám Mục Ngô Đình Thục ở Vĩnh Long à?

- A! Nhưng tại sao để đến bây giờ mới cho biết?

- Lúc đầu để ông Diệm ổn định tình thế, khi ông Diệm lấy trọn được quyền hành thì cố vấn Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn có quyền hành nhiều quá, nếu gởi thơ thẳng cho ông Diệm chưa tới tay ông mà có thể đứa nhỏ bị các anh em ông Diệm thủ tiêu để giữ tròn danh tiếng cho Tổng thống. Vì vậy mà bà ấy không giám tiết lộ với ai. Biết dì của cô là chỗ thân tình với Tổng thống nên tôi đưa mẹ con bà ấy ra đây để nhờ bà Đốc mang giùm thư và hình vào dinh trao tận tay cho Tổng thống.

Nhưng bà Hoàng Tỷ không muốn đi. Em gái của bà Hoàng Tỷ đem thư và hình vô đưa cho con trai của bà Antoine Lê Cang Đảm là Francois Lê Cang Đảm. Ông Diệm lặng lẽ xuất dinh lên xe của Francois Lê Cang Đảm chở ra nhìn mặt thật sự của Sài Gòn-Chợ Lớn về đêm.

Trước khi đem thơ và hình đứa con trai vào cho Ngô Đình Diệm, em bà Hoàng Tỷ có nói cho Tỉnh trưởng Bình Thuận lúc đó là Lưu Bá Châm, và ông Trưởng ty Cảnh sát chuyện đứa con trai Ngô Đình Diệm. Nhưng ai ai cũng không giám can dự vào vì sợ chết lây.

Lá thư đó đến tay của Ngô Đình Diệm gần một tuần lễ rồi mà không thấy tin gì. Nên bà mẹ đành dắt đứa con trai về Hậu Giang sống âm thầm với kỷ niệm đau thương. Bà nhớ lại lúc mình đã có thai thì tin tức Ngô Đình Diệm vắng bặt, gia đình bà cảm thấy nhục nhã vì đứa con gái chửa hoang nên đuổi ra khỏi nhà. Bà sống cơ cực, thiếu thốn mọi thứ. Bây giờ cha của đứa con bà đang làm Tổng thống, nhưng vì danh dự mà bỏ rơi hẳn giọt máu duy nhất của mình. Năm 1965, T.N. gặp lại người đàn ông, hỏi thăm tin tức cậu con trai của Ngô Đình Diệm thì được biết cậu ta trở thành một chiến sĩ tầm thường trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa.


ĐÂY NGÔI BIỆT THỰ MÙA HÈ CỦA BÀ NHU TẠI ĐÀ LẠT

 

* Tác giả: Người Bình Dương

* Trích từ: Tạp chí Tia Sáng, số 26, Houston.

 

Đã có nhiều nhà viết sử Việt Nam và ngoại quốc đề cập đến ngôi biệt thự mùa hè của bà Ngô Đình Nhu tại Đà Lạt, nhưng chưa có ai mô tả đầy đủ chi tiết như ký giả Howard Sochurek của tạp chí National Geographic.

Năm 1964, ký giả Howard Sochurek đến miền Nam Việt Nam để điều tra tình hình.

Đến Quảng Trị, ông nhận thấy “Dẫy phố buồn thiu” được người Pháp đặt tên trong chiến dịch Camargue (năm 1953), 10 năm sau vẫn buồn thiu như trước. Ông được biết cố Tổng thống Ngô Đình Diệm, năm 1954 khi mới lên cầm quyền, việc làm đầu tiên là triệt hạ các thành phần đối lập. Ông gặp được ông Hậu, một tín đồ Hòa Hảo vì chống chế độ Diệm phải trốn lên Cao Miên và mới trở về Việt Nam. Ông cũng gặp được ông Hoàng Xuân Tửu, một đảng viên Đại Việt vừa ở tù 7 năm ra và hiện đang giữ chức tỉnh trưởng Quảng Trị. Ông Tửu cho biết cán bộ của chế độ Diệm vừa tham nhũng mà lại vừa sợ Việt Cộng.

Về đến Chí Hòa Sài Gòn, ông đến thăm ông Nguyễn Ngọc Lâm, một cấp chỉ huy của ngành Hỏa Xa. Ông biết được từ năm 1955, mặc dù Hoa Kỳ viện trợ cho ngành này 25 triệu Mỹ Kim nhưng tình hình tài chính vẫn nguy ngập. So với thời chiến tranh Pháp - Việt Minh thì sự phá hoại của Việt Cộng dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa còn trầm trọng hơn nhiều. Tại Chí Hòa, ông tham dự lễ Phật Đản năm thứ 2508 với 218 thanh niên trong đoàn Phật tử Chánh Phước, những thanh thiếu niên này là con cháu của 75 nhân viên Hỏa Xa đã bị giết năm 1946.

Tuy nhiên, trong cuộc viếng thăm miền Nam Việt Nam, ký giả Sochurek đặc biệt điều tra kỹ càng về ngôi biệt thự mùa hè của bà Nhu tại Đà Lạt.

Ông cho biết biệt thự bà Nhu được xây cất trên một ngọn đồi thông nhìn xuống một thung lũng ngoạn mục, ngọn đồi ấy được đặt tên là Lâm Ngọc “Forest-Jewel”. Ngày nay, biệt thự đã trở thành một bảo tàng viện, ai muốn vào xem phải trả 13 xu. Một trụ cao có chòi canh để giữ an ninh cho toàn bộ khuôn viên ngôi Biệt Thự.

Ngôi nhà chính có 5 lò sưởi, trên mỗi lò sưởi đều trang trí bằng đầu con thú (trophies) do ông Nhu săn bắn được. Cái bếp làm bằng thứ thép sáng loáng với cái lò nấu Hồng ngoại tuyến rất lớn trị giá 20.000 đô la.

Một vườn hoa gồm toàn thảo mộc nhập cảng, mỗi thứ đều mang bảng tên. Có tất cả 100 loại hoa được chuyên chở bằng máy bay từ khắp nơi trên thế giới. Tại vườn hoa lại có hồ tắm nước nóng sang trọng và rộng lớn. (Có lẽ đây là hồ tắm tư nhân đầu tiên tại Việt Nam vì từ trước Vua Chúa cũng như quan toàn quyền Đông Dương không hề có hồ tắm riêng như bà Nhu: ghi chú của người viết). Năm mươi thợ vườn lo săn sóc vườn này, mỗi người được trả 20 đô la mỗi tháng theo lời kể lại của ông Phạm Văn Mỹ, một thợ vườn cũ.

Phải mất 5 năm với nhân công của 100 thợ mộc, thợ nề và chuyên viên mới hoàn tất được ngôi Biệt Thự lộng lẫy này. Cổng chính phải xây đi xây lại 8 lần và một cửa ở góc một căn phòng phải sửa đến 5 lần mới vừa ý bà Nhu.

Tất cả những cửa phòng quan trọng của Biệt Thự đều có hệ thống bí mật dẫn tới một đường hầm chạy suốt đến dưới hồ tắm tại vườn hoa. Dưới giường ngủ của bà Nhu có một hầm lớn bằng sắt và một cái tủ sắt. Dưới bếp cũng có một đường hầm riêng nối liền với hệ thống thoát thân dưới mặt đất.

Ông Phạm Văn Mỹ cho ký giả Sochurek biết bà Nhu là một người đàn bà trưởng giả nhưng khó tính, luôn luôn la hét mỗi khi ra lệnh cho những người làm vườn, nhưng lại rất sợ các con sâu, con dun. Ngược lại thợ vườn thường bắt sâu, bắt dun để lên cây lá để làm cho bà hoảng sợ.

Cứ mỗi hai tuần lễ, Tổng thống Diệm đến thăm biệt thự một lần và được bà Nhu dẫn đi xem cây cảnh. Ông Diệm thì yên lặng nhưng bà Nhu mỗi lần giận giữ lên là đòi chặt đầu thợ làm vườn.

Dưới tấm hình ngôi biệt thự của bà Nhu trên tạp chí National Geographic (số tháng 9 năm 1964) ký giả Sochurek ghi chú: “Ngôi biệt thự mùa hè của bà Ngô Đình Nhu tại Đà Lạt cho bà ta hưởng thụ sự xa hoa lộng lẫy kiểu đế vương dù trong thời chiến tranh. Ngôi nhà với những đường hầm thoát thân bí mật, hồ tắm nước nóng, vườn hoa độ 50 thợ vườn là nơi nghỉ mát của người em dâu vị Tổng thống đã bị sát hại, người đàn bà quyền uy dưới chế độ của ông ta”.

Montreal, tháng 2 năm 1988

 

Người Bình Dương

 


BỨC CÔNG ĐIỆN CỦA TOÀ ĐẠI SỨ MỸ (SÀI GÒN) XÁC NHẬN ÔNG DIỆM ĐÃ XIN QUÂN MỸVÀO CỨU TRONG BIẾN CỐ 11-11-60

 

Tài liệu của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ do Tướng Nguyễn Chánh Thi sưu tầm, phát hiện việc ông Diệm, trong chính biến Nhảy Dù 11-11-60, đã yêu cầu Tòa Đại sứ Mỹ gửi Thủy Quân Lục Chiến đến Sài Gòn. Tuy nói “để bảo vệ kiều dân Mỹ” nhưng thật sự ông Diệm muốn quân lực Hoa Kỳ can thiệp để chống quân Nhảy Dù Việt Nam và “chiếm giữ phi trường Sài Gòn” để, nếu cần, thì có điểm cất cánh an toàn hầu bay thoát ra nước ngoài.

Vị Đại sứ Mỹ còn không thấy cần thiết bảo vệ kiều dân mình thì ông Diệm lại yêu cầu Thủy Quân Lục Chiến của họ đến để làm gì ?!

 

218. Công điện từ Đại sứ tại Việt Nam (Durbrow)

Gửi cho Bộ Ngoại Giao 1

Sài Gòn ngày 11 tháng 11 năm 1960 - 3 giờ chiều.

1015. Từ nhiều... phúc trình của Tòa Đại sứ, tình hình rõ ràng vẫn còn nhiều thay đổi mặc dù cho đến 12 giờ 40 trưa, những báo cáo (Embtel 1012 2) có vẻ chắc chắn rằng Tướng Tỵ và Tường Hoàng, Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô, những người đã bị bắt giữ bởi Đại tá Thi 3, Tư lệnh Nhảy Dù và có lẽ là lãnh tụ cuộc binh biến, đang điều đình với Diệm tại Dinh Độc Lập. Tôi chưa biết rõ những mục tiêu của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng mặc dù nội dung những buổi phát thanh của họ trên đài Sài Gòn và các thông tin khác đều nói lên lập trường chống Cộng và đều muốn đoàn kết toàn dân miền Nam chống Cộng Sản. Có vẻ như Hội Đồng không muốn cần thiết phải loại trừ hẳn Diệm, nhưng buổi phát thanh của Hội Đồng thì lại xác định rằng “quân đội đứng lên để lật đổ chính phủ Diệm”.

Qua... liên lạc với Đại tá Thi... tôi đang tìm cách hiểu rõ hơn những mục tiêu của Hội Đồng 4. Chỉ sau đó tôi mới hy vọng xác định được liệu Diệm có đủ khôn khéo chấp nhận hầu hết những mục tiêu này để từ đó cho phép một hình thức hợp tác nào đó giữa Hội Đồng và Diệm.

Điều này có thể dẫn đến những thay đổi quan trọng như việc loại trừ ông bà Nhu, v.v..., và cả tôi, Tướng McGarr, lẫn các viên chức Hoa Kỳ cao cấp khác đều sẽ không hành xử như người trung gian. Biện pháp này cũng sẽ được áp dụng cho cả những sĩ quan cấp dưới...

Từ sáng sớm nay, Tổng thống Diệm đã nhờ Linh mục Bỉ De Jacger 5, người từng đóng vai liên lạc bán chính thức giữa Diệm và cộng đồng Hoa kiều địa phương, chuyển đến lời yêu cầu “Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đến để bảo vệ kiều dân Mỹ và chiếm giữ phi trường Sài Gòn” (hình như phi trường nầy đã bị quân nổi dậy chiếm đóng rồi). Tôi tin rằng hành động này rõ ràng không còn cần thiết nữa. Sẽ cố gắng thông báo cho Diệm biết điều nầy. Cho đến 1 giờ 50 chiều, vẫn không có báo cáo về người Mỹ nào bị thương tích.

Durbrow

 

(1) Nguồn tin: Bộ Ngoại Giao, Hồ sơ Lưu, 751K 00/11-1160. Mật. Lập lại bản tin để chuyển đến Manila cho Đô Đốc Felt và CINCPAC PolAd. Chuyển qua OSD, Bộ Lục, Hải, Không Quân. Nhận lúc 9 giờ 05 sáng.

(2) Theo công điện 1012 đánh từ Sài Gòn lúc 1 giờ sáng ngày 11 tháng 11 (nhận được tại Washington lúc 2 giờ 20 sáng ngày 11 tháng 11) thì Gardiner thuộc USOM được Phó Tổng thống Thơ cho biết rằng Tướng Tỵ và Tướng Hoàng đã bị quân nổi dậy bắt giữ và đã cùng với người lãnh đạo cuộc nổi dậy nầy là Đại tá Thi, điều đình với Diệm tại dinh Độc Lập. Thơ biết được điều nầy từ ba nguồn tin đáng tin cậy.

(3) Đại tá Thi, Tư lệnh Lữ đoàn Nhảy Dù.

(4) Theo công điện Critic 10 ngày 11 tháng 11 gửi từ Sài Gòn, nhận được lúc 6 giờ 11 sáng, thì dù có chấp thuận thỏa hiệp với Chính phủ Diệm, Thi cũng vẫn bắt Diệm phải từ chức. (Bộ Ngoại Giao, Hồ sơ Lưu, 751K.00/11-1160).

(5) Đức Cha Raymond J.De Jacger, Tổng Đại diện Tổ chức Thái Bình Dương Tự Do, Khu vực Viễn Đông.

 


TRƯƠNG ĐÌNH CÁT VÀ HÀ NHƯ CHI

 

Nguyễn Chánh Thi viết về Hà Như Chi và Trương Đình Cát

Trong Hồi ký Việt Nam Một Trời Tâm Sự

* Trích từ: Tạp chí Ánh sáng Dân tộc số 1, 31/5/89, Fresno

 

LTS: Bài viết dưới đây là một đoạn ngắn trích từ chương bổ túc “Việt Nam Một Trời Tâm Sự” của Cựu Trung tướng Nguyễn Chánh Thi sắp tái bản. Ánh Sáng Dân Tộc xin giới thiệu cùng bạn đọc và xin cám ơn Trung tướng Nguyễn Chánh Thi...

 

Sau ba năm dài trôi nổi trên xứ Chùa Tháp trở về miền Nam, tôi có đi thăm hai người bạn trong tù: Anh Trương Đình Cát và Hà Như Chi. Họ vừa là bạn vừa cùng phục vụ dưới chế độ nhà Ngô trước kia. Trương Đình Cát là người có tinh thần Quốc gia, chống Cộng triệt để và đầy đủ sĩ khí.

Cát là người cộng tác mật thiết với anh Võ Văn Hải, Bí thư văn phòng Thủ tướng Ngô Đình Diệm, khi ông vừa ở Pháp về lập Chính phủ 1954.

Cát bị giam ở Lao xá Nha Trang khi cuộc Cách mạng 1963 bùng lên.

Còn Hà Như Chi dân biểu của Ngô Gia, một thời nổi danh là người tình của bà Cố Vấn Lệ Xuân, thì bị giam cầm ở nhà lao Chí Hòa.

Trung tướng Mai Hữu Xuân lúc đó là Đô Trưởng Sài Gòn-Chợ Lớn bảo nhỏ tôi: “Ông Thi nên cẩn thận kẻo thiên hạ hiểu lầm”. Tôi hiểu ý ông ta vắn tắt trả lời: “Đây là chỗ quen biết xa xưa nên có ý thăm hỏi nhau lúc gặp hoạn nạn thôi”. Độ nửa giờ sau, Cảnh sát đã đón Hà Như Chi đến tại văn phòng của tướng Mai Hữu Xuân cho chúng tôi gặp thăm nhau. Câu chuyện hỏi han về sức khỏe diễn ra khoảng 10 phút và tôi trao cho anh ta gói quà gồm mấy thức ăn lặt vặt.

Thế rồi sau ngày chỉnh lý, mãi đến 11-9-1964, nhận thấy tình hình chính trị sôi động nên Chính phủ yêu cầu tôi đến thăm nhà lao Chí Hòa và các tội nhân liên hệ đến họ Ngô. Chính phủ có ý định đưa bọn họ đi Côn Đảo.

Nhìn qua chỗ ăn ở của bọn họ thì thật quá đầy đủ, đồ ngon vật lạ, cam táo ngoại quốc không thiếu thức gì. Bọn họ chụm năm chụm ba nhìn tôi với những con mắt lo ngại. Tôi đứng trước Hà Như Chi hỏi vài ba câu, bỗng nhiên Trần Kim Tuyến lò dò đi đến dơ tay muốn bắt tay tôi. Tôi từ chối và chỉ hỏi anh ta có ý kiến chi không? Tuyến trả lời: “Bây giờ thì chúng ta nên phải đoàn kết để làm việc lớn (!)”. Tôi mỉm cười quay qua bắt tay Hà Như Chi nói chung một đôi lời với bọn chúng rồi ra về.

Hai hôm sau, anh hạ sĩ tài xế cho tôi biết, có bà Hà Thúc Lãng là mẹ của Hà Như Chi muốn vào thăm (năm 1937-1938 ông Hà Thúc Lãng, thân phụ của Hà Như Chi, cũng là thầy học của tôi tại trường Tiểu học Đồng Hới Quảng Bình và tôi quen Hà Như Chi và Hà Thúc Cần từ đó).

Bà mẹ của Hà Như Chi hơi ngập ngừng khi mở đầu câu chuyện với tôi.

Tôi nghĩ đến ông thầy học cũ của mình nên giữ nguyên cung cách đối xử ân cần: “Xem cô vẫn khỏe mạnh, cô đến chơi hay có việc chi? Mấy tháng trước thấy sinh viên và học sinh Huế biểu tình có ý định đến phá phách nhà thầy cô, nên tôi đã đích thân đến yêu cầu họ giải tán, kêu gọi họ quên sự thù hận đã qua để cùng nhau xây dựng lại đất nước”.

Tưởng cũng nên nhớ lại cho rõ: vào hơn một năm trước đó, bà Hà Thúc Lãng đại diện cho phụ nữ Huế có đọc một bài diễn văn tâng bốc bà Ngô Đình Nhu trong đó có câu bất hủ là: “Dân chúng cố đô Huế nên xây một cây cầu bằng vàng từ Huế đến Sài Gòn để rước Đệ Nhất phu nhân đến thăm cố đô Huế”.

Bà mẹ Hà Như Chi chớp chớp mắt như tuồng cảm kích và đi thẳng vào việc: “Hôm ni tôi đến thưa chuyện với anh và mong anh thông hiểu giúp cho Chi, chúng tôi nghe tin Chính phủ có ý định đưa họ ra Côn Đảo thì phải?”.

Tôi chỉ nhìn bà ta mà chưa có câu trả lời thì bà lại tiếp: “Anh nên nghĩ chỗ bạn bè, bà con quen biết mà cố giúp cho Chi thì vợ chồng tôi không bao giờ quên” và bà nhắm mắt như muốn khóc.

Tôi đáp: “Thưa cô đó là chuyện của chính phủ, chuyện chính trị ngột ngạt lắm. Như cô đã biết tôi vào ra thăm anh Chi và có hẹn cần chi tôi sẽ cố gắng hết sức của tôi, và chắc cũng chưa đến nỗi chi để đưa ra Côn Đảo”.

Có thể nghe tôi nói làm bà hơi yên tâm và chầm chậm ngồi xuống ghế, nói tiếp: “Bà Nhu mà ai không biết, cả xứ Huế và cả nước biết ! Thằng Chi nó đẹp trai học giỏi, được đàn bà quắc thước quyền hành hiến thân cho thì làm răng từ chối được”.

Nói xong bà ta mỉm miệng cười và nhìn vào tôi ra chiều kiêu hãnh?!

Tôi mời bà uống chén nước trà và xin cáo lỗi vì bận việc phải chia tay.

Chuyện Hà Như Chi là như vậy: Nhưng chuyện anh Trương Đình Cát người bạn học thân với tôi tại trường Phú Xuân vào năm 1939, 1940-1941. Anh người thông minh, điềm đạm và cẩn thận trong mọi việc. Tôi tự ngạc nhiên với tôi, vì tôi và Trương Đình Cát tính tình thật trái ngược thế mà chúng tôi lại thật thân nhau?

Trước năm 1954, Trương Đình Cát hoạt động phò nhà Ngô sao đó nên bị bắt giam vào Thừa phủ Huế và khi ông Diệm về thì Trương Đình Cát làm tại văn phòng Thủ tướng trở thành một trong đám Cần Lao thân tín hoàn toàn tin vào chế độ nhà Ngô.

Năm 1955, Trương Đình Cát ở đường Hiền Vương, tôi Lê Văn Duyệt gần nhau, cứ mỗi lần rảnh rỗi lại ghé thăm nhau để hàn huyên. Có lúc có cả anh Phan Thụy Dung làm cho USIS nữa, ngày xưa cũng là bạn học. Ngoài ra tôi ghé thăm Võ Văn Hải và Trương Đình Cát tại văn phòng của họ trên lầu dinh Độc Lập. Tôi thầm nghĩ là công việc của anh Cát sẽ tiếp nối như thế mãi. Thế nhưng đùng một cái tôi được tin anh ta phải đi nhận nhiệm vụ mới khẩn cấp.

Thì ra câu chuyện hi hữu họa vô đơn chí này đây. Cứ thường lệ, mỗi buổi sáng sớm Tổng thống Ngô Đình Diệm sau khi dùng điểm tâm thì Võ văn Hải hoặc Trương Đình Cát đem hồ sơ vào trình. Rủi cho Trương Đình Cát, một buổi mai khoảng 7 giờ tay ôm tập giấy tờ nặng, tay khác mở cửa thì ngạc nhiên thấy bà cố Nhu đang quàng tay vào cổ Ngô Tổng thống mà hôn!

“Tôi thật choáng váng ngạc nhiên, khó nghĩ, không khí quả là nặng nề cho đến khi tôi rời khỏi phòng giấy vừa là phòng ngủ của ông Diệm” (lời của anh Cát): “Hai ba ngày lặng lẽ trôi qua, đầu óc tôi cứ đảo lộn cứ cho là chiêm bao”. Cát không muốn tin là chuyện có thật. Thế rồi, điều Cát chờ đợi cứ phải đến. Vào một buổi chiều thứ Tư xế đông, anh Cát nhận được lệnh thuyên chuyển đi làm Phó Tỉnh trưởng Nha Trang.

“Với đôi mắt khó chịu. Ngô Đình Diệm nhìn tôi khi tôi đến cáo từ ông để đi đến nhiệm sở mới”. Cát tâm sự với tôi thế và dặn dò tôi nên thương lấy anh ta mà giữ kín đáo chuyện này cho... “thật là buồn và quá chán chường”, lời của Cát khi bắt tay từ giữa tôi ngày ấy.

Tôi phải tin vào lời những người anh em trung thực, ngay thẳng của mình. Họ lại là tay chân thân tín của Diệm Nhu. Từ Võ Văn Hải đến Trương Đình Cát hễ gặp tôi thì chưởi rủa vợ chồng Nhu hết lời. Họ đều nghĩ rằng vợ chồng Ngô Đình Nhu sẽ làm hỏng cơ đồ nhà Ngô và ông Ngô Đình Diệm là nạn nhân chính. Đến Trần Kim Tuyến khôn ngoan dè dặt đến thế mà có lúc không dằn được, phải thổ lộ “ông cụ thì chả nói làm gì, chứ vợ chồng Ngô Đình Nhu thì quá lắm, cao ngạo, khinh người cứ tưởng ngoài mình ra không còn ai nữa: đem chúng nó thả ra ngoài biển là vừa”.

Nguyễn Chánh Thi

 


  THƯ NGỎ GỬI ÔNG HỨA HOÀNH

* Tác giả: Trần Ngọc Lý

* Trích từ: Tạp chí Tia Sáng số 22, tháng 10/1987

 

 

Thành phố Dallas ngày 18-10-1987

Kính gửi ông Hứa Hoành,

Trước hết tôi xin được giới thiệu: Tôi là một độc giả rất thích đọc những bài ông viết về lịch sử và địa lý nước nhà. Những bài viết vô cùng hữu ích của ông đã gợi lại trong tôi nhiều kỷ niệm êm đẹp của thuở xa xưa trên quê mẹ thân yêu và nhắc nhở tôi về bổn phận của người dân mất nước đối với dân tộc, đối với đồng bào. Được biết ông mới định cư tại Hoa Kỳ mà đã vượt được những khó khăn buổi ban đầu để góp phần hâm nóng lòng người vong quốc thật vô cùng đáng khen ngợi. Tuy nhiên, trong số báo Xây Dựng số 91 phát hành ngày 1-10-87 tại Houston, ông có viết bài “Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục ở Vĩnh Long” để ca tụng đức hạnh cũng như công ơn của Đức Cha Thục. Bài này thật đã làm tôi vô cùng thất vọng vì tôi rất tiếc là ông đã từng là giáo sư Sử Địa trường Võ Bị Quốc Gia mà sự lý luận lại không chính xác làm cho người đọc có cảm tưởng ông Hứa Hoành muốn viết lại lịch sử theo một chiều hướng khác. Một điều mà chúng ta đang đau buồn khi người Cộng Sản đã và đang viết để ngụy tạo lịch sử nước ta theo chiều hướng của chúng. Do đó, tôi xin được phép mạn đàm cùng ông mấy điểm sau đây:

I. VỀ BÀI VIẾT CỦA ÔNG

Trước hết xin xác nhận với ông rằng Vĩnh Long chỉ là một địa phận nên dạo đó Đức Cha Thục chỉ là Giám mục chứ không phải là Tổng Giám mục như ông đã viết.

Suốt bài ông có dụng ý ca tụng Đức Cha là người hiền hòa, đạo đức, ít nói, ít xuất hiện trước công chúng (tức là khiêm tốn) nhưng cũng chính ông tự mâu thuẫn với mình.

A. Ông đã viết: ... Cuối năm 1954 tổ chức Lễ Giáng Sinh rất trọng thể có đức cha Ngô Đình Thục đến làm chủ lễ... Đây là một buổi lễ long trọng khác thường... các họ đạo làm đám rước đức cha Ngô Đình Thục quy mô vĩ đại vì cha là bào huynh của thủ tướng Ngô Đình Diệm. Cũng từ đó người dân Vĩnh Long cảm thấy vai trò của đức cha nổi bật hẳn lên...

Trước lễ cha Thục cho chở mấy xe cam nhông sữa bột Mỹ viện trợ để phát cho học sinh các họ đạo cùng các gia đình giáo dân...

Đọc đoạn này ta thấy rõ ràng cha Thục không khiêm tốn tí nào cả! Một điểm cần nêu lên là sữa bột Mỹ viện trợ cho toàn dân miền Nam sao đức cha lại đem phát riêng cho học sinh các họ đạo và gia đình các giáo dân? Đây là một chi tiết rất quan trọng phản ánh trung thực một giai đoạn lịch sử: Trong những năm đầu chính quyền Ngô Đình Diệm đã dùng tất cả đồ viện trợ Mỹ (sữa bột, quần áo, v.v..) để mua chuộc đồng bào ta theo đạo Thiên Chúa.

B. Về đồ án mở mang tỉnh Vĩnh Long

Ông đã viết: ...Phần kiến thiết quan trọng nhất của việc mở mang nầy, theo dân chúng địa phương, là do giáo hội Vĩnh Long xuất ngân sách xây dựng. Gồm: một dãy phố nữa hình chữ U từ cuối bến xe mới vòng ra lộ cái quẹo về hướng Cần Thơ, nằm trên đường chính, lúc đó là đại lộ Ngô Đình Thục cho đến cuối năm 1963 mới đổi lại là đại lộ Nguyễn Huệ. Dãy phố này 40 căn và hậu diện cũ của nó là 40 căn phố trệt, đâu mặt vào nhau, chính giữa có đường trải đá, dùng làm phố gia cư cho công chức, tiểu công chức mướn. Phố trệt có chiều sâu 16m, ngang 4m cho mướn giá 700$ một tháng, còn dãy đối diện có chiều sâu ngắn hơn, giá 500$ một tháng. Các dãy phố nầy được dân chúng quen gọi là "Phố Đức Cha".

Đọc đoạn nầy, tôi xin có mấy ý kiến:

- Tổng số tiền xây dựng công trình đồ sộ như vậy thì chỉ có ngân sách quốc gia hay ngân sách ngoại viện mới đài thọ nổi thế mà giáo hội Vĩnh Long lại xuất ngân sách xây dựng? Sao giáo hội lại giàu đến như vậy?

- Đất của công, giáo hội chiếm cứ, xuất tiền (?) xây nhà cho công chức, tiểu công chức cho thuê để lấy tiền. Rõ ràng chính quyền Việt Nam Cộng Hoà thời đệ nhất đã đồng hoá giáo hội Thiên Chúa với chính quyền.

- Một người còn sống, dù công đức đối với một địa phương có cao dày mấy đi chăng nữa thì cũng không nên lấy tên mình đặt tên đường hoặc tên công viên v.v.. vậy mà tại Vĩnh Long, chính quyền tỉnh - thuộc hạ của em đức cha đang là Thủ tướng - lấy tên đức cha Ngô Đình Thục đặt tên cho một đại lộ thì quả thật là một điều quái dị không thể tưởng tượng được! Và điều đó chứng tỏ đức cha Thục chẳng hề khiêm tốn tí nào cả!

C. Ông đã viết: ...Đức cha Thục yêu cầu chính phủ Ngô Đình Diệm thiết lập 3 cơ sở giáo dục qui mô lớn cùng một lúc: Trường Sư phạm, trường Kỹ thuật, và Đại chủng viện Xuân Bích, nằm gần nhau trên đại lộ Ngô Đình Thục... Trường huấn luyện nhân vị để đào tạo khoá sinh trong hàng ngũ cán bộ quốc gia. Họ là các công chức trong phong trào cách mạng quốc gia, giáo sư, giáo viên. Khoá đầu tiên khai giảng trọng thể có sự xuất hiện của đức cha trên hàng ghế danh dự cùng với các cha giảng viên như cha Tư, cha Quang...

Đọc đoạn này tôi xin có mấy ý kiến:

- Trường sư phạm, trường kỹ thuật là nằm trong kế hoạch mở mang dân trí, phát triển đất nước thì Thủ tướng Diệm phải có bổn phận lo xây cất chứ tại sao Chính phủ lại xây cất một cơ sở riêng cho một tôn giáo?

- Các khóa gọi là “tu nghiệp nhân vị” dành cho công chức Chính phủ sao các giảng viên chỉ thấy toàn là quý vị linh mục? Phải chăng dưới thời chính phủ Ngô Đình Diệm chính quyền tức là giáo quyền? (Thiên Chúa)

- Đức cha Thục luôn luôn có mặt trong buổi lễ thế mà đoạn trên ông lại bảo là “Ngài ít xuất hiện trước công chúng”.

II. VỀ TÀI LIỆU LỊCH SỬ

Thưa ông Hứa Hoành,

Người viết lịch sử, người giảng dậy lịch sử phải lấy lập trường dân tộc làm căn bản, không thể vì tình cảm, phe phái hoặc vì giai đoạn mà nói lệch hoặc nhận định sai lịch sử. Muốn nghiên cứu về lịch sử đất nước dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, muốn biết rõ về đức hạnh của đức cha Thục tôi đề nghị ông nên tìm đọc các cuốn Bên Dòng Lịch Sử của cha Cao Văn Luận, Nhật Ký Đỗ Thọ của Đỗ Thọ, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi của Đỗ Mậu, Làm thế nào để giết một Tổng thống của Cao Thế Dung và Việt Nam: Một trời tâm sự của Nguyễn Chánh Thi.

Tôi xin tạm trích ra đây những ghi nhận thuộc hai khuynh hướng: bênh vực và đả phá liên quan đến chế độ đệ I Cộng Hòa và nhất là đến đức cha Thục:

1. Trong Bên Giòng Lịch Sử cha Cao văn Luận đã viết:

... Vào khoảng tháng 3-1963, nhiều ông dân biểu, bộ trưởng và những người tai mắt trong chính quyền thành lập ủy ban mừng Ngân Khánh, 25 năm thụ phong giám mục của đức cha Thục. Một buổi sáng cuối tháng 3 vào khoảng 7 giờ, đức cha Thục đến gặp tôi tại nhà và nói thẳng với tôi:

- Cha Luận à, bây giờ anh em ở Sài Gòn có lập một ủy ban mừng lễ Ngân Khánh của tôi do ông chủ tịch quốc hội đứng đầu gồm cả ông bộ trưởng giáo dục Nguyễn Quang Trình, ông viện trưởng đại học Sài Gòn Lê Văn Thới với ngài bộ trưởng khác nữa. Cha là viện trưởng đại học Huế cha nên vào ủy ban đó...

Tôi hơi ngạc nhiên về việc đích thân đức cha Thục đến gặp tôi nói chuyện đó. Tôi nghĩ rằng đáng lý đức cha nên để người nào đó trong ủy ban tổ chức sơ khởi bàn với tôi thì đúng hơn.

Vào tháng 4, tôi nhận thấy việc chuẩn bị mừng lễ Ngân Khánh của đức cha Thục tiến đến một quy mô khá rộng lớn và có thể trở thành một quốc lễ chính thức. Các tỉnh đều lập ra tiểu ban tổ chức mừng lễ Ngân Khánh và dĩ nhiên ông tỉnh trưởng đứng đầu và có những trò quyên tiền góp bạc rồi tất nhiên là phải xảy ra nhiều trường hợp cưỡng bách hay ít nhất là có sự áp lực đóng tiền cho tiểu ban. Dư luận bắt đầu xôn xao bàn tán, chế nhạo...

2. Trong Nhựt Ký Đỗ Thọ ông Đỗ Thọ viết:

... Vì từ lâu, nhiều tăng ni Phật tử vẫn có thành kiến là tổng thống Ngô Đình Diệm kỳ thị tôn giáo. Sự thực thì ông Diệm hết sức né tránh nhưng vì quá kính nể đức cha nên ông đã ký giấy phép cho ông Thục khai thác rừng gỗ ở Định Quán (Long Khánh), đã không dám xin ông Thục đừng biến lễ mừng Ngân Khánh của ông thành một quốc lễ. Đáng lẽ một người tu hành như ông Thục phải coi thường danh lợi thì ông lại là người ham danh lợi hơn ai hết. Ông Thục muốn được phong Hồng Y giáo chủ và hân hoan thấy bọn gia nô đứng ta lập một uỷ ban mừng lễ Ngân Khánh của ông...

3. Trong Việt Nam: Một Trời Tâm Sự, tác giả Nguyễn Chánh Thi kể lại những điều tai nghe mắt thấy của ông khi lữ đoàn Dù do ông làm Tư lệnh hành quân vào chiến khu D khoảng tháng 12-1959 như sau:

... Ngay khi cuộc hành quân mới phát động, chúng tôi đã vô cùng ngạc nhiên thấy chung quanh ranh giới chiến khu D từng đoàn xe chở gỗ vẫn đi lại bình thường, rộn rịp và nhiều toán thợ rừng đông đúc vẫn làm việc yên ổn như đây là một khu vực an ninh vậy. Sau khi thẩm vấn đám thợ rừng, chúng tôi được biết họ là công nhân của ông Sáu Tộ, người hùn vốn với đức cha Thục, độc quyền khai thác rừng già như của tư nhân... Với cơ sở kinh tài nầy, số lời hàng năm có thể lên tới hàng tỷ bạc...

Để đổi sự yên ổn kinh doanh, bọn này không những chịu nạp thuế mà nhận luôn cả phần tiếp tế cho cộng sản... Trong căn cứ của chúng, Việt cộng ăn thứ gạo hạng tốt, thắp đèn bằng dầu hôi và xăng, dùng một số xa xỉ phẩm nhập cảng như xà phòng thơm, thuốc đánh răng ngoại hoá, thuốc lá thơm Anh Mỹ. Để ấn hành các tài liệu tuyên truyền chúng dùng máy Ronéo và có đủ các loại giấy tốt. Những lúc cần, Việt Cộng chỉ cải trang thành nhân công theo xe chở gỗ về tận Sài Gòn. Các xe này thường được gọi là xe chở gỗ của "Đức Cha" và các cơ quan kiểm soát không bao giờ dám động đến...

Đọc ba trích dẫn trên đây, nếu là người có lý trí bình thường, dù có là một con chiên ngoan đạo đến mấy đi chăng nữa, chúng ta cũng không thể nào chấp nhận một đức cha mà lòng tham và tính háo danh đến độ kỳ quái như vậy, hoặc dù có cảm tình với cá nhân cố tổng thống Ngô Đình Diệm đến mấy đi nữa chúng ta cũng không thể nào chấp nhận một chính quyền chỉ để phục vụ cho một gia đình, một tôn giáo như thời Đệ nhất Cộng hoà.

Kính thưa ông Hứa Hoành,

Như tôi đã trình bày ở phần đầu bài viết là tôi rất mến mộ ông qua những bài viết của ông đăng rải rác đó đây và tôi cũng nghĩ là ông chỉ muốn gợi lại những kỹ niệm "một thời vang bóng" của thành phố Vĩnh Long, nơi chôn nhau cắt rún của ông mà thôi. Tuy nhiên, bài viết của ông vì đã để cho tình cảm lôi cuốn mà bỏ mất đi cái nhận xét vô tư, trung thực của lý trí mà một người cầm bút - dù không chuyên nghiệp như ông - cần phải có. Nếu phần góp ý của tôi có gì không phải, xin ông bỏ qua cho và rất mong được đọc tiếp những bài viết mới của ông.

 

Trần Ngọc Lý

 


LUẬT SƯ, NGHỀ HAY NGHIỆP

Vài cảm nghĩ và kỷ niệm về một thời hành nghề

Tác giả: Võ Văn Quan

Trích từ: Tạp chí Ngày Nay (Kansas) số 99, tháng 4 năm 1992.

 

 

BIỆN HỘ TRONG VỤ ÁN CARAVELLE HAY LÀ TÂM ĐẦU Ý HIỆP

 

Một nét dao bay ngàn thuở đẹp

Dầu sai hay đúng cũng là thừa

Vũ Hoàng Chương

(Kinh Kha sang Tần)

 

Vào năm 1960, sự bất mãn đối với chánh quyền Tổng thống Diệm càng ngày càng gia tăng khiến sự cải tổ đường lối càng thêm cần thiết, nhưng chánh phủ vẫn bất kể. Xáo trộn nội bộ làm gia tăng hiểm họa Cộng Sản. Trước tình thế nguy ngập ấy, 18 nhân vật thuộc nhóm “Tự Do Tiến Bộ” họp báo tại khách sạn Caravelle cạnh trụ sở Quốc Hội, ra Tuyên ngôn cực lực phản đối chế độ độc tài, gia đình trị và tham nhũng. Lời lẽ trong bản Tuyên ngôn rất cương quyết mạnh bạo, đả kích rằng Quốc Hội do đầu phiếu phản dân chủ đưa lên chỉ là công cụ của Hành pháp, các đảng phái bị đàn áp diệt trừ, quân đội thì bị chánh trị lũng đoạn khiến cho tinh thần chiến đấu giảm sút, dân chúng thì bị áp bức và bóc lột, nên đất nước bị đưa tới bờ vực thẳm. Trong phần kết luận, các nhân sĩ ấy bảo rằng vì có bổn phận đối với tổ quốc, họ gióng lên tiếng chuông cảnh cáo chánh quyền mặc dầu biết sẽ nhận hậu quả tai hại.

Một số đông trong nhóm “Tự Do Tiến Bộ” ấy đã từng là bạn thân và ân nhân của ông Diệm lúc ông còn bôn ba hải ngoại. Có vài người đã làm bộ trưởng giúp ông Diệm lúc mới lập một chánh quyền còn mong manh.

Vì báo chí trong nước không dám đăng bản Tuyên ngôn nên các nhân vật đó gởi bản Tuyên ngôn đến các Tòa Đại Sứ ngoại quốc. Để tránh bị công an mật vụ cản trở bắt bớ trước khi đọc bản Tuyên ngôn, họ mở cuộc họp báo tại khách sạn Caravelle để phổ biến lập trường.

Chánh quyền ông Diệm đã đáp ứng Tuyên ngôn ấy... không phải về phần đòi hỏi sửa đổi chánh sách, nhưng về phần hứng chịu hậu quả tai hại của sự phản đối. Họ bị truy tố về tội “phá rối cuộc trị an” quy định trong bộ Hình Luật Canh Cải của thời Pháp thuộc. Sau một thời gian bị giam cầm và thẩm vấn (có người còn bị tra tấn nữa, trong đó có bác sĩ Huỳnh Kim Hữu) họ được cho tự do tạm, chờ ngày ra toà xét xử.

Bác sĩ Huỳnh Kim Hữu từng là bạn thân của anh thủ lãnh Khương từ thuở còn cùng nhau du học bên Pháp. Ông đến nhờ anh Khương biện hộ. Anh Khương bảo rằng tôi đảm nhận các hồ sơ hình sự trong văn phòng nên giới thiệu ông Hữu cho tôi.

Vóc dáng cao ráo, da dẻ hồng hào, trán cao, miệng rộng, mắt sáng, nụ cười đôn hậu, giọng nói chân thành, nét mặt hiền hoà, tánh tình cởi mở, ông Hữu đã chiếm sự mến phục của tôi ngay từ lúc sơ khởi.

Ông Hữu thuật lại rằng thời ông Diệm còn lưu vong, ông Hữu đã bỏ công việc tại phòng mạch để tích cực hoạt động cho "giải pháp Ngô Đình Diệm". Khi ông Diệm về nước làm thủ tướng, ông Hữu giữ một bộ trong nội các xây dựng quốc gia. Rồi ông đứng vào thế đối lập, gia nhập nhóm Caravelle. Cũng vì đó mà người trước đây được ông tận tâm ủng hộ bây giờ ra lịnh bắt bớ, giam giữ, tra tấn ông. Ông Hữu nhờ tôi khi biện hộ làm sao nói lên hoài bão của ông muốn tiếp tục đóng góp cho quốc gia và sự uất hận của ông đối với chánh quyền độc tài và bội bạc.

Cũng trong vụ này, một bị can khác, ông Trần văn Hương đã can trường nói với luật sư Lê văn Thu được chỉ định biện hộ cho ông: "Luật sư muốn biện hộ thế nào cũng được, nhưng luật sư đừng xin khoan hồng cho tôi, không có vấn đề van lơn gì hết."

Nhứt định dùng phiên xử để làm diễn đàn chánh trị chớ không chịu van xin khoan hồng, những người can trường đó, cũng như Kinh Kha, dầu sa cơ thất thế nhưng cũng đã nói lên được chí khí của mình.

Phiên xử đó kéo dài từ sáng cho tới khuya.

Mặt tiền của Toà Quân Sự nhìn ra bến Bạch Đằng, với bờ sông có những hàng cây đại thọ rì rào trong gió, những bãi cỏ được gìn giữ xanh tươi, giòng sông Sài Gòn trầm lặng trôi, và bên kia bờ là những vườn tược thôn dã xanh um của xóm Thủ Thiêm. Bên ngoài cảnh vật tĩnh lặng và nên thơ. Nhưng trong phòng xử không khí thật sôi nổi, gay cấn. Hơn mười bị can, đa số là những chánh khách nói năng hoạt bát. Người nào cũng có ít nhất là một lụât sư biện hộ. Gần hai mươi luật sư lần lượt đưa ra những lý lẽ, luận cứ giống nhau trong đại cương, nhưng cố gắng khác nhau trong tiểu tiết để gây sự chú ý tránh nhàm chán. Trước giòng thác lũ biện hộ ấy, ông Chánh thẩm nhiều lần ngắt lời các bị can và luật sư, không muốn cho phiên xử kéo dài. Tôi còn nhớ khi luật sư Phạm văn Toàn (đã từng là một thẩm phán cao cấp, về sau ra hoạt động chánh trị) vừa đứng ra biện hộ có mấy câu thì ông Chánh thẩm phán chận lại và nói: "Xin luật sư vắn tắt."

Luật sư Toàn điềm tĩnh và lịch sự mỉm cười nhìn lên ông Chánh thẩm, chậm rãi nói:

- Nếu ông Chánh thẩm hứa tha bổng thân chủ tôi thì tôi xin dứt lời tại đây.

Tòa đành phải để ông tiếp tục biện hộ.

Về phần tôi, tôi suy tính muốn đưa ra một sự biện hộ khác biệt để tránh sự nhàm chán và đồng thời nói lên sự uất hận của ông Hữu đối với ông Diệm, tôi phải dùng điển tích lịch sử để bóng gió ám chỉ chánh quyền ông Diệm thì mới tránh không bị ông Chánh thẩm ngăn chận khi nhận thấy tôi có lời xúc phạm chánh phủ. Trong một phần của cuộc biện hộ, tôi nói đại khái như vầy:

- Cuộc điều tra không đem lại bằng cớ cụ thể nào chứng minh có một sự xách động, xúi giục quần chúng nhằm phá rối cuộc trị an. Rốt lại chỉ có bản kiến nghị gởi đến chánh quyền và cuộc họp báo để các bị can giải thích với dư luận những điểm trong bản kiến nghị đó. Không có sự phá rối cuộc trị an mà trái lại có sự tích cực đóng góp ý kiến với chánh quyền để sửa sai đường lối - chính cái đường lối sai lầm đó của chánh quyền mới là phá rối cuộc trị an, gây nguy hại cho đất nước.

Còn nếu lý luận rằng đưa ra bản kiến nghị và họp báo để giải thích ý kiến đó, khiến dân tâm xao xuyến, là một cái tội, thì cùng lắm đó chỉ là một délit d’opinion (tội phạm vì phát biểu ý kiến) một tội trạng không hề có quy định trong luật pháp của những quốc gia dân chủ tự do.

Đó là về phương diện pháp lý. Về tình lý, tôi xin có đôi lời này: lúc chí sĩ Ngô Đình Diệm bôn ba nơi hải ngoại, bác sĩ Hữu đã bất chấp sự đe dọa của thực dân và những lực lượng thù địch khác, tích cực tranh đấu cho “giải pháp Ngô Đình Diệm”. Sau đó ông Hữu đã tham gia chánh phủ, đối phó với bao nhiêu trở lực trong những  bước đầu tiên xây dựng chế độ. Nhưng về sau, vì sự bất đồng ý kiến, ông đã rời chánh trường trở về với phòng mạch bác sĩ của ông. Ông đã có thể như Nguyễn Công Trứ khi về hưu, ung dung tự tại với cái thú:

Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo

Thảnh thơi thơ túi rượu bầu

Nhưng khi thấy vận nước đảo điên vì những sự sai lầm của chế độ, ông cảm thấy vẫn còn nặng nợ nước nên đã cùng với những người đồng một chí hướng gióng lên tiếng chuông báo động, giúp chánh quyền sửa sai. Đền đáp lại, họ bị bắt bớ, giam cầm, truy tố, căn cứ trên một điều khoản của Bộ Hình Luật Canh Cải, tàn tích của Pháp để lại, điều luật trừng phạt cái gọi là tội phá rối cuộc trị an của chế độ thực dân, chính cái chế độ mà Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông Hữu đã từng cùng nhau sát cánh chống đối.

Thật là một sự mỉa mai! Thật là cả một nỗi uất hận!

Thời Đông Châu, khai quốc công thần Ngũ Tử Tư đã thân bại danh liệt chỉ vì quốc vương say mê Tây Thi và nghe lời bọn nịnh thần. Trước cảnh nước nhà sắp mất, ông uất ức căn dặn người nhà sau khi ông tử tiết phải treo đầu của ông lên cửa thành ngó về phía của đoàn quân nước Việt sẽ tiến đánh. Nhưng điều ấy cũng không làm tỉnh ngộ được Ngô Phù Sai.

Quả nhiên khi nghe nói đến họ Ngô, ông Chánh thẩm vội vã đưa tay ngăn chận: "Luật sư không được nói như vậy". Nhưng tôi đã nói những điều gì mà ông Hữu, và chính tôi cũng muốn nói: ông vua chuyên chế Ngô Phù Sai tức là Ngô Đình Diệm, cung nữ Tây Thi tức là người đàn bà chỉ là vợ của ông cố vấn mà thôi nhưng quyền uy còn lớn hơn các đệ nhứt phu nhân trong một xứ dân chủ, bọn nịnh thần của nhà Ngô ngày xưa tức là lũ gia nô của nhà Ngô ngày nay.

Sau khi nghị án tới khuya, chắc chắn không phải để bàn luận về tình tiết của vụ án mà là để chờ sự quyết định của "bề trên". Toà trở ra tuyên bố tha bổng các bị can. Dĩ nhiên đó không phải là vì lời biện hộ của luật sư.

 

VỤ BÁC SĨ NGUYỄN VĂN MẪN, THỊ TRƯỞNG ĐÀ NẴNG

Tháng 2 năm 1965, sau vụ đảo chính hụt của tướng Lâm văn Phát, Phạm Ngọc Thảo và Nguyễn Bảo Kiếm, các tướng trẻ làm áp lực nên Nguyễn Khánh phải xuất ngoại. Chánh quyền được giao cho bác sĩ Phan Huy Quát. Nhưng sau cuộc đảo chánh hụt của đại tá Bùi Dinh, nội các Phan Huy Quát từ chức và trao chánh quyền lại cho quân đội. Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Uỷ Ban Hành Pháp Trung Ương và thành lập "Nội Các Chiến Tranh". Trung tướng Nguyễn văn Thiệu giữ chức vụ Chủ tịch Uỷ Ban Lãnh Đạo Quốc Gia.

Tướng Kỳ, dưới áp lực của chánh phủ Mỹ để lập một chánh quyền dân chủ mà quần chúng Huê Kỳ đòi hỏi, tuyên bố sẽ trao quyền hành lại cho một chánh phủ dân cử trong thời hạn ngắn. Nhưng sau khi dự hội nghị Honolulu, tin rằng mình được sự ủng hộ mạnh mẽ của Tổng thống Lyndon Johnson, tướng Kỳ không thi hành lời cam kết ấy. Các phe nhóm nổi lên, mạnh nhứt là nhóm Phật Giáo, đòi tướng Kỳ phải từ chức. Sau khi Thượng toạ Thích Tâm Châu ủng hộ chánh phủ của tướng Kỳ, Phật tử chia làm hai khối Ấn Quang và Vĩnh Nghiêm rồi xung đột nhau trong vụ tranh giành Việt Nam Quốc Tự, Thượng toạ Thích Trí Quang ra Huế lãnh đạo cuộc tranh đấu của Phật Giáo miền Trung. Tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lịnh Quân đoàn I, cùng một số đông quân nhân và công chức ủng hộ cuộc tranh đấu ấy đòi phải có Hiến pháp và một chánh quyền dân cử. Bác sĩ Nguyễn văn Mẫn, thị trưởng Đà Nẵng, mặc dầu là người Thiên Chúa giáo, cũng tích cực tham gia cuộc tranh đấu của Thượng Toạ Trí Quang. Tướng Kỳ gạt mời tướng Thi vào Sài Gòn họp rồi bắt giữ lại. Cuộc tranh đấu tại miền Trung càng sôi sục hơn nữa. Tướng Kỳ lại tuyên bố sẽ từ chức sau khi có một Quốc Hội Lập Hiến do sự bầu cử sẽ tổ chức trong vòng 5 tháng. Cuộc tranh đấu của Phật giáo lắng dịu. Nhưng sau đó, tướng Kỳ lại tuyên bố sẽ không từ chức và sẽ cầm quyền ít lắm là một năm nữa. Tranh đấu bạo động lại tiếp tục. Tướng Kỳ, với sự tiếp tay của tướng Nguyễn Ngọc Loan, dùng quân lực đánh dẹp cuộc biến loạn miền Trung, bắt và giải vô Sài Gòn giam một số quân nhân và thường dân trong đó có bác sĩ Mẫn.

Tôi nhận biện hộ vì dầu sao luật sư nào cũng thích được biện hộ trong một vụ án quan trọng. Một lý do nữa là tôi muốn nhân dịp cãi trước tòa mà nói lên sự công phẫn đối với những người nắm vận mạng quốc gia nhưng không từ bỏ mưu đồ bất chánh để thỏa mãn tham vọng cá nhân...

Sau đó mấy ngày, một buổi sáng, tôi đang ngồi tiếp một thân chủ thì người thơ ký vào cho tôi biết “có một ông thầy chùa” muốn gặp tôi. Tôi đoán biết là ai rồi vì Giao có nói Thượng tọa Trí Quang luôn luôn muốn giữ hành tung bí mật. Tôi không kiếu từ ngay người thân chủ đang dở dang bàn công chuyện nên một lúc sau tôi mới bước ra. Có lẽ vì phòng tiếp khách của tôi nhỏ hẹp như một cái hộp quẹt nên Thượng tọa Trí Quang bực bội không tiếp tục ngồi chờ được, ông ra đứng tại góc đường Gia Long và Nguyễn Trung Trực nơi mặt tiền văn phòng. Đó là lần đầu tiên tôi giáp mặt ông sau khi đã thấy ảnh của ông trên báo chí. Ông mặc áo dài màu xám của tu sĩ, đơn sơ, rất sạch và được ủi ngay ngắn. Phong cách của ông tỏa ra một cái gì khác thường (hay là uy tín của ông làm tôi có ảo tưởng như vậy?). Vóc dáng của ông trung bình. Nước da ngăm ngăm. Đầu cạo trọc bóng láng. Nổi bật là cái trán cao, cặp mắt sáng quắc dưới đôi chân mày rậm rạp và cái cằm vuông quả cảm, râu tuy cạo sạch nhưng vẫn lún phún xanh rì từ cằm lên đến mang tai. Tôi chợt có ý nghĩ hóm hỉnh rằng nếu để râu, ông sẽ có bộ râu quai nón như hình của Trương Phi in trong mấy bộ truyện Tam Quốc. Ông đứng thản nhiên mỉm cười một mình, nhìn thiên hạ qua lại. Sau lưng có một chú tiểu cũng mặc đạo phục màu xám. Hai bên, hơi dang ra xa, có hai người thoạt tiên tôi tưởng là hộ vệ của ông, nhưng nhìn thấy vật cộm cộm bên hông của họ dưới chiếc áo chemise bỏ thòng ra ngoài quần tây dài, tôi biết họ là nhân viên mật vụ. Có lẽ quá quen với sự theo dõi thường trực ấy nên ông vẫn ung dung, thỉnh thoảng lại còn cười cười nói nói vài câu với hai công an viên đó như là nói chuyện với người nhà. Thật là một quang cảnh ngộ nghĩnh.

Ông tươi cười bắt tay rồi theo tôi vào văn phòng. Chú tiểu và hai viên công an viên vẫn đứng trước cửa.

Sau câu chuyện vắn tắt, tôi tiễn ông ra trước cửa văn phòng. Người công an viên gọi một xe cyclo đi ngang qua, ông lên ngồi trên xe với chú tiểu, hai công an viên lái xe gắn máy chạy theo hai bên xe cyclo. Tôi cười nhìn theo cảnh ngộ nghĩnh ấy với đôi chút cảm tình trước phong thái giản dị của người mà báo chí có lần so sánh với giáo chủ Makarios.

Phiên tòa xử các bị can trong vụ gọi là “Biến Động Miền Trung” này cũng rất náo nhiệt, phóng viên quốc nội và quốc tế đến theo dõi khá đông. Một diễn tiến tôi còn nhớ là Thượng tọa Trí Quang nhờ tôi đưa một văn thơ của ông cho ông Chánh Thẩm. Để chắc chắn rằng nội dung văn thơ ấy được phổ biến nên trước khi trao, tôi lớn tiếng đọc trước Tòa. Trong thơ, Thượng tọa tuyên bố sẵn sàng ra tòa khai rõ về những việc đã xảy ra tại miền Trung và đảm nhận tất cả trách nhiệm vì chính ông lãnh đạo cuộc tranh đấu ấy.

Dĩ nhiên toà không mời Thượng toạ Trí Quang ra làm nhân chứng để ông không dùng phiên toà làm diễn đàn chánh trị. Còn truy tố ông, nếu "họ" dám làm thì đã làm từ lâu.

Dầu sao, tôi cũng sử dụng lời lẽ trong văn thơ đó trong sự biện hộ của tôi.

Được toà trao lời, tôi trình bày đại khái như sau:

Điều hiển nhiên là các bị can tranh đấu đòi phải thành lập Quốc Hội Lập Hiến, Quốc Hội này thảo Hiến Pháp làm nền tảng pháp lý cho các cơ quan lãnh đạo quốc gia thành hình sau một cuộc bầu cử. Không ai có thể bảo rằng đòi hỏi ấy là yêu sách không chánh đáng, bất hợp pháp. Chính những người tìm cách lẩn tránh, không chịu đáp ứng sự đòi hỏi ấy, mới là người hành động bất chánh.

Trong tình thế của miền Nam này sự đòi hỏi ấy còn cần thiết hơn nữa. Cần thiết trong cuộc tranh đấu một mất một còn với cộng sản độc tài; lợi khí sắc bén của chúng ta là chánh nghĩa dân chủ, tự do. Cần thiết đối với quốc tế để nêu cao uy tín của Việt Nam Cộng Hoà và tranh thủ sự ủng hộ tích cực của các đồng minh trong thế giới tự do. Cần thiết đối với chính dân chúng trong nước để có một chánh nghĩa xứng đáng với sự tranh đấu và hy sinh của họ.

Dưới chế độ Ngô Đình Diệm ít ra còn có một hình thức dân chủ - tôi xin nói rõ: hình thức; nội dung ra sao ai cũng biết. Nhưng sau chế độ ấy, người ta thấy những gì?

Từ ba năm nay, 1964 đến 1966, không có một Hiến Pháp do Quốc Hội Lập Hiến soạn thảo, không có những cơ chế dân cử. Năm 1964 có cái quái thai gọi là Hiến Chương Vũng Tàu, chỉ 10 ngày sau, vì có sự phản đối mãnh liệt của quần chúng đã phải bị huỷ bỏ. Ngoài cái hiến chương đoạ thai ấy, không! - không có gì hết! Chỉ có những quân nhân cao cấp lên nắm chánh quyền sau những biến động quá nhiều đến nỗi phải đặt nhiều danh xưng cho đỡ nhàm chán: cách mạng, chỉnh lý, đảo chánh, biểu dương lực lượng. Biến động không phải là bầu cử tự do, không thể tạo nền tảng pháp lý của chánh phủ được.

Trong cuộc đấu tranh cho chánh nghĩa, các bị can đã bị dồn trong bước đường cùng. Họ không có cuộc bầu cử để lập một Quốc Hội và những cơ chế lãnh đạo khác đúng với nguyện vọng chánh đáng của họ. Họ không có một khuôn khổ hợp hiến, hợp pháp, để tranh đấu cho lập trường của họ. Họ chỉ còn một con đường bạo động tranh đấu cho lý tưởng dân chủ và tự do của họ. Đó không phải là một cái tội.

Nếu đó là một cái tội thì tại sao Thượng toạ Thích Trí Quang, người lãnh đạo sự tranh đấu ấy, người đã gởi văn thư xác nhận phân minh trước quý toà rằng ông lãnh đạo sự tranh đấu, lại không bị truy tố?

Người lãnh đạo, kẻ chủ mưu không bị truy tố thì tại sao những người chỉ có đi theo sự lạnh đạo ấy lại bị truy tố?

Tôi xin quý tòa tha bổng các bị can.

Tôi không nhớ rõ tòa tha bổng bác sĩ Mẫn hay chỉ phạt một án tù không quá thời gian ông bị giam cầm. Nhưng tôi nhớ là ông đã được trả lại tự do sau phiên xử vì mấy ngày sau đó Thượng tọa Trí Quang gởi thơ cho biết các bị can đã đến chùa chào ông. Ông cám ơn tôi và mời tôi khi nào rảnh rỗi tới Ấn Quang để trước là viếng chùa cho biết và sau nữa là đàm đạo với ông...

Mấy tuần sau, vì hiếu kỳ, tôi đến chùa Ấn Quang. Trong phần làm chỗ trú ngụ của các vị đại đức và thượng tọa, đi trong hành lang qua những căn phòng của những vị ấy, cửa mở trổ ra hành lang, tôi thấy các thiện nam tín nữ xôn xao, rộn rịp ra vào, nói cười. Phòng của Thượng tọa Trí Quang ở riêng biệt nơi cuối hành lang. Mấy thước trước khi tới đó có một chú tiểu ăn mặc sạch sẽ chỉnh tề ngồi tại một cái bàn nhỏ để đón khách, hay đúng ra là để ngăn chận những người không có phận sự không được tới, vì tôi thấy chỗ đó hoàn toàn vắng lặng.

Sau khi vào trình với Thượng tọa, chú tiểu trở ra mời tôi vô phòng, Căn phòng có vẻ rộng hơn phòng của các tu sĩ kia đôi chút và rất sạch sẽ ngăn nắp, gạch bông đen trắng được chùi láng bóng, sách vở sắp xếp ngay hàng thẳng lối. Ông cũng mặc áo dài màu xám như lúc đến văn phòng tôi, sạch sẽ và ngay ngắn. Trong phòng chỉ có một mình ông. Không khí thật trang nghiêm tĩnh lặng.

Hai bên nói chuyện sơ lược về vụ án đã qua và về thời sự. Ông than phiền người ta đồn ông thân Cộng và chống Mỹ. Ông nói chủ tâm của ông là bảo tồn văn hóa, nền nếp cổ truyền và đạo đức của xử sở để không bị cộng sản vô thần hủy diệt và văn minh vật chất của Âu Mỹ làm cho bại hoại. Theo phép lịch sự, hay là vì không muốn nói thêm nữa về mình, ông xoay qua hỏi tôi về nghề luật sư và những vụ án tôi đã biện hộ. Tôi nói sơ lược một chút rồi đứng dậy kiếu từ vì thấy chú tiểu gõ cửa rồi nhìn vào để ngầm cho biết là có người đến gặp Thượng tọa.

Đó là lần thứ nhì và lần cuối cùng tôi gặp Thượng tọa Trí Quang.

Tôi không biết con người khó hiểu đó có phải là Việt Cộng nằm vùng hay là kẻ thân Cộng hay không. Đối với tôi về điểm này vẫn còn sự thắc mắc vì tôi không nghe nói ông ra mặt hoạt động hay giữ chức vụ gì của Cộng sản sau năm 1975 như ni sư Huỳnh Liên chẳng hạn, và lại có tin đồn rằng ông bị Cộng sản giam giữ.

 

Võ Văn Quan



ĐẦU HÀNG

Tác giả: Vân Xưa

Trích từ: Lột Mặt Nạ Những Con Thò Lò Chính Trị

Nhà Xuất Bản Việt Nam, San Diego, California, 1991

 

Rảnh rỗi mấy tháng ở Úc, thừa thì giờ nên đọc tập hồi ký Bên Giòng Lịch Sử của linh mục Cao văn Luận viết từ hai mươi mấy năm trước, để tán dương Ngô Đình Diệm, sau khi ông Diệm bị lật đổ. Chưa hề xem, nên xem thử một lần.

Vân Xưa quen biết ông Luận nhiều, từ 1949 đến 1954, ở Huế. Ông được giới thiệu là một tu sĩ Thiên Chúa giáo tiền tiến, du học từ trước 45, rồi hành đạo nhiều năm ở Pháp, sau đó, năm 48/49 về nước, phục vụ tông đồ và xứ sở. Vân Xưa kém linh mục quãng mười tuổi, nên trọng ông như thầy, và đãi nhau như bạn, Cùng một ưu tư về tương lai đất nước, cùng chưa rơi trong vòng thế lợi, thành ra dễ thông cảm với nhau.

Nhưng đến 54, vì chọn lựa khác nhau nên chế độ Ngô Đình Diệm đã ngăn cách đôi bờ, không còn dịp gặp nhau đến một lần, trong suốt chín năm ông Luận phục vụ ông Diệm, trong tư thế cố vấn, ở địa vị Viện trưởng viện Đại học Huế. Tháng 12-63, gặp lại nhau một lần duy nhất, trong bữa cơm một luật sư bạn chung thết, để tiễn ông Luận lên đường sang Hoa Kỳ. Cố nhiên phải đề cập tới chuyện ông Diệm bị lật đổ. Vân Xưa nửa đùa, nửa thực, khen: linh mục thay đổi nhanh và kịp thời quá! Rồi thôi, cho đến khi ông mất trong năm qua, chẳng còn gặp lại nhau nữa, và cũng chẳng buốn xem hồi ký ông cho ấn hành nhiều lần, từ năm 67 thì phải.

Ở Úc quay về Pháp, Quê Mẹ cho xem hồi ký Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, tướng cũ Đỗ Mậu mới xuất bản. Xem mất ba ngày.

Vân Xưa có biết ông Mậu, cũng ở Huế, nhưng không quen nhau như với ông Luận, không hề là bạn với nhau. Cả đời gặp nhau có hai bận. Bận trước, năm 1954, ba mươi ba năm trước đây, trong một cuộc hội thảo, cả hai cùng tham dự, giữa một số trí thức cố đô, theo yêu cầu của Ngô Đình Nhu, để đưa ra một đường lối cầm quyền mới cho chính phủ ông Diệm sắp thành lập. Đóng góp của Vân Xưa về vấn đề "Nam kỳ cũ" có vẻ được ông Mậu chú ý, nên sau ba ngày xong công việc, trong cuộc rượu kết thúc cuộc hội thảo, ông Mậu mang ly đến gần, nói vài lời ân cần ngỏ ý muốn làm quen với nhau. Rồi cũng hệt như Linh mục Luận, chế độ Diệm đã ngăn cách, vì chọn lựa khác nhau. Có khác chăng là ông Mậu không phải bạn, như ông Luận, nên không còn đi lại với nhau cũng là chuyện thường.

Bận thứ hai, mà cũng là sau cùng, hai mươi lăm năm trước đây, vài tuần lễ trước ngày 1-11-63. Ông Mậu đến tìm, để bàn với Vân Xưa việc quân đội định đảo chánh ông Diệm. Với một người không phải là bạn, chỉ gặp nhau có một bận, chín năm trước, ông Mậu, đang cầm đầu ngành An Ninh Quân Đội, không ngần ngại gặp lại một lần thứ hai để nói chuyện âm mưu chết sống ấy của mình, quả thật ông đã gan tày liếp!

Không rõ có phải ông Mậu nhớ đến phần đóng góp của Vân Xưa, trong cuộc hội thảo ở Huế chín năm trước, để không ngại tiết lộ âm mưu của mình với một người trong đời mình nay mới gặp lần thứ hai, và sau đó không còn gặp một lần nào khác.

Trong phần đóng góp ấy, Vân Xưa nêu vấn đề “Nam Kỳ cũ”, ghi nhận đất đai và dân tình ở đây là điều kiện tiên quyết cho tương lai của chế độ Sài Gòn, trong hoàn cảnh đất nước qua phân: Miền Nam thắng hay bại, tùy thuộc quần chúng Nam kỳ cũ, tùy thuộc ở dân quê miệt vườn, trí thức thành thị, anh em kháng chiến quốc gia, và các giáo phái, chứ không phải tùy thuộc hoàn toàn ở cá nhân người lãnh đạo chính quyền quốc gia.

Có lẽ ông Mậu, lúc bấy giờ, đã nhận ra được nguồn cơn thất bại và sụp đổ của chế độ nhà Ngô, nên đã không ngại lậu chuyện mà cả gan tìm đến người chín năm trước đã từng nêu rõ cái lẽ mất còn này của miền Nam chăng? Ông Mậu còn đó, chắc có thể trả lời cho câu hỏi này, về tâm sự hai mươi lăm năm cũ của ông chăng?

Cuộc đảo chánh thành tựu, có tiếp tục liên lạc với nhau trong hai tháng liền, qua trung gian, rồi thôi. Cho đến nay, cùng ly hương, nhưng mỗi bên một ngả, và nay được xem “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi”.

1950-1954-1963-1975, Cao văn Luận cũng như Đỗ Mậu đều là những người của thời cuộc. Hơn nữa, những người đã làm thời cuộc. Viết hồi ký là chuyện họ phải làm. Vân Xưa được xem những gì mỗi người hồi ký, thấy có bổn phận trình bày bạn đọc mục mình đảm trách, cảm nghĩ về những gì đã xem.

 

Ở Úc, đọc hồi ký của một người, dù sao cũng đã từng là bạn, Vân Xưa thấy ngao ngán cái tinh thần Ngô Đình Diệm Linh mục Cao Văn Luận nêu cao trong Bên Giòng Lịch Sử, như sau:

“Những ai từng có địa vị, vai vế trong nền Cộng Hòa Nhân Vị đều mang ơn nặng được ông Diệm đưa từ bóng tối ra ánh sáng, cho nên kẻ đã lật đổ ông Diệm đều thuộc hạng phản chủ, phản thầy”

Thì ra ông, ông Linh mục thấm nhuần nhân vị tính của nền Cộng Hòa Ngô Đình Diệm, đã hồi ký cho mọi người là chế độ nhân vị này chỉ gồm toàn đầy tớ, học trò của ông Diệm, một bọn người chỉ biết gọi dạ, bảo vâng! Không còn chịu dạ, chịu vâng, mà lại lật đổ thầy mình, chủ mình, thì chỉ là một bọn phản chủ, phản thầy.

Cộng Hòa: chế độ chủ và thầy. Nhân vị: một bọn học trò, tôi tớ!

Linh mục Luận biết mình cũng chỉ là một đầy tớ và học trò của ông Diệm, như mọi người khác đang phục vụ nhà Ngô, theo định nghĩa của chính ông, vì ông cũng là người đã từng được ông Diệm đưa từ bóng tối ra ánh sáng. Nhưng trong thâm tâm, Linh mục Luận hẳn muốn người xem hồi ký liệt linh mục nằm ngoài bọn người phản chủ, phản thầy này. Tuy có một giai đoạn, dù chỉ vài năm, sau ngày 1-11-63 và trước khi viết hồi ký, ông phô trương việc ông đã góp phần lật đổ chế độ Diệm, trong tư cách Viện trưởng Đại học Huế (xin xem phát biểu của ông Viện trưởng về biến cố tháng 11-63, trữ ở Viện Đại học Huế). Việc chống đối này quả có thực, ông linh mục có tự hào hành động chống đối ông Diệm cũng đúng. Niềm tự hào ấy đã cho Vân Xưa được cơ hội khen đùa ông:Linh mục biết thay đổi nhanh và kịp lúc. Nhưng bước qua năm 1967, trong không khí phục hồi Công giáo Cần lao, danh dự lật đổ chế độ Diệm đã trở nên nặng nề, hai vai nhà tu có lẽ không mang nổi nữa, ông Luận bèn viết hồi ký, để một lần nữa trở mình cho kịp lúc.

Chắc hẳn ông linh mục đã xếp tên Đỗ Mậu vào bọn người phản bội, (trong đó ông linh mục không còn muốn có tên mình). Cũng đúng thôi: đối với ai lấy cái tinh thần Ngô Đình Diệm, theo định nghĩa Cao văn Luận, làm một giá trị nhân vị cao cả, như những người hiện nay đang hô hào phục hồi tinh thần Ngô Đình Diệm, thì Đỗ Mậu, thoát sao khỏi là kẻ phản chủ, phản thầy.

Nhưng đối với nhân dân miền Nam, trong đó có Vân Xưa, thì lại khác: Người miền Nam đã reo mừng suốt ba ngày liền khi nhà Ngô sụp đổ, nghĩa là đã nhìn "bọn phản chủ, phản thầy" theo quan niệm nhân vị của Linh mục Luận, và trong bọn đó có Đỗ Mậu, là những người con xứng đáng của đất nước, đã biết thoát ly tập đoàn phản dân, hại nước, lúc bấy giờ đang hoành hành.

Từ trong tập đoàn phản dân hại nước này, Linh mục Luận năm 1963 từng cho biết mình đã thoát ra (trong bữa ăn Vân Xưa nhắc đến ở phần trên) như Đỗ Mậu và cùng Đỗ Mậu. Nhưng đến 1967, khi bọn Cần Lao Nhân Vị nép sau lưng chính quyền Thiệu/Kỳ, lại tiếp tục hoành hành, Linh mục Luận hồi ký quay vào không như Đỗ Mậu và không cùng Đỗ Mậu.

Người tu sĩ Thiên Chúa giáo bác học và tiên tiến này, đã từng nhiều năm, trước 54, là bạn của Vân Xưa, đã từng là quân sư của ông Diệm, đã từng là Viện trưởng Đại học, lại chưa vượt qua được tầm mức văn hoá phong kiến! Đáng tiếc: học thức thật không hẳn là kiến thức! Trong một lần trước ở mục này, Vân Xưa đã bàn đến cái bản chất hoàn toàn thiếu nhân vị của một nền Cộng Hoà mệnh danh là Nhân Vị, mà Linh mục Luận đã nêu làm tinh thần Ngô Đình Diệm, và thờ như là một giá trị tinh thần tuyệt đối.

Về Pháp, lại đọc hồi ký này, của một người chưa từng là bạn, "ít học và dốt nát" (chữ ông Đỗ Mậu dùng cho chính ông), Vân Xưa nhận ra một điều: không đợi phải gặp nhau mới thực là bạn. Đúng như câu Tỳ bà hành Ỷ Lan lúc sang Úc, đã trích ghi, khi tặng Vân Xưa tập Gọi thầm giữa Paris của Võ Văn Ái: cùng một lứa bên trời lận đận, gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.

Đỗ Mậu viết: “Nói cho cùng thì có phải chỉ mình Dương Văn Minh đầu hàng đâu, những kẻ bỏ nước ra đi trước hay sau ngày 30 tháng 4 cũng là những kẻ đầu hàng. Kẻ đã có lần sát cánh với Dương Văn Minh (tức Đỗ Mậu) mang hoài bão thay đổi một cuộc cờ nay phải sống xa lìa cố quận cũng là kẻ đầu hàng, cũng gởi tâm sự cho chim ngàn cá biển”.

Và, nhắc đến trách nhiệm trước lịch sử đối với hiện tình đất nước, ông Mậu ghi thêm: “Ai là người không có tội”.

Xem đến đoạn vị tướng cũ “thất học”, khiêm tốn nhận mình cũng là người có tội, và chia cả “Cái tội đầu hàng kẻ thù” với người bạn đồng đội Dương Văn Minh của mình, tuy không ai buộc, Vân Xưa thấy ngượng cho ông cố linh mục “bác học”.

Ông linh mục đã cố đem hết sức học quảng bác của mình để hồi ký cái tội “phản chủ, phản thầy”, cái tội, nếu quả là tội, chính mình cũng phạm, trút lên đầu người khác, những người trước đó mình đã một thời minh bạch chia chác với họ công lao chống một chế độ phản nước hại dân! Trong khi ấy ông Đỗ Mậu “thất học dốt nát”, không hiện diện ở Sài Gòn hôm “Dương Văn Minh đầu hàng kẻ thù”, vì đã ly hương trước, lại tự buộc mà không ai gán cho mình cái tội đầu hàng người ta đang tròng vào cổ Dương Văn Minh, để thẳng tay nguyền rủa.

Nghĩ cũng tội cho học vấn! Ở một nhà tu, học vấn chỉ đưa đến cho ông Luận một học thức quảng bác ít ai có, và Đỗ Mậu thì nhất định không có rồi, nhưng lương tri ông không tác dụng được trên cái vốn học thức ấy để hoàn bị kiến thức mà kết hợp cho ông một ý thức nhân bản hoàn chỉnh. Thành ra, cũng một việc chính ông đã làm, và đã nói cho người khác biết (nếu Vân Xưa không phải là người duy nhất được nghe ông) là mình đã làm, việc làm ấy hôm trước ông xem là danh dự, nên muốn ai cũng biết ông đã làm, hôm sau người có quyền lực ngầm bảo là tội ác, ông vội vàng kể tội ác ấy cho người khác, để thiên hạ trong nước tưởng là ông không hề làm!

Có lẽ nhà tu này không bận tâm mấy về chuyện danh dự, hay, chuyện tội ác. Mà bận tâm hơn về chuyện thế lợi. Hôm qua, lật đổ ông Diệm là một danh dự, ông linh mục chia cái danh dự ấy để hưởng lợi. Hôm sau, lật đổ ông Diệm là tội ác, ông linh mục bèn gán cái tội ấy lên đầu người khác, để khỏi mất phần thế lợi dành cho những ai đã trung thành với chủ cũ. Thế lợi đã làm ông linh mục quên sống đạo của ông chăng? Việc hôm trước mình cho là phải, nên mình làm, nếu hôm nay mới thấy rõ là quấy, thì con Chúa đi xưng tội để được giải tội, không đổ vấy cho ai khác để chạy tội!

Thảo nào thầy Mạnh cứ nói đi nói lại mãi cái chuyện lương tri. Đạo Khổng đặt lương tri lên trên hết các khả năng của mỗi người để thể hiện con người trong bản thân thành thực với chính mình là căn bản của lương tri. Chúa Jesus không dạy chỉ khác hơn, khi dặn: có muốn ném đá vào người, hãy xem mình có cùng tội với người mình định ném đá hay không, trước đã. Khi lật đổ ông Diệm là một công lao, ông linh mục chia công lao ấy với những người như ông Đỗ Mậu. Khi lật đổ ông Diệm là một cái tội, ông linh mục gán cái tội ông đã phạm ấy để 'ném đá" vào những người như ông Mậu, hòng chạy tội của mình, bằng ngôn ngữ đạo hạnh của một quan toà buộc tội người khác! Kể cũng tiện.

Đã bận tâm về thế lợi thì Linh mục Luận, trước sau cũng vẫn chỉ thuỷ chung với thế lợi, đâu có dốt nát đến nỗi tự buộc mình vào cái tội "đầu hàng" để chia với Dương văn Minh những lời nguyền rủa. Chỉ có người "quê mùa dốt nát" như ông Mậu mới hồi ký nhận tội mình trước lịch sử, và chia với Dương văn Minh cái tội mà một số người đang phỉ nhổ! Một sự phỉ nhổ không dấu nổi dụng ý, và bài này dùng nguyên tắc chính danh để lột trần.

Cho nên hôm nay "Người Việt Tiếng Việt" bàn về từ ngữ Đầu hàng. Gọi là để ghi nhận "tấm lòng Đỗ Mậu" đã thuỷ chung với chính con người mình.

 

***

Quay về phân tích ngôn từ là tâm cảnh trong mục này, bạn đọc quen rồi với giới hạn đã định, không phải nhắc lại nữa.

Ngôn từ và các loại tâm cảnh được phân tích xong, bạn đọc mỗi người mang nhận định riêng ứng dụng vào quan điểm xử thế của mình, thế này thế khác, để có một thái độ của mình, một thái độ chính trị mình chọn lựa lấy. Đấy là việc của người đọc, không phải của người viết. Người viết chỉ giữ công việc chính danh, để vạch chỗ tâm cảnh và ngôn từ dùng để diễn đạt tâm cảnh, có hoàn cảnh khớp hay không khớp vào nhau, hòng giúp bạn đọc tránh chuyện xử thế lầm lẫn… Vua ra vua, cha ra cha… như lời thầy Khổng.

Ngôn từ phân tích hôm nay là Đầu hàng. Bạn đọc mục này hãy cùng Vân Xưa, như thường lệ, tìm vào các loại tâm cảnh của đồng bào trong nước lúc Dương văn Minh đầu hàng Cộng Sản ở sảnh đường dinh Độc Lập trưa ngày 30-4-1974, để xem hai chữ đầu hàng khớp hay không khớp với tâm cảnh nào, rồi chính danh cho mỗi loại tâm cảnh.

 

1. Thoá mạ để chạy tội: Dương văn Minh đã đầu hàng Cộng Sản

Gần mười hai năm nay, kể từ 30-4-75, tướng cũ Dương văn Minh được xem là người đã đầu hàng Cộng Sản.

Ở nước ngoài, đồng bào di tản đến đâu, Dương văn Minh được chỉ danh đến đấy là người đã phản bội đất nước, phản bội dân tộc, vì đã đầu hàng Cộng sản.

Không phải những người liều mình vượt biên, vượt biển, lìa bỏ quê hương, sau ngày Dương văn Minh đầu hàng, đã lên tiếng thoá mạ tướng cũ này như thế. Những thành phần di tản lại là mục tiêu mà âm mưu thoá mạ Dương văn Minh nhắm vào. Người ta áp dụng định luật Pavlov, chủ ý tạo cho đồng bào tị nạn các điều kiện tâm lý hướng dẫn, để cho mỗi khi nghe đến tên Dương Văn Minh liền phản xạ là ông Minh đã đầu hàng Cộng Sản.

Đây là âm mưu của cả một tập đoàn, hai mươi năm trước ngày Dương Văn Minh đầu hàng, đã liên tục nắm giữ quyền chính để mưu lợi riêng, lũng đoạn quốc gia, để rồi miền Nam không thoát được tay Cộng Sản.

Cho đến khi không còn hy vọng tiếp tục vơ vét thêm được nữa, tập đoàn này đã phân tán chạy như một bầy chó đạp phải lửa, hối hả tháo thân cho kịp trước ngày Sài Gòn sụp đổ. Để lại an hưởng tài sản đã thụ đắc năm này qua năm khác, lúc cầm quyền trong nước, trên xương, trên máu, của lính, của dân, mà tiếp tục cuộc sống đế vương ở nước ngoài. Cố nhiên nay ra nước ngoài, bọn họ thừa tài sản, thừa học thức, thừa bộ hạ tay chân, thừa phương tiện. Chỉ thiếu có liêm sỉ, nên không ngần ngại sử dụng đủ mọi thứ mánh khóe, kể cả mánh khóe văn hóa, báo có, sách có, để hài cái tội đầu hàng của Dương Văn Minh.

Một cách để nói mà không phải nói là: bọn họ vô tội, không phản bội đất nước, vì không đầu hàng, như Dương Văn Minh (bởi đã trốn kịp ra nước ngoài). Chỉ Dương Văn Minh là kẻ đã bán đứng miền Nam cho Cộng Sản.

Ở trong nước, không cần phải nói, ai không biết tướng Dương Văn Minh đã đầu hàng, đã trao quyền chính miền Nam cho phe Cộng Sản, trưa ngày 30 tháng 4.

Biết rõ như thế, nên quần chúng miền Nam đã cám ơn ông: trong con mắt nhân dân miền Nam, Dương Văn Minh là con người anh hùng ngay cả trong giờ phút đất nước sụp đổ, con người đã kề vai gánh trọn sự sụp đổ của cả một dân tộc lên người mình, hòng tránh cho nhân dân Sài Gòn khỏi phải thảm sát.

 

2. Cội nguồn sụp đổ miền Nam: chán ghét chế độ chiến tranh, thờ ơ trước thế cuộc.

Lúc Quốc hội Mỹ không chấp nhận viện trợ thêm 700 triệu Mỹ kim cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, mọi người đều biết giờ sụp đổ của chế độ Sài Gòn đã điểm.

Sau biến cố Bình Long thất thủ, Pleiku, Kontum bỏ ngỏ tháng 1 và 2-75, sang tháng 3-75, lần lượt Huế mất, ngày 25, Đà Nẵng mất ngày 29. Sau khi chiếm được Đà Nẵng, Hà Nội thấy phải đánh gấp vào thủ đô miền Nam, để Sài Gòn không kịp chuẩn bị đương đầu, nên đã ra lệnh làm ngơ vùng duyên hải, giao Trần Văn Trà và Phạm Hùng tập trung lực lượng ở Lộc Ninh, sát nách thành phố, gởi Văn Tiến Dũng vào Nam cùng tổ chức tấn công Sài Gòn. Và Lê Đức Thọ vào tiếp để lãnh đạo chiến dịch, về sau được gọi là chiến dịch Hồ Chí Minh, do bộ ba Văn Tiến Dũng, Phạm Hùng, Trần Văn Trà chỉ huy.

Các tỉnh vùng duyên hải, sau Đà Nẵng, không còn là mục tiêu chính của Cộng Sản. Cán cân lực lượng gồm người, vũ khí, phương tiện, nghiêng hẳn về phía Cộng Hòa, nên Hà Nội phải dồn tất cả sức mạnh hạn chế của mình ở miền Nam để đánh thẳng vào Sài Gòn.

Thế nhưng lần lượt, sang đầu tháng 4-75, thành phố Nha Trang, rồi Phan Rang, Phan Thiết, Hàm Tân, Bình Tuy đã rụng như sung vào miệng Cộng Sản.

Đây là hiện tượng mọi người ghi nhận: quân dân miền Nam đã tự thất thủ.

Nhắc lại lịch trình sụp đổ, không phải để nói chuyện thời cuộc, chuyện chính trị, chuyện quân sự, đã xảy ra trong hai tháng 3 và 4-75 ngắn ngủi, nhưng rất tai hại cho đất nước. Mà là để phơi bày cặn kẽ nguồn cơn của một sự sụp đổ vẻn vẹn chỉ trong vòng hai tháng. Nguồn cơn của hiện tượng tự thất thủ nằm trong tâm cảnh quần chúng miền Nam, trong tâm cảnh quân đội cộng hòa. Tâm cảnh phức tạp và đa dạng của quân nhân, đồng bào miền Nam, đã là động cơ đưa đến sự sụp đổ mau chóng của một tổ chức nhà nước, gần hay mươi năm liên tục, nằm trong tay bao thầu của một tập đoàn lãnh đạo chóp bu, không gốc, không rễ trong lòng dân tộc.

Tâm cảnh chung của toàn thể đồng bào từ lâu rồi đã chán chiến tranh vì thù ghét một chế độ cộng hòa giả hiệu, hết phong kiến đến quân phiệt, mà người Mỹ đã không thương tiếc phương tiện dựng nên, để chống Cộng bất chấp quần chúng trong nước. Cứ nhìn quang cảnh, đầu năm 73, lúc bắt đầu thi hành thỏa hiệp đình chiến cũng rõ. Nói cho thật gọn, mà cũng thật đúng, quân dân miền Nam không còn một chút tin tưởng nào ở chính quyền do các ông tướng Thiệu/Kỳ bám chặt, binh sĩ miền Nam không còn gắn bó với quân đội do các ông tướng Khiêm/Viên khống chế.

 

3. Tâm cảnh riêng của anh em quân nhân binh sĩ Cộng Hòa: chán chiến tranh.

Hai mươi năm quân dân miền Nam chịu đựng cảnh người Mỹ bao che bất tài, bất công, tham nhũng, bè phái, của một “chí sĩ” lạc hậu và phong kiến, và nằm trong tay quân phiệt tiếp theo sau. Tất cả đều nhân danh đủ mọi thứ giá trị tinh thần tốt đẹp, trừ sự ngay thẳng, trừ ý thức trách nhiệm trước lẽ sống còn của quê hương đất nước.

Nhằm mục đích chế ngự các thế hệ đang trưởng thành, không để cho thanh niên sinh viên học sinh rảnh tay phát động phong trào chống đối, nhà Ngô từ các biến cố tháng 11-60, tháng 2-62, cho đến tháng 11-63, rồi Thiệu/Kỳ từ 1967, đã dùng biện pháp động viên để ngăn chận. Người ta lùa vào các quân trường lớp sinh viên học sinh mà lựu đạn cay, giây thép gai, không ngăn được họ biểu tình phản đối vụ ông Diệm đàn áp Phật giáo, phản đối Thiệu/Kỳ âm mưu hồi sinh Cần Lao Công Giáo. Để khi họ tốt nghiệp, dùng quân kỷ mà giam lỏng lớp trẻ có học vấn cao vào hàng ngũ các chỉ huy cấp thấp của quân đội.

Lớp chỉ huy cấp thấp ấy, lớp chuẩn úy, thiếu úy, đại úy ấy, đã mang vào hàng ngũ anh em binh sĩ vốn liếng trí thức và những nhận xét thiết thân về thời cuộc, rất sắc bén của họ. Hằng ngày họ cùng chia với anh em binh sĩ một ý thức mới, một cái nhìn khác, về xã hội, về chế độ, về lịch sử, về lãnh đạo, về chỉ huy, về tình trạng áp bức bất công mà toàn thể anh em binh sĩ đang là nạn nhân. Chính lớp sĩ quan cấp thấp này, vừa trẻ, vừa có học thức, được anh em binh sĩ mến chuộng, vì biết tận tụy lo lắng cho anh em, đã gây cho binh sĩ trong đơn vị họ chỉ huy, một tinh thần chiến đấu chống bất công, bất kể từ đâu đến. Tất cả dần dà kết hợp nên một thành phần quân đội biết nhận ra chân tướng của bọn đang thao túng xã hội, thao túng binh sĩ, nhận ra giá trị thực sự của quân nhân, từ đó họ liền đới với nhau trong một tình cảm huynh đệ.

Họ chống Cộng, nên chịu đựng. Chịu đựng trong hy vọng sẽ trưởng thành trong quân đội, sẽ cùng một số thượng cấp trong sạch, có tư cách, có tinh thần trách nhiệm, phối hợp thành một sức mạnh để từ các binh chủng và một lúc nào đó thuận lợi, làm áp lực chính trị mà cải thiện quân đội, chế độ và xã hội. Vì họ biết quân đội là cột trụ của chế độ, nên người Mỹ quyết tâm giữ cho lớp tham nhũng cầm đầu, để dễ sai khiến.

Một Hà Thúc Nhơn vì chống tham nhũng, bị giới tham nhũng giết ở Nha Trang, một Phạm Văn Lương, mở chốt lựu đạn ngồi trước thềm Quốc hội chống cường quyền, đã là những điển hình tâm cảnh chán chường của thành phần quân nhân thanh niên và học thức này trong quân đội.

Đến một lúc nào đó, họ nhận ra các đàn anh họ trong quân đội đành cũng bó tay trước sự ngu muội của người Mỹ, cho rằng chống Cộng chỉ cần có một bọn tay sai nắm trọn quyền binh, mà không cần đến quần chúng nhân dân trong nước. Tướng “ngồi chơi xơi nước” Dương Văn Minh điển hình tình trạng bó tay này. Cho nên dần dà tâm cảnh buông súng đã manh nha ở lớp sĩ quan trẻ.

Trong tâm cảnh buông súng, các sĩ quan cấp thấp, thuộc các lớp thanh niên bị động viên, đã chỉ huy binh sĩ của họ để đánh một trận oai hùng ở Xuân Lộc với tướng Hưng, tỏ ra dũng cảm của một thế hệ trẻ không vươn lên được trong hàng ngũ quân đội Cộng Hòa.

Kỳ dư, họ bỏ mặc cho anh em binh sĩ dưới quyền tan hàng, từ chối chiến đấu, sau khi Bình Long thất thủ: Do đó, từ Huế vào Bình Tuy, không phải Cộng quân đã chiến thắng, mà binh sĩ Cộng Hòa đã buông súng, và nhân dân miền Nam đã như nước vỡ bờ, phó mặc tương lai cho một định mệnh Ngô Đình Diệm rồi Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, dựa trên những người Mỹ mù quáng, dựa trên Công giáo Cần Lao, đã suốt hai mươi năm xếp đặt sẵn cho miền Nam.

Xuân Lộc: bằng chứng của một quân đội dũng cảm quyết tâm tự thất thủ vì ghét tham nhũng, chán chiến tranh.

 

4. Tâm cảnh của quần chúng: thờ ơ

Năm 1954, lòng ham chuộng hòa bình được thỏa mãn, tuy đất nước xẻ đôi, quần chúng trong nước cũng đành lòng, để hành xử quyền được lựa chọn: hoặc sống ở miền Nam quốc gia để xây dựng một xã hội tự do, hoặc ra miền Bắc làm cách mạng với Cộng Sản. Quyền chọn lựa ấy được thực hiện cụ thể. Gần một triệu đồng bào rời bỏ đất Bắc quê hương, vào nương náu ở miền Nam, mong tìm một đời sống có nhân tình. Nhưng đồng bào Bến Nghé, Đồng Nai, chẳng có mấy ai chọn lựa theo Cộng Sản ra Bắc. Trừ các cán bộ trung kiên, không kể gốc Nam, gốc Bắc.

Tất cả người sống ở miền Nam đều đã chọn lựa tự do, không ai chối cãi được, kể cả bọn Cộng Sản mồm loa mép giải đã quen.

Trong tinh thần chọn lựa ấy, đồng bào di cư được đùm bọc đến nơi, đến chốn. Cũng không ai chối cãi được sự kiện này, khi các khu trù mật Vị Thanh, Cái Sắn, được thiết lập riêng cho người di cư mà không hề gây một xúc động tranh ghét nào của đồng bào tại chỗ.

Trong tinh thần chọn lựa ấy, dân chúng đất cũ Nam Kỳ đinh ninh đã đến lúc cùng tất cả các thành phần nhân dân miền Nam xây dựng và mở mang phần đất đã cùng nhau chọn để mà sống với nhau trong tự do. Cũng không ai chối cãi được sự kiện này: quần chúng Nam kỳ cũ không hề hùa theo các giáo phái để chống chính quyền Ngô Đình Diệm, tuy chẳng ủng hộ con người họ chưa biết hẳn là thế nào. Chỉ vì ai cũng muốn tránh xáo trộn để sống an lành, sau chín năm chiến tranh giải phóng.

Từ bước đầu tốt đẹp nhường ấy, hai mươi năm tiếp theo sau đã diễn ra một cảnh tượng, ngày nay nhắc đến, không ai khỏi bàng hoàng. Một người được xưng tụng là chí sĩ mở đầu một chế độ gọi là Cộng Hòa, sau đó gán thêm vào mỹ từ Nhân Vị để che đậy bản chất độc tài, kỳ thị, gia đình trị, dần dà tách chính quyền xa hẳn nhân dân, đưa đến tình trạng biến Nhà nước và nhân dân thành hai đối tượng thù nghịch lẫn nhau. Nhà cầm quyền lo củng cố địa vị nên chỉ bận đương đầu với quần chúng trong nước, hơn là lo việc kiến thiết đất nước, hơn là lo việc xây dựng một xã hội đáng sống cho người trong nước. Khi thấy không có ai theo mình, lại dùng trò tố Cộng để khủng bố, đàn áp, mà chống nhân dân.

Ai đã từng xem tranh ảnh nhà Ngô đăng trên tờ Paris Match, các anh em xiêm thêu, gấm áo, rực rỡ, xuê xoang, vây quanh ông Diệm, đều ý thức được đến nơi sự phân cách giữa Nhà nước họ Ngô và quần chúng miền Nam. Nhất là bức ảnh chụp sau ngày được giải cứu khỏi cuộc binh biến 1960: ông Tổng thống xun xoe đứng trên bực cao, tay cầm một xấp giấy bạc 500, thả lòa xòa xuống thấp, một lũ quần thần tay chân, bộ trưởng có, tướng tá có, chen nhau khom lưng nhặt từng tờ, như một món tiền thưởng công, để chia nỗi mừng thoát nạn của chủ, của thầy mình. Ai ở Pháp có thể tìm xem bức ảnh này ở các thư viện, ở tuần báo Match. Hoặc ông Ngô Đình Luyện còn giữ làm kỷ niệm chăng.

Cứ nhìn cảnh dân chúng miền Nam, suốt ba ngày liền, đã chạy rông ngoài đường phố reo hò vang dội, để mừng việc sụp đổ của gia đình họ Ngô, đủ thấy lòng dân chán ghét chế độ Cộng Hòa Nhân Vị đến thế nào. Dương Văn Minh, người anh hùng Rừng Sát, một lần nữa lại xuất hiện trước mặt quần chúng miền Nam là người anh hùng đất nước. Nhân dân miền Nam nghĩ là khi đã loại bỏ được nhà Ngô rồi, chế độ mới sẽ đáp ứng được các đòi hỏi của dân tộc, dân quyền, để xây dựng một xã hội văn hóa và phát triển, trong tinh thần nhân tình, tự do, công lý.

Nhưng hết Cộng Hòa Nhân Vị phong kiến lại Cộng Hòa Quân Phiệt. Một số tướng lãnh thối nát nối vòng tay lớn với Cần Lao Công Giáo, để tiếp tục đục khoét miền Nam, biến nước ta thành vùng đất mầu mỡ cho tham nhũng, cho bất công.

Hiệp định đình chiến thi hành. Nhóm tướng lãnh cầm quyền phô trương khí thế giả tạo, để che đậy các mánh khóe có vết gấp, hòng thu thập tài sản chợ chiều còn sót, chờ cuốn gói kịp lúc. Đất nước, nhân dân, chưa bao giờ họ đã bận tâm, trong giờ phút vơ vét hối hả sau cùng, lại càng chẳng phải bận tâm đến. Để hốt cho thật trọn vẹn, chúng bám chặt quyền lực đến cùng. Đến lúc ngày một ngày hai là sụp đổ, chúng mới chịu buông để tháo chạy.

Trong vòng đúng một tuần lễ, Thiệu/Khiêm “dọt” trước, hôm 24-4. Rồi lần lượt những Cao Văn Viên, Đặng Văn Quang “dọt” tiếp theo. Lả lướt hơn cả là ông tướng tàu bay. Một ngày trước khi Cộng quân tiến vào dinh Độc Lập, chân ông bước lên máy bay để “dọt”, miệng ông dõng dạc tuyên cáo quyết tâm không rời bỏ quê hương, kêu gọi đồng bào hãy cùng với ông tử thủ chống Cộng.

Quần chúng trong nước biết trước sự tình rồi sẽ xảy ra như thế. Biết rõ trước sau mình cũng sẽ là nạn nhân. Cảnh tượng tự thất thủ, từ Bình Long đến Pleiku, Kontum, sau đó là miền duyên hải, đã hiện thực nỗi chán chường của toàn thể nhân dân. Tâm cảnh chung là buông xuôi, là phó mặc, biểu thị sự thờ ơ, tình thế ra sao thì ra, Cộng Sản có vào cũng thế thôi, chẳng còn chi khác để chọn lựa.

Tâm cảnh phó mặc, tâm cảnh thờ ơ của quần chúng, cùng tâm cảnh buông súng của thành phần quân đội trong sạch và lý tưởng, đã kết hợp dọn đường cho xe tăng Cộng Sản tiến vào dinh Độc Lập mau chóng. Bộ Chính trị Hà Nội không đủ quân lực mạnh ở miền Nam để thắng gấp. Nhóm Thiệu/Kỳ và tướng tá Sài Gòn lo vơ vét, có nghĩ đến việc chiến đấu đâu để thắng, để bại. Chỉ có thời cuộc đất nước chúng ta đã ngưng đọng trong tâm cảnh nhân dân, quân đội, trưa ngày 30-4-75: Quân và Dân miền Nam đã “tự thất thủ” để chấm dứt chiến cuộc.

 

5. Tâm cảnh nhóm tướng lãnh cầm quyền: tháo thân kịp lúc

Khi nhân dân thờ ơ, khi binh sĩ buông súng, có chế độ nào tồn tại được. Nhóm tướng lãnh cầm quyền hiểu rõ điều này trước mọi người, nhất tề xếp đặt việc sụp đổ, từ cuối tháng 3-75. Chúng bày trò thiết quân lập, cấm dân thường đi lại vào ban đêm, để tự do di chuyển nhân sự và tài sản riêng của chúng hòng sửa soạn cho trôi chảy việc tháo thân.

Tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng này khác, tướng tá đầu não quân đội Cộng Hòa, những người trước sau vẫn thao túng đời sống xã hội bằng quyền lực không có kiểm soát, tha hồ tự tung, tự tác, nay cấp kỳ, có sẵn đủ mọi thứ phương tiện để đào tẩu kịp thời. Nên vẫn giữ giọng hùng hổ, nhất hô thiên ứng, mong đánh lừa quần chúng không cho nhìn thấy sụp đổ đến nơi. Để người trong nước không chú ý là bọn chúng đang lo việc tháo thân. Nhưng chẳng bịp được ai.

Những tâm cảnh tháo thân này đa dạng:

Tháo thân nhưng còn phải chuyển tài sản quốc gia, nhất là vàng, theo ra nước ngoài thành của riêng mình, như Thiệu/Khiêm.

Tháo thân, nhưng còn phải bày trò huê dạng người hùng Cầu Muối, như ông tướng “trừ gian”.

Tháo thân nhưng buộc phải lừa lọc anh em binh sĩ, như tướng Viên, tướng Lộc, chia nhau sau trước vụ Tổng tham mưu, để “tham mưu” việc xa chạy cao bay, trốn bỏ quân đội.

Nhưng phải nói đến thành phần nhân viên Nhà nước, những công chức cao, không bè phái, không thế lực, không có tài sản lớn; phải nói đến các lớp sĩ quan không biết chia chác, luồn cúi, đục khoét. Họ mang tâm cảnh bế tắc. Vì thấy rõ mình là nạn nhân bị đàn anh bỏ rơi lại, để riêng gánh chịu sự trừng phạt, sự nguyền rủa, đánh vào các cơ thể nhà nước trong giờ sụp đổ. Và nhất là sau đó, trong khoảnh khắc, họ biến thành “ngụy quân/ngụy quyền”. Cho đến nay, mười hai năm qua, phần lớn nếu còn sống sót dưới gót sắt của Cộng Sản, đang quằn quại trong các trai học tập cải tạo bất nhân. Tâm cảnh sợ hãi khiến họ mong được yên thân, rồi có ra sao cũng đành chịu.

Chưa kể đến hai thành phần khác, quan không hẳn ra quan, dân không còn là dân. Thành phần trước: một số lớn những người có chân trong các đoàn thể, đảng phái, tôn giáo, trước sau vẫn giữ được không vấy bùn. Họ mang tâm cảnh thản nhiên, thế tục trước sau vẫn không làm họ bận lòng, và họ chỉ mong mỏi hòa bình, ngưng việc chém giết, cho đồng bào được sống an lành.

Và những người sinh hoạt trong các cơ sở kỹ nghệ, thương mại, nhân viên chưa từng chia phần lợi kinh tài của chủ. Trong giờ phút quyết liệt sắp đến, chẳng có quyền lực nào ngó ngàng đến họ, và họ mang tâm cảnh những con tốt phải mang thí chỉ mong được yên thân, ai thắng ai bại không còn là vấn đề họ phải thiết thân đến nữa.

Thành phần sau: đa số đồng bào di cư, người Bắc thiên di vào Nam từ 1954, được cột chặt vào nhiệm vụ hậu cần chính trị cốt tủy và liên tục cho hai nền Cộng Hòa miền Nam. Đa số họ kém ý thức, đã phục tùng vô điều kiện tập đoàn lãnh đạo của họ gồm một số tu sĩ Thiên Chúa giáo hiếu động và quá khích, và các tay kinh tài chuyên nghiệp trong việc đồng lõa với tập đoàn cầm quyền. Hai hạng người này thường xuyên toa rập với nhà nước, đã mau chóng chia được phần thế lực, nhờ thế mà mau chóng trở thành tỷ phú, triệu phú miền Nam. Suốt hai mươi năm, đoàn thể đồng bào di cư đã hoàn toàn bị hai hạng người này điều động, chỉ huy, mua chuộc, đẩy ra múa rối trên sân khấu chính trị miền Nam, thành phần này thấy rõ trong giờ phút mất còn đang điểm, “lãnh tụ” của họ vội vàng bỏ rơi họ, nên cũng mang tâm cảnh sợ hãi, mong mua chuộc những tội ác không phải do mình.

Nhưng phải liệt ra ngoài thành phần di cư một số nhà tu, một số kinh tài, đồng lõa thường xuyên với tập đoàn tham nhũng, đấu thầu việc bao biến đồng bào di cư để làm hậu cần cho Diệm, cho Thiệu, cho Kỳ. Nên được cất lên hàng lãnh tụ, thừa uy thế, thừa tài sản, đủ phương tiện, để không cần đến ai vẫn thoát đi được. Có ăn, có chia mà không có chịu. Hạng người này cũng mang tâm cảnh thoát thân, bất chấp đồng bào cùng họ đã từ Bắc di cư vào Nam, mà họ đã đẩy vào ngõ cụt.

 

6. Quyền lực Nhà nước vứt bỏ trên đường phố

Trước ngày Sài Gòn thất thủ, trong hoàn cảnh dân chúng thờ ơ, binh sĩ buông súng, tập đoàn cầm đầu nhà nước hối hả lo việc thoát thân, các cơ chế nhà nước bề ngoài tuy còn nguyên vẹn, nhưng quyền lực nhà nước đã bị vứt bỏ trên đường phố, chẳng ai đoái hoài đến. Dân ngoài phố sợ bọn vô lại làm càn trong những ngày không còn phép nước, nên càng mong thời cuộc kết liễu gấp. Mọi người sẵn sàng chấp nhận một cuộc đổi mới, dù không tin rồi sẽ an lành, nhưng không còn tránh được. Chế độ tham nhũng cuốn cờ, ít ra đây cũng là điều làm mọi người thỏa dạ.

Ai cũng biết thủ đô đang bị vây hãm, bà con có thể bị pháo kích, bị tấn công. Quân đội Cộng Hòa đã tan hàng, binh sĩ cởi giáp quăng súng khắp các ngõ hẻm thành phố, trực thăng Mỹ di tản rầm rộ trên bầu trời. Ông Trần Văn Hương mấy ngày trước nhận làm cầu thang cho Thiệu/Khiêm nhẹ mình lên máy bay chạy trốn, lại lẩm cẩm lên giọng kháng cự, tử thủ, khi Chính phủ đã nhàu như giấy bị nhai, khi quân lực không còn xương sống, khi nhà nước mềm như xác chết! Ông làm gì được đây, và làm với ai đây?

Cộng Sản tàn ác, điều ấy chẳng đợi tuyên truyền, dân chúng đã biết. Nhưng làm thế nào thoát được họ đây? Cộng Sản có giết, có tha, nhân dân miền Nam tránh sao khỏi. Hai mươi năm qua, Diệm, Thiệu, Kỳ và tay chân, trước sau đã thay tay nhau đặt gọn miền Nam vào trong tay Cộng Sản rồi! Mọi người đều mong rồi ra người trong nước, dù Bắc dù Nam, dù Cộng Sản dù Quốc gia, sẽ dung hợp với nhau trong một đất nước hòa bình, tuy ngờ ngợ chỉ là ảo vọng.

Cộng Sản Hà Nội muốn thắng lợi ngàn năm một thuở của chúng được hoàn toàn rực rỡ, nên buộc “chính quyền bù nhìn” Sài Gòn phải đầu hàng vô điều kiện. Miệng lưỡi Võ Đông Giang, chỉ huy cuộc tấn công thủ đô: Đầu hàng nhân dân, không phân biệt miền Nam, miền Bắc, Cộng Sản đã thắng Mỹ, miền Nam, miền Bắc cùng thắng với nhau, giữa hai miền không có thắng bại.

Tất cả bài toán là đây: ông quyền Tổng thống Hương, mang tâm cảnh chí sĩ, nói cứng, nhất định tử thủ chứ không đầu hàng. Nếu cụ làm như cụ nói, cụ tử thủ với lực lượng nào? Dân chúng đã thờ ơ, quân đội đã tan hàng, binh sĩ theo nhau cởi bỏ quân phục, vứt cả vũ khí trên đường phố giữa thanh thiên bạch nhật. Cụ nghĩ chuyện tiết tháo, chuyện hảo hớn, nhưng không nhìn ra được tiết tháo ở Phan Thanh Giản, hảo hớn ở Võ Tánh, lúc chính quyền cụ giữ trong tay chỉ là một chính quyền ma, dân không, quân không. Trong tâm cảnh trái chứng muộn màng ấy, cụ muốn quần chúng thủ đô chịu thảm sát để cho cụ thành hảo hớn, thành chí sĩ! Sự kiện này không phải người viết võ đoán mà nêu ra ở đây.

Cụ Hương muốn thủ đô đi vào biển lửa: người chiến sĩ đầu hàng sao được! Cũng phải! Hai chữ đầu hàng này, ngày nay ở nước ngoài, những người đã hai mươi năm dày xéo lên miền Nam đang mang ra thóa mạ Dương Văn Minh. Tội nghiệp cho cụ! Cụ mắc lỡm Thiệu/Khiêm: chúng mớm cho cụ hai chữ tiết tháo để chúng được nhẹ nhàng cất cánh, và cụ nhất đinh chờ chúng mang quân về cứu, như chúng đã hẹn với cụ! Cho nên người ta phải khuyên cụ nhường “việc ô nhục người chí sĩ không thể làm” ấy cho tướng Dương Văn Minh.

Hai ông Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu được ghép theo Dương Văn Minh, như là đảm bảo của hai thế lực tinh thần còn lại, để ông đứng ra chấm dứt một tình trạng không lật ngược được nữa, và nếu kéo dài, chỉ kéo dài thêm chết chóc thê thảm. Sự kiện đảm bảo này cũng không phải người viết võ đoán mà nêu ra ở đây.

Tình trạng không lật ngược được nữa ấy, ai đã gây nên? Ngô Đình Diệm/ Nguyễn Văn Thiệu/ Nguyễn Cao Kỳ, hay Dương Văn Minh? Những người thay nhau cầm chính quyền, những tướng lãnh từng thao túng quân đội, đã vội vã tháo chạy, giờ đây thóa mạ Dương Văn Minh đã đầu hàng, không chịu tử thủ! Thế sao chúng không ở lại để tử thủ mà bỏ trốn? Nếu có chuyện đầu hàng, thì Dương Văn Minh đã đầu hàng thay cho chúng đó thôi.

Chính việc chúng tháo chạy là hành động đầu hàng Cộng Sản. Dương Văn Minh đã chịu ô nhục thay cho chúng để thể hiện tâm cảnh muốn khai tử giai đoạn tủi nhục, của những người sống trên đất nước miền Nam trong giờ phút quyết liệt ấy.

Ông Diệm đã nói với Vân Xưa năm 1948 rằng Ý Dân là Ý Trời. Nhưng ông chỉ theo Chúa của ông, chẳng bao giờ theo trời cả! Phải đợi đến ngày 30-4-75, ý dân mới thực sự là ý trời, trong một hoàn cảnh thật bi đát cho dân!

Đối với một võ tướng chân chính như Dương Văn Minh, không thuộc loại chạy trốn như Thiệu / Kỳ / Khiêm, đầu hàng bao giờ cũng là một việc ô nhục.

Dương Văn Minh đầu hàng để tránh cuộc thảm sát thủ đô. Hiên ngang, dũng cảm như khi ông cầm quân chiến thắng ở Rừng Sát. Trong việc đầu hàng này, người sống ở miền Nam 30-4-75 đã nhận ra ông là anh hùng đất nước. Trong việc đầu hàng này, tập đoàn tham nhũng thoát trước ra ngoài, muốn chạy tội phản quốc, vẫn không ngớt chửi rủa ông là phản quốc.

Ông đã phải đứng ra khai tử hai chế độ Cộng Hòa và đầy những tội ác ông không dự vào. Tiểu nhân cười là ông tham quyền vị. Dân trong nước thấy rằng ông đã chịu cúi người xuống đất nhặt một quyền chính bỏ rơi ngoài đường. Để trong bốn mươi tám tiếng đồng hồ sau đó đứng ra nuốt nhục cứu độ quần chúng thủ đô miền Nam.

 

***

 

Bạn đọc đến đây, hãy cùng người viết quay về các tâm cảnh được tỉ mỉ phân tích ở trên

Tâm cảnh chung của nhân dân thờ ơ, mặc thế cuộc đến đâu hay đó. Chấp nhận đổi cái đời hai mươi năm phải chịu đựng độc tài, phong kiến, quân phiệt, trong một xã hội thối nát, tham nhũng, không lúc nào biết đến nhân dân. Tâm cảnh thù ghét chế độ, đòi hỏi thay đổi: Cộng Sản cũng thế thôi.

Tâm cảnh của anh em binh sĩ, sĩ quan, khinh bỉ thượng cấp vô tài, bất nghĩa, không còn muốn chiến đấu, để đuổi bọn bán dân, buôn nước. Tâm cảnh đòi chấm dứt một giai đoạn phi nhân: Cộng Sản cũng thế thôi.

Tâm cảnh của những thành phần đồng bào ít nhiều có dính líu đến chính quyền thối nát là sợ hãi, nên mong một hình thức giải quyết thế cuộc cho êm thuận, có thể tránh cho họ nhiều ảnh hưởng nặng nề quá đáng. Tâm cảnh chịu đựng, cầu an: Cộng Sản cũng thế thôi.

Tâm cảnh của tập đoàn lãnh đạo nhà nước, quân đội, là chạy trốn. Khi chúng đã thoát thân kịp lúc, Cộng Sản có chiếm miền Nam, đâu phải là chuyện chúng bận tâm. Tâm cảnh tháo thân cho kịp: Cộng Sản vào thay chỗ để tàn hại đồng bào, đối với chúng cũng thế thôi.

“Cũng thế thôi”, trong đầu óc những người quẳng quyền lực nhà nước để tháo chạy, có nghĩa là “mặc kệ”. Trong tâm tư quần chúng và binh sĩ, lại là một cách để nói “cũng đành”! Những kẻ hai mươi năm thay nhau cầm quyền phi nhân phi nghĩa, đã dọn sẵn đường cho Hà Nội thắng, nhân dân và binh sĩ không muốn đầu hàng cũng không xong. Đầu hàng: một mỹ từ, người miền Nam muốn dùng để che một thảm bại.

Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu, nạn nhân một thế cuộc bế tắc họ không dự phần trách nhiệm, đã đương lấy cái nhục của Diệm, của Thiệu, của Kỳ, để cứu nạn dân lành.

Khi nhân dân ruồng bỏ chế độ, binh sĩ, cảnh sát tan hàng, khi người cầm quyền chạy trốn, thì chế độ sụp đổ. Quyền lực Nhà nước tự nó đã cáo chung.

Cụ Hương muốn làm chí sĩ, nhưng không còn Nhà nước, nên ông chỉ là một bù nhìn vô nghĩa: bình phong cho Thiệu/Khiêm và tướng lãnh tay chân êm ái trốn chạy.

Dương Văn Minh cũng chỉ là một bù nhìn, nhưng có nghĩa: kết liễu sự sụp đổ của miền Nam, để tránh thảm họa cho dân.

Cho nên quần chúng miền Nam đã thương hại cho cụ Hương mà biết ơn tướng cũ Dương Văn Minh.

Hà Nội nhìn rõ tình trạng ấy. Trưa hôm 30-4-75, Cộng Sản đã chẳng bảo, khi Dương Văn Minh lên tiếng đầu hàng để trao lại Quyền lực Nhà nước, là: chế độ Sài Gòn đã chết, Dương Văn Minh có Quyền lực Nhà nước đâu mà đòi trao đổi để nói chuyện đầu hàng?

 

***

 

Tâm cảnh Đầu hàng Cộng Sản không phải đã xảy ra hôm 30-4-75.

Ngay từ khởi thủy chế độ Quốc gia Sài Gòn. Ngô Đình Diệm lo ngại không giữ quyền binh được lâu, nên đã làm ngơ, rồi tàn hại, thành phần kháng chiến quốc gia, và kỳ thị đồng bào Nam kỳ cũ. Thay vào hai thực lực nội tại ấy của miền Nam chính ông đã thấy rõ từ trước, lúc chưa cầm quyền, ông giả tạo hai thế lực ngoại lai (đối với miền Nam), dựa vào đó mà củng cố địa vị, cá nhân và gia đình: đồng bào di cư và tổ chức Cần Lao Công giáo.

Không ai có thể chống Cộng Sản miền Bắc mà không cần đến nhân dân miền Nam. Nhưng Ngô Đình Diệm đã làm như thế! Tham vọng cá nhân đã là mục đích, chống Cộng chỉ là một phương tiện để ông củng cố quyền lực ông.

Đối đầu miền Bắc là nhiệm vụ chính yếu, ông Diệm đổi ra thành phương tiện cầm quyền: đầu hàng Cộng Sản nằm sẵn trong tâm cảnh ông Diệm từ đầu!

Tướng tá tiếp sau ông dốt nát võ biền, làm sao nhìn ra bài học thất bại của ông. Họ chỉ thêm được quyền lực, được địa vị, như ông đã hưởng. Đâu có chuyện miền Nam đối đầu miền Bắc, họ theo ông mang sẵn tâm cảnh đầu hàng Cộng Sản rồi.

Ông Diệm bị giết. Thiệu/Kỳ/Khiêm và tay chân, cùng mang tham vọng của ông, chỉ có thể tiếp tục con đường ông đã vạch: cũng đồng bào di cư, cũng Cần Lao Công Giáo. Họ nối theo ông đưa quốc gia miền Nam đến chỗ chết, ngày 30-4-75. Nay trốn được kịp ra ngoài, dùng mọi phương tiện thừa thãi trong tay để trâng tráo phỉ nhổ Dương Văn Minh về cái tội đầu hàng Cộng Sản miền Bắc.

Dương Văn Minh đã không thoát thân, gánh chuyện ô nhục vào thân, để cứu đồng bào thủ đô Sài Gòn. Rồi giữ im lặng, trước những lời thóa mạ của những kẻ ông đã gánh thay điều ô nhục ấy.

Trong số các bạn, ai còn nghĩ đến sự nghiệp giải phóng đất nước còn chưa thành, nếu đọc xem đến bài đầu hàng này, xin xem thận trọng hơn là những người chỉ đọc cho vui.

Hình như ông Dương văn Minh đang sống ở Pháp, Vân Xưa viết bài hôm nay hướng về ông. Trân trọng ngỏ một lời khiêm tốn biết ơn ông, của một người chưa từng cùng ông quen biết hay gặp gỡ, như Đỗ Mậu, như Cao văn Luận.

 

VÂN XƯA

 

 


GIẢI TỎA BÍ MẬT

VỀ CÁI CHẾT CỦA TƯỚNG TRỊNH MINH THẾ

Trịnh Minh Sơn

 

 

    LỜI TÒA SOẠN GÓP GIÓ : Tướng Trịnh Minh Thế, Tư lịnh Lực Lượng Cao Đài Liên Minh bị giết vào lúc 6 giờ chiều ngày 3-5-1955, là một nghi án mà đã có một số tin tức loan khác nhau, như: 

     1- Về phía chính quyền Ngô Đình Diệm cho biết rằng tướng Trịnh Minh Thế đã trúng một viên đạn vào đầu, khi ông đi trên chiếc xe Jeep chạy trên cầu Tân Thuận, trong khi đang truy quét lực lượng Bình Xuyên. 

    2- Theo ông Lê Trọng Văn, cái chết của tướng Trịnh Minh Thế là do tướng Văn Thành Cao cho đàn em ngồi chung xe Jeep với tướng Thế , ha sát ông tại cầu Tân Thuận, theo mật lệnh của ông Ngô Đình Nhu. 

    3- Theo một tài liệu bằng tiếng Pháp do ông Nhị Lang công bố trên báo chí, thủ phạm giết tướng Thế là Thiếu tá Tình báo Savani của Pháp, trả thù cho tướng Chanson. Thiếu tá Savani từ trên chiếc thuyền nhỏ của Pháp từ dưới sông bắn lên xe tướng Thế. 

    Nhưng theo tài liệu do ông Trịnh Minh Sơn công bố trên tờ Làng Văn, Canada, số 232 tháng 12-2002 dưới đây, cho biết thân phụ của ông - tướng Trịnh Minh Thế - đã bị giết tại Dinh Độc Lập rồi đem xác ông chở tới cầu Tân Thuận để đánh lạc hướng. 

    Rõ ràng đây là một bằng chứng thật CHÍNH XÁC nhứt. Bởi vì là người trong gia đình mới có thể nhìn tận mắt có cả thảy HAI vết đạn bắn rất gần, một vào ót và một vào vào lỗ tai tướng Thế còn để lai ám khói trên vết thương, chứ không phải MỘT phát duy nhứt như tin công bố. 

    Được biết khi hay tin chồng chết, bà Trịnh Minh Thế đã đến ôm xác chồng và khóc kể “Ông Nhu đã giết chồng tôi!”

    Cũng vào thời gian đó có tin ông Nhu đã bí mật cho người tới hăm dọa gia đình tướng Thế buộc phải giữ im lặng. Tướng Thế sẽ được truy thăng Trung tướng, được hưởng một số tiền tử tuất để sinh sống, và các con sẽ được thâu vào trường Quốc Gia Nghĩa Tử ăn học tử tế. Phải chăng vì để bảo vệ sự an toàn cho gia đình, bắt buộc gia đình tướng Thế phải giữ bí mật cho tới bây giờ?

Giải-tỏa bí mật về cái chết của tướng Trịnh Minh Thế 

    Trong mục này, Làng Văn số 231, BC viết rằng: “Tướng Trịnh Minh Thế tử trận đang khi điều quân tấn công lực lượng Bình-Xuyên bên kia cầu Tân-Thuận, đạn đạo phát xuất từ một giang-thuyền Pháp, do Bình-Xuyên điều khiển. Sau này có tin, tướng Thế bị Savani, sĩ quan Phòng Nhì Pháp ra lệnh ám sát để trả thù cho tướng Chanson.” 

    Sau khi báo phát hành, thân nhân của tướng Thế, hiện sinh sống ở Canada, đã gửi thư cho BC, công bố bí mật về cái chế của tướng Thế, nội dung như sau. BC xin đăng tải nguyên văn như một sử liệu: 

    “Brossard, ngày 12 Nov, 2002 

    Kính thưa ông Bút Chì 

   Nhân đọc thấy một độc giả thắc mắc về cái chết của tướng Trịnh Minh Thế, và đã được ông trả lời trong mục giải đáp, Làng Văn số 231. 

    Tôi xin tự giới thiệu là con trai út của cố Trung tướng Trịnh Minh Thế. Mẹ tôi là quả phụ Nguyễn Thị Kim, hiện đang sinh sống với tôi ở Canada. Nhờ ông Bút Chì đính chánh giùm một bí mật về cái chết của ba tôi, sau 47 năm mà gia đình tôi giữ im lặng. 

    Sự thật là ba tôi bị ám sát, không chết trận như tin tức và lời đồn đãi 

    Ba tôi bị ám sát lúc 6 giờ chiều ngày 3 tháng 5, 1955, do 2 viên đạn súng nhỏ, vì vết thương không phá rộng. Viên đạn thứ nhất dí sát vào ót, bắn trổ ra miệng, miệng còn ám khói đạn. Viên đạn thứ hai, phát ân huệ, cũng dí sát vào lỗ tai phải, bắn trổ ra bể tròng mắt trái, lỗ tai ám khói súng. Điều đó cho thấy, kẻ ra  tay là người thân cận, đứng sau lưng hoặc đứng kế bên. Mẹ tôi tin rằng ba tôi bị mưu sát trong dinh Độc Lập, khi về họp tham mưu. Sau đó đưa xác ra mặt trận cầu Tân Thuận và hô lên là tử trận. 

    Từ ngày mất nước, ở hải ngoại có nhiều giả thuyết được đưa ra, nói về cái chết của ba tôi. Đề tài này thường một số người liên hệ tới cái chết mờ ám của ba tôi, khuê ra, tạo nhiều giả thuyết vô lý, vô căn cứ, ngụy tạo, hoặc đem viết sách hoặc đăng trên báo chí, để cố tình che đậy sự thật, tung hỏa mù đánh lừa dư luận để bưng bít tội ác năm xưa. 

    Như ông Bút Chì đã thấy, qua nhiều sách báo và tài liệu, tất cả đều nói tướng Thế tử thương vì một viên đạn duy nhất; nhưng gia đình tôi và cả giòng họ Trịnh đều biết là ba tôi chết vì 2 viên đạn được bắn rất gần (dí sát và bóp cò). Chỉ cần chi tiết quan trọng đó thôi cũng đủ để tôi khỏi tốn công dẫn chứng dài dòng để đả phá các giả thuyết ngụy tao khác 

    Sau cùng, để đính chánh trả lời trên báo, ông có thể tóm tắt: “Anh em ông Diệm Nhu ngày về chấp chánh bấp bênh nên đã chiêu dụ tướng Trịnh Minh Thế về hợp tác để củng cố địa vị; sau đó chủ mưu hạ sát để trừ hậu hoạn”    

    Xin thành thật cám ơn ông” 

    Trịnh Minh Sơn

    2810 Bourgogne

    Brossard, Quebec J4Z  1T5, CANADA       

 

 


LỜI PHÂN TRẦN CỦA TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH

VỀ NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975

Trần Viết Đại Hưng

 

 

Trích lại 3 đoạn có liên quan đến Hồi ký Việt Nam Máu lữa Quê hương Tôi:

... Nghĩ đến ngày 30 tháng 4, đa số người dân miền Nam oán trách Ðại tướng Dương văn Minh ra lệnh đầu hàng để đưa đến cảnh "nước mất nhà tan " sau này. Từ trước đến nay đã có nhiều dư luận phê phán chuyện đầu hàng ô nhục của tướng Minh nhưng tâm tư và suy nghĩ của tướng Minh khi quyết định đầu hàng Cộng sản là chuyện không ai suy đoán nổi. Ông Minh không viết sách và tránh trả lời phỏng vấn nên khó ai đoán biết tâm tư , suy nghĩ của ông khi đầu hàng như thế nào. Sau này mới biết tướng Minh đã bộc bạch tâm tư suy nghĩ của ông về quyết định đầu hàng trong biến cố 30 tháng 4 trong một lá thư gửi cho một người đàn em cũ là Trung tướng Nguyễn Chánh Thi vào năm 1987, khi tướng Minh ở Pháp. Xin cám ơn Trung tướng Thi đã cho phép người viết bài này công bố bức thư của tướng Minh để soi sáng phần nào lịch sử Việt Nam cận đại.

... Toàn bộ bức thư của tướng Dương văn Minh viết cho tướng Nguyễn chánh Thi có nội dung như sau:

15-4-87:

"Thi,

Ðược tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi còn lưu lại rất nhiều kỷ niệm. Từ khi tôi đến nước Pháp tới nay, lật bật đã gần sáu năm rồi, sống với một cuộc đời réfugié tuy có thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm. Thoát được chế độ Cộng sản với hai bàn tay không _ Pháp chẳng giúp đỡ gì _ mình sống ẩn thân trong một đô thị thật nhỏ, kể ra cũng tạm yên.

Nghe Thi kể chuyện các anh em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó tôi bị đày ở Bangkok cho nên có nhiều việc tôi không được rõ hết.  Anh em có đọc sách của anh Ðỗ Mậu kể chuyện lại cho tôi nghe; tôi phải công nhận anh Ðỗ Mậu kể chuyện như vậy là rất can đảm. Lên án Cần- lao và Công-giáo đến mức đó là cùng. Ngoài ra, anh Ðỗ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các bực tiền bối, cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi.

Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng là đúng. Ðôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những hậu quả cho sự quyết định của mình gây ra. Có lẽ anh Ðỗ Mậu (cũng như nhiều người ) không rõ là tôi lấy quyết định cuối cùng sau khi đã tham khảo ý kiến với một số những vị dân biểu và nghị sĩ còn lại, với những anh em quân nhân đến gặp tôi vào giờ chót, với các thầy mà trong đó thầy Trí Quang và Trí Thủ đã nói và đã nhắn nhủ để cứu dân. 

Riêng tôi, tôi không tự tử không phải vì thiếu can đảm, nhưng vì những lý do rất đơn sơ:

- Tôi không tự sát vì thân thể mình do Trời Ðất (Ân trên) kết tạo, cha mẹ sanh dưỡng, mình không có quyền hy sinh.

- Mình có quyền hy sinh: tên tuổi, uy tín, tài sản, công nghiệp v..v. Tóm tắt mình chỉ có quyền hy sinh những gì mình tạo ra mà thôi.

Ðây là một lý thuyết tôi đã hấp thụ từ khi biết khôn và áp dụng suốt đời, đối với tôi cũng như đối với tất cả người khác. Hôm nay tôi nói ra để cho Thi hiểu, vì lúc nào tôi cũng xem Thi như một người em trên mọi mặt, chớ không phải nói ra để phân trần chi chi. Tôi đã dám làm thì tôi cũng dám chấp nhận những búa rìu bất cứ từ đâu tới. Không có gì thắc mắc cả, và tôi coi đây chỉ là một giai đoạn thôi. Cầu xin dân ta và anh em giữ vững tinh thần thì có ngày sum họp trên quê cha đất tổ.

Tôi đã nói nhiều quá ! Lúc nào tôi cũng nhớ anh em, nhờ Thi gởi lời thăm tất cả. Tôi không mong gì hơn được gặp lại các bạn.

Thân mến

Dương văn Minh

Ðọc những lời phân trần trên của tướng Minh cho thấy những ảnh hưởng đến từ bên ngoài về quyết định đầu hàng Cộng sản ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ông cũng biện bạch cho quyết định không tự tử của ông sau khi đầu hàng. Thật ra những người đặt vấn đề tướng Minh nên tự tử vì nhìn gương của những bậc tiền bối như cụ Phan thanh Giản đã uống thuốc độc tự tử khi phải giao mấy tỉnh ở miền Nam cho Pháp và quan Tổng đốc Hoàng Diệu treo cổ tự tử khi thành Hà Nội mất vào tay quân Pháp. Sau này nhìn những tấm gương tử tiết của 5 vị tướng Phạm văn Phú, Trần văn Hai, Lê nguyên Vỹ, Lê văn Hưng, Nguyễn khoa Nam người ta lại tiếc cho tướng Dương văn Minh đã không tử tiết để nêu gương anh dũng cho ngàn sau. Dĩ nhiên quyết định tìm đến cái chết không phải lúc nào cũng là một quyết định dễ dàng trong bất kỳ tình huống nào của cuộc sống. Tướng Minh đã biện luận cho quyết định không tự sát để duy trì mạng sống của ông vì lề lối suy nghĩ của ông và ông cho biết là ông sẵn sàng nhận chịu mọi sự phê phán của thế gian. Tướng Minh đã qua đời cách đây mấy năm ở California, Hoa Kỳ, Tổng thống Thiệu cũng qua đời ở Boston, Hoa Kỳ không lâu sau khi ông Minh từ trần. 

... Ðỗ Mậu, trong cuốn hồi ký " Việt Nam Máu lửa Quê hương Tôi ", đã phê phán ông Minh vận động để lên chức tổng thống trong những ngày cuối của miền Nam là một chuyện "ách giữa đàng, mang vào cổ" . Ðó là một nhận xét chí lý. Ông Minh không phải là một nhà chính trị khôn ngoan, can đảm, quyền biến. Ông đã sai lầm khi tìm cách giành chức tổng thống trong giờ phút đất nước dầu sôi lửa bỏng nên ông đã phải hứng chịu nhiều sự chê trách, phê phán trong quyết định đầu hàng nhục nhã trong ngày 30 tháng 4.

 

Los Angeles, một chiều hiu quạnh, đìu hiu đầu tháng 10 năm 2006  

TRẦN VIẾT ÐẠI HƯNG - Email: dalatogo@yahoo.com

 

 

©sachhiem.net

Trang Bìa VNMLQHT


Tất cả các chương sách VNMLQHT đã đăng trong sachhiem.net:

VNMLQHT- Ý Kiến Độc Giả (HLDM)

VNMLQHT-Phụ Lục A-Trăm Lời Phê Phán (HLDM)

VNMLQHT-Phụ Lục B-Sáu Bài Đọc Thêm (HLDM)

VNMLQHT-Phụ Lục C-Bốn Lá Thư Riêng (HLDM)

VNMLQHT-Phụ Lục D-Hai Tài Liệu (HLDM)

VNMLQHT-Phụ Lục E- Mười Hai Bài Đọc Thêm (HLDM)

VNMLQHTch01- Quảng Bình - Quê Hương Định Mệnh (HLDM)

VNMLQHTch02- Vào Đường Đấu Tranh (HLDM)

VNMLQHTch03- Thăng Trầm trong Cuộc Chiến Việt Pháp (HLDM)

VNMLQHTch04 Phụ Bản - Những Bức Hình Lịch Sử (HLDM)

VNMLQHTch04- Những Ngày Cuối Cùng của Thực Dân Pháp (HLDM)

VNMLQHTch05- Góp Công Xây Dựng Chế Độ (HLDM)

VNMLQHTch06- Bảo Đại và Ngô Đình Diệm (HLDM)

VNMLQHTch07- Gia Đình Trị (HLDM)

VNMLQHTch08- Đảng Cần Lao (HLDM)

VNMLQHTch09- Chính Sách Độc Tài (HLDM)

VNMLQHTch10- Những Thất Bại của Chế Độ (HLDM)

VNMLQHTch11- Bắt Đầu Sự Sụp Đổ (HLDM)

VNMLQHTch12- Hai Năm Khốn Cùng (HLDM)

VNMLQHTch13- Tệ Trạng Tham Nhũng (HLDM)

VNMLQHTch14- Kỳ Thị Tôn Giáo (HLDM)

VNMLQHTch15- Biến Cố Phật Giáo (HLDM)

VNMLQHTch16- Từ Đồng Minh với Mỹ (HLDM)

VNMLQHTch17 Phụ Bản - Những Bức Hình Kỷ Niệm (HLDM)

VNMLQHTch17- Cuộc Cách Mạng 1-11-63 (HLDM)

VNMLQHTch18- Ba Năm Xáo Trộn (HLDM)

VNMLQHTch19- Chế Độ Thiệu (HLDM)

VNMLQHTch20- Kết Luận (HLDM)

VNMLQHTthumuc (HLDM)

 

Trang Hoành Linh Đỗ Mậu