●   Bản rời    

Lời Khẳng Định Của Một Con Cừu - 2 (Nguyễn Mạnh Quang)

Lời Khẳng Định Của Một Con Cừu

Nguyễn Mạnh Quang

http://sachhiem.net/NMQ/NGGKG/NGK2.php

13 tháng 9, 2010

PHẦN II

(Phần này từ đoạn văn số 7 đến đoạn văn số 21)

VII.- NGK viết:Cuộc chiến 1954-1975, mà đảng cộng sản gọi là cuộc chiến tranh chống Mỹ lại càng vô lý hơn. Đứng trên quan điểm dân tộc, nó là một sự ngu xuẩn tuyệt đối. Mỹ hoàn toàn không phải là một đế quốc thực dân, trái lại còn là một cường quốc chống chủ nghĩa thực dân. Từ ngày lập quốc họ chưa hề đánh chiếm để sáp nhập hay thống trị một nước nào. Mỹ là một cường quốc không gian, hàng hải và thương mại, cần thị trường chứ không cần thuộc địa. Cho tới nay họ vẫn từ chối sáp nhập Porto Rico dù không ai, kể cả người Porto Rico, chống lại ; họ trả độc lập cho Philippines sau khi mua lại quần đảo này từ Espana. Sự hiện diện của Mỹ tại Việt Nam đáng lẽ đã phải được coi là một may mắn lớn, nó đem lại cho chúng ta sự hợp tác tận tình của cường quốc mạnh nhất, giàu nhất, tân tiến nhất và sáng tạo nhất thế giới mà không hề có nguy cơ mất nước.

NHẬN XÉT: Trong đoạn văn này, vẫn với giọng ngang ngược của hạng người vong bản, ông Kiểng bảo rằng Đảng Cộng Sản và tất cả những người cho rằng cuộc chiến 1954-1975 là “một sự ngu xuẩn tuyệt đối”. Trái lại, người viết cho rằng chính ông Kiểng và những người đồng quan điểm với ông mới là “những kẻ ngu xuẩn tuyệt đối”. Người viết xin trình bày vấn đề này rõ ràng như sau:

Thứ nhất là ông Kiểng hoàn toàn không biết rằng, Vatican là thế lực chủ động vận động Pháp, xuất quân đánh chiếm và thống trị đất nước ta cả gần một thế kỷ. Đêm ngày 9/3/1945, nền thống trị này của Pháp và Vatican bị Nhật lật đồ. Mùa thu năm 1945, sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh vào ngày 15/8/1945, Vatican lại cấu kết với đế quốc Pháp đem quân tái chiếm Việt Nam. Rồi chính Vatican khởi xuất đề nghị dùng Bảo Đại thành lập chính phủ bù nhìn làm công cụ cho Liên Minh Pháp – Vatican trong công cuộc tái chiếm Việt Nam. Sách Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 (Tập A: 1939-1946) viết:

“28/12/1945: Huế: Tổng Giám Mục Antoni Drapier, đại diện Roma tuyên bố: Gia đình Bảo Đại là “gia đình thân Pháp bậc nhất trong dân chúng Việt Nam (la plus francophilende tous les annamites), và theo ý ông ta, nên cho Bảo Đại lên ngôi như trước ngày 9/3/ (1945) (À mon avis, il serait avantageux pour le calm de rétablir le Roi come le chef regulier avant le mars; DOM [Aix], CP 125).

Drapier cũng đưa ra giải pháp là có thể sau đó sẽ cho Bảo Long lên kế vị, và Nam Phương là Giám Quốc [Phụ Chính].[i]

Đây là dã tâm dùng người Việt đánh người Việt, dùng tín hữu Ki-tô cai trị đại khối dân thuộc tam giáo cổ truyền. Dã tâm này nằm trong chính sách chia để trị cố hữu của Vatican. Vatican không những chỉ chia rẽ dân ta về phương diện chính trị trong thời Kháng Chiên 1945-1954 như đã nói ở trên, mà còn chia rẽ dân ta về tôn giáo và văn hóa với quyết tâm tiến hành những sách lược hủy diệt hết tất cả nếp sống văn hóa cổ truyền của dân ta. Sách sử ghi lại rằng:

Trọng tội của giáo hội không phải là nguồn phúc lộc bình an dưới thế! Ngược lai, và riêng tại Việt Nam, giáo hội chống phá đạo hiếu, phế bỏ bàn thờ tổ tiên, chà đặp văn hiến dân tộc Đại Việt, gọi các tôn giáo bản địa là thờ Bụt Thần Ma Quỉ... Giáo Hội chia hai dân tộc Việt Nam thành dân có đạo là dân riêng của giáo hội, và dân vô đạo là dân ngoại theo tà thần, tạo dựng thành kiến rất sâu đậm và thô bạo. Đức Hồng Y Phạm Đình Tụng xác minh trọng tội này của giáo hội trong bài tham luận đọc tại Rôma năm 1998, có Đức Giáo Hoàng đương kim ngồi dự thính.”[ii]

Rồi khi bị sa lầy và bị thảm bại tại Điện Biên Phủ, Pháp nghiêm chỉnh thương thuyết với chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa công nhận chủ quyền độc lập của Việt Nam và rút quân về chính quốc, nhưng Vatican vẫn không chịu bỏ cuộc, vẫn bám chặt lấy Việt Nam như loài đỉa đói bằng cách đề nghị Mỹ sử dụng bom nguyên tử đẻ giải vây cho 16 ngàn Liên Quân Pháp - Vatican tại cứ điểm Điện Biên Phủ, rồi lai quay ra cấu kết với Đế Quốc Mỹ, dựa vào sức mạnh quân sự của Mỹ, cùng với Mỹ cưỡng chiếm miền Nam, mưu đồ biến miền Nam thành một quốc gia riêng biệt  để cưỡng bách nhân dân miền Nam theo đạo Ki-tô.

Thứ hai, ông Kiểng không biết rằng, từ ngàn xưa, tất cả các quốc gia nào lâm vào tình trạng đất nước bị qua phân, thế lực cầm quyền của các quốc gia đó phải có trách nhiệm chủ động việc thống nhất đất nước đem lại giang sơn về một mối. Đây là quy luật lịch sử. Nếu một quốc gia nào chẳng may ở vào hoàn cảnh đất nước bị qua phân, nếu chính quyền đương thời không làm tròn trách nhiệm này thì sẽ đắc tội với nhân dân và đắc tội với lịch sử. Gặp phải trường hợp như vậy, nhân dân sẽ đứng lên làm lịch sử, huy động mọi người hợp lại với nhau, tổ chức thành những lực lượng vũ trang, tiến hành cuộc chiến đánh tan các thế lực phong kiến phản động có chủ trương duy trì tình trạng qua phân (trong dã tâm mưu đồ tư lợi) và đánh đuổi bất kỳ quân đội ngọai nhập nào ăn có với các thế lực phong kiến phản động địa phương. Hãy nhìn vào những trường hợp các nước sau:

1.- Nước Mỹ: Vì phải thống nhất đất nước mà KHI các tiểu bang miền Nam nghe lời xúi giục của Vatican và chính quyền đạo phiệt Ca-tô Pháp Napoléon III (1848-1870) tuyến bố ly khai thành lập Liên Bang Miền Nam (The Confederate States of America) vào đầu năm 1861, thì ngay khi đó, Tổng Thống Abraham Lincoln liền tuyên bố rằng, chính các nhà lãnh đạo miền Nam tạo nên cuộc chiến (Nam Bắc) này, nhưng ông thề “phải duy trì và bảo vệ chính quyền Hiệp Chủng Quốc”, tức là phải tiến hành chiến tranh để thống nhất đất nước và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc Hoa Kỳ. Vấn đề này đã được chúng tôi trình bày đầy đủ trong Mục II trong bài viết có tựa đề là Những Vị Tổng Thống Mỹ Được Dân Chúng Yêu Kính Nhất. Bài viết này tương đối khá đầy đủ, trong đó có ghi lại bản văn sử nói rõ Vatican và chính quyền Napoléon III xúi giục các tiểu bang miền Nam ly khai và tiến hành chiến tranh chống lại Liên Bang Hoa Kỳ. Xin đọc bài "TỔNG THỐNG ABRAHAM LINCOLN" http://sachhiem.net/NMQ/ TT_MY/TongThongMy02.php.

Giuseppe Garibaldi (1807-1882)2.- Ý Đại Lợi: Cho tới năm 1870, quốc gia này vẫn còn là một tập hợp của nhiều tiểu quốc với tình trạng Vatican chiếm một số các tiểu quốc làm của riêng, Áo và Pháp, mỗi nước chiếm một số tiểu quốc và là đồng minh thắm thiết của Vatican. Vì nhu cầu phải thống nhất nước, tháng 9 năm 1870, quân đội Cách Mạng Ý dưới quyền lãnh đạo của nhà ái quốc Giuseppe Garibaldi (1807-1882) tiến vào kinh thành Rome, bao vây và nã súng đại bác vào Tòa Thánh Vatican, buộc Giáo Hoàng Pius IX (1846-1878) phải đầu hàng vô điều kiện để cho chính quyền Cách Mạng chiếm đọat và quốc hữu hóa hết tất cả lãnh đia (papal States) cùng toàn bộ bất động sản khác của Giáo Hội La Mã, chỉ để lại cho Vatican một khoảnh đất rộng 0.4 km2 để làm nơi hành xử lễ nghi tôn giáo mà thôi. Vấn đề này đã được chúng tôi trình bày đầy đủ và ghi lại toàn bộ bản văn sử nói về biến cố này ở trong Mục “Dân Tộc Ý Chiến Đấu Chống Lại Nhà Thờ Vatican”, Chương 18, sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam. Chương sách này sẽ được đăng online ở sachhiem.net trong một ngày gần đây.

3.- Tại Việt Nam: Cũng theo quy luật lịch sử này mà trong hai năm 1954-1957, chính quyền miền Bắc đã nhiều lần gửi điện văn yêu cầu chính quyền Sàigòn cùng ngồi lại với nhau để tổ chức cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Thế nhưng, lần nào cũng như lần nào, đều bị chính quyền Ngô Đình Diệm từ chối thẳng thừng, và tiếp tục thi hành chính sách dâng nước cho Vatican. Ở vào trường hợp như vậy, thử hỏi nếu không dùng sức mạnh quân sự phát động chiến tranh để đòi lại miền Nam cho tổ quốc, thì còn có cách nào khác hơn được?

Thứ ba Hoa Kỳ đã từng là đế quốc thực dân xâm lược, chứ không phải như ông Kiểng nói: “Từ ngày lập quốc họ (nước Mỹ hay người Mỹ) chưa hề đánh chiếm để sáp nhập hay thống trị một nước nào…” Đoạn văn (lời khẳng định) số 7 này của ông Kiểng chẳng những không có một tí xíu nào tình yêu đối với đất nước, mà còn thiếu cả kiến thức để nhìn ra thế lực nào là kẻ thù chính của dân tộc, và nhóm người dân Việt Nam nào trở thành hạng người vong bản, đành lòng phản lại tổ quốc và dân tộc.

Ai đã từng học sử Mỹ hay sử thế giới đều thấy rằng, nước Mỹ thực sự đã từng là một đế quốc thực dân xâm lược. Bất kỳ người nào đã học sử thế giới đều biết sách sử có sử dụng từ kép “đế quốc Mỹ”. Đã là đế quốc thì tất nhiên phải có tham vọng chiếm đoạt đất đai của một hay nhiều quốc gia khác, hoặc là sáp nhập vào lãnh thổ chính quốc, hoặc là làm thuộc địa để khai thác tài nguyên và sử dụng người dân bản địa làm công nhân rẻ tiền để khai thác tài nguyên đã cướp đoạt được của họ. Nước Mỹ đã từng làm như vây. Dưới đây là một số bằng chứng bất khả phủ bác cho sự kiện lịch sử này:

Tổng Thống James Monroe (1817-1825)A.- Sau cuộc chiến đánh đuổi người Anh ra khỏi các thuộc địa Anh tại Bắc Mỹ và thành lập Liên Bang Mỹ, chỉ hơn 30 năm sau, ngày 2/12/1823 Tổng Thống James Monroe (1817-1825) đưa ra chủ thuyết Monroe (Monroe Doctrine). Nội dung của chủ thuyết này là nói rõ cho các cường quốc Âu Châu biết là không được lấn cấn hay can thiệp vào các quốc gia Mỹ Châu. Sách sử còn gọi chủ thuyết này là “Châu Mỹ của người Châu Mỹ”, gần giống như chủ thuyết “Đại Đông Á” do người Nhật đưa ra trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Thế là kể từ đó, Hoa Kỳ nắm độc quyền can thiệp hay lo việc giàn xếp mọi công việc nội bộ của các quốc gia Châu Mỹ La-tinh.

B.- Cuối thập niên 1830 (vào khoảng năm 1839), một người Hoa Kỳ đưa ra ý kiến gọi là “Định Mệnh Đã An Bài” (Manifest Destiny). Thuyết này có ngụ ý nói rằng “không có sức mạnh nào ngăn chặn được người dân Mỹ đến lập nghiệp ở bất kỳ nơi nào trong giải đất rộng mênh mông từ bờ biển Đại Tây Dương đến bờ biến Thái Binh Dương và từ phia Bắc (không nói rõ biên giới) đến tận miền Nam (cũng không nói rõ biên giới)”. Năm 1845, nhà báo John L O’Sullivan (1813-1895) dùng ý kiến này biện minh cho việc Hoa Kỳ chiếm đọat một vùng đất của Mế Tây rồi sáp nhập vào lãnh thổ Texas. Sách American History viết về sự kiện này như sau:.

Texas Annexation of 1845

Đó là những cuộc thảo luận về hai tiểu bang Texas và Oregon mà tư tưởng “Định Mệnh Đã An Bài” lại hiện ra. Nói thế có nghĩa là không có gì có thể ngăn chặn được người Mỹ đến lập nghiệp ở trên lục địa chạy dài đến bờ biển Thái Bình Dương. Và trong thực tế, vào khoảng năm 1853, Hoa Kỳ đã chiếm đuợc toàn thể đất đai của 48 tiểu bang tại lục địa bắc Mỹ.” Nguyên văn “It was in the discussions over Texas and Oregon that the idea of “manifest Destiny” appeared. It meant that nothing could stop Americans from settling the continent all the way to the Pacific. And in fact, by 1853, the nation has obtained all the land that would become the first forty eight states.”[iii]

C.- Trong thời gian Tổng Thống Grove Cleveland (1893-1897) và Tổng Thống William McKinley (1897-1901) cầm quyền, Hoa Kỳ sử dụng sức mạnh quân sự để cưỡng chiếm quần đảo Hawaii làm thuộc địa và sáp nhập quần đảo này vào lãnh thổ Hoa Kỳ. Đến năm 1950, quần đảo này chính thức trở thành tiểu bang thứ 50 của Liên Bang Hoa Kỳ.

D.- Trong thời Tổng Thống Wlliam McKinley (1897-1901) tại chức, năm 1898, Hoa Kỳ gây hấn với Tây Ban Nha và tạo nên cuộc chiến với Tây Ban Nha ở Đảo Cuba rồi đem quân tấn công và cưỡng chiếm luôn cả các thuộc địa khác của Tây Ban Nha. Những thuộc địa đó là (1) Porto Rico, (2) Cuba, (3) Phi Luật Tân, và (4) đảo Guam. Ít năm sau Hoa Kỳ thành lập chính quyền tay sai quản trị Cuba rồi trao trả độc lập cho Cuba qua nhóm người theo đạo Ca-tô vong bản làm tay sai cho Hoa Kỳ. Việc này giống như Liên Minh Xâm Lược Pháp Vatican thành lập chính quyền bù nhìn Bảo Đại vào đầu tháng 6 năm 1948, rồi trao trả cái bánh vẽ độc lập cho Việt Nam qua cái chính phủ trò hề này.

Riêng về Phi Luật Tân, sau Đệ Nhị Thế Chiến, thấy rằng cái “gân gà” Phi Luật Tân không có gì đáng luyến tiếc vì rằng (1) tài nguyên không có gì đáng kể, và (2) cái đại khối con chiên đã bị điều kiện hóa hoàn toàn thành những người siêu cuồng tín bởi chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Vatican, (trở thành gánh nặng cho đất nước Hoa Kỳ vì không thích hợp với xã hội tự do dân chủ (sống theo nếp sống văn hóa quan niệm thần quyền phải được tách rời khỏi thế quyền.) Nếp sống văn hóa của Hoa Kỳ là như vậy, cho nên nếu Phi Luật Tân trở thành một phần lãnh thổ của Hoa Kỳ thì lại phải chi phí không biết bao nhiều tiền của và thời gian để giáo dục (giải hoặc) bọn cừu non này thành những người dân biết thích nghi với nếp sống văn hóa trong xã hội dân chủ tự do). Vì thế mà năm 1946, Hoa Kỳ mới quyết định trao trả độc lập cho họ, để cho họ được tiếp tục sống theo cái nếp sống văn hóa Ca-tô giống như những tín đồ Ca-tô người Âu Châu trong thời Trung Cổ. Riêng về đảo Guam và Puerrto Rico, Hoa Kỳ vẫn giữ lại làm của riêng.

Thứ tư là ông Kiểng không biết gì về tình trạng chính trị của hòn đảo Puerto Rico từ năm 1898 cho đến ngày nay, cho nên đã có những sai lầm sau đây:

(1) Hoa Kỳ cưỡng chiếm Puerto Rico của Đế Quốc Tây Ban Nha vào năm 1898, chứ không phải mua hòn đảo này như Hoa Kỳ đã mua Louisiania của Pháp vào năm 1803 và mua Alaska của Nga vào năm 1867.

(2) Chính quyền hay người Hoa Kỳ không hề từ chối việc hòn đảo Puerto Rico trở thành một tiểu bang của Hoa Kỳ, mà là hơn một lần, qua mấy cuộc trưng cầu dân ý để cho người dân Puerto Rico quyết định đồng ý hay không đồng ý để cho hòn đảo này trở thành một tiểu bang của Hoa Kỳ. Nhưng kết quả của mấy lần trưng cầu dân ý này đều không được đa số phiếu ưng thuận. Vì thế mà Puerto Rico vẫn còn ở trong tình trạng của chế độ “lãnh thổ quản trị”, chứ không theo quy chế của một tiểu bang với những quyền lợi có đại diện hay tiếng nói tại Quốc Hội Hoa Kỳ (có hai thượng nghĩ sĩ tại Thượng Viện và ít nhất là có một dân biểu tại Hạ Viên), và có đủ cả ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của riêng tiểu bang giống như các tiểu bang khác.

Sự thực rõ ràng là như vậy, nhưng ông Kiểng lại không biết nên mới viết bậy.

Chủ trương của Giáo Hội La Mã là không cho tín đồ và nhân dân dưới quyền (thí dụ như nhân dân Miền Nam trong những năm 1954-1975) học môn sử, nhất là môn lịch sử thế giới cũng như môn quốc sử (giấu nhẹm những phần có liên hệ đến những việc làm bất chính, đại gian, đại ác của giáo hội), và các sách sử nói về giáo hội do các nhà viết sử chân chính biên soạn. Bằng chứng thứ nhất cho sự kiện này là bộ lịch sử thế giới do hai ông Nguyễn Hiến Lê và Thiên Giang biên soạn và phát hành vào cuối niên học 1954-1955 bị một linh mục ở miền Trung chống đối, rồi yêu cầu chính quiyền tịch thu và cấm lưu hành. Rút cục, bộ sách này bị tịch thu và cấm lưu hành đúng như lời yêu cầu của ông linh mục trên đây, tác giả Nguyễn Hiến Lê “bị mạt sát là đầu óc đầy rác rưởi” và chính quyền Ngô Đình Diệm gửi nhân viên mật vụ đến tận nơi cư trú của ông Nguyễn Hiến Lê để theo dõi.[iv] Một bằng chứng khác cho sự kiện này là Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi lại như sau:

Hệ thống ốc đảo đó tách biệt và cô lập phần lớn giáo dân khỏi liên hệ với đồng bào, thúc đẩy họ từ khước, tẩy chay bất cứ điều gì không được Giáo Hội chính thức phê chuẩn, chẳng hạn sách Truyện Kiều, một kiệt tác văn thơ cổ điển Việt Nam, hoặc các tài liệu đều bị cho là ngược với đạo. Các sách của Voltaire, Montesquieu, khỏi nói, tới Các Mác (Karl Marx) vừa bị nhà nước thuộc địa cấm, vừa bị giáo luật khai trừ.” [v]

Là con chiên cuồng tín thuộc lọai Bùi Chu – Phát Diệm và lại là em ruột của ông con chiên Nguyễn Gia Hiến (thủ lãnh lực Lượng Đại Đoàn Kết, người cùng với Linh-mục Hoàng Quỳnh sáng tác ra khẩu hiệu lích sử “Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa” được tung hô lần đầu tiên vào xế trưa ngày 27/8/1964 trong cuộc biểu tình của giáo dân Ki-tô tại cổng vào Bộ Tồng Tham Mưu, Đường Võ Tánh, Gia Định), tất nhiên là ông Nguyễn Gia Kiểng không thể nào đi ra ngoài lệnh cấm (phản tiến bộ) trên đây của Giáo Hội La Mã. Nõi cho rõ hơn, vì chịu ảnh hưởng sâu nặng bởi cái lệnh cấm phản tiến bộ này của giáo hội, ông con chiên Nguyễn Gia Kiểng gần như hoàn toàn không biết gì về những bài hoc quốc sử do các nhà viết sử chân chinh biên soạn, không biết gì những những biến cố lịch sử thế giới từ thuở hồng hoang cho đến ngày nay, và cũng không biết luôn cả vai trò của Giáo Hội La Mã về những hành động ngăn chặn và chống lại trào lưu tiến hóa của nhân loại trong gần hai ngàn năm qua. Cũng vì mang căn bệnh cuồng tín cúa một tín đồ Ca-tô, ông cừu non Nguyễn Gia Kiểng mới viết câu văn chót trong đoạn văn mang số 7 trên đây. Qua đoạn văn này, chúng ta thấy rõ ông Kiểng “vừa ngu dốt, vừa thiển cận, giống như một con ếch ngồi ở dưới đáy của một cái giếng sâu thăm thẳm, vừa huênh hoang khoác lác theo cái kiểu “múa gậy giữa vườn hoang”. Một em bé bình thường ngoài đạo Ca-tô Rôma mới học xong lớp 8 bậc trung học cũng không bao giờ viết một câu văn siêu ngu xuẩn, cực kỳ hợm hĩnh, hết sức xấc xược và vô cùng ngạo mạn như vậy!

Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ, dù là một nhà trí thức đã đi du học ở một quốc gia tiên tiến như ở Pháp và tốt nghiệp ngành kỹ sư, và dù là con chim đầu đàn trong Nhóm Thông Luận đi nữa, kiến thức về lịch sử và khả năng lý luận của ông Nguyễn Gia Kiểng cũng chỉ là con số không vĩ đại.

Rõ ràng hơn nữa là những tác phẩm của ông đã được phổ biến (mà chúng tôi có dịp đoc qua) cho thấy rằng, ông Nguyễn Gia Kiểng không hiểu biết gì về những sự kiện lịch sử mà ông sử dụng để làm cơ sở cho những luận cứ hay lập luận của ông. Đây không phải là lần thứ nhất, mà có thể lần thứ một trăm nếu không muốn nói là lần thứ một ngàn. Nếu tôi không lầm, trong cuốn Tổ Quốc Ăn Năn (Paris: Tự Xuất Bản, 2001), ông Kiểng cũng đã nói ẩu, nói bậy, nói láo cả hàng trăm, hàng ngàn lần. Có thể là chính ông Kiểng cũng nhìn nhận là ông đã nói láo, nói ẩu, nói bậy, và ông cũng biết là người ta sẽ cười vào mặt ông về cái tội viết láo, viết ẩu, viết bậy như vậy. Vì thế ông mới viết một đoạn văn chạy tội phủ đầu để xí xóa với nguyên văn như sau:

Vì là một cuốn sách ý kiến, và hơn nửa ý kiến cá nhân, nên việc liệt kê tài liệu lại càng khó. Tác giả viết với kiến thức và suy tư cá nhân của mình cho nên muốn liệt kê hết các tài liệu đã ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp lên cuốn sách thì có lẽ phải liệt kê hết tủ sách của mình. Điều này không phải chỉ khó mà còn không thể làm được vì, một mặt, có những tài liệu, như báo chí, tác giả đã tự ý hủy bỏ vì không có chỗ lưu giữ và, mặt khác, có những biến cố đã khiến tác giả làm mất tất cả hay gần hết tủ sách.”[vi]

Đáng lý ra ông Kiểng phải hiểu rằng, không học và không tìm hiểu, thì tất nhiên là không biết, và ông cũng nên biết rằng muốn sử dụng một hay nhiều sự kiện lịch sử làm cơ sở cho một luận cứ để tấn công đối thủ, thì phải tìm hiểu cho thấu đáo rồi mới sử dụng. Thế nhưng, ông Nguyễn Gia Kiễng đã không nghĩ và không làm như vậy!

Thực ra, không có người nào lại trách cứ ông Kiểng không biết những chuyện ngòai lãnh vực chuyên môn của ông. Nhưng, thông thường, người ta vừa ghét vừa khinh bỉ cái tư cách và hành động không biết mà cứ nói càn, nói ẩu, làm ra vẻ ta đây là người thông kim bác cổ để lòe đời. Đây là căn bệnh chung của các ông văn nô Ca-tô và bộ máy truyên truyền của Vatican. Cũng vì thế mà chúng ta thấy không phải chỉ có ông con chiên Nguyễn Gia Kiểng mới ở trong tình trạng như vậy. Trong quá khứ, người viết đã gặp phải một số khá đông các "trí thức con chiên" người Việt cũng ở trong tình trạng giống như tình trạng trên đây của ông Nguyễn Gia Kiểng. Chúng tôi nêu đích danh các ông trí thức nửa mùa này trong các tác phẩm như

Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000),

Thực Chất Của Giáo Hội La Mã (Tacoma, WA: TXB, 1999),

Nói Chuyên Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX: Đa Nguyên, 2004),

Khi Nhà Văn Lạm Bàn Lịch Sử (http://sachhiem.net/NMQ/KNV/LoiMoDau.php),

Họ Và Chúng Ta (http://sachhiem.net/NMQ/HOVATA/NMQhvt-2.php,)

Chân Dung Người Việt Quốc Gia (http://sachhiem.net/NMQ/ChanDungVNCH/QMN07b.php,)

Người Việt Nam & Đạo Giê-su (http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/DAOGIESU/TCN_NMQ5.php,)

Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam (http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_08.php), v.v...

Xin có lời đề nghị với quí ông, mỗi khi viết hay phát biểu về một vấn đề liên hệ đến lịch sử, các ông nên tham khảo thật nhiều tài liệu lịch sử liên hệ. Có như vậy, chúng ta mới giữ được cái tư cách và lương tri của người trí thức, (nhiều vị chỉ mới học xong bậc cử nhân, tức bậc 1 ở đại học, cũng được người ta gọi là trí thức rồi.)

Riêng về ông Nguyễn Gia Kiểng, là một trí thức tốt nghiệp tại một đại học ở Pháp, không lẽ ông không biết đến câu nói, “Il faut tourner la langue sept fois avant de parler” của người Pháp. Nho giáo cũng dạy rằng “tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thi tri giã”, và người Việt Nam ta cũng có thành ngữ “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe”. Hơn nữa, ông Kiểng lại còn là một nhân vật được coi như là lãnh tụ của Nhóm Thông Luận, một nhóm có những thành viên toàn là các nhà trí thức có học vị đại học, nếu ông không cần giữ thể diện cho cá nhân ông, thì ít ra ông cũng phải nghĩ đến thể diện của các nhà trí thức trong Nhóm Thông Luận.

 

VIII.- NGK viết: “Cuộc chiến này đã chỉ xảy ra vì quyền lợi dân tộc không phải là ưu tư của đảng cộng sản. Ưu tư của họ là áp đặt chế độ cộng sản trên cả nước. Thống nhất đất nước chỉ là một lý cớ và một chiêu bài, như độc lập dân tộc đã chỉ là một lý cớ và một chiêu bài cho giai đoạn chiến tranh 1945 – 1954. Cái trở thành của đất nước hầu như không có một tầm quan trọng nào so với mục tiêu cộng sản hóa miền Nam. Ông Hồ Chí Minh từng nói sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhiều thành phố có thể bị tiêu hủy nhưng quyết tâm thống nhất dưới chế độ cộng sản không thể lay chuyển. Nhiều cấp lãnh đạo cộng sản khác còn sẵn sàng chấp nhận đốt sạch dãy Trường Sơn. Nếu quyền lợi dân tộc còn có một tầm quan trọng nào đó thì người ta không thể lý luận như thế. Đất nước phải về tay chúng tôi hoặc sẽ tan tành không bao giờ là một lập trường yêu nước. Vả lại mục tiêu cộng sản hóa đã được chứng tỏ một cách rất thẳng thừng ngay sau chiến thắng: Đảng Lao Động được đổi tên thành Đảng Cộng Sản Việt Nam, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được đổi tên thành Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, miền Nam bị đối xử như một vùng đất chiếm đóng.”

NHẬN XÉT: Đoạn văn này cũng cho chúng ta thấy rõ cái thủ đoạn gian manh của ông Kiểng là muốn đem cái thảm họa chiến tranh do chính Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican và Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican gây ra đổ lên đầu chính quyền Việt Nam hiện nay. Ông Nguyễn Gia Kiểng đã bóp méo câu nói lịch sử của cụ Hồ Chí Minh “sông có thể cạn, núi có thể mòn…” trong thời Kháng Chiến 1945-1954 để làm hạ giá đại công nghiệp đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc của toàn thể nhân dân dưới quyền lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Mặt Trận Việt Minh.

Ai cũng biết rằng:

1.- Ba thế lực Pháp, Vatican và Mỹ đều là các thế lực xâm lăng, dùng sức mạnh quân sự cưỡng chiếm Việt Nam, và (2) chính quyền Kháng Chiến Việt Nam (1945-1954) cũng như chính quyền miền Bắc (1954-1975) chỉ là một nạn nhân bị bắt buộc phải vùng lên huy động nhân dân ta cương quyết chiến đấu để đòi lại quyền tự chủ cho dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước.

2.- Trong cuộc chiến đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican (1858-1954) và đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Mỹ- Vatican (1954-1975), nhóm thiểu số tín đồ Ca-tô người Việt trong đó có ông cha cũng như anh em và chính bản thân ông Nguyễn Gia Kiểng đã liên tục đứng vào hàng ngũ của quân cướp ngoại thù làm tay sai cho giặc chống lại tổ quốc và dân tộc.

Nói cho rõ hơn là ba thế lực Vatican, Pháp, Mỹ là thủ phạm gây ra cuộc chiến này, và nhóm thiếu số con chiên người Việt là những người luôn luôn đứng vào hàng ngũ các thế lực ngoại xâm trên đấy để chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam. Đó mới chính là những người đồng lõa với giặc gây ra tội ác và thảm họa chiến tranh ở Việt Nam mà hậu quả còn kéo dài cho đến ngày nay.

Ấy thế mà bây giờ Kiểng lại nói rằng những người lãnh đạo cuộc chiến chống lại quân cướp xăm lăng phải chịu trách nhiệm về hậu quả do cuộc chiến này gây ra. Thiết tưởng chỉ có những hạng người vô học và vũ phu mới có luận điệu ngang ngược và trắng trợn như vậy! Đúng là luận điệu của một kẻ vừa ăn cướp vừa la làng. Rõ ràng là khi đưa luận điệu ngang ngược như vậy, chủ tâm của ông Kiểng là làm khỏa lấp tội ác của Vatican đã liên tục chống phá dân tộc Việt Nam từ cuối thế kỷ 18 cho đến bây giờ, và cũng là để lấp liếm tội ác về những hành động phản quốc của nhóm thiểu số con chiên người Việt từ giữa thế kỷ 19 cho đến ngày nay.

Tất cả những người có chỉ số thông minh (IQ) trung bình từ 90 đến 110 dù chỉ mới học xong bậc trung học cũng đều có thể nhận thức được rằng, tình trạng khó khăn của Việt Nam sau ngày 30/4/1975 là do chiến tranh gây ra. Bất kỳ quốc gia nào mới thóat ra khỏi chiến tranh cũng đều ở vào tình trạng như vậy. Riêng về Việt Nam, chiến tranh vừa mới kết thúc thì bị tứ bề thọ địch với muôn ngàn khó khăn. Vấn đề này đã được nói rõ trong phần "Nhận Xét đoạn văn mang số II" ở trên.

Ngoài ra, đoạn văn này của ông Kiểng còn cho chúng ta thấy rõ cái dã tâm cố tình làm giảm giá trị công nghiệp hoàn thành được hai nhiệm vụ lịch sử giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc và thống nhất cho đất nước của đại khối nhân dân ta dưới quyền lãnh đạo của cụ Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam. Dã tâm này là chính sách cố hữu của Vatican. Chính sách này đã được chúng tôi trình bày rõ rệt qua lọat bài viết “Vatican Và Chủ Trương Hủy Diệt Tôn Giáo và Nếp Sống Văn Hóa Việt Nam” (http://sachhiem.net/NMQ/NMQ024.php) và “Sách Lược Chống Lại Truyền Thống Tôn Thờ Anh Hùng Dân Tộc Ta

(http://sachhiem.net/NMQ/NMQ025.php9)

 

IX. NGK viết: Cần nhấn mạnh là ngay trong nền tảng triết lý của nó, chủ nghĩa Mác-Lênin không bao giờ coi nội chiến là một điều nên tránh và cũng không bao giờ do dự khi có thể sử dụng bạo lực. Cả Marx lẫn Lenin, đặc biệt là Lenin, đều coi nội chiến như là một bắt buộc.”

NHẬN XÉT: Lời tuyên bố trên của NGK đã bị nhà văn Vũ Huy Quang phản đối trong bài Vài góp ý về “Nội chiến" (http://sachhiem.net/THOISU_CT/ChuV/VHQ/VuHuyQuang01.php). Xin trích lại một đọan ngắn:

"Đọc bài Nguyễn Gia Kiểng, “35 sau ngày 30-4-75…” thì tác giả, như mọi lần, lại lên án cả Quốc gia lẫn Cộng sản: Y (NGK) phản đối cuộc chiến tranh của Việt Nam chống Pháp- mà y gọi là nội chiến. Một mục đích duy nhất y cố bảo vệ là sự hiện diện của Đế quốc Pháp! Người đọc tưởng bài viết do Cố đạo Đề đốc D’Argenlieu ký tên. Nhưng NGK còn vượt D’Argenlieu, vì cố đạo khai màn chiến chống Công tại Việt Nam (1947) trong chiến tranh Lạnh này, chưa biết bênh vưc Mỹ, chưa hề biết viện dẫn sự “ác độc” của chủ nghĩa Cộng sản, “chủ nghĩa ác độc” đã đưa đến nội chiến tại Việt Nam…Chỉ vì Lenin – do NGK phát hiện – chính là người đã kêu gọi nội chiến...khắp thế giới...[vii]

Nói cho rõ hơn, Mác và Lênin chỉ hô hào giai cấp lao động đứng lên tranh đấu chống lại giai cấp tư bản bóc lột. Nhưng vì giai cấp tư bản bóc lột luôn luôn liến kết chặt chẽ với các thế lực nhà thờ Thiên Chúa Giáo, phong kiến và phản động để chống lại giai cấp lao động bị bóc lột, cho nên giai cấp lao động phải chống luôn cả các thế lực thù địch trên đây. Marx và Lenin không hề chủ trương dùng nội chiến để cướp đoạt chính quyền. Trong thực tế, Vatican mới là thế lực chủ trương dùng nội chiến để chiếm chính quyền. Lịch sử đã chứng minh như vậy.

Bằng cớ thứ nhất là vào đầu thập niên 1860, chính Vatican đã xúi giục các tiểu bang miền Nam Hoa Kỳ ly khai và phát khởi tấn công chính quyền Liên Bang Mỹ và gây nên cuộc nội chiến ở Hoa Kỳ kéo hơn 4 năm trời. Vấn đề này đã được chúng tôi trình bày khá rõ ràng trong phần nói về Tổng Thống Abraham Lincoln trong bài viết có tựa đề là “Những Vị Tổng Thống Mỹ Được Dân Chúng Yêu Kính Nhất” (http://sachhiem.net/NMQ/TT_MY/TongThongMy02.php.)

Bằng cớ thứ hai là ngày 28/12/1945, chính Vatican đã đề nghị đưa Bảo Đại lên cầm quyền, thành lập cái gọi là “chính quyền Quốc Gia” để đối đầu với chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa dưới quyền lãnh đạo của Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Vấn đề này đã được trình bày rõ ràng trong phần Nhận Xét đoạn văn mang số 7 ở trên.

 

X.- NGK viết:Một điểm rất quan trọng cần được nhấn mạnh để đánh tan một lần cho tất cả mọi ngộ nhận. Sau ngày 30-4-1975 không ai, dù đã có chọn lựa nào trong cuộc chiến, còn phủ nhận sự vinh quang và vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản. Mọi người miền Nam đều cùng một ý nghĩ là cho dù cuộc chiến này có vô lý đến đâu đi nữa nó cũng đã kết thúc, nó đã kéo dài quá lâu, đã tàn phá quá nhiều và đã đến lúc phải bắt tay nhau xây dựng lại đất nước. Đó là thời điểm lý tưởng để thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc. Đó cũng là tình trạng lý tưởng cho đảng cộng sản. Họ tuyệt đối không có đối thủ. Chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã hoàn toàn sụp đổ và không để lại một chính đảng nào. Ngay cả nếu có tự do chính trị thì cũng phải ít nhất vài thập niên mới có thể hình thành nổi một chính đảng đủ tầm vóc để cạnh tranh với đảng cộng sản. Đảng cộng sản có thừa thời giờ để sửa chữa những vấp váp không tránh khỏi lúc ban đầu và lãnh đạo đất nước trong một thời gian rất lâu với tất cả sự chính đáng.”

NHẬN XÉT: Ông con chiên Nguyễn Gia Kiểng đã đưa ra hai lời khẳng định chắc nịch rằng, (1) Sau ngày 30-4-1975 không ai, dù đã có chọn lựa nào trong cuộc chiến, còn phủ nhận sự vinh quang và vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản “, và (2) “Đảng cộng sản có thừa thời giờ để sửa chữa những vấp váp không tránh khỏi lúc ban đầu và lãnh đạo đất nước trong một thời gian rất lâu với tất cả sự chính đáng”.

Cả hai khẳng định này đều nói lên cái tâm trạng cay đắng của Vatican và nhóm thiểu số con chiên cuồng tín người Việt, những người đã liên tục cấu kết với đế quốc thực dân xâm lược Pháp rồi sau đó lại cấu kết với siêu cường Hoa Kỳ trong mưu mô muốn duy trì Việt Nam mãi mãi trong tình trạng chia đôi (để tiến hành kế hoạch Ki-tô miền Nam) bằng tất cả phương tiện của nhà nước. Ông Ngô Đình Nhu đã tiết lộ chỉ tiêu là trong vòng mười năm toàn thể miền Nam sẽ theo đạo Ki-tô hết.[viii]

Như đã nói nhiều lần trước đây, theo chính sách giáo dục nhồi sọ của Giáo Hội La Mã, các môn lịch sử như lịch sử thế giới cũng như quốc sử và các tài liệu nói về những việc làm tội ác của Vatican cihống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua đều bị cấm đoán nghiêm ngặt và bị kiểm sóat gắt gao,. Điểm đặc biệt là chủ tâm của chính sách ngu dân này là làm cho học sinh không còn khả nămg sử dụng lý trí để tìm hiểu sự vật. Hậu quả là các con chiên không những không biết gì về lịch sử, mà còn không biết sử dụng lý trí để tìm hiểu sự vật, không biết sự khác nhau giữa một bên là ý kiến (opinions) và một bên là sự kiện (facts). Ngòai ra, hệ thống giáo dục cũng không dạy phương cách viết khảo luận.

Chính sách này không phải chỉ áp dụng trong các trường đạo, mà còn được áp dụng cả trong các trường công lập trong các quốc gia bị áp đặt phải sống dưới chế độ đạo phiệt Ca-tô như miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 và tại các thuộc địa của các đế quốc thực dân xâm lược Âu Mỹ có liên minh với Vatican như Việt Nam trong những năm 1885-1945.

Chính vì thế mà cả hai lời khẳng định trên đây trong đoạn văn này của ông con chiên Nguyễn Gia Kiểng đều là ý kiến cá nhân nặng tính cách chủ quan, ích kỷ và trịch thượng phản ảnh trung thực quan điểm chính trị cố hữu của Giáo Hội Lã Mã, chứ không hề tìm hiểu tình cảnh Việt Nam trong những năm 1975-1994, và NGK cứ nói bừa, nói ẩu mà không cần đưa ra một dẫn chứng nào cả. Nếu chịu khó tìm hiểu, ông Kiểng sẽ thấy rằng sự thật là ngày 30/4/1975 đến năm 1994 là thời gian Việt Nam ở tình trạng hậu chiến với muôn ngàn khó khăn.

Lúc bấy giờ Việt Nam ở vào cái thế tứ bề thọ địch không khác gì chính quyền Kháng Chiến Việt Nam trong thời gian từ tháng 8/1945 cho đến năm 1949. Trong những năm 1975-1994, chúng ta thấy, chính quyền Việt Nam cùng một lúc phải đối phó với cả thù trong và giặc ngoài:

Thù trong là những lực lương phong kiến phản động, đáng kể nhất là giới tu sĩ và giáo dân Ca-tô mà sào huyệt là các nhà thờ Vatican. Thế lực này có thể cấu kết với nhóm cựu sĩ quan quân đội của chế độ cũ để gây bạo loạn như ở Pháp trong thời Cách Mạng 1789 trong những năm 1789-1815 và ở Nga trong những năm 1918-1923. Vụ Nhà Thờ Vinh Sơn vào năm 1976 là bằng chứng bất khả phủ bác cho sự kiện này. [ix]

Biết việc này mà NGK vẫn nói rằng: "Đó là thời điểm lý tưởng để thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc. Đó cũng là tình trạng lý tưởng cho đảng cộng sản. Họ tuyệt đối không có đối thủ." thì NGK thật lếu láo hết chỗ nói.

Giặc ngoài là:

1.- Trong những năm 1975-1978, chính quyền Pol Pot của Cao Miên luôn luôn đem quân đánh phá các tỉnh vùng ven biên ở miền Nam. [x]

2.- Tháng 2/1979, Trung Quốc đem 600 ngàn quân tấn công các tỉnh vùng ven biên ở miền Bắc.[xi]

3.- Hoa Kỳ thi hành chính sách cấm vận trường kỳ suốt 19 năm trời. Điều này ông NGK không thể nào không biết.

4.- Vatican đánh phá chính quyền bằng cả hai mặt:

a.- Ngoại giao: vận động Hoa Kỳ và nhiều nước khác cô lập và gây khó dễ với Việt Nam về mặt trận ngoại giao và thương mại.

b.- Sử dụng gần 5 triệu tín đồ ở trong nước cũng như ở hải ngoại để đánh phá chính quyền bằng độc chiêu “không được ăn thì đạp đổ”. Độc chiêu này đã từng được Vatican áp dụng đánh phá chính quyền Cách Mạng Pháp 1789 trong những năm 1789-1799 và chính quyền của Hoàng Đế Napoléon I trong những năm 1799-1815.

Với những hòan cảnh như thế, mà NGK vẫn phớt lờ và cho rằng"Đảng cộng sản có thừa thời giờ để sửa chữa những vấp váp không tránh khỏi lúc ban đầu và lãnh đạo đất nước trong một thời gian rất lâu với tất cả sự chính đáng” Nói như thế có khác gì "Vừa trói tay người, vừa bắt người đánh giày cho." Nếu không phải là độc ác thì cũng là dốt nát vậy.

Đồng thời, chính quyền ta cũng phải lo nuôi dưỡng hàng triệu thương phế binh do chiến tranh gây ra và phải xây dựng đất nước trong cảnh ruộng vườn hoang vu, nhà cửa bị thiêu hủy, cầu đường và đê điều bị tàn phá tan hoang, gây ra bởi hơn 7 triệu tấn bom đạn (nhiều hơn ba lần toàn bộ số bom cả hai phe Trục và Đồng Minh sử dụng trong Thế Chiến Thứ Hai) và bởi 77 triệu lít chất độc da cam (do quân đội Mỹ rải xuống miền Nam vĩ tuyến 17). Có thể nói rằng, nếu so với các nước lâm chiến hay bị ảnh hưởng chiến tranh trong cuộc Đệ Nhất Thế Chiến (28/7/1914 – 11/1/1918) cũng như Đệ Nhị Thế Chiến (3/9/1939- 15/8/1945) và chiến tranh Triều Tiên (25/6/1950 – 27/7/1953), không có quốc gia nào ở vào tình trạng bi thảm như Việt Nam sau ngày 30/4/1975. Xin xem thêm phần nhận xét về lời khẳng định số 2 ở trên.

 

XI.- NGK viết:Nhưng chính quyền cộng sản đã “tập trung cải tạo” toàn bộ các sĩ quan và viên chức có một vai trò điều khiển nào đó của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, kể cả các sĩ quan biệt phái, nghĩa là những người đã học hết trung học và đã từng bị động viên nhưng đã rời quân ngũ. Tư cách “sĩ quan biệt phái” chỉ có mục đích duy trì một khả năng lý thuyết là chính quyền có thể gọi họ trở lại quân đội khi cần, một khả năng mà chính quyền Sài Gòn đã không dùng tới ngay cả lúc bị tấn công dữ dội và sắp sụp đổ. Hầu như tất cả những người miền Nam đã học hết trung học và có sức khỏe bình thường nếu không là sĩ quan thì cũng là sĩ quan biệt phái.

NHẬN XÉT: Sai: Ông Kiểng không hề biết đến về vai trò của các nhà thờ Vatican cũng như của giới tu sĩ áo đen và của nhóm thiểu số con chiên người Việt nắm giữ những chức vụ chỉ huy trong chính quyền và trong quân đội trong thời ông Bảo Đại làm quốc trưởng (6/1948-10/1955) và ở miền Nam vĩ truyến 17 trong những năm 1954-1975. Giả thử như cứ để cho các sĩ quan trong quân đội và viên chức trong chính quyền cũ được sống tự do vào những năm 1975-1985, thì chắc chắn là các ông tu sĩ áo đen sẽ tìm cách xúi giục họ (phần lớn là con chiên của Nhà Thờ Vatican và những thành phần phản động có quyền lợi gắn liền với chế độ cũ) kết hợp với nhau thành những đạo quân thập tự chống lại chính quyền đương thời. Vụ nổi loạn do Nhà Thờ Vinh Sơn tại Thành Phố Hồ Chí Minh do mấy viên cựu sĩ quan của chế độ cũ là Nguyễn Việt Hưng, Nguyễn Xuân Hưng, v.v.. và Linh-mục Nguyễn Hữu Nghị, quản nhiệm Nhà Thờ Vinh Sơn, chủ trương và phát động vào tháng Hai năm 1976 như đã nói trong phần nhận xét về lời khẳng định số 10 ở trên là bằng chứng bất khả phủ bác cho luận cứ này.

Những người thấu hiểu lịch sử thế giới đều cho rằng vụ nổi loạn trên đây do Nhà Thờ Vinh Sơn chủ mưu ở miền Nam trong năm1976 là một việc làm nằm trong sách lược của Vaican đối với bất kỳ quốc gia nào có cộng đồng con chiên Vatican đủ để cho Vatican sử dụng để đánh phá bất chính quyền nào thi hành những biện pháp “tách rời quyền lực nhà thờ (tôn giao) ra khỏi chính quyền” hay không chịu thóa mãn những yêu sách phi lý của Giáo Hội La Mã. Trong quá khứ, sách lược này cũng đã được Vatican thi hành ở Pháp ngay sau khi Cách Mạng Pháp 1789 bùng nổ được một hai năm, và ở Nga trong những năm 1918-1920, v.v…

Hơn nữa, nhìn vào lịch sử thế giới, chưa có một biến cố thay đổi chế độ bằng sức mạnh quân sự mà lại không có chuyện cầm tù những thành phần sĩ quan trong quân đội và các viên chức nắm giữ các chức vụ chỉ huy trong chế độ cũ.

Hãy nhìn vào lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại để xem những hành động của Vua Gia Long đối xử với những người thuộc chính quyền của Nhà Tây Sơn như thế nào?[xii]

Hãy đọc lịch sử thế giới để biết rõ sau khi chính quyền Pháp của Hòang Đế Napoléon I bị thảm bại vào năm 1815, chính quyền đạo phiệt Ca-tô của vua Louis XVIII (1814-1824) và vua Charles X (1824-1830) thi hành chính sách trả thù giết hại những người đã tham gia và ủng hộ các chính quyền Cách Mạng Pháp 1789 và chính quyền của Hoàng Đế Napoléon I (1799-1814) như thế nào? Những chiến dịch trả thù cực kỳ dã man của hai chính quyền đạo phiệt Ca-tô này được sách sử gọi là “Cuộc Khủng Bố Trắng” (The White Terror), đều được sách sử ghi lại rõ ràng và cũng đã được chúng tôi trình bày khá đầy đủ trong Chương 4 (nơi các trang 171-212), sách Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX: Đa Nguyên, 2004), và trong Chương 16, sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam (http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_Main.php)

Người viết được biết có rất nhiều cựu sĩ quan thuộc chế độ cũ ở miền Nam (trong những năm 1954-1975) thường nói rằng nếu miền Nam thắng miền Bắc, thì họ sẽ giết hết tất cả những người ủng hộ và những người theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam hay miền Bắc chống lại các chính quyền miền Nam. Xem như thế thì mới biết rằng chính quyền Việt Nam hiện nay đã đối xử với các viên chức cao cấp trong chính quyền cũng như với các sĩ quan trong chế độ cũ ở miền Nam trước kia rất là nhân đạo.

XII.- NGK viết:Nhiều người giải thích một cách hời hợt rằng đảng cộng sản không hiểu tình trạng miền Nam. Nhưng làm sao họ có thể không hiểu? Họ đã gài được hàng trăm, hàng ngàn người vào guồng máy hành chính và quân đội Việt Nam Cộng Hòa, có người làm phụ tá tổng thống, có người lên đến cấp tướng, cán bộ nằm vùng thuộc diện sĩ quan biệt phái nhan nhản. Họ biết hết. Vấn đề là họ muốn tiêu diệt sinh lực của miền Nam để có thể áp đặt chế độ cộng sản mà không bị chống đối. Họ đã đạt mục tiêu. Những năm dài tù tội nghiệt ngã không biết ngày nào ra cùng với sự xỉ nhục hàng ngày và sự xót thương cho vợ con đang đói khổ trong một xã hội suy sụp đã bẻ gẫy hầu hết các nạn nhân. Ngay cả những người sau này ra được nước ngoài cũng không thể trở lại bình thường. Cả một thế hệ ưu tú của miền Nam – cũng là thành phần có kiến thức nhất của cả nước vì cho tới 1975 cố gắng của miền Bắc chỉ tập trung vào chiến tranh – bị hy sinh trên bàn thờ chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là một chính sách diệt chủng kiểu mới, không tiêu diệt thân xác nhưng hủy hoại đầu óc và ý chí.”

NHẬN XÉT: Lời khẳng định cần thiết số 12 này của ông Kiểng, có phần đúng, có phần sai.

Phần ĐÚNG là phần đầu của đoạn văn này. Thực sự là họ (các nhà lãnh đạo chính quyền miền Bắc và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam) biết rõ dân tình và chiến sự ở miền Nam hơn cả những người lãnh đạo chính quyền và nắm giữ các chức vụ chỉ huy trong quân đội miền Nam. Đọc cuốn Điệp Viên Hoàn Hảo Phạm Xuân Ẩn – Bản tiếng Việt (Hà Nội:Nhà Xuất Bản Thông Tin, 2007) của tác giả Lary Berman và nhiều tài liệu khác, chúng ta sẽ thấy rõ sự thật này.

Trong phần này, tác giả đã nói lên cái tâm lý của những người “xuống chó” và nếu là một người thấm nhuần nền đạo lý tam giáo cổ truyện, thì có lẽ ông Kiểng đã ngộ ra vài khái niệm như:“sắc sắc không không”, “hữu nhân hữu quả”, “có vay thì có trả” của nhà Phật.

Phần SAI của đoạn văn này khởi đầu từ “Ngay cả những người sau này ra được nước ngoài cũng không thể trở lại bình thường” cho đến chữ cuối. Khẳng định như thế là ông Kiểng không biết gì thực trạng của những người sang Hoa Kỳ theo diện “H.O” khai với các nhà chức trách rằng “những năm tháng sống trong các trại cải tao (nhà tù) họ bị rơi vào tinh trạng khủng hoảng tinh thần”, rồi “mắc bệnh tâm thần” bất khả trị. Người viết biết rõ có một số không ít người sang Hoa Kỳ thuộc diện này đã khai như vậy với mục đích để được lĩnh tiền trợ cấp theo quy chế của những người tàn tật (disabled). Lý do rất dễ hiểu:

Chương trình H.O tiến hành khởi đầu vào đầu thập niên 1990. Vào thời điểm này, các ông H.O. trước kia có chức vụ càng cao, tuổi càng lớn, nhất là những sĩ quan cấp tá trở lên, ít có người ở tuổi dưới 50. Nói chung, đa số họ ở vào cái tuổi đã lớn, không nói được tiếng Ạnh, nghề chuyên môn cũng không có, lại không có khả năng chịu đựng làm lao động chân tay. Lý do từ khi rời khỏi ghế nhà trường hay mái ấm gia đình, đi lính hay làm quan, rồi nhờ thế lực của các nhà thờ, được các ngài tu sĩ áo đen (1) hoặc là đưa vào nắm giữ những chức vụ chỉ huy, (2) hoặc là đưa vào làm việc ở những cơ quan bắt nạt dân như cảnh sát, mật vụ, công an, an ninh chìm, an ninh nổi. Làm việc trong các cơ quan này, họ tha hồ hét ra lửa mửa ra khói, tác oai tác quái với mọi người. Nếu không lọt được vào cơ quan ác ôn này, thì ít ra họ cũng chạy chọt với Nhà Thờ đưa họ vào làm việc ở các cơ quan “Chiến tranh tâm lý” và làm”sĩ quan tâm lý chiến” để khỏi bị đưa đi các đơn vị chiến đấu. Ở vào các địa vị và quyền lực như vậy, họ chỉ biết ngang tàng hống hách, ra lệnh hay sai bảo những người dưới quyền phải hầu hạ đủ mọi thứ, chứ bản thân họ chẳng bao giờ làm một việc gì gọi là lao động chân tay cả. Hơn nữa, địa vị và quyền lực như vậy đã dễ dàng khiến cho họ sống đời hoang đàng giống như mấy ông giáo hoàng trong Thời Trung Cổ, nghĩa là gặp người con gái nào xinh đẹp là họ xấn xả vào tán, rồi dụ dỗ hay cưỡng ép nạn nhân phải làm vợ. Họ làm như vậy nhiều lần, chứ không phải một lần, nghĩa là cùng một thời gian, họ có nhiều vợ, chứ không phải một vợ.

Sau ngày 30/4/1975, thời thế đổi thay, tất cả thành phần trong giai cấp thống trị trong chế độ cũ đều trở thành người dân thường để nhường chỗ “ăn trên ngồi trốc” cho lớp người mới của chế độ mới. Ở vào cái thế mất hết tất cả, nhiều người bị vợ bỏ rơi khi đi học tập. Với thực trạng này, dù muốn dù không, họ trở thành những người bất mãn. Bất mãn rồi sinh ra tinh thần chống đối. Nếu khôn ngoan thì họ giữ cái nỗi lòng bất mãn này ở trong lòng. Nếu thiếu khôn ngoan hay sơ ý, họ sẽ bộc lộ cho người khác biết. Là con chiên ngoan đạo đã từng được hưởng những ân sủng của chế độ cũ do sự móc nối với nhà thờ mà có, thì bậy giờ ở trong cảnh xuống chó, họ cũng thường hay lui tới nhà thờ với bề ngòai là đi xem lễ (dự lễ) nhưng cũng là để thổ lộ nỗi lòng bất mãn của họ. Như vậy, nhà thờ đương nhiên trở thành nơi họ đến xả bầu tâm sự của những người cùng "cảnh ngộ xuống chó" như họ.

Khốn nỗi, sau ngày 30/4/1975, Nhà Thờ Vatican không còn có quyền lực ra vào cửa quyền để chạy chọt giúp đỡ cho họ được nữa. Tuy nhiên, nó lại trở thành là địa điểm quy tụ "những thành phần xuống chó" như đã nói trên. Từ đó mới đưa đến những vụ bạo loạn giống như vụ bạo loạn tại nhà thờ Vinh Sơn vào năm 1976 và các vụ bạo sau này như vụ Linh-mục Nguyễn Văn Lý chủ mưu tại giáo xứ Nguyệt Biều (Huế) vào năm 1997, kéo dài trong nhiều năm.

Tiếp theo là ngày 8 tháng 4 năm 2006, họ thành lập Khối 8406 mà khởi đầu đã có tới 16 linh mục và 3 mục sư gia nhập trong số 118 thành viên tiên khởi của “Hắc Y Thập Ác” này để chống chính quyền (Xin xem Chương 10, Phần II, sách Mối Ác Cảm Của Nhân Dân Thế Giới Đối Với Giáo Hội La Mã: http://sachhiem.net/NMQ/MOIACCAM/MoiAcCam_Main.php). Rồi từ đó họ phát minh ra thủ đoạn sử dụng những cụm từ “cầu nguyện” và “hiệp thông cầu nguyện”, “tranh đấu cho quyền tự do tôn giáo”, “Tranh đấu cho quyền tự do dân chủ chio Việt Nam” , tất cả đều là khẩu hiệu đánh phá chính quyên và ăn cướp đất cho Vatican. (Thủ đoạn này giống y thủ đoạn mà Liên Minh Xâm Lược Pháp sử dụng cụm từ “khai hóa văn minh” và “Đòi được quyền tự do truyền đạođể lấy cớ đánh chiếm nước ta trong hồi thế kỷ 19.)

Rồi từ đó, họ phát động các vụ bạo loạn khác tiếp theo. Đó là các vụ (1) vụ tại 42 Phố Nhà Chung Hà Nội (từ ngày 18/12/2007 cho đến ngày 30/1/2009), (2) vụ tại 178 Đường Nguyễn Lương Bằng (từ ngày 18/8/2008 đến ngày30/8/2008), (3) vụ An Bằng, Huế (từ đầu năm 2008 cho đến tháng 1/2009), (4) Vụ Nhà Thờ Tam Tòa, Hà Tĩnh (từ ngày 22/7/2009 kéo dài trong nhiều ngày), (5) Vụ Loan Lý, thuộc giáo phận Huế (14/9/2009 kéo dài trong nhiều ngày), (6) Vụ Đồng Chiêm, thuộc giáo phận Hà Nôi (từ ngày 6/1/2010 kéo dài trong nhiều ngày), (7) vụ Cồn Dầu , Đà Nẵng (xẩy ra từ đầu tháng 5/5/2010). Hậu quả những vụ nổi loạn chống chính quyền như thế nào, mọi người đều biết. Trong tương lai, không biết sẽ còn xẩy ra ở đâu nữa.

Sự đời, tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác, ác giả ác báo. Trước kia còn quyền thế, ác nghiệp chồng chất, thì bây giờ thất thế, “ác nghiệp” lững thững hiện về bám chặt lấy họ.

Cũng may là người Mỹ nhân đạo đưa ra chương trình H.O. bằng lòng bảo lãnh họ sang Hoa Kỳ coi như là để trả ơn cho công lao ngày xưa đã làm tay sai đắc lực cho ho. Và cũng nhờ lòng tốt của chính quyền Việt Nam đã tích cực làm những thủ tục giấy tờ cho họ ra đi một cách dễ dàng. Nhà chức trách đương quyền Việt Nam đã không hành động giống như chính quyền Ngô Đình Diệm ngày xưa. Trong những năm 1954-1963, chính quyền Ngô Đình Diệm luôn luôn tìm cách chặn đứng hay gây khó khăn cho những du học sinh đã được người Mỹ giúp đỡ xin được học bổng sang Mỹ du học mà chuyện du học của Giáo-sư Ngô Vĩnh Long là một trong những trường hợp điển hình cho sự kiện này. Chuyện ông Ngô Vĩnh Long bị chính quyền Ngô Đình Diệm mưu đồ ngăn cản không cấp giấy xuất ngọai cho ông sang Hoa Kỳ du học đã được chúng tôi trình bày khá rõ ràng trong Mục XI, Chương 11, Phần II, sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã Mục XI (http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH11_1.php.)

May mắn cho họ được đưa sang Mỹ định cư, nhưng vì tiếng Anh loạng quạng, nghề chuyên môn không có, lại không quen với những việc làm lao động chân tay.Trong khi đó, lại có một số phần từ xấu người Việt đi trước, làm việc tại Bộ Xã Hội, mách nước chỉ đường cho khai gian là mắc bệnh tâm thần để được lĩnh tiền theo diện này. Tại thành phố người viết cư ngụ, có một số khá nhiều người đã làm như vậy, và có ít nhất là một ông người Việt vừa tìm mối và đưa mối, vừa làm trung gian cho các ông bà khách hàng thuộc lọai này. Ông ta bị đưa ra tòa xử lý và bị xử phạt tới tám năm tù. Chuyện này hầu như mọi người Việt định cư ở thành phố Tacoma Washington) đều biết nếu trong thời gian này họ có mặt ở đây. Ông Kiểng nói rằng“Ngay cả những người sau này ra được nước ngoài cũng không thể trở lại bình thường” chính là những người ở vào trường hợp trên đây.

XIII.- NGK viết:Ngày nay, 35 năm sau cuộc chiến, nếu có một điều phải khẳng định dứt khoát thì đó là cuộc chiến 1945-1975, đặc biệt là giai đoạn 1954-1975 đã là một cuộc nội chiến, một cuộc nội chiến khốc liệt với những tàn hại kinh khủng và lâu dài cho đất nước. Nó phải bị lên án như một tội ác hay ít nhất như một sự điên dại. Cần nhấn mạnh là ngay trong nền tảng triết lý của nó, chủ nghĩa Mác-Lênin không bao giờ coi nội chiến là một điều nên tránh và cũng không bao giờ do dự khi có thể sử dụng bạo lực. Cả Marx lẫn Lenin, đặc biệt là Lenin, đều coi nội chiến như là một bắt buộc. Những ai chưa tin điều này chỉ cần đọc lại Lenin, ông ta đã nhắc lại rất nhiều lần rằng “nội chiến là sự tiếp nối, phát triển và tăng cường độ tự nhiên của đấu tranh giai cấp”.

NHẬN XÉT: Lời phát biểu trên đây của ông Kiểng sai, ngàn lần sai! Lý do: Cả hai cuộc chiến 1954-1945 và 1954-1975 đều là cuộc chiến đánh đuổi thế lực ngoại xâm để giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, chứ không phải là nội chiến như ông Kiểng và các ông văn nô Ca-tô hay bộ máy truyền truyền của Vatican thường rêu rao. Ai cũng biết rằng, từ năm 1858, Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican (có quân thập tự Tây Ban Nha góp phần) đem quân tấn chiếm và thống trị nước ta cho đến ngày 9/3/1945 thì bị người Nhật lật đổ. Trong suốt thời gian trên đây, tiền nhân ta đã liên tục nối lên tổ chức các lực lượng võ trang để đánh đuổi liên minh giặc cướp xâm lăng này, nhưng tất cả đều không thành công. Tối khuya ngày 9/3/1945, Nhật lật đổ liên minh xâm lược này trực tiếp nặm quyền thống trị nước ta. Như vậy là vào ngày này, giang sơn ta đổi chủ, từ ông chủ Pháp – Vatican chuyển sang tay ông chủ Nhật. Ngày 15/8/1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh và chờ quân đội Đồng Minh đến giải giới để hồi hương. Kể từ ngày này, biết rằng không còn quyền hành gì nữa, chính quyền Nhật tại Đông Dương trở thành thụ động, rồi bất động khiến cho nước ta trở thành một “khoảng trống chin trị” (a political vacuum). Đây là cơ hội bằng vàng giúp cho các tổ chức chính trị cách mạng yêu nước của dân ta đã họat động từ nhiều năm trước trong các vùng ven biên Việt – Hoa ở cả hai nước Việt Nam và Trung Quốc vùng lên cướp chính quyền từ trong tay người Nhật để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc.

Trong số các tổ chức chính trị cách mạng yêu nước này, chỉ có Mặt Trận Việt Minh là có đủ những điều kiện cần và đủ để thành công. Những điều kiện đó là:

A.- Có lý tưởng cách mạng với chủ trương:

1.- Đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Pháp - Vatican và quân phiệt xâm lăng Nhật để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc,

2.- Lọai bỏ chế độ quân chủ bất kể là trung ương tập quyền hay quân chủ lập hiến để giải thóat cho nhân dân các ách phong kiến lỗi thời vừa cản trờ bước đường tiến hóa của nhân dân, vừa làm mất nhân phẩm con người . Chủ trương này đã được:

a.- Hoa Kỳ thực thi ngay từ khi mới lập quốc trong thời kỳ sọan thảo hiến pháp vào năm 1787,

b.- Mễ Tây Cơ đã thực hiện ngay khi thóat người ác thống trị của Liên Minh Xâm Lược Tây Ban Nha – Vatican và rõ rệt nhất là Hiến Pháp 1857 của họ,

c.- Pháp đã cương quyến dứt khóat thực thi từ năm 1870 ngay từ khi họ lật độ nền Đệ Nhị Đế Chính của Pháp Hoàng Napoléon III vào tháng 9/1870,

d.- Ý Đại Lợi đã cũng thực hiện từ năm này (1870),

e.- Trung Quốc đã làm từ năm 1911,

3.- Lọai bỏ mọi ảnh hưởng của tôn giáo và giới tu sĩ của bất kỳ tôn giáo nào ra khỏi chính quyền,

4.-Thi hành những biện pháp cách mạng để xóa bỏ những tàn tích đế quốc, phong kiến lỗi thời của các chế độ cũ để lại, và

5.- Thi hành những biện pháp cách mạng kinh tế để xóa bỏ những bất công về kinh tế trong xã hội, đặc biệt là trong các vùng nông thôn, nhất là người dân Việt Nam vừa mới kinh qua thảm họa chết đói tới hai triệu người trong khi những kho thóc của nhà thờ Vatican vẫn con nguyên vẹn, không đem ra phát chẩn cho nạn nhân.

B.- Có thành phần lãnh đạo nhiệt tình yêu nước, thiết tha với  lý tưởng cách mạng đã nêu lên trong điều kiện A ở trên, có tài lãnh đạo và tài tổ chức, có kiến thức sâu rộng về chính trị và nắm vững kỹ thuật làm cách mạng, phải biết quên mình, quyết tâm dấn thân vì cách mạng, chấp nhận chịu đựng gian khổ và khó khăn, và đặc biệt nhất là không vị kỷ, không háo danh, không tham ô nhũng lạm.

C.- Không do một thế lực ngọai bang dựng nên.

D.- Không liên hệ với một thế lực ngoại bang, không phục vụ cho một thế lực ngọai bang, và cũng không phục vụ cho một tôn giáo nào cả.

Thiết tưởng cũng nên phân biệt rõ ràng là một chủ thuyết cách mạng chính trị và cách mạng xã hội không phải là một thế lực ngọai bang. Chủ thuyết cộng sản của Karl Marx (1818-1883) và Friedrich Engels (1820-1995) là một chủ thuyết chính trị và cách mạng xã hội, giống như chủ thuyết chính trị của John Locke (1632-1704) hay của Jean Jacques Rousseau (1712-1778) và Tam Dân Chủ Nghĩa của Tôn Trung Sơn (1866-1925). Chỉ có một điều hơi khác là chủ thuyết cộng sản nặng về các biện pháp cải cách kinh tế và xã hội, công khai lên án Giáo Hội La Mã, coi tôn giáo này là một đại thảm họa đối với loài người và gọi nó là một thứ thuộc phiện vì nó có tác dụng làm cho con người bạc nhược và hủy họai ý chi sinh tồn của dân tộc. Trong khi đó thì các chủ thuyết chính trị của John Locke hay của Jean Jacques Rousseau và của Tôn Trung Sơn cũng chống lại Giáo Hội La Mã, nhưng chống bằng phương cách giáo dục quần chúng, nâng cao dân trí . Rồi từ đó, người ta sẽ dùng lý trí để nhìn ra bộ mặt thật ghê tởm của hệ phái tôn giáo này, ghê tởm đến độ Văn hào Voltaire đã phải gọi nó là “cái tôn giáo ác ôn”, học giả Henri Guillemin gọi nó là “cái giáo hội khốn nạn” và học giả Charlie Nguyễn gọi nó là “đạo máu” và “đạo bịp”.

Còn các chính đảng như Việt Quốc của các ông Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam, Nghiêm Kế Tổ, Việt Cách của ông Nguyễn Hải Thần, Đại Việt Phục Hưng của các ông con chiên Cường Để , Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, và các chính đảng khác đều không có những điều kiện cần và đủ như đã nói ở trên, cho nên họ chẳng làm nên trò trống gì cả.

Ngày 19//8/1945, Việt Minh dấy lên cướp được chính quyền từ trong tay quân xâm lăng Nhật và thành lập chính quyền. Đây là chính quyền độc lập với quốc hiệu là Việt Nam, với thể chế là Dân Chủ Cộng Hòa , với quốc kỳ là cờ đỏ sao vàng và với quốc ca là bản Tiến Quân Ca do nhạc sĩ Văn Cao sáng tác. Đây là công nghiệp của các nhà ái quốc đã tận tụy hy sinh suốt đời tranh đấu cho quyền lợi tối thượng của dân tộc lập nên dưới quyễn lãnh đạo của cụ Hồ Chín Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam. Ngày 2/9/1945, chính quyền này long trọng công bố Bản Tuyên Ngôn Độc Lập trong một cuộc mít tinh tại Quảng Trường Ba Đình có trên nửa triệu người tham dự dưới rừng cờ đỏ sao vàng và biểu ngữ chào mừng tân chính quyền và nền độc lập vừa mới giành được của toàn thể nhân dân.

Sự thực lịch sử là như vậy. Không ai có thể chối cãi được rằng Vỉệt Nam đã giành được độc và có chính quyền với đầy đủ uy quyền và được toàn dân nhiêt liệt ủng hộ.

Thế nhưng, các thế lực cựu thù là Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican cùng với các nhóm thiểu số phản động phong kiến và Việt gian lại cấu kết với nhauđem quân tái chiếm Đông Dương mưu đồ phục hồi quyền lực cũ của họ ở trên đất nước của chúng ta. Cũng vì thế mà sau hai tuần lễ bị Nhật lật đổ (vào ngày 9/3/1945) thì tổng thống lâm thời của chính quyền đế quốc thực dân Pháp là Charles De Gaulle mới đưa ra bản tuyên cáo (vào ngày 24/3/1945) sẽ đem quân sang tái chiếm Đông Dương . Đây là một mưu đồ bất chính..

Georges Thierry d’ Argenlieu - Ảnh maquetland.comRồi sau đó, ngày 17/8/1945, một nhân vật vừa mang quốc tịch Vatican vừa mang quốc tịch Pháp là cựu linh–mục Georges Thierry d’ Argenlieu được cả Pháp và Vatican đồng thuận bổ nhậm làm Cao Ủy Đông Dương (tức là chức vụ tòan quyền Đông Dương) đem quân sang tái chiếm và tái lập quyền lực của cả hai thế lực Pháp và Vatican ở phần đất này. Cũng vì thế mà tòan thể nhân dân ta dưới quyền lãnh đạo của chính quyền Hồ Chí Minh lại phải lao vào cuộc chiến chống lại liên minh xâm lược này để bảo toàn chủ quyền độc lập vừa mới giành được của dân ta. Sự kiện này cho thấy rằng chính quyền kháng chiến dưới quyền lãnh đạo của Đảng Cộng Sản hay Mặt Trận Việt Minh do cụ Hồ Chí Minh làm chủ tịch có chính nghĩa dân tộc và đã đáp ứng được nguyện vọng của toàn dân là “đánh đuổi quân giặc lăng để bảo tòan chủ quyền độc lập của dân tộc”. Như vậy, rõ ràng là cuộc chiến này là cuộc chiến chống xâm lăng, và làm sao lại có thể gọi là nội chiến được?

Hơn nữa, ngay sau khi bản Tuyên Ngôn Độc Lập vào ngày 2/9/1945 vừa mới công bố được hơn một tuần lễ, thì quân Pháp núp bóng quân Anh đổ bộ vào Sàigòn, tấn công chính quyền ta ở Sàigòn khiến cho cụộc chiến chính thức bùng nổ ở miền Nam vào ngày 23/9/1945. Tiếp đó, ngày 28/12/1945, vị khâm sứ đại diện của Vatican (một thành viên của Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican) tại Hà Nội là Tổng Giám Mục Antoni Drapier đưa ra đề nghị dùng Bảo Đại lập chính quyền để làm công cụ cho cả Pháp và Vatican chống lại chính quyền kháng chiến của nhân dân ta trong kế hoạch tái lập quyền lực ở Việt Nam. Sự kiện này cho thấy rõ ràng là chính quyền Bảo Đại chỉ là chính quyền bù nhìn do liên minh giặc dựng nên để làm tay sai cho chúng chống lại nhân dân ta. Như vậy thì làm sao có thể gọi chính quyền Bảo Đại là một thế lực tự phát từ nhân dân để gọi cuộc chiến này là nội chiến được? Nêu cứ gọi là nội chiến thì có phải là ngược ngạo và cưỡng từ đoạt lý không?

Tháng 5 năm 1954, liên quân Pháp - Vatican bị thảm bại tại các cứ điểm Điện Biên Phủ, khiến cho Pháp phải nghiêm chính thương thuyết với phái đoàn của chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Hội Nghi Geneve 1954 để chấm dứt chiến tranh. Kết quả là cả hai bên đều đồng thụận là: (1) Pháp công nhận chủ quyền độc lập của dân tộc ta, (2) tạm thời lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới chia đôi Việt Nam và sẽ tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước vào tháng 7 năm 1956, (3) rút quân về miền nam Nam trú đóng chờ khi tổng tuyển cử thống nhất đất nước thì sẽ rút về nước.

Thỏa hiệp này chính thức khai tử Liên Minh Minh Xâm Lược Pháp - Vatican. Rồi Mỹ nhẩy vào thay thế Pháp và Liên Mịnh Xâm Lược Mỹ - Vatican thành hình kể từ đây. Ngay sau vừa thành hình vào khi Liên Quân Xâm Lược Pháp - Vatican bị thảm bại tại Điện Biên Phủ, Liên Minh Xâm Lược Mỹ -Vatican liền đưa con bài của Vatican là  Ngô Đình Diệm về Việt Nam cầm quyền, chuẩn bi thay thế Bảo Đại, lập chính quyền làm tay sai cho cả Mỹ và Vatican với mục đích duy trì Việt Nam mãi mãi ở trong tình trạng chia đôi để biến miền Nam thành tiền đồn chống Cộng theo nhu cầu chiến lựợc “be bờ” (containment policy) của Hoa Kỳ và để cho Vatican dễ bề tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa miền Nam bằng bạo lực. Như vậy là các chính quyền miền Nam trong những năm 1954-1975 chỉ là công cụ phục vụ cho quyền lợi riêng cho Hoa Kỳ và Vatican.

Với thực trạng như vậy, miền Bắc bị bắt buộc phải phát động cuộc chiến để đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican để đòi lại miền Nam cho dân tộc và đem lại thống cho tổ quốc. Thực tế là như thế, làm sao có thể gọi là nội chiến được?

Rõ ràng là ai cũng biết rằng, các chính quyền Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu đều do Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican và Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican dựng nên. Các chính quyền này được nuôi sống bằng đồng tiền của Pháp và của Mỹ, được bảo vệ bằng quân đội Pháp, quân thập tự của Vatican và quân đội Mỹ. Khi Pháp bỏ chạy, thì cả chính quyền và quân đội Bảo Đại cũng bỏ chạy. Khi Mỹ ra lệnh cho chính quyền Ngô Đình Diệm không được bách hại Phật Giáo và không được đàn áp học sinh, sinh viên nữa, chính quyền này không nghe, cưỡng lại lệnh của Mỹ, tức thì bị Mỹ cúp viện trợ và ngoảnh mặt đi, để mặc cho quân dân miền Nam kéo quân về Sàigòn lật đổ chính quyền và lôi cổ anh em Ngô Đình Diệm ra đập chết. Khi Mỹ bỏ rơi miền Nam, thì toàn bộ chính quyền và quân đội miền Nam đều rơi vào tình trạng rã ngũ tan hàng, tranh nhau chạy trốn. Sự kiện lịch sử rõ ràng  là như thế!Làm sao có thể gọi cuộc chiên 1954-1975  là nội chiến được?

 

XIV.- NGK viết: “Cũng không thể dựa vào sự can thiệp của Mỹ để biện luận rằng đó là một cuộc chiến chống xâm lăng. Quyết định chiến tranh của đảng cộng sản đã có rất lâu trước khi Mỹ can thiệp và cũng không phải chỉ có miền Nam dựa vào nước ngoài. Cuốn sách “Năm đường mòn Hồ Chí Minh” vừa xuất bản gần đây tại Hà Nội, trích dẫn một sưu tập của đại tá Trần Tiến Hoạt, cho biết Hà Nội đã nhận một lượng viện trợ quân sự rất lớn từ khối cộng sản (1). Binh sĩ Liên Xô và Trung Quốc tử trận tại Việt Nam cũng không ít, một số vẫn còn được chôn cất ngay tại Việt Nam tại các nghĩa trang dành riêng cho họ: Trong bài “Nguồn viện trợ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nuớc xã hội chủ nghĩa”, nguyệt san Sự kiện và nhân chứng, Hà Nội, số 136, tháng 4-2005, tr.80, đại Tá Trần Tiến Hoạt đã đưa ra một thống kê chi tiết về viện trợ của khối cộng sản cho Bắc Việt. Riêng về súng cá nhân đước chuyển vào miền Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh, đại tá Hoạt liệt kê : 2 227 677 khẩu súng Trung Quốc, 439 198 khẩu súng Liên Xô và 942 988 khẩu súng của các nước cộng sản khác (tổng cộng 3.609.863 khẩu súng).”

NHẬN XÉT: Lời “khằng định cần thiết” này của ông Kiểng sai 100%. Ông Kiểng đã viết láo, viết ẩu và ngụy biện! Để triình bày sư sai lầm hay nói láo nói ẩu và ngụy biện này của ông Kiểng trong đoạn văn trên đây, trước hết xin nói rõ về định nghĩa của động từ “xâm lăng”.

Theo Việt Nam Tự Điển của học giả Lê Văn Đức thì: “Xâm lăng là đánh phá để cướp nước người.”

Theo The American Hertitage Dictionary of The English Language, thì động từ “invade” được định nghĩa như sau: “dùng quân đội xâm nhâp để chinh phục hay tràn vào” (To enter by force in order to conquer or overrun.”

Trở lại đọan văn ông trên đây, ông Nguyễn Gia Kiểng khẳng định rằng, “Cũng không thể dựa vào sự can thiệp của Mỹ để biện luận rằng đó là một cuộc chiến chống xâm lăng…” Thế nhưng trong thực tế, cũng như sách sử đều ghi nhận và công nhận rằng, “Trong thời gian 1954-1973, siêu cường Hoa Kỳ đem quân đội nhà nghề với đủ cả Hải, Lục và Không Quân trang bị bằng những vũ khi tối tân và hiện đại nhất tiến vào lãnh thổ Việt Nam Nam chiếm đóng ở miền Nam.” Như vậy, nếu không gọi quân đội Mỹ là quân đội xâm lăng, thì gọi nó là quân đội gì, thưa ông Nguyễn Gia Kiểng? .

Một vài ảnh tài liệu (nguồn http://dantri.vcmedia.vn/) ?

Máy bay B52 ném bom tàn phá Hà Nội trong chiến dịch Linebacker II từ ngày 18/12 đến 29/12/1972.

Phố Khâm Thiên bị máy bay B52 ném bom huỷ diệt ngày 26/12/1972.

Bệnh viện Bạch Mai bị tàn phá ngày 22/12/1972.

Về ông Ngô Đình Diệm và chính quyền của ông ta, sách sử đều ghi lại rõ rằng ông ta là một tín đồ Ca-tô ngoan đạo của Vatican, đươc Vatican cho một viên chức của Vatican là Giám-mục Ngô Đình Thục dẫn sang Mỹ giao cho một nhân vật cao cấp khác của Vatican là Hồng Y Francis Spellman đảm trách việc vận động các tín đồ Ca-tô có thế lực trong chính quyền và chính trường Mỹ đưa ông ta (ông Diệm) về Việt Nam cầm quyền để phục vụ quyền lợi cho cả Mỹ và Vatican.

Vấn đề này đã được chúng tôi trình bàt rẩt rõ ràng trong Chương 60 với tựa đề là “Những Tính Toán Của Vatican Trong Năm 1950” (Mục XVIII, Phần VI) sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã. Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net. http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH60-1.php

Như vậy, nếu không gọi là chính quyền này là chính quyền làm tay sai cho cả Vatican và Mỹ, thì phải gọi nó là cái gì để cho nó hợp với cái xuất xứ và thực chất của nó?

Rồi sau chính quyền Ca-tô Ngô Đình Diệm, chính quyền quân phiệt Ca-tô Nguyễn Văn Thiệu có thóat ra khỏii vòng kìm kẹp của Hoa Kỳ và của Vatican không? Sự thật như thế nào, sách sử đều ghi rõ và những người đương thời đều biết rõ, ngọai trừ những người đồng đạo của con chiên Nguyễn Văn Thiệu và những người được hưởng những đặc quyền đặc lợi của chính quyền đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm hay Nguyễn Văn Thiệu.

Bộ máy tuyên truyền của Vatican và những ông con chiên văn nô người Việt cũng như những người được hưởng đặc quyền đặc lợi của các chính quyền miền Nam trong những năm 1954-1975 thường gọi quân đội Bắc Việt vào chiến đấu ở miền Nam là quân xâm lăng. Gọi như vậy quả thật là ngược ngạo nếu không phải là “cưỡng từ đoạt lý”. Ngược ngạo hơn nữa, họ lại không nhìn nhận sự hiện diện quân đội Mỹ và các đạo quân ngọai quốc khác ở miền Nam trong những năm 1954-1975 là quân xâm lăng. Hiển nhiên, là ai cũng nhìn thấy rõ cái lối nói ngụy biện, ngoan cố và ngược ngạo của họ. Thế nhưng, họ vẫn ngoan cố, vẫn nói ngược một cách trắng trợn mà không biết ngượng một chút nào cả! .

Để biện minh cho luận cứ gượng gạo, nặng tính cách ngược ngạo và cưỡng từ đoạt lý như vậy, ông Kiểng đưa ra một dẫn chứng vừa vu vơ , vừa thiên vị: “Binh sĩ Liên Xô và Trung Quốc tử trận tại Việt Nam cũng không ít, một số vẫn còn được chôn cất ngay tại Việt Nam tại các nghĩa trang dành riêng cho họ,….” (rõ ràng cái lối nói như vậy không thuyết phục đuợc ai cả). Thiên vị vì rằng ông ta không đả động gì đến việc các chính quyền bù nhìn miền Nam tiếp nhận hơn nửa triệu quân ngoại nhâp được trang bị bằng những vũ khi tối tân nhất và hiện đại nhất của một siêu cường vào bậc nhất trên thế giới. Ấy là chưa nói đến nhiều sư đoàn thiện chiến Đai Hàn, nhiều tiểu đòan tinh binh Úc Đại Lợi, nhiều đơn vị quân đội của các nước khác gọi là đồng minh của Hoa Kỳ, tất cả đều được trang bị bằng vũ khí hiện đại nhất của Hoa Kỳ cũng đổ bộ vào miền Nam chiến đấu bên cạnh hơn nửa triệu quân Hoa Kỳ. Xin đọc tập Hồi Ký của một cựu chiến binh Hàn Quốc "Kim Jin Sun"

(http://sachhiem.net/THOISU_CT/ChuK/KimJinSun1.php)

Trong khi đó thì miền Bắc chỉ sử dụng  những vũ khí đánh bộ và vũ khí phòng không của Liên sô và của Trung Quốc. Tại các chiến trường ở miền Nam vĩ tuyến 17, (không nói chuyện không chiến ở  miền Bắc vĩ tuyến 17, và cũng không nói việc chính quyền miền Bắc tiếp nhận các chiến đấu có của Liên Sô hay của Trung Quốc  cho đến năm 1975, mà chỉ nói chiến sự ở miền Nam vĩ tuyến 17, quân đội miền Bắc cũng như quân đội của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam  không hề sử dụng không quân (không có oanh tạc cơ, không có chiến đấu cơ, không có phi cơ vận tải, không có phi cơ thám thính), và hầu như không có đủ chiến tầu  để đối đàu hải quân địch. Địch hoàn toàn làm chủ không phận và hải phận Việt Nam, và cũng không có  lính đánh bộ người ngoại quốc. Ấy thế mà họ la lối rùm beng rằng là miền Bắc được Liên Sô và Trung Quốc viện trợ vũ khí dồi dào hơn miền Nam! (đoạn này bổ túc ngày 10 July 2013)

Nêu lên một cách vu vơ một cuốn sách của một tác giả không mấy ai biết đến mà không trình bày cụ thể có bao nhiêu lính Nga, bao nhiêu lính Trung Cộng chết tại chiến trường Việt Nam trong những năm 1945-1975 để hỗ trợ cho luận cứ ngây ngô đưa ra. Viết như vậy, thì quả thật là một trò hề cho thiên hạ cười. Không hiểu sao một người có học vị đại học tốt nghiệp từ một đại học Pháp như ông Kiểng mà lại có thể viết như thế được! Quả thật là ông Kiểng đã làm cho trường đại học Pháp mà ông đã theo học cho đến ngày tốt nghiệp mang tiếng xấu vì ông. Ngòai ra, ông Kiểng lại còn nói về số lương vũ khí mà Nga và Trung Cộng viện trợ cho miền Bắc, nhưng ông ta lại không nói đến số lượng vũ khí và bom đạn mà Hoa Kỳ đã trút xuống đất nước Việt Nam thân thương của chúng ta đến khoảng 7 triệu tấn, hơn ba lần toàn bộ số bom cả hai phe Trục và Đồng Minh sử dụng trong hơn 6 năm của thời Đệ Nhị Thế Chiên (1939-1945).. Xin xem lại phần nhận xét trong đoạn văn mang số 2 ở trên. Ngòai ra, Hoa Kỳ còn trút 77 triệu lít chất độc hóa Học Da Cam xuống các vùng ngoài tầm kiểm soát của chính quyền Sàigòn ở miền Nam vĩ tuyến 17.

Nói tóm lại, (1) hầu như tất cả những ngôn từ được ông Kiểng cũng như những người đồng đạo hay cùng phe cánh của ông sử dụng đều mang nặng tính cách ngược ngạo và cưỡng từ đoạt lý, và (2) tất cả những luận điệu của ông Kiểng và phe cánh của ông ta đưa ra đều mang nặng tính cách tính thiên vị, mất hết đức công bằng. Trước đây, người viết cũng đã từng nói rõ về một số khá nhiều đặc tính của giới tu sĩ áo đen và nhóm thiểu số con chỉên người Việt. Một trong những đặc tính của nhóm người này là “bất kỳ cái gì của, hoặc là thụộc về Giáo Hội La Mã hay cùng phe cánh với giáo hôi đều tốt đẹp, đều thánh thiện, đều tuyệt vời, và tất cả những gì không thuộc về hay không phải của Giáo Hội La Mã đều xấu xa, đều tội ác và đều phài sửa đổi theo tiêu chuẩn của giáo hội, nếu không thì phải bị hủy diệt.” Những đặc trính này đã được chúng tôi trình bày khá rõ ràng trong tiểu mục “Những Đặc Tính Chung Của Những Tín Đồ Da-tô”, Chương 63, Mục XVIII, Phần VI, sach Lịch Sử Và Hồ Sơ Tội Ác Cua Giáo hội La Mã (http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH63_1e.php)

Viết ẩu tả và viết láo khóet như vậy mà ông con chiên Nguyễn Gia Kiểng cũng viết được. Sự kiện này chứng tỏ ông Kiểng chỉ là một thứ ếch ngồi đáy giếng, không còn biết đến các nhà viết sử có tầm vóc đã viết về cuộc chiến Việt Nam ra gì nữa! Các sử gia như Joseph Buttinger, Bernard B. Fall, Stanley Karnow, Avro Manhattan, William J. Duiker, Denis Warner, Frances FitzGerald, Alfred W. McCoy, William J. Lederer, Stanley I. Kutler, Trần Tam Tỉnh, Lê Thành Khôi, Cao Huy Thuần, Ngô Vĩnh Long, v.v…, và tất cả các tác phẩm của họ đều bị ông con chiên Nguyễn Gia Kiểng coi không ra cái gì cả!

 

XV.- NGK viết:Nói như thế không có nghĩa là chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã có chính nghĩa. Chính quyền Quốc Gia Việt Nam, sau này trở thành Việt Nam Cộng Hòa, đã được thành lập như là sự tiếp nối của chế độ Pháp thuộc trên một chiến hạm Pháp ở ngoài khơi vịnh Hạ Long, do một sự dàn xếp giữa người Pháp và một số cộng sự viên của Pháp đứng đầu là Bảo Đại, vị vua trác táng và bất xứng nhất của triều Nguyễn đã thoái vị và trao quyền cho đảng cộng sản.

NHẬN XÉT: Đúng. Sự thực cái gọi là: “ chính quyền Quốc Gia do ông Bảo Đại làm quốc trưởng từ ngày 2/6/1955 cho đến ngày 23/10/1955 cũng như các chính quyền miền Nam Việt Nam từ khi ông Ngô Đình Diệm được Mỹ và Vatican đưa về Việt Nam cầm quyền bắt đầu vào ngày 7/7/1954 cho đến 10:30 giờ sáng ngày 30/4/1975” hoàn toàn không có chính nghĩa.

Tuy nhiên, có một điều cần phải nói là ông Kiểng sử dụng cụm từ “cộng sự viên” thay vì cụm từ “người Việt làm tay sai cho cả Pháp và Vatican” là một thủ đoạn tránh né, không muốn nói đến cái tội làm Việt gian bán nước cho cả Vatican, cho Pháp và cho Mỹ của chính quyền Bảo Đại. Dưới đây là một só bằng chứng bất khả phủ bác về sự kiện Bảo Đại làm tay sai cho cả Vatican và Pháp:

Bằng chứng thứ nhất là việc ban hành Dụ số 10 vào ngày 6 tháng 8 năm 1950 để hợp thức hóa khối bất động sản khổng lồ do các giáo sĩ người Pháp đứng tên mà Vatican đã dựa vào chính quyền Bảo Hộ cướp đoạt được của dân tộc Việt Nam từ năm 1862 cho đến lúc bấy giờ bằng cách chuyển khối tài sản này sang cho các tu sĩ áo đen người Việt đứng tên

Bằng chứng thứ hai là việc ban hành Dụ số 12 vào ngày 12/7/1951 ra lệnh cưỡng bách thanh niện trong vùng giặc tạm chiếm phải nhập ngũ làm lính đánh thuê chết thay cho quân lính của Liên Minh Xâm Lược Pháp người Pháp, người Âu Châu khác và người Phi Châu.

 

XVI.- NGK viết: Trong suốt thời gian tồn tại của các chính quyền quốc gia yêu nước, quan tâm chính trị và tinh thần dân tộc không bao giờ được coi là những yếu tố tuyển chọn và thăng tiến, trái lại còn có thể là lý do để bị ngờ vực và trù dập. Trừ một vài ngoại lệ không đáng kể, quyền hành luôn luôn ở trong tay những người đã từng cộng tác với Pháp để chống lại cuộc đấu tranh giành độc lập hoặc con cháu họ và một số ít ỏi đã hội nhập và chấp nhận luật chơi của những người này. Những người này là một lớp người riêng, rất cách biệt với quần chúng Việt Nam mà họ nhìn một cách rẻ rúng. Trong tuyệt đại bộ phận họ không thạo tiếng Việt và không hề biết đến lịch sử Việt Nam; con cái họ đi học các trường Pháp. Vị tổng thống cuối cùng và vị bộ trưởng cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng Hòa là hai cựu sĩ quan cấp thấp của quân đội Pháp. Và họ cũng không phải là một tổ chức để gắn bó với nhau trong một ý chí chung. Họ chỉ là một khối bùng nhùng của những người coi guồng máy hành chính và quân đội Việt Nam Cộng Hòa như là một môi trường thăng tiến cá nhân, rất chia rẽ nhưng vẫn liên kết với nhau trong một sự kỳ thị chung với phần còn lại của dân tộc.”

NHẬN XÉT: Cái cốt lõi nội dung trong đoạn văn trên đây đúng trăm phần trăm, nhưng ông Nguyễn Gia Kiểng lại mâu thuẫn với chính ông qua lời nói vào đề bằng cụm từ “Trong suốt thời gian tồn tại của các chính quyền quốc gia yêu nước.

Thật là khôi hài! Trong đoạn văn số 15 ở trên, chính ông Kiểng cũng đã nói rằng chính nghĩa và chính quyền quốc gia là “do sự giàn xếp giữa người Pháp và một số cộng sự viên của Pháp đứng đầu là Bảo Đại, vị vua trác táng và bất xứng nhất của triều Nguyễn đã thoái vị và trao quyền cho đảng cộng sản.” và trong đoạn văn số 16, ông cũng nói, “quyền hành luôn luôn ở trong tay những người đã từng cộng tác với Pháp để chống lại cuộc đấu tranh giành độc lập hoặc con cháu họ…” Sách sử cũng ghi lại rõ ràng rằng (1) ông Bảo Đại được Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican đưa lên lập chính quyền quốc gia là để tiếp tay cho họ trong ý đồ tiêu diệt chính quyền kháng chiến Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của cụ Hồ Chí Minh, giúp cho họ được dễ dàng tái chiếm Đông Dương, và (2) năm 1954, Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican thành hình thay thế Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican, đưa ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam cầm quyền thay thế ông Bảo Đại là để phục vụ cho quyền lợi của Mỹ và của Vatican. Trường hợp ông Nguyễn Văn Thiệu giống y hệt như trường hợp ông Ngô Đình Diệm.

Ai cũng biết rằng, hầu hết những người nắm giữ những chức vụ chỉ huy trong chính quyền cũng như trong quân đội trong thời (1) ông Bảo Đại (2/6/1948 – 7/7/1954) [gọi là chính quyền Quốc Gia]. (2) trong thời ông Ngô Đình Diệm (7/7/1954 – 1/1/1963) [được gọi là Đệ Nhất Cộng Hòa], và (3) trong thời ông Nguyễn Văn Thiệu (3/9/1967 – 21/4/1975) [được gọi Đệ Nhị Cộng Hòa] đều là những người hoặc là đã từng làm tay sai cho Pháp trong những năm trước năm 1945 hay trong những năm 1945-1954, hoặc là những người đã từng là quân lính trong đạo quân đánh thuê cho Liên Minh Xâm Lược Pháp-Vatican trong những năm 1945-1954.

Thực trạng của các chính quyền quốc gia là như thế! Vậy thì, xin ông Kiểng cho biết căn cứ vào chỗ nào mà ông nói rằng “Trong suốt thời gian tồn tại của các chính quyền quốc gia yêu nước”? Đã làm tay sai cho quân cướp ngoại thù thì làm sao gọi là yêu nước được?

Cái cung cách sử dụng từ ngữ của ông con chiên Nguyễn Gia Kiểng quả thật là vô cùng quái đản!.Thực ra, không phải chỉ có một mình ông cho chiên Nguyễn Gia Kiểng mới sử dụng từ ngữ một cách cưỡng từ đoạt lý như vậy, mà cả Giáo Hội La Mã và hầu như tất cả các ông con chiên ngoan đạo (cuồng tín) người Việt đều như thế cả. Vấn đề này đã được chúng tôi trình bày khá rõ ràng trong Chương 11, Mục IV, Phần II, sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã.(http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH11_2.php)

 

XVII.- NGK viết:Những người lãnh đạo cộng sản chỉ biết có quyền lợi của đảng và chủ nghĩa cộng sản, những người lãnh đạo phe quốc gia chỉ biết có quyền lợi và danh vọng cá nhân. Và những cá nhân, dù đông đảo và nhiều phương tiện đến đâu, không bao giờ chống nổi một tổ chức.”

NHẬN XÉT: Đoạn văn này có hai phần: Phần trên nói về những người lãnh đạo Cộng Sản và đoạn dưới nói về những người lãnh đạo phe quốc gia.

Thiết nghĩ rằng về việc làm của những người lãnh đạo Cộng Sản hãy để cho lịch sử phê phán. Ông Nguyễn Gia Kiểng là thành phần của một gia đình con chiên ngoan đao, tuyệt đối trung thành với Vatican, đã có mấy đời nối tiếp nhau đứng về phía Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican và Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam, tức là tội đồ của dân tộc, tội đồ của lịch sử, và cũng là kẻ thù bất cộng đái thiên của Đảng Cộing Sản Việt Nam hay của Mặt Trận Việt Minh. Với thực trạng như vậy, tất nhiên là ông Kiểng không có tư cách gì để gièm pha các nhà lãnh đạo Cộng Sản, những người đã có công lãnh đạo toàn dân trong các cuộc chiến đánh đuổi cả hai liên minh xâm lược trên đây để giành lại chủ quyền cho dân tộc và thống nhất cho đất nước, và họ đã hoàn thành được cả hai nhiệm vụ lịch sử này.

Riêng về phần dưới nói về những người lãnh đạo của phe quốc gia, ông Kiểng đã nói đúng 100%. Xin phê cho ông A+ ở đây.

 

XVIII.- NGK viết:Hồi cuối của Việt Nam Cộng Hòa là một chế độ quân phiệt. Clémenceau, vị thủ tướng lỗi lạc của Pháp và người hùng của Thế Chiến I có một câu nói để đời : “Chiến tranh là một điều quá nghiêm trọng để có thể giao phó cho các tướng lãnh”. Nhưng Clémenceau cũng chỉ nói tới những tướng lãnh tài ba chứ không phải các tướng lãnh như chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã có, những tướng lãnh mà ông Ngô Đình Nhu gọi là “những trung sĩ đeo lon tướng”. Đàng này các tướng lĩnh bất xứng này nắm tất cả, không những quân đội mà cả chính quyền, ở cả trung ương lẫn các địa phương. Sự thất bại của miền Nam là không tránh khỏi.”

NHẬN XÉT: Trong đoạn văn này, ông Kiểng chì nói đúng có một nửa (50%) và còn một nửa, ông lại không nói ra. Một nửa đúng là vì bản chất của chính quyền thời ông Ca-tô Nguyễn Văn Thiệu là một chế độ quân phiệt. Từ chính quyền trung ương cho đến các tư lệnh vùng, các tỉnh trưởng, quận trưởng và xã trưởng đều là sĩ quan cấp tướng, cấp tá và cấp úy đảm nhận với quyền hành giống như là một thứ lãnh chúa trong vùng quản nhiệm của họ. Còn một nửa (50%) nữa ông Kiểng không nói ra là cái đặc tính đạo phiệt Ca-tô của chính quyền miền Nam trong thời ông Con chiên Nguyễn Văn Thiệu làm tổng thống. Tuy rằng cái đặc tính đạo phiệt này không đến nỗi bạo ngược và dã man, khốn nạn và trắng trợn như thời con chiên cuồng tín Ngô Đình Diệm cầm quyền (7/7/1954 – 1/11/1963), nhưng nó đã công khai cho ra đời cái gọi là “Phong Trào Phục Hưng Tinh Thần Ngô Đình Diệm” và khỏang năm 1967. Tiếp theo là tất cả những tên sĩ quan và viên chức gốc Ca-tô đã cấu kết chặt chẽ với chế độ Diệm được đưa lên nắm giữ những chức vụ quan trong trong chính quyền. Chúng ta có thể điểm mặt những tên tướng Ca-tô này như Đặng Văn Quang (tân tòng, anh em tinh thần với Giám-mục Nguyễn Văn Thuận), Phạm Quốc Thuần, Lâm Quang Thi, Bùi Đình Đạm, Hoàng Văn Lạc, Lý Tòng Bá, Ngô Dzu, Trần Văn Trung, v.v… và những tên tướng lừng danh tồi bại, cực kỳ tham nhũng như Đỗ Cao Trí, Nguyễn Văn Toàn, Vĩnh Lộc, Hoàng Xuân Lãm, v.v…cũng được lên nắm giữ những chức vụ quan trọng trong chế đo quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu. Đồng thời các giám mục và linh mục cũng trở thành những th lãnh chúa áo đen, tiếp tục làm mưa làm ở hậu trường sân khấu chính quyền cho đến ngày 30/4/1975. Quyền uy của các ngài lãnh chúa áo đen bao trùm lên chính quyền quân phiệt Ca-tô Nguyễn Văn Thiệu ghê gớm đến độ Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, không phải là tín đồ Ca-tô, với tư cách Tư Lệnh Quân Đoàn I và Quân Khu I, vào lúc dầu sôi lửa bỏng ở Huế và Đà Nững trong những ngày cuối tháng 3/1975,ở trong tình trạng thì giờ hết sức quý báu và vô cùng eo hẹp mà ông tướng này cũng phải dành ra tới cả một giờ đồng hồ thân hành đến Toà Tổng Giám Mục để báo cáo cho Đức Giám-mục Phạm Ngọc Chi biết là ông đã cho lịnh Quân Đội rút khỏi Đà Nẵng?

Tướng Trưởng quyết định ở lại một mình trong trại Thủy Quân Lục Chiến ở Non Nước. Ông đưa phương tiện di chuyển duy nhất còn lại của ông cho tướng Khánh. Sau đó tướng Trưởng lấy một jeep có tài xế, quân cảnh và đi ra khỏi doanh trại và đến tòa Tổng Giám Mục Địa Phận Đà Nẵng để thăm Đức Cha Phạm Ngọc Chi và trở về khoảng một tiếng sau.

Tướng Trưởng cho Đức Cha Chi biết là ông đã cho lịnh Quân Đội rút khỏi Đà Nẵng. Trước khi bỏ Huế tướng Thi cũng đi từ giã Đức Cha Điền, địa phận Huế.”[xiii]

Không thấy nói Tướng Truởng đi thăm một ông Sư nào cả. Sự kiện này chỉ có thể giải thích được rằng chính quyền miền Nam mà tướng Trưởng đang phục vụ lúc bấy giở là một chế độ đạo phiệt Ca-tô nằm dưới quyền chỉ đạo của các ông giám-mục trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Cũng vì cái đặc tinh đạo phiệt của chính quyền Nguyễn Văn Thiêu như vậy, cho nên các nhà viết sử mới gọi chính quyền này là “Chế độ Diệm không Diệm” và lúc đó mới có câu vè “Nhất đĩ, nhì cha, tam sư, tứ tướng”.

Đáng lý ra, ông Kiểng phải nói là “Hồi cuối của Việt Nam Cộng Hòa là một chế độ quân phiệt Ca-tô”. Nhưng ông Kiểng đã không nói như vậy. Tại sao ông Kiểng lại không nói như vậy? Câu trả lời chỉ có thể là: Vì ông ta là một tín đồ Ca-tô cuồng tín thuộc lọai Hố Nai, Bùi Chu, Phát Diệm, cho nên Kiểng mới tránh né, không nói đến cái đặc tính “Ca-tô” trong những năm ông con chiên Nguyễn Văn Thiệu cầm quyền.

 

XIX.- NGK viết:Vẫn còn một số người cho rằng chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã sụp đổ vì bị Mỹ bỏ rơi, nhưng sự bỏ cuộc của người Mỹ không thể là một bất ngờ. Mỹ không kiên nhẫn và cuộc chiến Việt Nam đã là cuộc chiến dài nhất trong lịch sử nước Mỹ. Vả lại quan tâm chiến lược của Mỹ cũng đã thay đổi nhiều sau khi quân đội Nam Dương tiêu diệt đảng cộng sản và Hoa Kỳ đã bắt tay với Trung Quốc. Một điều cần được lưu ý là dù số phận tùy thuộc vào Mỹ, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa chưa bao giờ có một cơ quan nghiên cứu và theo dõi chính trường Mỹ.

NHẬN XÉT: Đoạn văn này, ông Kiểng đã nói đúng 100%. Xin phê cho ông Kiểng A+ cho lời “khẳng định cần thiết” này của ông Kiểng.

 

XX.- NGK viết: Bằng chứng rằng chế độ Việt Nam Cộng Hòa không có thực chất đã được phơi bày rõ rệt sau 1975. Các bộ trưởng và tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa chạy ra nước ngoài ở lứa tuổi đầy sinh lực 35-45 nhưng họ đã không làm được gì, trong tuyệt đại đa số họ đã không hề thử làm một cái gì.”

NHẬN XÉT: Ông  Kiểng nói đúng. Nhưng đến bây giờ ông Kiểng mới biết như vậy thì quả thật là quá muộn. Thực chất không có chính nghĩa của chính quyền Quốc Gia (trong những năm ông Bảo Đại được giặc cho làm quốc trưởng) đã được phơi bày ra cho mọi người thấy vào thời điểm ngay khi nó được Liên Minh Xâm Lược Pháp- Vatican manh nha tạo dựng nên nó vào cuối tháng 12 năm 1945, tức là thời điểm mà viên khâm sứ đại diện Tòa Thánh Vatican tại Hà Nội công khai đưa ra lời đề nghị dùng ông Bảo Đại lập chính quyền (đã nói rõ trong phần NHẬN XÉT về đoạn số 7 ở trên) mà không cần biết đến nước Việt Nam đã có chính quyền với quốc hiệu là Việt Nam, với thể chế chính trị là Dân Chủ Cộng Hòa, với quốc kỳ là cờ đỏ sao vàng, có quốc ca là Bản Tiến Quân Ca do nhạc sĩ Văn Cao sáng tác và đã long trọng công bố bản Tuyên Ngôn Độc Lập vào lúc 2 giờ chiều ngày 2 tháng 9 năm 1945 mà nhân dân ở mọi nơi trên thế giới đều biết như vậy cả.

Rồi cái thực chất không có chính nghĩa của các chính quyền miền Nam trong những năm 1954-1975 cũng được phơi bày cho mọi người thấy rõ ràng vào thời điểm nó được chuyển giao từ quan thày cũ là Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican sang quan thày mới là Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican. Kể từ đó, nó dần dần biến miền Nam Việt Nam thành một trung tâm cung cấp thuốc phiện sống cho trung tâm tội ác quốc tế tại Marseille để trung tâm này biến chế thành bạch phiến rồi đem sang phân phối cho khách hàng tiêu thụ ở Mỹ Châu.[xiv] http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH91.php. Cũng vì thế mà miền Nam mới thành một xã hội được người đương thời diễn tả bằng mấy câu vè.”Nhất đĩ, nhì cha, tam sư, tư tướng”. Tình trạng này cũng được sách Bí Mật Hậu Trường Chính Trị Miền Nam ghi nhận như sau:

Suốt cả hai thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, dưới vị lãnh đạo của hai vị tổng thống Thiên Chúa Giáo: Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu, giới Thiên Chúa Giáo Bùi Chu, Phát Diệm, nhất là các vị chăn chiên đã đóng vai trò quyền khuynh thiên hạ:.”Nhất đĩ, nhì cha, tam sư, tứ tướng.”[xv]

 

XXI.- NGK viết: “Chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã rất xứng đáng với số phận của nó, nhưng sự sụp đổ nhục nhã của nó cũng đã là một thảm kịch và một bất công với rất nhiều người. Không thiếu những người yêu nước có trí tuệ và dũng cảm đã nhìn thấy sự độc hại của chủ nghĩa cộng sản và đã chấp nhận tranh đấu trong hàng ngũ Việt Nam Cộng Hòa dù biết nó là một chế độ bạc nhược và thối nát để ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, với ước vọng xây dựng sau đó một đất nước Việt Nam dân chủ và lành mạnh. Nhưng họ đã không giành được thế chủ động; quyền lãnh đạo vẫn ở trong tay khối bùng nhùng của những người thiếu cả khả năng lẫn ý chí. Họ đã chỉ mới đạt tới được những vai trò trung cấp hoặc khá cao cấp khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa bị bỏ rơi và sụp đổ. Có thể tiếc rằng họ đã không đủ thời giờ, nhưng từ 1948 đến 1975 cũng đã là 27 năm; nếu trong suốt thời gian đó mà chế độ Việt Nam Cộng Hòa không thăng tiến nổi một nhân sự lãnh đạo đúng nghĩa thì nó phải được nhìn như một thử nghiệm vô vọng và không có lý do gì để thương tiếc nữa.”

NHẬN XÉT: Thực ra cả cái gọi là “chính quyền Quốc Gia” do ông Bảo Đại làm quốc trưởng trong thời kỳ 6/1946 – 10/1955 và các chính quyền miền Nam trong thời kỳ 10/1955 – 4/1975 đều là một khối bùng nhùng tham nhũng và thối nát. Vấn đề thối nát khởi sự từ thượng tầng lan xuống của chính quyền bù nhìn Bảo Đại đã được ông Bùi Nhung trình bày rất rõ ràng trong cuốn sách có tựa đề là THỐI NÁT (Houston, TX: Xuân Thu, 1976). Vấn đề tham nhũng, thối nát cúa các chính quyền miền Nam lại càng ghê gớm và kinh khủng gấp ngàn lần  tham nhũng và thối nát trong thời ông Bảo Đại (1948-1954). Các chính quyền miên Nam trong những năm 1954-1975 luôn luôn cấu kết với gíới tu sĩ áo đen, sử dụng tín đồ Ca-tô, phóng tay bóc lột ngay cả quân lính và nhân viên chính quyền cấp thấp, vơ vét tận tình tiền viện trở Mỹ cũng như tài nguyên của đất nước và mô hôi nước mắt của nhân dân để tích lũy cho đầy túi tham, cùng với tội ác truy lùng bắt giam, tra tấn, cầm tù, thủ tiêu, tàn sát những thành phần đối lập và bách hại Phật Giáo, tổng càn học sinh sinh viên của các chính quyền miền Nam trong những năm 1954-1975. Tất cả các rặng núi tội ác này  đều được các sách sử do các sử gia người Âu Mỹ cũng như người Việt trình bầy khá đầy đủ với rất nhiều chi tiết.

Những cuốn sách như Thập Giá Lưỡi Gươm (Paris: Nhà Xuất Bản Trẻ, 1978), của tác giả Linh-mục Trần Tam Tỉnh, cuốn Fire In The Lake (New York: Vintages Books, 1961) của tác giả Francé FitzGerald, The Politics of Heroin in Southeast Asia (New York: Harper Colophon Books, 1971) của tác giả Alfred W. McCoy, The Two Vietnams (New York, 1964) của sử gia Bernard B. Fall, , Vietnam: A Dragon Embattled – Volume II (New York: Frederick A. Praeger, 1967) của Joseph Buttinger, Vietnam Why Did We Go? (Chino: CA: Chick Publication, 1984), The Deaths Of The Cold War Kings: The Assassinations Of Diem & JFK (Baltimore, MD: Cemetery Dance Publications, 2000), Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1993) của cựu Tướng Đỗ Mậu, Việt Nam Một Trời Tâm Sự (Los Alamitos, CA: Xuân Thu, 1987) của cựu Tướng Nguyễn Chánh Thi, Công Và Tội (Los Alamitos, CA:: Xuân Thu, 1992), Việt Nam Nhân Chứng (Los Alamitos, CA:: Xuân Thu, 1989), v.v… đều nói rõ tình trạng tham nhũng và thối nát ở miền Nam trong những năm 1954-1975. Đồng thời, cũng nói về vấn đề này, người viết cũng đã biên soan các chương sách có tựa đề là Vấn Nạn Tham Nhũng, http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH92_1.php, Vấn Nạn Buôn Bán Nha Phiến, Vấn Nạn Lính Ma Lính Kiểng, Vấn Nạn Giáo Hội La Mã http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/ CH92_3.php (Mục XXIII, Phần VI, sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã Giáo. Các chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.doc.

Thực ra, tình trạng này ở miền Nam đã xẩy ra ngay từ những ngày đầu và khởi đầu là các ông linh mục trưởng trại di cư chủ mưu trong những vụ ăn cắp và thụt két tiền Mỹ viện trợ để ổn định hơn 800 ngàn người Bắc Việt di cư vào miền Nam, khởi sự từ tháng 7 năm 1954, chứ không phải đợi đến những năm chót nó mới như vậy.

Như vậy là tham nhũng ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 tiên khởi phát xuất từ nhà thờ Ca-tô do các linh mục Bắc Kỳ di cư chủ mưu, rồi mới lan truyền sang các cơ quan chính quyền và lan sang tất cả mọi phạm vi sinh hoạt trong xã hội. Độc giả có thể kiểm chứng vấn đề này bằng cách tìm đọc các cuốn sách mà chúng tôi đã nêu lên ở trên.

 

CHÚ THÍCH


[i] Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 – Tập A: 1939-1946 (Houston, TX: Văn Hóa 1996), tr. 295.

[ii] Nhiều tác giả, Vatican Thú Tội và Xin Lỗi? (Garden Grove, CA: Giao Đioểm, 2000), tr. 246.

[iii] Jack Abramowitz, American History (Chicago, Illinois: Follett Publishing Company, 1979), tr. 293.

[iv] Nguyễn Hiến Lê, Đời Viết Văn Của Tôi (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1986), tr. 99-101.

[v] Trần Tam Tỉnh, Thập Giá Và Lưỡi Gươm (Paris: Nhả Xuất Bản Trẻ, 1978), tr. 54.

[vi] Nguyễn Gia Kiểng, Tổ Quốc Ăn Năn (Paris:TXB, 2001), tr. XI.

[vii] -Vũ Huy Quang. (6/2010):

"Đọc bài Nguyễn Gia Kiểng, “35 sau ngày 30-4-75…” thì tác giả, như mọi lần, lại lên án cả Quốc gia lẫn Cộng sản: Y (NGK) phản đối cuộc chiến tranh của Việt Nam chống Pháp- mà y gọi là nội chiến. Một mục đích duy nhất y cố bảo vệ là sự hiện diện của Đế quốc Pháp! Người đọc tưởng bài viết do Cố đạo Đề đốc D’Argenlieu ký tên. Nhưng NGK còn vượt D’Argenlieu, vì cố đạo khai màn chiến chống Công tại Việt Nam (1947) trong chiến tranh Lạnh này, chưa biết bênh vưc Mỹ, chưa hề biết viện dẫn sự “ác độc” của chủ nghĩa Cộng sản, “chủ nghĩa ác độc” đã đưa đến nội chiến tại Việt Nam…Chỉ vì Lenin – do NGK phát hiện – chính là người đã kêu gọi nội chiến...khắp thế giới.

Phải chăng Mác chủ trương phải nội chiến, để sau Lenin hô hào?

Thời Mác, đã có nội chiến Nam-Bắc Mỹ. Với Biện chứng Duy vật Lịch sử, Mác viết:” Cuộc tranh chấp hiện nay giữa 2 phe Bắc và Nam là, như nói ở trên, không gì khác hơn cuộc tranh chấp của hai hệ thống xã hội, cái hệ thống của nô lệ và cái hệ thống của tự do lao động. Cuộc tranh chấp bùng ra vì hai hệ thống không chung sống cạnh nhau hòa bình trên lục địa Bắc Mỹ được nữa. Chỉ chấm dứt được bằng chiến thắng của một phe này trên phe kia.”

Nguyên văn: The present struggle between the South and the North is, therefore, nothing but a struggle between the two social systems, the system of slavery and the system of free labour. The struggle has broken out because the two systems can no longer live peacefully side by side on the North American continent. It can only be ended by the victory of one system on the other.”–Karl Marx. “The Civil War in the United States.” Ngày 7 Tháng 11-1861.

Như vậy, chính lịch sử con người xô đẩy thành chiến tranh. Không ai kêu gọi được: Ở đâu có áp bức, ở đó có nổi dậy.

Ở Nga cũng có nội chiến sau Cách Mạng tháng 10-1917. Lenin có hô hào nội chiến không?

Các tướng ủng hộ Sa Hoàng như Denikin (Nam Nga), Đô đốc Kolchak (Omsk-Siberia), Duton (Tư lệnh Cosak, Nam Ural), Kornilov, Krasnov, Alexey (Ukraine), Wrangel (tư lệnh Bạch vệ vùng Crimea), Semyonov, Yudenich.v.v.chính là những người muốn nội chiến, không phải Lenin. Họ được “Đồng Minh” (Anh, Áo, Pháp, Mỹ) ủng hộ:

(Những chủ trương ủng hộ Bạch Vệ (1918) là của các thành viên Đồng Minh: Woodrow Wilson (Cấm vận), Joseph Pilsudsky (Ba Lan), “Cọp” Clemenceau (Đòi can thiệp ngay bằng vũ lực), Lloyd George (Tụi Bônxơvích đang đầu độc Lao động Anh), Eduard Benes (Tiệp), và Churchill (Bộ trưởng Chiến tranh Anh.)

Lúc ấy trong Thế chiến thứ Nhất (14-18): Đế quốc Đức chống Đồng Minh, nhưng chủ trương tiến đánh Nga (mới có hòa ước Brest-Litovsk 2-1918).. Theo ông cố đạo “D’Argenlieu da vàng Nguyễn Gia Kiểng”, nội tình Cách mạng Nga trước bọn phản Cách mạng như thế, phải Hàng hay Chiến?

Những lời Lenin ủng hộ Rosa Luxemburg, Karl Liebknecht (Thuộc Đảng Xã hội Dân chủ Cánh Tả. Cả hai bị phong trào Quốc gia Đức sát hại năm 1919) chủ trương: Cùng là lao động, thì lao động Đức không nên tòng quân cho chính quyền tư sản đem ra chiến trường đi giết lao động nước khác, mà chính họ, phải chống giai cấp bóc lột mình ngay trong nước…là khẩu hiệu “War At Home” (“Lao động thế giới! Liên Hiệp lại!”)…Làm sao NGK hiểu được? Những người cùng khổ phải nổi dậy, chỉ những ai thuộc thiểu số cộng tác với chế đọ cũ vẫn không hiểu là chính họ cũng khổ, vì họ chỉ có cơm thừa canh cặn mà thôi. Không hiểu chính mình cũng cảnh khổ (Nhà Cách mạng Phan Văn Hùm có câu rằng: “Bao giờ thiên hạ hay mình khổ/) Mọi sự lôi thôi ắt tất thành.” thì danh giá gì, mà “khẳng định” lôi thôi? “

[viii] Hoàng Trọng Miên, Đế Nhất Phu Nhân – Tập I (Los Alamitos, CA: Nhà Xuất Bản Thế Giới, 1989), tr. 428.

[ix] Nguồn: http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?

“Vụ án âm mưu lợi dụng đạo Thiên Chúa, hoạt động gây bạo loạn chống chính quyền nhân dân, phá hoại nền kinh tế, tài chính của Việt Nam sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975) xảy ra tại Nhà Thờ Vinh Sơn, Thành phố Hồ Chí Minh. Cầm đầu là Nguyễn Việt Hưng, nguyên sĩ quan quân đội Sài Gòn, Linh mục Nguyễn Hữu Nghị làm cố vấn. Nguyễn Việt Hưng đã tập hợp các phần tử phản động lợi dụng đạo Thiên Chúa, sĩ quan ngụy trốn trình diện, trốn cải tạo, thành viên các đảng phái cũ và các phần tử tư sản phản động, lập tổ chức mang tên Dân quân Phục quốc, lấy Nhà Thờ Vinh Sơn làm sào huyệt để tụ tập, ẩn nấp và tiến hành hoạt động phá hoại. Nguyễn Việt Hưng tự phong là thiếu tướng tư lệnh Quân đoàn Biệt kích, kiêm tổng trấn Sài Gòn - Gia Định. Ra tuyên ngôn gồm 11 điểm, định quốc hiệu, quốc kì, quốc ca, dự định lập hệ thống chính quyền phục quốc và lập các lực lượng vũ trang, in và rải truyền đơn phản động, in tiền giả. Ngày 12.2.1976, vụ án được khám phá với đầy đủ tang chứng: máy in tiền giả, máy in truyền đơn, máy thu phát vô tuyến, vũ khí, vv. Từ ngày 13 đến 16.9.1976, Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã mở phiên tòa công khai xét xử và tuyên án tử hình Nguyễn Việt Hưng, Nguyễn Hữu Nghị và Nguyễn Xuân Hùng; 11 tên khác bị phạt tù từ 3 năm đến chung thân.”

[x] Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch. Theo Bách Khoa ToànThư mở Wikipedia:

Sau Chiến Tranh Việt Nam, Việt Nam và Campuchia xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Tranh chấp và xung đột biên giới xẩy ra liên tục trong các năm 1977 và 1978, nhưng cuộc xung đột thực ra đã bắt đầu ngay sau khi Sài Gòn thất thủ. Ngày 4 tháng 5 năm 1975, một toán quân Khmer Đỏ đột kích đảo Phú Quốc, sáu ngày sau quân Khmer Đỏ đánh chiếm và hành quyết hơn 500 dân thường ở đảoThổ Chu. Tức giận vì hành vi gây hấn của Khmer Đỏ, Hà Nội phản công giành lại các đảo này. Trận đánh ở Phú Quốc làm nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập lo ngại, vì cùng thời gian đó, quan hệ Việt Nam và Trung Quốc đang xấu đi. Mối lo ngại này càng tăng thêm vì sự hiện diện của cố vấn Trung Quốc ở Campuchia và Trung Quốc tăng cường viện trợ quân sự cho lực lượng vũ trang Khmer Đỏ.

Tiếp theo cuộc đột kích vào các đảo Thổ Chu và Phú Quốc, bên cạnh nhiều cuộc đột kích nhỏ, Khmer Đỏ tiến hành hai cuộc xâm nhập qui mô lớn vào Việt Nam. Cuộc tấn công lớn đầu tiên diễn ra vào tháng 4 năm 1977, quân chính qui Khmer Đỏ tiến sâu 10 km vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm một số vùng ở tỉnh An Giang và tàn sát một số lớn dân thường. Cuộc tấn công thứ hai diễn ra vào ngày 25 tháng 9 cùng năm, lần này 4 sư đoàn quân Khmer Đỏ đánh chiếm nhiều điểm ở các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành (tỉnh Tây Ninh), đốt phá 471 ngôi nhà, làm gần 800 người dân bị giết, bị thương hoặc mất tích[6]. Để trả đũa, ngày 31 tháng 12 năm 1977, sáu sư đoàn Quân Đội Nhân Dânh Việt Nam đánh vào sâu trong đất Campuchia đến tận Neak Luong rồi mới rút lui từ ngày 5 tháng 1 năm 1978, mang theo một số nhân vật quan trọng bên phía Campuchia, trong đó có cả Thủ Tướng tương lai Hun Sen. Cuộc tấn công này được xem là lời "cảnh cáo" cho Khmer Đỏ. Phía Việt Nam đề nghị một giải pháp ngoại giao nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên giới, nhưng Pol Pot từ chối, và giao tranh tiếp diễn.

Ngày 1 tháng 2 năm 1978, Trung ương Đảng Cộng sản của Pol Pot họp bàn chủ trương chống Việt Nam và quyết định thành lập 15 sư đoàn. Trong nghị quyết của họ có ghi: "Chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10, 15, đến 20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 50 triệu người Việt Nam". Pol Pot đã điều 13 trong số 17 sư đoàn chủ lực và một số trung đoàn địa phương liên tục tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, có nơi vào sâu tới 15-20 km. Trong các đợt tấn công đó, Khmer Đỏ đã thực hiện thảm sát đối với người Việt Nam, một ví dụ là vụ thảm sát Ba Chúc vào tháng 4 năm 1978 với 3157 dân thường bị giết hại.

Từ tháng 12 năm 1977 đến 14 tháng 6 năm 1978, theo số liệu không chính thức từ một nhà nghiên cứu hải ngoại, phía Việt Nam bị thương vong 30.642 bộ đội, trong đó số chết là 6902 người. Hơn 30 vạn người phải tản cư về phía sau, bỏ hoang 6 vạn ha đất sản xuất. CÒn theo cuốn "Cuộc chiến tranh bắt buộc" của một Đại tá QDNDVN,có thể ước lượng Việt Nam bị thương vong 8.500 bộ đội, trong đó số chết là gần 3.000 người.

Ngày 13/12/1978, được sự trang bị và hậu thuẫn của Trung Quốc, Khmer Đỏ đã huy động 10 trong 19 sư đoàn (khoảng 50.000 đến 60.000 quân) tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn đánh vào Bến Sỏi với mục tiêu chiếm thị xã Tây Ninh, 2 sư đoàn đánh vào Hồng Ngự (Đồng Tháp), 2 sư đoàn đánh khu vực Bảy Núi (An Giang), 1 sư đoàn đánh Trà Phổ, Trà Tiến (Kiên Giang). Tại những vùng chiếm đóng, Khmer Đỏ đã thực hiện sách lược diệt chủng đối với người Việt, như đã làm với ngườiKhmer.

Quân đội Việt Nam đã chống trả quyết liệt và đã kìm chân bước tiến, đồng thời tiêu hao sinh lực của quân Khmer đỏ. Các hướng tiến quân của Khmer Đỏ bị chặn lại và không thể phát triển được. Ngoại trừ Hà Tiên bị chiếm giữ trong thời gian ngắn, không một thị xã nào của Việt Nam bị chiếm. Theo thống kê từ Việt Nam, từ tháng 6-1977 đến tháng 12-1978, họ đã tiêu diệt 38.563 quân Khmer đỏ, bắt sống 5.800 lính khác.”

[xi]Lê Xuân Khoa, Việt Nam 1945-1995 – Tập I (Bethesda, MD: Tiên Rồng, 2004), tr. 211

[xii] Vấn đề này đã được chúng tôi trình bày rõ ràng trong Chương 3, sách Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX: Đa Nguyên, 2008).

[xiii] Hồ Văn Kỳ Thoại, Can Trường Trong Chiến Bại (Fall Church, VA: TXB, 2007),., tr 250.

[xiv] Bradley S. O Leary & Edward Lee, The Deaths Of The Cold War Kings – The Assassinations Of Diem & JFK (Baltimore, MD: Cemetery Publications,2000) pp, 254, 259. Cuốn sách này đã được hai ông Phạm Viên Phương và Mai Sơn chuyển dịch sang Việt ngữ với tựa đề là “Cái Chết Của Những Ông Vua Thời Chiến Tranh Lạnh – Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm & J.F Kennedy.” (Việt Nam: Nhà Xuất Bản Tự Do), không ghi thành phố xuất bản và cũng không ghi năm phát hành.

[xv] Đặng Văn Nhâm, Bí Mật Hậu Trường Chính Trị Miền Nam - Quyển Một (California: TXB, 1999), tr. 418.

Trang Nguyễn Mạnh Quang

Trang Lịch Sử




Đó đây


2024-04-25 - Phóng Sự: Thiếu Tướng Hoàng Kiền -Ahllvtnd Nói Chuyện Thời Sự Về Đường Trường Sơn Đường Hồ Chí Minh -

2024-04-25 - CHẾ ĐỘ TAY SAI - BÀI VIẾT CỦA TIẾN SỸ MỸ T.P.WINKINSON -

2024-04-20 - KHÔNG BIẾT NHỤC - Nhóm Việt Nam vinh danh các liệt sĩ Hàn Quốc trong chiến tranh Việt Nam - Chủ nhật ngày 17/3/2024, 1 nhóm Việt Nam đến viếng mộ 5.099 quân nhân Hàn chết trong chiến tranh ở Việt Nam. Dòng chữ trên một tấm có nội dung: “Bởi vì các chiến sĩ của các bạn yên nghỉ ở đây, đất nước chúng ta đứng vững với niềm tự hào.” Thật là không biết nhục!!

2024-04-19 - Israel Tấn Công Trả Đũa Iran -

2024-04-19 - 80 Năm Thực Dân Pháp Đô Hộ Việt Nam - Văn minh hay bóc lột? -

2024-04-19 - HOÀNG NAM: DÂN TA ĐÃ QUÁ NHÂN TỪ VỚI HỌ NGÔ - Gửi Hoàng Nam, chủ kênh Challenge Me.

2024-04-18 - "THUẾ THUỘC ĐỊA" - 60 NĂM CHÂU PHI VẪN LÀ BÒ SỮA NUÔI BÉO NƯỚC PHÁP -

2024-04-18 - Ổi Xanh: 274. Ông Võ Văn Thưởng từ chức. Thái độ của HDH và một số YouTuber... bố đời. -

2024-04-17 - Sidney, Úc: 1 Giám mục bị đâm trong lúc làm lễ - Không biết Chúa làm gì mà bắt các giám mục của Chúa phải đổ vỏ! Các đây mấy năm, có viên chức chính phủ đề nghị treo bảng ở các nhà thờ "Đây là nơi nguy hiểm cho trẻ con"

2024-04-16 - Đọc báo QĐND - Bài viết: Không "chính trị hoá" các vụ án kinh tế -



▪ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 >>>




Thư, ý kiến ngắn
● 2024-04-21 - KHÔNG BIẾT NHỤC - Một Nhóm Việt Nam vinh danh các lính Hàn trong chiến tranh Việt Nam! - SH sưu tầm -

● 2024-04-19 - “CỬA LÒ - KHÁT VỌNG TOẢ SÁNG” - Nguyễn Tiến Trung -

● 2024-04-16 - Bất bình trước sự san bằng, trộn lẫn CHÍNH /TÀ của những người mù sử: HOÀNG NAM - Chủ kênh Challenge Me - FB Lý Thái Xuân -

● 2024-04-01 - Phim ĐÀO PHỞ & PIANO -Tại sao không nên đánh dấu người yêu nước bằng biểu hiệu của một tập thể thiểu số - Lý Thái Xuân -

● 2024-03-21 - CHỐNG CỘNG: Chuyện cười ra nước mắt ở Sở Học Chánh Tacoma, Wa - Lý Thái Xuân -

● 2024-03-09 - Tổng thống Nga, Vladimir Putin đọc thông điệp gửi Quốc hội Liên bang (29/2/2024) - Gò Vấp -

● 2024-03-09 - Các hoạt động của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc trong những năm 1942-1954 - trích Hồi ký Nguyễn Đình Minh -

● 2024-03-08 - Hồi ký lịch sử 1942-1954 - Liên Quan đến Giám mục Lê Hữu Từ, Khu tự trị Phát Diệm, Công Giáo Cứu Quốc - VNTQ/ Khôi Nguyên Nguyễn Đình Thư -

● 2024-02-15 - Trương vĩnh Ký dưới con mắt của người dân - Trần Alu Ngơ -

● 2024-02-14 - Các nhà hoạt động ẤN ĐỘ GIÁO phản đối chuyến viếng thăm của Giáo hoàng John Paul II - FB An Thanh Dang -

● 2024-02-09 - “KHÁT VỌNG NON SÔNG” của VTV1 và chuyện Trương Vĩnh Ký - Nguyễn Ran -

● 2024-02-05 - Góc kể công - Đồng bào Rô ma giáo cũng có người yêu nước vậy! Đúng. - Lý Thái Xuân -

● 2024-02-01 - Câu Lạc Bộ Satan Sau Giờ Học Dành Cho Trẻ 5-12 Tuổi Sắp Được Khai Trương Ở Cali, Hoa Kỳ - Anh Nguyen -

● 2024-01-29 - Giáo hội Rô ma giáo Đức "chết đau đớn" khi 520.000 người rời bỏ trong một năm - The Guardian -

● 2024-01-29 - Một tên Thượng Đế-Chúa ngu dốt về vũ trụ, nhưng thích bốc phét là tạo ra vũ trụ - Ri Nguyễn gửi Phaolo Thai & John Tornado -

● 2024-01-29 - Kinh "Thánh" dạy Con Chiên Giết Tất Cả Ai Theo Tôn Giáo Khác - Ri Nguyễn vs John Tomado -

● 2024-01-29 - Nhân Quyền Ở Nước Mỹ: Vụ Án Oan, 70 Năm Sau Khi Tử Hình Bé George Stinney - - Giác Hạnh sưu tầm -

● 2024-01-29 - NOEL - Ba Giáo Hoàng John Paul II, Benedict XVI, Francis I Thú Nhận Đã Bịp Chiên- Cừu Chuyện Jesus Ra Đời - Ri Nguyen -

● 2024-01-29 - Một dàn đồng ca, ngày càng đặt câu hỏi về quyền lực của Giáo hoàng - John L. Allen Jr. -

● 2024-01-29 - Tỷ lệ phá thai nơi người công giáo lại cao hơn nơi người ngoài công giáo! - Lê Hải Nam -


▪ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 >>>