Thư Ngỏ Gửi Giáo Hoàng Francis Về Việc Bách Hại Người Ki-Tô Giáo Ở Trung Đông Nguyễn Mạnh Quang http://sachhiem.net/NMQ/NMQ56.php Kính gửi Ngài Giáo Hoàng Francis tôn kính, Trong nhiều năm gần đây thỉnh thoảng người ta được nghe có nhiều tín dồ Thiên Chúa Giáo La Mã bị sát hại ở các vùng Trung Đông, Bắc Phi và Trung Phi. Người ta cũng được biết là hầu hết người dân trong các vùng này là tín đồ Hồi Giáo (hoặc là thuộc hệ phái Sunei hoặc là thuộc hệ phái Shiite.) Tình trạng này càng ngày càng trở nên trầm trọng đến độ chính Ngài đã phải lên tiếng báo động nhiều lần. Đáng chú ý là các bản tin sau đây: Gồm các mục: - II. Gieo hạt giống cho Chúa hay gieo nhân? - III. Mùa gặt các linh hồn và gặt quả báo? - IV. Một số tài liệu về "nghiệp" do GHLM đã tạo ra Lần thứ nhất là bản tin (Chú thích 1) được phổ biến ngày 6/4/2015 với tựa đề là: "Pope Francis: Do not be "silent" about persecuted Christians” “Đừng im lặng trước hành động bách hại tín đồ Ki-tô.” Trong bản tin này, có mấy câu đáng chú ý như sau: “Hôm Thứ Hai,GH Francis nói rằng ông hy vọng cộng đồng quốc tế sẽ không ngồi yên và bất động đối diện với thứ tội ác không thể chấp nhận được là hành động bách hại tín đồ Kitô ở khắp đó đây trên thế giới.” (1) “Giáo Hoàng Franics nói “Việc đi lại trên các đương phố của các bạn không còn nữa, nhưng những gì các bạn phải tiếp tục tiến hành là cầu nguyện, cầu nguyễn mãnh liệt và tích cực giúp đỡ một cách cụ thể trong việc bảo vệ anh chị em của chúng ta đang bị bách hại, lưu đày, sát hại, chém đầu chỉ vì họ là Ki-tô hữu.” (2) Lần thứ hai là bản tin (Chú thích 3) được phổ biến vào ngày 14/7/2015 với tựa đề là: “Pope Francis Addresses Christian Persecution in Middle East” (Giáo Hoàng Francis nói về việc bách hại người Ki-tô giáo ở Trung Đông”) , trong đó có các câu: “An Italian study determined that 105,000 Christians are martyred for their faith annually— in essence, a Christian dies every 5 minutes, primarily in the Middle East.” (Một bản nghiên của người Ý cho rằng đã có tới 105 ngàn tín đồ Ki-tô đã tử đạo, tỉnh ra cứ 5 phút thì có môt tín đồ Ki-tô chết ” (3) Thưa Ngài, Việc các con chiên Ki-tô ở vùng Trung Đông, Bắc Phi và Trung Phi đã bị ngược đãi và bách hại liên tục từ nhiều năm nay là chuyện có thật và những gì Ngài đã nói trong hai bản tin trên đây như đã được các cơ quan truyền thông quốc tế loan truyền rộng rãi. Thế nhưng, việc Ngài đưa ra những lời tuyên bố như trên, tôi có cảm nghĩ rằng, Ngài không biết hay không muốn biết đến mấy điều vô cùng quan trọng dưới đây: Hầu hết người dân Đông Phương chịu ảnh hưởng của đạo Phật và đạo Khổng đều cho rằng mọi sự ở trên cõi đời này đều có nhân và có quả, gieo nhân nào thì sẽ tiếp nhận quả đó. Tư tưởng này đã trở thành những quy tắc đạo lý và đã được thi hóa thành những châm ngôn để cho người ta dễ nhớ mà hành xử, chẳng hạn như “tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác”, “Thiện giả thiện lai, ác giả ác báo”, “Chung thân hành thiện, thiện do bất túc. Nhất nhật hành ác, ác tự hữu dư”, “Phàm nhân hữu thế bất khả ỷ tận, hữu phúc bất khả hưởng tận,” Những tư tưởng này đã được hầu hết người dân Á Đông và Đông Nam Á tin tưởng như là quy luật thiên nhiên. Thiết nghĩ rằng, tất cả những vấn đề như (1) “Mối ác cảm của nhân dân thế giới đối với đạo Ki-tô của Ngài” mà Giáo Hoàng Benedict XVI (2005-2013) cảm thấy vô cùng bức xúc” (Rome: Pope decries growing “aversion to Christianity”, (2) “Tín đồ Ki-tô bị bách hại đã gia tăng đều đều trong những năm gần đây”, đều là những hậu quả của những cái nhân mà Giáo Hội La Mã của Ngài đã gieo rắc từ năm 325 cho đến nay ở khắp mọi nơi trên thế giới (ở Rwanda chỉ mới năm 1994). ▪ II. Gieo hạt giống cho Chúa hay gieo nhân? Trong những nạn nhân trên đây của giáo hội của Ngài, Hồi Giáo và tín đồ Hồi Giáo là những nạn nhân sớm nhất, điêu đứng nhất và khốn khổ nhất từ khi Tòa Thánh Vatican phát động các cuộc chiến thập tự khởi đầu vào cuối năm 1095. Vấn đề này đã được trình bày khá đầy đủ trong một bài viết có nhan đề là “Mối Thù Khôn Nguôi Của Các Dân Tộc Âu Mỹ Đối Với Các Nước Âu Mỹ.” (4) Kính xin Ngài hãy tìm đọc lịch sử nói về các cuộc Thập tự chinh trong thời Trung Cổ và việc Giáo Hội La Mã cấu kết đế quốc xâm lược Âu Mỹ đem quân đi đánh chiếm các vùng đất đai nằm ngoài lục địa Âu Châu làm thuộc địa đê kiểm chứng xem có đúng như vậy không? Riêng ở đất nước bé nhỏ của chúng tôi, từ khi Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican tan vỡ và người Mỹ cuốn gói ra đi khỏi miền Nam vào cuối tháng 4/1975, thì hội thánh của Ngài (1) không còn có khả năng thi hành chính sách cấu kết với các cường quyền địa phương để củng cố cũng như thâu tóm quyền lực chính trị vào trong tay, và (2) cũng không còn có đế quốc thực dân Âu Mỹ nào có khả năng và can đảm đáp lời kêu gọi của Ngài để cùng với giáo triều Vatican thành lập liên minh thánh đem quân đến nước người ta rồi dùng bạo lực để “mở mang nước cho Chúa” hay “làm sáng danh Chúa” theo quan niệm của cái “đạo dối” “đạo bịp” và “đạo máu” của Ngài. (5) Sách sử đều ghi nhân rằng, trong quá khứ, giáo hội của Ngài đã từng cấu kết với các đế quốc Âu Mỹ thành lập các liên minh thánh (holy alliances) để đi xâm lược như (1) Bồ Đào Nha – Vatican trong thế kỷ 15 và 16 đem quân đi cưỡng chiếm các vùng đất ở Châu Mỹ và Ba Tây ở Nam Mỹ làm thuộc địa, (2) Tây Ban Nha – Vatican đem đi chính phục Châu Mỹ La-tinh và Phi Luật Tân làm thuộc địa, (3) Vatican - Phổ - Áo - Nga – Anh đem quân tấn công nước Pháp vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 tiêu diệt chính quyền Cách Mạng Pháp 1789 và chính quyền của Hoàng Đế Napoléon I, (4) Tây Ban Nha – Pháp – Vatican đem quân tấn chiếm Việt Nam làm thuộc địa, và (5) Mỹ - Vatican cưỡng chiếm phần đất miền Nam vĩ tuyến 17 của Việt Nam. Mưu đồ biến miền Nam nước Việt thành một quốc gia riêng biệt để tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa bằng bạo lực đã được công khai tuyên bố qua cửa miệng của các đầy tớ trung thành của Chúa như sau: “Tôi có cả một chương trình, đã bàn tính kỹ với Đức Giám Mục sẽ làn hồi tiến tới chỗ mà Hội Truyền Giáo hoạt động một thế kỷ mới đạt tới, còn chúng ta chỉ cầm quyền mười năm thôi là cả miền Nam này sẽ theo Công Giáo hết.” (6) Đó là cái thời 325-1975. ▪ III. Mùa gặt các linh hồn và gặt quả báo? Các Ngài thường giảng "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít" (Lc: 10, 2) để ám chỉ rất nhiều dân ngu ngơ sẵn sàng bị dụ theo đạo, mọi Kitô hữu đều được mời làm thợ gặt,.. và "Ta" phải mau mắn để khỏi lỡ mất cơ hội! Đó là lời giảng của linh mục giáo xứ Phú Giáo. Tiếp theo, các Ngài dạy "Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con vào giữa bầy sói” (Lc: 10, 3), "Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” (Lc: 10, 4). Rõ ràng là từ đầu, các Ngài đã xem tất cả những người không phải đạo Ki-tô là "sói", để dễ giải thích cho những hành động bạo hành thích hợp như chống lại "thú dữ". Còn nữa, các Ngài dặn "đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép" nhưng không cấm đem theo bom đạn của thực dân để hăm dọa, trường hợp kẹo bánh và thuốc men để dụ dỗ dân chúng không đem lại kết quả như ý. Quả thật là cả hai ngàn năm qua, các Ngài đã dùng các "khí cụ" này để xâm chiếm văn hóa, tài sản và linh hồn các dân tộc ở khắp nới trên thế giới, và đã gây bao nhiêu cảnh chiến tranh tang tóc. Điều mà nhiều người bình dân ít học không nhận ra là chính các Ngài là bàn tay sắt bọc nhung, mà các cường quốc thực dân là phương tiện và chịu trách nhiệm tất cả thay cho các Ngài. Từ năm 1975 trở về sau, kỹ thuật về điện tử tiến bộ càng ngày càng nhanh, đã làm cho các phương tiện truyền thông phát triển ngoài sức tưởng tượng của con người. Những thành tựu khoa học này đã làm cho hết sức dễ dàng những công việc truyền bá chẳng những về (1) các tư tưởng về nhân quyền, tự do, dân chủ, tự do hành xử tôn giáo cũng như quyền tự do không theo một tôn giáo nào, và (2) đặc biệt là việc phổ biến những sự thật lịch sử mà từ lâu đã bị Giáo Hội La Mã của Ngài và các thế lực phản động, phong kiến bưng bít... Khi mà nhân dân thế giới, đặc biệt là nhân dân các thuộc địa của các đế quốc Âu Mỹ ở các châu lục Phi, Mỹ Á đã ý thức rõ ràng những món nợ cần phải đòi, họ quyết tâm vùng lên đánh đuổi các đế quốc xâm lược này ra khỏi đất nước để đòi lại chủ quyền độc lập cho dân tộc của họ. Và khi mà các đế quốc thực dân xâm lược Âu Mỹ đã phải và trao trả quyền độc lập cho các dân tộc thuộc địa, thì quyền lực của Giáo Hội La Mã tại các thuộc đia cũng đi theo số phận quyền lực của các đế quốc Âu Mỹ. Cũng vì thế mà bọn người xu thời bản địa tại các cựu thuộc địa của các đế quốc Âu Mỹ phải lâm vào tình trạng mà Ngài đã nêu lên trong hai bản văn đã nêu lên ở trên. Như vậy thì có phải là “luật nhân quả” hoặc “quả báo” hay không, thưa Ngài? Vì thế mà Giáo Hội La Mã của Ngài không thể nào “hy vọng cộng đồng quốc tế sẽ không ngồi yên và bất động đối diện với thứ tội ác không thể chấp nhận được là hành động bách hại tín đồ Kitô ở khắp đó đây trên thế giới.” ▪ IV. Một số tài liệu về "nghiệp" do GHLM đã tạo ra Thưa Ngài, Thói đời, quyền hành sinh ra tội ác, quyền hành càng nhiều và nắm quyền càng lâu thì tội ác càng gia tăng lên theo cấp số cộng của quyền hành và thời gian cầm quyền. Thông thường, những người có quyền hành bất kể là có chính nghĩa hay không cũng đều dễ dàng bi quyền hành cám dỗ đi đến chỗ lạm quyền. Một khi đã lạm quyền rồi, thì sẽ gây ra không biết bao nhiêu đau thương khốn khổ cho những người dưới quyền. Giáo Hội La Mã của Ngài ở vào trường hợp này. Trong khi đó thì những nạn nhân của giáo hội của Ngài không bao giờ quên được những kẻ đã gây ra những đau thương khốn khổ cho họ. Trong mối hận đó, họ cũng không quên được những người tuy cùng là đồng bào, đồng đạo, đồng chủng của ho ngày xưa, nhưng đã vì lòng “tham lợi, háo danh và thèm khát quyền lực” của các chính quyền đế quốc xâm lược Âu Châu và của giáo hội của Ngài ban cho mà đành lòng muối mặt phản lại dân tộc, phản lại tổ quốc của họ, bỏ cả tôn giáo cổ truyền của cha ông đi theo đạo Ca-tô để được “vinh thân phì gia.” Giáo Hội La Mã của Ngài và chính Ngài ở vào trường hợp này. Vì thế mà khi phải đối diện với tình trạng “tín đồ Ki-tô bị bách hại đã gia tăng đều đều trong những năm gần đây, lẽ ra Ngài phải đến trước bàn thờ Chúa của Ngài mà đấm ngực xưng thú rằng “Lỗi tại Giáo Hội của tôi, lỗi tại Giáo Hội La Mã của tôi mọi đàng!” Trái lại, Ngài còn “hy vọng cộng đồng quốc tế sẽ không ngồi yên”. Ngài chỉ vừa mới biết xem những hành động tàn sát các đạo khác là “thứ tội ác không thể chấp nhận được” khi giáo hội Ngài bị bách hại mà thôi hay sao? Từ xưa, khi giáo hội Ngài tàn sát các đạo khác trên thế giới thì giáo hội gọi là “làm sáng danh Chúa”. Bây giờ thì đến lượt những người khác “làm sáng danh Chúa” của họ rồi. Chúng tôi nghĩ rằng Ngài cũng dư biết về những núi tội mà Giáo Hội La Mã đã gieo rắc tại các quốc gia Âu Châu, Bắc Phi và Trung Đông trong thời Trung Cổ cũng như tại các thuộc các thuộc địa của các đế quốc thực dân xâm lược Âu Mỹ từ giữa thế kỷ 15 cho đến giữa thế kỷ 20, nhưng ngài không hề nhắc đến để thống hối. Chẳng lẽ, buổi lễ mà Giáo Hoàng John Paul II đã long trọng cử hành vào ngày Chủ Nhật 12 tháng 3 năm 2000 để xưng thú 7 núi tội của giáo hội chỉ là một việc làm giả dối bề ngoài thôi hay sao? Vì vậy, tôi xin ghi lại một số “những cái nhân” đã được ghi lại trong kinh thánh Ki-tô và những văn bản lịch sử và thỉnh cầu Ngài và các nhà trí thức trong giáo hội của Ngài nói chung, đặc biệt là các nhà trí thức con chiên người Việt nói riêng, kiểm nghiệm xem có đúng hay không? Tài liệu 1: Các sách trong Cựu Ước ghi lại một số trong những khu rừng tôi ác chống lại nhân loại. Bản văn này cho thấy rõ những ác tính tham tàn, bạo ngược, dâm đãng, phỉnh gạt, lừa bịp và dã man đến cùng độ mà Giáo Hội La Mã đã liên tục nhồi nhét vào đầu óc tín đồ của giáo hội và họ đã tuân thủ từ đầu thế kỷ 4 cho đến ngày nay. Đó là các sách Deuteronomy (19:21), Exodus (21: 23-25), Dân Số (25:3-5,31:1-54), Leviticus 24:19-20, 26: 1-43), Phục Luật (6:14, 7:1, 2 và 16, 12: 2-3, 13:6-9. 18: 4 và 20, 20:14-16, 22: 13-21 và 23), Xuất Hành (13:12, 20 11, 22: 20.) Đây là nguồn gốc chính sinh đẻ ra hàng trăm rặng núi tội ác của các tôn giáo nào chọn tên hung thần Jehovah (mà đạo Ki-tô gọi là Chúa Cha) làm đối tượng thờ phượng. Tài liệu 2: Charlie Nguyên, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm, nói về tội ác tàn sát người bất đồng chính kiến về tín lý Chúa Ba Ngôi tại Hội Nghi Nicaea khởi nhóm vào ngày 20/5/235 và con số nạn nhân bị Giáo Hội La Mã sát hại trong vụ tín lý Chúa Ba Ngôi lên tới cả 3 ngàn người. "Năm 340, Đế Quốc La Mã tiêu diệt hết các giáo phái Kitô đi ngược lại các giáo điều của Hội Nghị Nicaea do Hoàng Đế Constantine triệu tập vào năm 325 và chính thức đặt tên cho Giáo Hội Kitô mới của toàn đế quốc là Công Giáo (tiếng La-tinh là Catholica, tiếng Hy Lạp là Katholicos, có nghĩa là tôn giáo của hoàn câu). Saint Cyril of Jerusalem đã viết như sau: "Tất cả mọi người thờ Chúa đều phải qui tụ trong một hệ thống thiêng liêng đặt dưới quyền cai trị của Giáo Hoàng La Mã. Bất cứ ai không phải là thành viên của Giáo Hội đều bị vứt bỏ ra khỏi cuộc đời này và điều quan trọng hơn là bị vứt bỏ ra đời sau". (All who worshiped God were united in one sacramental system under the government of the Roman Pontiff. Anyone not a member of the Church must be cast out of this life and more important, out of next). Đây là một lệnh cưỡng bức toàn dân thuộc đế quốc phải theo đạo Công Giáo. Mọi người chống đối đều bị giết. Riêng những người Kitô thuộc giáo phái Arius (Arian Christians) bị giết trên 3.000 người.” (7) Tài liệu 3: Cuốn sử có tên là The Dark Side Of Christian History ghi lại sự kiện Giáo Hội La Mã tiêu diệt các văn hóa hóa phẩm của những người ngoài giáo hội như sau: “Giáo Hội đốt không biết bao nhiêu là tác phẩm văn chương. Năm 391 AD, tín đồ Ki-tô giáo đã đốt những thư viện lớn nhất trên thế giới ở Alexandria (Ai Cập) trong đố có tới 700 ngàn cuốn sách. Tất cả những sách này là của Gnostic Basilides, 36 quyển của Porphtry rất nhiều cuốn của 27 trường phái Mysteries và 270 ngàn tài liệu do Ptolemy Philadelphus thâu thập được cũng đều bị đốt hết. Những hàn lâm viện cổ xưa để học hỏi đều bị đóng cửa. Mọi vấn đề giáo dục cho những người ngoài Giáo Hội đều bị chấm dứt.” (8) Tài liệu 4: Sách The Decline And Fall Of The Roman Church ghi lại những cuộc chiến đẫm máu do giáo hội chủ xướng như sau: "Một chế độ quân phiệt ra đời: Các nước có người cầm quyền là tín đồ của Giáo Hội La Mã phải được bảo vệ bằng những tín đồ của Giáo Hội La Mã (Quân Thập Ác). Phải tiến hành những cuộc thánh chiến và chiến tranh là nhiệm vụ thần thánh. Tàn bạo đối với những kẻ thù của Chúa Jesus ở trong hay ở ngoài các vùng đất do Giáo Hội La Mã kiểm soát là sự trả thù của Thượng Đế. Vị tướng chỉ huy chiến dịch tiêu diệt dân tà giáo Albigences tuyên bố: "Bất kể là nam hay nữ, già hay trẻ, chức vụ lớn hay nhỏ, trước lưỡi gươm, họ đều như nhau." Hiệp sĩ ngoan đạo Gia-tô tên là Roland, khi chỉ huy đạo quân tiêu diệt người Moors (Hồi Giáo) đã hô lớn khẩu hiệu "Tà giáo là những người xấu xa. Tín đồ Gia-tô là những người công chính ngay thẳng." Khi tiến tới bao vây kinh thành Jerusalem, những người lính thập ác trong cuộc chiến Thập Ác Thứ Nhất hăng say với niềm tin rằng thiên thần đại diện cho Chúa đang chiến đấu bên cạnh họ. Thành tích của họ là 17 ngàn dân Hồi Giáo bị tàn sát dưới lưỡi gươm của họ ở ngay nơi đền thờ Solomon và tất cả những người Do Thái ở trong các giáo đường đều bị thiêu sống." (9) Tài liệu 5: Học giả Ki-tô Phan đình Diệm, Hội Trưởng Học Hội Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, ghilại cảnh đấu tố vì niềm tin như sau: "Năm 1232, Giáo Hoàng Gregory IX (1227-1241) thiết lập tòa án xử bọn dị giáo, gọi là Inquisition… Cha con tố các nhau, vợ chồng tố cáo nhau, anh em tố cáo nhau, bạn hữu tố cáo nhau, hàng xóm láng giềng tố cáo nhau, v.v. trước tòa án của Giáo Hội. Giáo Hoàng Paul IV (1555-59) tuyên bố: "Nếu bố tôi là dị giáo đồ, tôi cũng sẽ chụm củi thiêu sống ông ta luôn." (10) Tài liệu 6: Về con số nạn nhân của các Tòa Án Dị Giáo của Tây Ban Nha hoạt động (1232-1820), sách Smokescreens cho biếtnhư sau: "Chỉ nội trong thời kỳ thi hành chương trình Inquisition ở Tây Ban Nha, Giáo Hội La Mã đã tra tấn, gây thương tật và sát hại là 68 triệu, và nhiều nạn nhân này cũng là những người Thiên Chúa Giáo tin tưởng vào Thánh Kinh." (11) Tài liệu 7: Sách Công Giáo Chính Sử của GS Trần Chung Ngọc ghi lại các kiểu ác độc, dã man của những Tòa Án Dị Giáo, những kẻ đại diện cho Công Lý của Giáo Hội La Mã của Ngài như sau: “Tòa Án Dị Giáo với những hình cụ tra tấn ác ôn không thể đếm xuể; chúng ta thấy Auto-fé (cuộc lễ sau phiên tòa xử dị giáo, trao nạn nhân cho chính quyền hành hạ và thiêu sống; TCN). - nơi mà những người bị kết án là dị giáo bị chế riễu rồi dẫn đi tra tấn hay thiêu sống; chúng ta thấy con người bị căng ra trên cái giá, bị trẹo khớp xương, và chân tay bị xé ra; chúng ta thấy họ bị lột da sống - thân xác đẫm máu của họ bị đóng dấu bằng một miếng sắt nung đỏ; chúng ta thấy những con người bị phủ đầy hắc ín rồi thiêu sống; chúng ta thấy họ bị ném từ trên các chòi cao xuống đường phố, đầu dọng xuống đất; chúng ta thấy họ bị chôn sống; chúng ta thấy họ bị treo cổ và cắt ra từng mảnh; chúng ta thấy bị những móc sắt hơ nóng móc lòi con ngươi ra, lưỡi họ bị kéo ra, xương họ bị gẫy nát, thân mình họ bị cả ngàn mũi kim đâm vào; chúng ta thấy những bà già bị trói chặt vào chân những con chiến mã hung hăng, và hàng triệu người bị tra tấn bởi những hình cụ ác ôn mà các bọn cuồng tín tôn giáo có thể nghĩ ra. Bọn người này (tin rằng họ) nhận được quyền lực trực tiếp từ Thượng Đế vì mọi điều này được dạy ngay trong Thánh Kinh.” (12) Tài liệu 8: Vua Henry III được đưa lên kế vị vua cha lúc mới có 19 tuổi, quyền chính nằm trong tay Hoàng Hậu Catherine de Médicis. Bà Catherine Médicis đã cho tiến hành chính sách vô cùng bạo ngược, bách hại các hệ phái Tin Lành giống như chồng bà là bạo chúa Henry II (1519-1559) đã làm khi còn tại vị. Bà đã cho tiến hành cuộc tắm máu “tàn sát” tập thể giáo dân Tin Lành một cách hết sức dã man. Sử gia Jack T. Chick ghi chép cảnh tượng tàn sát ở nhà thờ St. Bartholomew như sau: “Ngày 22-8-1572 (Nhiều sách khác ghi là ngày 24/8/1572) bắt đầu xẩy ra một cuộc tàn sát đẫm máu ở nhà thờ St. Bartholomew. Đây là một trong những vụ tàn sát ghê gớm để tiêu diệt phong trào Tin Lành ở Pháp. Pháp Hoàng đã khôn khéo sắp đặt cuộc hôn nhân giữa người em gái của nhà vua với Đô Đốc Coligny, một nhân vật lãnh đạo của Tin Lành. Một bữa tiệc lớn được tổ chức ăn mừng lễ cưới. Sau bốn ngày, quân lính của tân lang Coligny được cho ăn uống no say, một hiệu lệnh được ban hành. 12 giờ đêm hôm đó, tất cả nhà cửa của những người Tin Lành ở trong thành phố đều bị bắt buộc phải mở cửa. Đô Đốc Coligny bị giết. Thi hài của ông bị liệng qua cửa sổ ra ngoài đường. Thủ cấp của ông bị cắt đem gửi cho giáo hoàng. Hai cánh tay và bộ phận sinh dục của ông cũng bị cắt. Rồi chúng lôi kéo phần còn lại của xác chết đi khắp các đường phố cả ba ngày trời. Sau đó, chúng treo ngược cái xác chết không đầu, không tay, không bộ phận sinh dục ở một nơi ngoại ô thành phố. Đồng thời, chúng còn tàn sát nhiều người Tin Lành khác nữa. Trong 3 ngày, hơn mười ngàn dân Tin Lành (ở Paris) bị giết hại. Những xác chết này bị liệng xuống sông và máu nạn nhân lênh láng chẩy thành dòng ra tới tận cửa sông giống như một dòng máu. Trong cơn hung hãn này, chúng có thể giết cả những người đồng đạo của chúng nếu nạn nhân bị nghi ngờ là không mạnh tin vào Giáo Hoàng. Từ Paris, bịnh dịch tàn sát vì lòng cuồng tín như vậy lan tràn ra khắp nơi trong nước Pháp. Tính ra có tới hơn tám ngàn nạn nhân nữa bị sát hại. Rất ít người Tin Lành thoát khỏi tai họa trong cơn hung hãn của chúng." (13) Tài liệu 9: Ở Ái Nhĩ Lan, vào đầu thập niên 1640, tín đồ Ca-tô đã giết tín đồ Tin Lành ở Ái Nhĩ Lan một cách vô cùng tàn ác. Xem vài hình ảnh minh họa trong bài Historic Exhibition and Digitised Witness Testimonies of 1641 Irish. Ngoài ra bản văn trích trong sách Smokescreens tả lại một trường hợp như sau: “Một vụ tàn sát người tập thể tương tự như vậy cũng xẩy ra ở Ái Nhĩ Lan vào năm 1641. Bọn tín đồ Da-tô chủ mưu chọn ngày 23 tháng 10 là ngày lễ kỷ niệm Ignatius Loyola, người sáng lập ra Dòng Tên: Chúng dự trù một cuộc tổng nổi dậy trong toàn quốc. Tất cả những người theo đạo Tin Lành đều phải bị giết ngay tức thì. Để làm cho những người Tin Lành không chú ý đến việc làm của chúng, chúng tỏ ra rất là tử tế với họ. Sáng sớm ngày vùng dậy, bọn chủ mưu đều có võ trang đi lùng bắt những người Tin lành. Gặp người nào là chúng giết người đó, không một chút thương xót. Những người Tin Lành này chưng hửng trong kinh hoàng. Họ đã sống trong yên bình từ nhiều năm. Giờ đây, gặp cảnh ngộ như vậy, họ không biết phải chạy trốn đi đâu. Những kẻ tàn sát họ lại là những người láng giềng, bạn bè và bà con của họ. Phụ nữ bị trói vào cọc (cột) lột trần đến thắt lưng, vú bị cắt đứt ra để máu chẩy cho đến chết. Những đàn bà mang thai thì bị trói và treo vào cành cây. Chúng mổ bụng nạn nhân lấy thai nhi ra để cho chó ăn. Trong khi đó thì những ông chồng của nạn nhân bị cưỡng bách phải đứng nhìn những cảnh dã man như vậy.” (14) Tài liệu 10: Trong thời gian 1941-1945, chế độ đạo phiệt Ante Pavelic ở Croatia đã tàn sát những người thuộc các tôn giáo khác một cách vô cùng dã man. Sau đây là 1 bản văn trích trong sách Smokescreens mô tả những cách tra tấn vô nhân vì niềm tin ở Croatia như sau: “Nạn nhân của bọn mật vụ Ustachi (đạo phiệt Gia-tô Croatia trong thời bạo chúa Ante Pevalich) không những bị tra tấn tàn nhẫn về thể xác, mà còn bị hành hạ đau đớn về tinh thần và lương tâm nữa. Một trường hợp vô cùng dã man và tàn ác chưa từng thấy như dưới đây đã được ghi lại và phối kiểm qua nhiều nhân chứng có tuyên thệ: “Tại Nevesinje, bọn mât vụ Ustachi càn bắt hết tất cả cha mẹ (vợ chồng) và bốn người con của một gia đình người Serb (theo đạo Chính Thống). Người cha bị giam riêng ở một chỗ khác, người mẹ và 4 người con bị giam ở một chỗ khác. Suốt trong 7 ngày giam giữ, chúng không cho nạn nhân ăn uống gì hết. Rồi thì chúng mang đến cho người mẹ và 4 đứa con mỗi người một miếng thịt nướng khá lớn và nước uống thừa thãi. Sau nhiều ngày không được ăn uống, những người bất hạnh này ăn hết sạch miếng thịt nướng đó. Sau khi ăn xong, bọn mật vụ Ustachi mới nói với gia đình nạn nhân rằng đó là thị người cha của họ." (15) Còn nhiều hình ảnh giết người man rợ mà nội dung bài này không thể ôm đồm thêm. Tài liệu 11: Bản văn sau đây trích trong sách The Vatican Holocaust thống kê các trường hợp độc ác của đạo Ca-tô-lic ở Croatia như sau.: "Trong thời kỳ Croatia là quốc gia độc lập và lấy đạo Gia Tô làm quốc giáo, có trên 700 ngàn đàn ông, đàn bà và trẻ em bị giết hại. Nhiều người bị hành hình, bị tra tấn, bị bỏ cho chết đói, bị thiêu sống cho đến chết. Hàng trăm người bị cưỡng bách phải theo đạo Gia Tô (Thiên Chúa La Mã). Các ông linh-mục của Giáo Hội La Mã làm quản giáo tại các trại tù tập trung; nhiều tu sĩ khác của Giáo Hội là sĩ quan trong các đơn vị quân đội đã phạm các tội ác tàn bạo. 700 ngàn trong tổng số dân có mấy triệu người, tức là khoảng 1/3 dân số bị các đoàn lính dân quân Gia Tô giết hại." (16) Tài liệu 12: Ở Việt Nam thời giáo phiệt Ca-tô lãnh đạo, Đảng Cần Lao hoành hành như sau: "Ngồi tại Dinh Độc Lập, Ngô Đình Diệm có ngờ đâu em mình đã nhân danh Đảng Cần Lao Nhân Vị mà nhúng tay vào máu một cách khủng khiếp đến thế. Số người mà tại Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Khánh Hòa… đã bị cán bộ Cần Lao giết vì bị vu cho là Cộng Sản, phá hoại chế độ… đã được kiểm kê vào các năm 1964 và 1965 là 300,000 (300 ngàn) người!" (17) Tài liệu 13: Bọn lính thập tự Phát Diệm giết người một cách vô cùng man rợ rồi banh ngực nạn nhân lấy mật hòa với rượu và lấy gan đem nướng để ngồi nhậu với nhau. Câu chuyện xảy ra vào khoảng năm 1950-1953, được ghi ở các trang 190-192 trong sách Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng Hay Đến Bờ Ảo Vọng của tác giả Cửu Long Lê Trọng Văn, do một chứng nhân kể lại như sau: “Lúc đó, chợ đã họp đông. Đi sau mấy người tù là mấy tên lính giải tù cùng viên thiếu úy trưởng đồn. Cùng đi hộ tống viên trưởng đồn, có một tên mang lon cai xếp (hạ sĩ nhất). Đôi mắt tên cai xếp đỏ ngầu, không hiểu đỏ vì rượu hay đỏ vì say máu người. Đến một cái bệ xây bằng xi măng thì tên cai xếp hô: "Chúng bay quỳ xuống". Có một hai người tù hình như cưỡng lại, không chịu quỳ. Tên cai xếp đến bên lấy báng súng đánh cái chát vào đầu gối. Người tù kêu ối một tiếng rồi quỵ xuống. Mấy tên lính lôi ba người tù đặt quỳ thành hàng ngang. Tên cai xếp lại nói: "Bọn bay muốn được các ông tha để về ăn Tết với vợ con, khôn hồn thì hô theo chúng ông". Tức thì tên cai xếp hô: "Đả đảo Việt Minh! Đả đảo Hồ Chí Minh!" Hình như chỉ có một người hô theo một cách yếu ớt. Hai người còn lại cứ trơ ra. Tên cai xếp bước đến trước mặt một người tù rồi nói to: "Mày là tên đầu xỏ. Cứng đầu thì ông cho một nhát dao về chầu ông bà, ông vải bây giờ. Khôn hồn thì hô theo ông, hô mau đi: "Đả đảo Việt Minh! Đả đảo Hồ Chí Minh!" Người tù này như vận dụng hết sức mình, bèn hô lớn: "Đả đảo bọn Việt gian bán nước! Việt Nam Độc Lập muôn năm! Hồ Chí Minh muôn năm!" Có tiếng lao xao của một vài người đàn ông trong chợ: "Đập bỏ mẹ chúng nó đi". Lại có tiếng hét to: "Cứ giết hết bọn đi lương". Các lời xúi giục như dầu đổ vào lửa, làm tên trưởng đồn tức giận. Hắn rút con dao găm đeo bên hông, bước lại trước mặt người tử tội vừa hô đả đảo, vung dao lên, đâm một nhát, nghe cái "bóp", rồi rút dao ra đâm tiếp thêm mấy nhát, máu ở ngực người tử tội đỏ lòm tuôn ra xối xả. Người tử tội ngã vật xuống nền chợ như cây chuối bị tróc gốc. Tên cai xếp tiến đến thưa với tên trưởng đồn: "Thiếu Úy đi rửa tay đi. Để chúng nó đấy cho em". Tên cai xếp quay sang một tên lính đứng bên, nói như ra lệnh: "Mày chạy đi kiếm cái thau, mau đi!" Tên lính nghe thấy thế liền ba chân bốn cẳng chạy vào chợ. Phút chốc, hắn mang đến một cái thau nhôm nhỏ. Tên cai xếp gật đầu rồi đến bên người tử tội, hắn cúi xuống, đưa dao lên cao rồi đâm mạnh một nhát vào giữa bụng người tử tội. Người tử tội không nhúc nhích, hình như đã chết vì mấy nhát dao của tên trưởng đồn. Tên cai xếp nắm chặt cán dao, rạch một đường dài ở bụng nạn nhân. Đoạn, hắn thò cả hai bàn tay hộ pháp dùng sức mạnh banh toạc da thịt chỗ bụng nạn nhân mà hắn vừa mới rạch, rồi thò tay vào lôi ra một lá gan bầy nhầy còn bám cả máu đỏ tươi. Những tế bào của gan bị va chạm và đứt lìa khỏi thân thể con người nên lớp màng của lá gan trồi lên, trụt xuống tựa hồ như con ếch đang thở. Hắn bỏ lá gan vào trong cái thau nhôm, rồi quay lại hỏi tên trưởng đồn bằng một giọng nịnh bợ: "Còn hai tên kia Thiếu Úy Trưởng Đồn tính xử cách nào?" Tên trưởng đồn chưa kịp trả lời thì vợ hắn ở đâu không biết chạy đến bên, nói như hét vào tai hắn: "Giê-su-ma! Các ông giết người dã man như thế không sợ sa hỏa ngục hay sao?" Phần tôi, tôi cảm động rơm rớm nước mắt. Tôi như cảm thấy một cái lạnh từ sau ót chạy dài xuống xương sống và thấy nằng nặng ở nơi lồng ngực. Vợ tên trưởng đồn nói tiếp: "Muốn xử tử người ta thì bắn một phát cho người ta chết. Đừng làm bậy mà phải tội". Nói xong, chị ta lườm nguýt anh chồng một cái rồi bỏ đi một mạch. Không biết vì sợ lời nói phải của vợ hay vì sợ tội sa địa ngục, tên trưởng đồn ra lệnh cho đàn em mang hai người tử tội còn lại ra ngoài đầu làng để bắn. Rồi hắn bỏ đi, để mặc cho tên cai xếp và bọn lính còn lại muốn làm gì thì làm. Hai người tử tội được ba tên lính dẫn đi. Sau khi tên trưởng đồn đi khỏi, tên cai xếp ra vẻ ta đây làm lớn. Hắn đằng hắng lên giọng: "Thằng nào đi lấy cho tao chai rượu và mượn một cái lò than của chị bán bánh đa mang lại đây mau". Hai tên lính đứng gần đấy có vẻ mặt dữ tợn. Một tên có cái sẹo lớn nơi má, hình như là lốt chém. Tên kia thì mắt lác. Cả hai tên cùng chạy vào chợ. Chỉ một thoáng, một tên cầm trên tay hai chai rượu trắng, tên kia bê cái thau có than hồng đang cháy, bên trên có cái vỉ sắt, rồi đặt trên một cái bệ trống. Mặt tên cai xếp lúc ấy trông rất cô hồn. Hắn vẫn tỉnh táo, chứ chưa say vì lúc đó hắn chưa uống một ngụm rượu nào. Hắn lấy con dao găm lẻo cái gan ra thành nhiều miếng, đặt lên chiếc vỉ sắt rồi ra lệnh cho một tên lính quạt cho than cháy đỏ. Còn cái mật người, hắn khẽ lấy mũi dao dí dí cho thủng lỗ rồi nhét cái mật vào chai rượu. Rồi hắn dùng một tay vừa bịt miệng chai vừa xóc xóc chai cho nước mật bắn tung ra. Màu đen của mật hòa lẫn với rượu trắng biến chai rượu thành một thứ màu xám không ra xám, xanh không ra xanh, đen không ra đen. Mặt hắn vênh vênh, váo váo. Hắn thản nhiên xem làng nước không ra gì vì ở đây không ai lớn bằng Cha Tổng của hắn. Cha đã xuống lệnh giết thì hắn có quyền muốn giết bằng cách nào là tùy ý ở bọn hắn, miễn là giết chết được Việt Minh thì thôi! Ngoài Cha Tổng và tên trưởng đồn ra, lúc này hắn không còn kiêng sợ ai nữa. Hắn đưa chai rượu lên uống ừng ực. Mắt hắn đỏ hơn trước. Hắn gọi bọn đàn em lại uống với hắn, nhưng chỉ có hai tên vừa rồi đến để uống chia sẻ chiến công của bọn hắn. Uống xong, bọn hắn bốc mấy miếng gan người bỏ vào mồm nhai ngấu nghiến như con cá sấu nuốt mồi. Mùi khét lẹt của gan người tanh nồng trải ra làm tôi muốn nôn, nhưng phải ráng nuốt cái nước chua chua ở cổ họng xuống, sợ bọn đầu trâu mặt ngựa kiếm chuyện vì chúng đang say máu người. Không chịu nổi cảnh tượng vừa xẩy ra, tôi từ từ rút lui. Ra khỏi làng bỗng nghe nhiều tiếng súng. Tôi tự nhủ thầm: "Lại thêm hai mạng người vô tội gục ngã. Tôi những tưởng bọn hắn sẽ tha cho người hô đả đảo theo bọn hắn. Không ngờ chúng giết tất cả, không chừa một ai". Ba bốn hôm sau, trên đường trở về, đi qua làng thì thấy ba cái đầu lâu người được xuyên vào ba cái sào tre được cắm ngay bên vệ đường. Ruồi nhặng đã bắt đầu bu lại. Tôi cắm đầu bước nhanh, đi cho khuất cảnh tượng hãi hùng đó. Ôi! Thật là dã man! Không còn tình người nữa. Lương tâm con người ở đâu? Đức Chúa Trời của họ dạy nhân từ, bác ái, thương người bằng cách ấy hay sao? Lòng lành của những người Gia Tô là như vậy đó!” (18) Tài liệu 14: Trường hợp diệt chủng ở Rwanda năm 1994. Đây là bản tin do ký giả Joe Lauria của tờ The Boston Globe ghi nhận. Bài báo của ký giả này với tựa đề là "U.N.'s inaction blamed for Rwanda killings" U.S. Belgium also criticized in report on 1994 genocide in African country" được tờ The News Tribune (Tacoma) số ra ngày Thứ Sáu 17/12/1999 đăng lại như sau:
"New York: Vì Liên Hiệp Quốc đã không quan tâm đến những lời cảnh cáo nhắc đi nhắc lại về nạn tàn sát người tập thể diến ra ở Rwanda vào năm 1994, khiến cho 800 ngàn người Tutsisi và Hutus ôn hòa bi sát hại trong vòng chưa đầy 100 ngày. Đây là bản báo cáo của một ủy ban độc lập vào ngày Thứ Năm (vừa qua). .... Trong lời tuyên bố vào hôm Thứ Năm, ông Tổng Thư Ký Annan thú nhận rằng Liên Hiệp Quốc đã khoanh tay đứng nhìn trong khi thảm trạng diệt chủng dưới một hình thức thuần túy là tội ác ghê gớm nhất xẩy ra. "Tất cả chúng tôi đều cảm thấy hối hận sâu xa vì rằng chúng tôi đã không làm gì hơn để ngăn chặn tội ác này. Khi xẩy ra tội ác này có Quân Đội Liên Hiệp Quốc ở đó. Nhưng đạo quân này lại không nhận được lệnh và cũng không được trang bị những thứ cần thiết để thì hành nhiệm vụ ngăn chặn những hành động tội ác diệt chủng này. Nhân danh Liên Hiệp Quốc, tôi nhìn nhận sự thất bại này và xin bày tổ lòng hối tiếc và ân hận sâu xa của tôi về thảm trạng này." Joe Lauria (The Boston Globe) "U.N.'s inaction blamed for Rwanda killings." (19) Rwanda là một quốc gia tí hon. Diện tích vỏn vẹn chỉ có 26,338 cây số vuông, và dân số là 8,196,000 (vào năm 1995) trong đó 65% theo đạo Kitô La Mã. Vốn là hai vùng đất Rwanda và Burundi cùng bị Đức chiếm làm thuộc địa từ thập niên 1890. Đức là quốc gia bại trận trong trận Đệ Nhất Thế Chiến. Năm 1919, Hội Quốc Liên cho hợp nhất hai vùng đất này thành xứ Rwanda và giao cho nước Bỉ (theo đạo Kitô La Mã) quản trị, rồi (1) dùng miếng mồi vật chất và chức vụ trong chính quyền để dụ khị, câu nhử những phường tham lợi, háo danh, thèm khát quyền lực chạy theo những miếng mồi này rồi theo đạo đển thỏa mãn lòng tham bất chính của chúng, và (2) bạo lực của chính quyền để cưỡng bách hay chèn ép người dân dưới quyền phải theo đạo. Vì thế mà tín đồ Kitô La Mã ở quốc gia này mới lên tới 65%. Tài liệu 15: Sách Deceptions Myths of the Bible tổng kê số nạn nhân của đạo Kitô La Mã trong một thời gian ngắn như sau: "Chúng ta đã biết được những gì trong 7 trăm năm này? Ba triệu người thiệt mạng trong vụ cố gắng chiếm lại một ngôi mồ nằm trong vùng kiểm soát của người Hồi giáo. Mười triệu người bị giết hại do bàn tay của các Tòa Án Dị Giáo Gia-tô Mười bốn triệu người chết trong các cuộc chiến Gia-tô trong thế kỷ thứ 19. Ba mươi triệu người thiệt mạng trong các cuộc chiến giữa các quốc gia theo đạo Kitô với nhau trong hai thập niên đầu của thế kỷ thứ 20. Từ thời Constantine đến nay, chiến tranh và chính sách áp bức của các chế độ đạo phiệt Gia-tô đã gây cho hơn 200 triệu nạn nhân bị thiệt mạng. Và chúng ta phải kể thêm 23 triệu quân nhân của 53 quốc gia và các thuộc địa đã hy sinh trong các cuộc chiến (do Giáo Hội phát động – NMQ ) và ít nhất 28 triệu nạn nhân chết vì bom, đạn, đói và bệnh tật hay ở trong các trại tập trung.” (20) Tài liệu 16: Sách Tyrants History’s 100 Most Evil Despots & Dictators (London, England: Arcturus Publishing Ltd., 2004) của sử gia Nigel Cawthorne cho ta thấy đa số kẻ tàn ác nằm trong hệ thống đạo Ki-tô. Theo sách này, thì trong số 100 tên bạo chúa ác độc nhất trong lịch sử nhân loại, bỏ ra (không tính) 15 tên thuộc về thời Tối Cổ (The Ancient World), lúc đó Giáo Hội La Mã chưa ra đời; 85 tên còn lại thuộc về thời kỳ từ đầu Thời Trung Cổ cho đến ngày nay. Trong 85 tên này, có tới 63 tên là tín đồ Ki-tô, (tính theo phần trăm là 74.12%.) (21) Thực ra, 16 tài liệu trên đây chưa nói lên được một phần ngàn của những khu rừng tội ác do giáo hội của Ngài chủ trương, đạo diễn, tiến hành và đòi hỏi tất cả mọi thành phần trong giáo hội phải tuân thủ, tuân hành như giáo hội đã dạy dỗ họ. Dù sao, các bản văn trên đây cũng cho mọi người thấy rõ Giáo Hội La Mã của Ngài không những đã gây nên hàng chục rặng núi tội ác chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua mà còn là cái lò sản xuất những tên bạo chúa ác độc nhất trong lịch sử nhân loại. ▪ V. Lo Sợ Trước Mối Ác Cảm Của Thế Giới Thưa Ngài, Chỉ với từng ấy tội ác được ghi nhận, nếu Ngài tin vào “thuyết nhân quả” , không biết Ngài nghĩ sao về hậu quả mà Giáo Hội của Ngài phải xứng đáng gánh chịu. Cùng ở vào địa vị hiện nay của Ngài, có thể là cả hai vị tiền nhiệm của Ngài là Giáo Hoàng John Paul II (1978-2005) và Giáo Hoàng Benedict XVI (2005-2013) đều biết những hậu quả trên đây là do những rặng núi tội ác mà giáo hội của Ngài đã liên tục chống lại nhân loại từ thế kỷ 4 cho đến nay. Có thể vì thế mà có những sự kiện quan trọng sau đây: 1.- Giáo Hoàng John Paul II (1978-2005), trong hơn 10 năm cuối cuộc đời, đi đến quốc gia nạn nhân nào của giáo hội, ông cũng xin lỗi lia lịa tất cả đến có hơn trên 100 lần và ông đã cho tổ chức một buổi đại lễ vô cùng long trọng vào sáng ngày Chủ Nhật 12/3/2000 tại Quảng Trường Peter, Roma để chính ông và các vị chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican đứng ra cáo thú bảy rặng núi tội ác với Chúa của Ngài. Việc này diễn ra trước sự chứng kiến tại chỗ của gần nửa triệu người và hàng trăm triệu khán thính giả khác qua các màn ảnh truyền hình ở khắp mọi nơi trên thế giới. Vấn đề này đã được nhiều tác giả trình bày đầy đủ trong tuyển tập “Vatican Thú Tội và Xin Lỗi” (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000). 2.- Giáo Hoàng Benedicht XVI (2005-2013) tuyên bố rằng, “mối ác cảm của nhân dân ở nhiều nơi trên thế giới đối với đạo Kitô ngày càng trở nên mãnh liệt.” (Pope Benedict XVI is condemning what he called “growing aversion” to the Christian faith in the world.) 3.- Cả hai Giáo Hoàng John Paul II cũng như Giáo Hoàng Benedict XVI đều run sợ và đều cho rằng lòng căm thù của nhân dân thế giới đối với giáo hội sẽ được cụ thể hóa thành hành động (nếu có cơ hội) sẽ lôi cổ các Ngài ra đập chết như các trường hợp: a.- Benito Mussolini (1883-1945), một con chiên ngoan đạo, bị nhân dân Ý tóm cổ và đập chết, như sau: “Cuối tháng 4/1945, nhìn thấy rằng sự thất bại toàn bộ sắp xẩy ra, Mussolini định trốn sang Thụy Sĩ, nhưng nửa đường bị bắt và bị hành hình ở gần Hồ Como bởi các thành viên của Đảng Cộng Sản. Xác của hắn được đem về Milan treo ngược tòng teng trên cái trụ tại một trạm xăng để cho nhân dân nhìn rõ và cũng là để xác nhận cái chết cả tên bạo chúa này.” (22) b.- Hai anh em tên bạo chúa phản thần tam đại Việt gian, Ngô Đình Diệm (1901-1963) và Ngô Đình Nhu (1910-1963), cũng là các con chiên ngoan đạo của Ngài, bi quân dân miền Nam lôi ra đâm chết, rồi thưởng cho mấy phát súng ân huệ trong khi di chuyển từ Nhà Thờ Cha Tam ở Chợ Lớn về Tổng Hành Dinh Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội ở Đường Võ Tánh, Gia Định.
c- Vụ cô gái tên Suzanna Maiolo nhảy hàng rào an ninh hôm lễ Noel năm 2009 và đã đánh gục được Giáo Hoàng Benedict XVI. Cô đã từng định làm y như thế vào năm trước, nhưng bị an ninh ngăn chận kịp thời. Đó là một chuyện không nhỏ, đã làm cho Vatican tăng cường an ninh thêm gấp bội về sau. (xin xem video tường thuật) Vì thế mà cả hai Giáo Hoàng John Paul II và Giáo Hoàng Benedict XVI đều ngay ngáy lợ sẽ bị rời vào trường hợp của hai tên bạo chúa khốn nạn trên đây. Tình trạng này đã khiến cho mỗi lần đi ra khổi phòng ngủ, cả hai giáo hoàng này đều phải sử dụng cả một đạo quân cận vệ và an ninh hộ tống mỗi khi di chuyển ra khỏi phòng để đi đến chỗ làm việc, phòng tiếp khách hay các nơi khác ở trong khuôn viên Điện Lateran. Nếu phải di chuyển ra khỏi Điện Lateran để đi đến viếng thăm một quốc gia nào trên thế giới, việc canh chừng và bảo vệ các ngài phải được tổ chức cực kỳ chu đáo hơn nữa: (1) Các đội ngũ cận vệ, hộ tống và an ninh để canh chừng và bảo vệ phải vô cùng hùng hậu. (2) Các đội ngũ này phải được thiết bị bằng những máy móc dò mìn tối tân nhất, hiện đại nhất, có khả năng phát hiện những vũ khí, đạn dược và plastic bén nhạy nhất và hữu hiệu nhất để đề phòng mọi bất trắc có thể xẩy ra. (3) Phải có một chiếc xe đặc biệt gọi là Popemobile được thiết bị bằng một loại kính đặc biệt có khả năng chống đạn hữu hiệu nhất để cho các ngài ngồi trong đó khi di chuyển ở khuôn viên Vatican.
Có một điều hết sức khôi hài là Giáo Hoàng John Paul II lo sợ bị ám sát như vậy, nhưng ông dùng cả hơn 6 trang sách (218-224) trong cuốn Crossing The Threshold Of Hope (New York: Alfred A. Knopf, 1994) để dạy bảo các con chiên của ông rằng, “Đừng Sợ (Be Not Afraid”. Hơn thế nữa, cả Giáo Hoàng John Paul II lẫn Giáo Hoàng Benedict XVI cũng như hầu hết các giáo hoàng khác và tất cả mọi thành phần trong giới tu sĩ của giáo hội luôn luôn cao giọng dạy dỗ tín đồ rằng, “mọi sự ở trên đời này đều có sự an bài của Chúa Toàn Năng”, rằng “mọi người đều là con Chúa đều được Chúa che chở”, rằng “mọi người đều được Chúa quan phòng”, vậy thì TẠI SAO các ngài lại không trông cậy vào sự che chở hay bảo vệ hay "sự quan phòng" của “Chúa Tòan Năng, Tòan Thiện” của các ngài? Chính vì thế mà Nhà ái quốc Ý Đại Lợi Giuseppe Garibaldi (1807-1882) mới tuyên bố rằng “Linh mục là hiện thân của sự gian trá." (The priest is the personification of falsehood), Hoàng Đế Napoléon I (1769-1821) cũng nói rằng, "Ở mọi nơi và mọi thời, linh mục đã đưa vào sự gian dối và sai lầm." (Priests have verywhen and everywhere introduced fraud and falsehood). (23) Trong khi đó thì các nhà lãnh đạo phi Ki-tô không cần đến sự bảo vệ tối đa đến như thế:
a.- Nhà lãnh đạo Phật giáo như Đức Đạt Lai Lạt Ma đến đâu cũng (1) để đầu trần, không cần phải đội mũ ba tầng, (2) hai tay luôn luôn ở thế sẵn sàng chắp lại vái vái để đáp lễ những người chào đón, chứ không cầm gậy trượng làm oai với thiên hạ, (3) không ngồi trong một chiếc xe chống đạn đặc biệt để đề phòng bị những người dân thù ghét tấn công hay sát hại vì thực ra chẳng có ai thù ghét họ cả, và (4) cũng không có những đội ngũ cận vệ và những tóan quân cảnh sát, an ninh hộ tống để canh chừng và bảo vệ. Ấy thế mà vẫn không có một người nào nhào vô vừa tấn công vừa sỉ vả ngài là “quân đạo đức giả” cả.
b.- Tổng Bí Thư Cộng Đảng Liên Xô Michael Gobachev (1931- ) đến thăm nước Mỹ. Liên Bang Xô Viết gọi tắt là Liên Xô, là một siêu cường lãnh đạo khối cộng sản đối đầu với siêu cương Hoa Kỳ suốt trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh (1947-1991), nghĩa là Liên Xô là kẻ thù số 1 của nước Mỹ. Ông Michael Gobachev vốn là một người vô thần, không tin có thượng đế hay Chúa gì cả, và là một đảng viên của Cộng Đảng Liên Xô. Vì thế ông mới bị Tòa Thánh Vatican và tất cả tín đồ ngoan đạo của Giáo Hội La Mã gọi là quỷ Satan hay tên đại ác quỷ. Năm 1970 ông được Đảng Cộng Sản Nga đưa lên nắm giữ chức Tổng Bí Thư Đảng. Sau đó ít năm, có lẽ vào cuối thập niên 1970 hay đầu thập niên 1980, với tư cách là Tổng Bí Thư Cộng Đảng Liên Xô và là nhà lãnh đạo cao cấp nhất của chính quyền Liên Xô, ông đến viếng thăm Hoa Kỳ. Trong chuyến viếng thăm này, có một bữa, ông tự ý một mình (không có cận vệ và cũng không có đoàn hộ tống bảo vệ an ninh) đi bộ xăm xăm ra ngoài đường xá đông người trong trung tâm thành phố New York. Người dân trong khu phố bất chợt thấy ông, xúm lại vây quanh ông, chào mừng ông, chen chúc đến gần bên ông để được bắt tay ông. Thấy vậy, nhân viên an ninh ào ào nhào tới để bảo vệ ông, nhưng ông vẫn không hề quan tâm đến chuyện an ninh cho cá nhân ông, ông vẫn xăm xăm xông xáo đi hết khu phố này đến khu phố khác mà không tỏ ra một chút sợ hãi nào cả, vẫn hồn nhiên, niềm nở vui cười, vươn cao tay vẫy chào mọi người, và nhân dân ở đây cũng không có một người nào có ý định ám hại ông, dù rằng lúc đó Hoa Kỳ và Liên Xô đang kình chống nhau mãnh liệt, cùng coi nhau như thù địch bất cộng đái thiên. c.- Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Minh Triết thăm viếng Hoa Kỳ và Tòa Thánh Vatican: Giống như trường hợp ông Michael Gobachev khi đi viếng thăm Hoa Kỳ, trong chuyến đi thăm viếng Hoa Kỳ và Tổng Thống George Bush ngày 22/6/2007 cũng như khi đí thăm viếng quốc gia Vatican và Giáo Hoàng Benedịct XVI vào ngày 11/12/2009, ông Chủ Tịch Nước Việt Nam Nguyễn Minh Triết cũng không hề sử dụng một chiếc xe đặc biệt chống đạn nào cả, và cũng không có một đạo quân cảnh sát và an ninh vô cùng hùng hậu để che chở và bảo vệ như các Giáo Hoàng John Paul II (1978-2005) và Giáo Hoàng Benedict XVI đã làm mỗi lần đi ra khỏi kinh thành Rome trong mấy chục năm gần đây. d.- Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng thăm viếng Hoa Kỳ và Tòa Thánh Vatican: Tương tự như hai ông Michael Gobachev và Nguyễn Minh Triết, khi còn là Phó Thủ Tướng Việt Nam, ông Nguyễn Tấn Dũng đến thăm viếng Hoa Kỳ và làm việc trong thời gian từ ngày 9 đến ngày 14/12/2001, rồi khi được đưa nắm giữ chức vụ Thủ Tướng Việt Nam, ông lại đến viếng thăm Hoa Kỳ và Tổng Thống George W. Bush khởi đầu vào ngày 16/6 kéo dài đến hết ngày 23/6/2008, cũng như chuyến đi thăm viếng Vatican và Giáo Hoàng Benedict XVI vào ngày 25/1/2007, tất cả, ông Nguyễn Tấn Dũng đều không sử dụng một chiếc xe đặc biệt chống đạn nào cả, và cũng không có một binh đoàn cảnh sát và an ninh rất hùng hậu để che chở và bảo vệ an cho sinh mạng của ông. e.- Tổng Bí Thư Cộng Đảng Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đến thăm Hoa Ký mấy ngày trong tháng 7/2015 vừa qua cũng không hề cần đến những đội ngũ cận vệ, công an chìm, công an nổi, cũng không cần đến các binh đoàn hộ tống đi kèm theo để bảo vệ và cũng không cần phải chui vào một cái xe chống đạn đặc biệt nào cả để phòng hờ nếu có trường hợp có thể bị ám sát bất ngờ khi đang di chuyển. Những sự kiện trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ rằng, trong khi Tòa Thánh Vatican và tín đồ ngoan đạo khinh rẻ và thù ghét những người Cộng Sản như muốn khử diệt họ bằng tất cả khả năng của giáo hội, thì trái lại, họ lại được nhân dân thế giới vô cùng kính trọng. Với danh nghĩa là giáo hoàng, một chức vụ vừa là một nhà lãnh đạo hay quốc trưởng của quốc gia Vatican, vừa là nhã lãnh đạo tối cao của một tôn giáo thường cao rao là “Hội thánh duy nhất thánh thiện, công giáo và tông truyền”, lại được toàn thể hơn một tỉ tín đồ tôn vinh là “Đức Thánh Cha” và khoe khoang rằng “không bao giờ lầm lẫn” mà lại: - Nói láo như cuội khiến cho nhân dân thế giới khinh bỉ. - Hèn hạ đến độ mỗi lần di chuyển ra khỏi Tòa Thánh Vatican các Ngài đều phải chui vào chiếc xe “Popemobile” để phòng thân và phải dùng đến hàng hàng lớp lớp vệ sĩ, công an chìm, công an nổi, và đoàn xe hộ tống được trang bị với những loại vũ khí tối tân nhất và hiện đại nhất để bảo vệ các Ngài. - Bị nhân dân thế giới căm phẫn và thù ghét. Người ta đã dùng đủ mọi thứ ngôn ngữ ghế gớm nhất để sỉ và và nguyền rủa. Văn hào Voltaire đã phải gọi nó là “cái tôn giáo ác ôn”. Học giả Charlie Nguyễn gọi nó là “đạo bịp” và “đạo máu”, và học giả Henri Guillemin gọi nó là “cái giáo hội khốn nạn”. ▪ VI. Có Phải Chỉ Là Vài Con Cừu Đen Hay Là Gần Cả Đàn? Thưa Ngài, Tôi tin rằng Ngài của dư biết rằng trong xã hội loài người, có hai loại người: (1) loại người lưu danh thiên cổ là loại người thương dân, và (2) loại người lưu xú vạn niên là loại người hại dân. Thi ca Việt Nam có hai câu thơ lục bát nói về tình cảm của người dân đối với hai loại người này như sau: Thương dân, dân lập bàn thờ,
|