|
21 tháng 4, 2010 |
1
2
3
4
II.- TỔNG THỐNG ABRAHAM LINCOLN
(12/2/1809-15/4/1865)

Sinh trưởng trong một gia đình nông dân không lấy gì làm dư
giả trong tiểu bang Kentucky, ngay từ thuở thiếu thời, ông Lincoln đã phải vừa
lao động giúp gia đình, vừa đọc sách trong những giờ rảnh rỗi để trau dồi kiến
thức. Ông không được gia đình gửi theo học các trường học như các thanh thiếu
niên đồng lứa tuổi. Nhưng vì lòng hiếu học và cầu tiến, ông cố gắng tìm đủ mọi
cách để tự học: “Lincoln’s self-taught education was probably better than
anything he would have received at school.” Bị ảnh hưởng bởi song thân cho
rằng việc buôn bán nô lệ là việc làm đáng khinh rẻ, ông cố gắng làm thể nào để
hủy bỏ chế độ nô lệ. Sau đó, ông theo học ngành luật, và nhiều lần ông đi bộ
một đoạn đường xa cả mấy dặm để mượn sách về đọc. Ông nghiền ngẫm những bài
tham luận và bình luận về luật pháp Anh quốc (Commentaries on the Laws of
England). Ông đi bộ cả 17 dặm đến tòa án county (quận hạt) địa phương để trực
tiếp quan sát cung cách tranh luận của các luật sư:
“Vào tuổi 17, ông muốn trở thành một luật sư. Ông đã
phải cuốc bộ cả 17 dặm đến tòa án quận hạt địa phương để quan sát cung cách làm
việc của các ông luật sư. Ông ngồi ở sau phòng xử án để ý đến khi họ nắm tay dơ
lên dứ dứ theo nhịp với giọng nói của họ và mặt họ đỏ lên. Rồi ông về nhà suy
nghĩ về những gì ông đã nhìn thấy.”[1]
Tháng 4 năm 1837, ông di chuyển đến định cư ở
Springfield, Illinois và bắt đầu tập sự luật sư với luật sư John T. Stuart vào
năm 1841, rồi lại thực tập luật sư với luật sư William Herndon. Năm 1846, ông
ra ứng cử dân biểu Quốc Hội vào Hạ Viện Hoa Kỳ tại đơn vị Springfied trong tiểu
bang Illinois. Ông đắc cử và đắc cử liên tiếp tới bốn nhiệm kỳ. Cũng từ đây,
ông nổi tiếng là người theo chủ trương hủy bỏ chế độ nô lệ.
Năm 1858, ông được Đảng Cộng Hòa bầu chọn ra tranh cử ghế
thượng nghị sĩ tại tiểu bang Illinois. Đối thủ của ông là Stephen A. Douglas
thuộc Đảng Dân Chủ. Vì ông nổi tiếng là người theo chủ trương hủy bỏ chế độ nô
lệ, phe bảo thủ và giới chủ nhân nô lệ liên kết với nhau chống lại ông bằng cách
dồn nỗ lực vận động cho ứng cử viên Stephen A. Douglas. Cũng vì thế mà ông thất
cử.
Thất bại là mẹ thành công. Thua kỳ bầu cử chạy đua vào
thượng viện, ông quay ra dồn nỗ lực vào việc vận động ra tranh cử chức vụ tổng
thống trong kỳ bầu cử vào tháng 11 năm 1860.
Đồng thời, cũng trong thập niên 1850, xẩy ra một biến cố
dần dần có lợi cho những người theo lập trường hủy bỏ chế độ nô lệ. Chuyện là
năm 1852, nữ sĩ Harriet Beacher Stowe viết một cuốn sách có tựa đề là “Chiếc
Lều Của Chú Tom” (Uncle Tom’s Cabin). Cuốn sách này nói lên sự đau khổ đến
cùng cực của dân nô lệ và sự tàn ác vô cùng ghê gớm của các ông chủ nô. Tất cả
đã vẽ lên một bức tranh rõ rệt nhất về thảm cảnh này ở khắp miền Nam, khiến cho
hàng trăm ngàn độc giả của cuốn sách này cảm thấy mủi lòng thương xót cho số
phận của những người nô lệ. Đúng ra, tác phẩm ”Chiếc Lều Của Chú Tom”
không có gì khác hơn là gây ảnh hưởng sâu xa và có tác dụng mãnh liệt đối với
nhân dân miền Bắc trong vấn đề chống chế độ nô lệ. Người ta nói rằng trong những
năm sau đó, Tổng Thống Lincoln đã ca tụng bà Stowe như: “Một
thiếu phụ nhỏ bé đã viết một tác phẩm gây nên một cuộc đại chiến.” Tuy
nhiên, ở miền Nam, tác phẩm “Chiếc Lều Của Chú Tom” đã gây nên những làn
sóng phản kháng và khuấy động lòng căm thù đối với những người chủ trương hủy bỏ
chế độ nô lệ.
[2]

Ảnh chạm trổ minh họa bởi Hammatt
Billings cho quyển Uncle Tom's Cabin, Ấn bản đầu tiên: Boston: John P.
Jewett and Company, 1852 - Cảnh Eliza đến cho Chú Tom hay
nàng đã bị bán và đang chạy trốn để cứu đứa con.
Tác phẩm “Chiếc Lều Của Chú Tom” đã gây xúc động
mãnh liệt trong lòng người dân Mỹ. Hầu
như tuyệt đại số người Mỹ là những người thực tế và “không cuồng tín” vì rằng
chính bản thân họ hay ông cha họ là nạn nhân của một tôn giáo mà họ phải chạy
trốn sang Mỹ Châu để lập nghiệp. Sự kiện này được nhà viết sử Lương Minh Sơn ghi
lại trong bài viết “Bài Học Chiến Tranh Việt Nam Nhìn Từ Hậu Trường Chính Trị
Hoa Kỳ” đăng trong sách Sự Thật của tác giả Lê Hữu Dản với nguyên văn như
sau:
"Đối với Hoa Kỳ, mặc dầu là đất nước được gây dựng trên
nền tảng luân lý và đạo đức của niềm tin nơi Thiên Chúa (Judeo-Christian), tổ
tiên của người Mỹ là những người Âu Châu đã từng bỏ chạy qua đây để tránh sự
ruồng bắt của Tòa Thánh La Mã trong thời kỳ "Inquisition". Thành thử, Hiến
Pháp Hoa Kỳ nghiêm cấm và tách rời mọi sự liên hệ về quyền lực chính trị
giữa chính quyền và tôn giáo, không phải chỉ vì trình độ ý thức chính trị cao
mà còn là vì những kinh nghiệm đau đớn có thật lúc trước. Nếu Hoa Kỳ đã cấm bang
giao với Cộng Sản Trung Quốc trong 23 năm (1949-1972), với Cộng Sản Việt Nam
trong 19 năm (1975-1994) vì không tương quan trên chính kiến và quyền lợi, thì
Hoa Kỳ cũng đã từng cấm bang giao với Vatican trong 117 năm (1867-1984).
Điều này cho thấy, trong thập niên 1950, Ngô Đình Diệm được Đức Hồng Y Spellman
và các Ủy Viên Chính Trị Tôn Giáo của một số nhà thờ Mỹ đưa đi gặp một số giới
chức Hoa Kỳ chẳng những phải bằng trường hợp bí mật để che dấu nhân dân Hoa Kỳ
mà còn không thể nào hợp pháp được với hiến pháp của Hiệp Chủng Quốc. Trong khi
ông Diệm cho giới chức Hoa Kỳ biết rằng ông "tin tưởng vào Vatican và ông
chống Cộng cực lực" thì năm 1960, Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy đã
phải khẳng định với Phó Tổng Thống Richard Milhous Nixon và hàng chục triệu
người Mỹ rằng mọi quyết định của ông trên cương vị của một Tổng Thống Hiệp Chủng
Quốc sẽ không thể nào bị chi phối bởi tôn giáo của ông. Lý do là vì ông Kennedy
đang tranh cử để trở thành tổng thống đầu tiên và duy nhất của Hoa Kỳ cho đến
ngày hôm nay là người Thiên Chúa Giáo La Mã trong một quốc gia mà gần 80% dân
số không phải là những người có cùng giáo phái, và không có quyền bang giao với
Vatican, {WAR. Census of Religious Groups in U.S."]
Richard M. Nixon và dư luận người Mỹ thắc mắc về trường
hợp tín ngưỡng của John F. Kennedy không phải vì tôn giáo nhưng là vì chính trị.
Hoa Kỳ là một quốc gia chấp nhận đa tôn giáo với hơn 180 hệ phái từ đủ mọi tôn
giáo, trong đó có khoảng 60 triệu là người Thiên Chúa La Mã. Vatican vừa là Tòa
Thánh với nhiệm vụ phát huy và bảo tồn giáo luật, vừa là một quốc gia có nhiệm
vụ phát biểu và khẳng định quan điểm chính trị để bảo vệ quyền lợi đối với các
quốc gia khác trong cộng đồng thế giới. Và Kennedy muốn trở thành tổng thống của
một quốc gia đang bị cấm bang giao với quốc gia mà tâm linh ông tin tưởng là
điều mà nhân dân Hoa Kỳ có quyền biết trong năm 1960. Nỗi thắc mắc này đã hiện
ra trong cuộc bỏ phiếu với sự kiện Kennedy được trội hơn Nixon chỉ có 113.067
dân phiếu trong tổng số 69 triệu phiếu đi bầu, có nghĩa là chưa được 2 phần ngàn
số phiếu [6], [TRA, "Political Events - 1960". Thành thử, nếu Ngô Đình Diệm đã
trở thành một "Spanish Inquisitor" thì ngay cả Kennedy cũng không thể nào có
thẩm quyền để tiếp tục dung túng ông. Và nếu vấn đề "Inquisition" đã từng
có thật ở miền Nam Việt Nam thì Cộng Sản không phải là nỗi kinh hoàng duy nhất
đã xẩy đến cho dân tộc Việt. - Hồ Sơ Ngũ Giác Đài." Lê Hữu Dản, Sự Thật (Đặc
San Xuân Đinh Sửu 1997), (Fremont, CA: TXB: 1997), tr 28-29.
Vì thế mà họ hăng say dồn phiếu cho ông Abraham Lincoln
(thuộc tiểu bang Illinois). Kết quả là ông đại thắng trong cuộc chạy đua vào
Tòa Bạch Ốc một cách vẻ vang với số phiếu cử tri đoàn là 180 của
18 tiểu bang và với số phiếu nhân dân là 1,865,908 (39.8%).Ứng cử viên
của Đảng Dân Chủ miền Nam là ông John C. Breckinridge (thuộc tiểu bang
Kentucky) được 72 phiếu cử tri đoàn của 11 tiểu bang (về hạng nhì) và
848,019 (18.1%) phiếu nhân dân. Ứng cử viên của Đảng Constitutional Union là
ông John Bell (thuộc tiểu bang Tennessee) được 39 phiếu cử tri đoàn
của 3 tiểu bang (về hạng ba) và 590,901 (12.6%) phiếu nhân dân. Ứng cử viên của Đảng
Dân Chủ Miền Bắc là ông Stephen A. Douglas (thuộc tiểu bang Illinois) chỉ được
12 phiếu cử tri đoàn của 2 tiểu bang (về hạng chót), và 1,380,201 (29.5%) phiếu
nhân dân.
Cuộc nội chiến Hoa Kỳ
Vì bất đồng chính kiến về vấn đề nô lệ và
quyền lợi kinh tế, cho nên sau khi ông Abraham Lincoln (1809-1865) vừa mới đắc
cử tổng thống trong kỳ bầu cử tháng 11 năm 1860, thì ngày 1 tháng 2 năm 1861,
bẩy tiểu bang miền Nam tuyên bố ly khai, thành lập một liên bang mới với danh
xưng là “The Confederate States of America”, rồi đưa ông Jefferson Davis thuộc
tiểu bang Mississippi lên làm tổng thống và Tướng Robert E. Lee làm tổng tư
lệnh quân đội miền Nam chống lại Liên Bang Hoa Kỳ (cũng gọi là miền Bắc). Đứng
trước hành động phản quốc này, Tổng Thống Lincoln đã hành động vô cùng khôn khéo
để trình bày cho nhân dân toàn quốc thấy rằng, ông không bao giờ có ý định bắt
ép ai phải theo quan niệm chính trị của ông, nhưng mọi người cũng phải nên hiểu
rằng quyền lợi tối thượng của đất nước Hoa Kỳ phải được đặt lên trên mọi quyền
lợi của cá nhân hay phe nhóm. Sách This Is America’ s Story ghi lại cung cách
ứng xử của Tổng Thống Lincoln vào giờ phút nghiêm trọng này của lịch sử Hoa Kỳ
như sau:
“Khi trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ vào ngày 4/3/1861, ông
Abraham Lincoln phải đương đầu với một vấn đề vô cùng khó khăn. Ông phải làm gì
đối với các tiểu bang ly khai này?
Khi tuyên thệ nhậm chức, ông nói: “Ông không muốn chiến
tranh. Giả thử các bạn tiến đến chiến tranh, các bạn cũng không phải chiến đấu
mãi mãi! Sau khi cả hai bên cùng bị tổn thất nặng nề, các bạn phải ngưng chiến,
và những vấn đề cũ vẫn còn lại với các bạn.”
Vấn đề nô lệ ở miền Nam không nguy hiểm, vì rằng Tổng
Thống Lincoln hứa rằng ông “không có ý định, dù trực tiếp hay gián tiếp, can
thiệp vào vấn đề nô lệ ở các tiểu bang vốn đã có nô lệ.” Ông nói tiếp:
“Hỡi đồng bào bất mãn! Chính do nơi các bạn, chứ không phải do nơi chúng tôi,
đã tạo nên cuộc nội chiến này. Chính phủ sẽ không tấn công các bạn.” Tuy nhiên,
Tổng Thống Lincoln đã làm sáng tỏ vấn đề khi ông long trọng thề phải “duy trì và
bảo vệ chính quyền Hiệp Chủng Quốc.” Sau hết, ông kêu gọi toàn dân hãy đoàn kết.
Ông long trọng nói:
“Chúng ta không phải là kẻ thù mà là bạn. Chúng ta nhất
định không phải là kẻ thù. Tiếng vọng huyền bí của trí nhớ bao trùm từ những nấm
mồ của các nhà ái quốc cho đến hết thảy mọi trái tim của những người còn sống ở
trong khắp đất nước này sẽ trờ thành bài ca đồng điệu của toàn thể quốc gia, và
khi xúc động thì chắc chắn sẽ là những thiên thần lộng lẫy trong vũ trụ của
chúng ta.”
[3]
Cuộc nội chiến Hoa Kỳ bùng nổ vào 4:30 sáng ngày 12/4/1861
do tiếng súng khai hỏa của quân đội miền Nam tấn công vào Đồn Sumter (Fort
Sumter, tiểu bang South Carolina) của quân đội Liên Bang Mỹ. Cuộc chiến kéo dài
gần 4 năm trời và thực sự chấm dứt vào ngày 9/4/1865 khi Tướng Robert E. Lee,
tổng chỉ huy quân đội miền Nam, đầu hàng Tướng Ulysses Grant, tư lệnh chiến
trường của quân đội miền Bắc.
Bàn tay của Giáo Hội La Mã trong cuộc nội chiến Hoa
Kỳ:
Bốn năm chiến tranh đã gây ra không biết bao nhiêu đau thương, khốn khổ và tổn
thất rất nhiều về nhân mạng cũng như về tài sản của nhân dân của cả miền Nam lẫn
miền Bắc. Đây là điều không thể nào tránh được khi đã có chiến tranh xẩy ra. Tuy
nhiên, có một điều làm cho nhân dân thế giới phải hết sức kinh tởm là trong khi
tiến hành chiến tranh, Tổng Thống Lincoln phát hiện được việc Giáo Hội La Mã đã
xúi giục miền Nam đẩy mạnh chiến tranh chống miền Bắc để đóng vai trò ngư ông
thủ lợi. Lời tuyên bố của Tổng Thống Abraham Linclon được sách Smokescreens ghi
lại dưới đây cho chúng ta thấy rõ sự kiện này:
"Cuộc nội chiến này sẽ chẳng bao giờ xẩy ra nếu không có
ảnh hưởng ác độc của Dòng Tên. Vì chính sách (xâm thực) của Giáo Hội La Mã mà
giang sơn chúng ta đã nhuộm đầy máu của chính những người con cao quý nhất của
chúng ta. Dù rằng giữa miền Nam và miền Bắc có nhiều khác biệt lớn lao về vấn đề
nô lệ, nhưng cá nhân Tổng Thống Jeff Davis (của miền Nam) cũng như tất những
nhân vật lãnh đạo khác trong chính quyền miền Nam, không có ai dám nghĩ đến việc
tấn công miền Bắc nếu họ không trông cậy vào những lời hứa hẹn của Dòng Tên rằng
nếu miền Nam tấn công miền Bắc thì Giáo Hội La Mã, và ngay cả nước Pháp nữa, sẽ
gửi tiền bạc và vũ khí đến tiếp viện cho họ.
Khi nhân dân Hoa Kỳ nhận thức được
rằng chính các giám mục và tất cả các tu sĩ khác của Giáo Hội La Mã ở Hoa Kỳ
phải chịu trách nhiệm về cuộc chiến đẫm máu và đầy nước mắt này, tôi cảm
thấy thương xót cho họ. Từ sự hiểu biết tình hình của đất nước, tôi phải giấu
kín những gì tôi biết về vấn đề này; vì rằng NẾU nhân dân Hoa Kỳ biết hết sự
thật (về chuyện này) cuộc chiến sẽ biến thành cuộc chiến tranh tôn giáo, sẽ trở
nên tàn khốc với tất cả đặc tính của một cuộc chiến tranh tôn giáo và máu của
người dân Hoa Kỳ sẽ đổ ra gấp mười lần. Ở vào trường hợp này, cả miền Nam lẫn
miền Bắc đều trở nên vô cùng tàn nhẫn để tận diệt lẫn nhau. Khi đó, những tín
hữu Tin Lành ở cả miền Bắc lẫn miền Nam sẽ cùng nhau đoàn kết để tận diệt hết
các ông tu sĩ Dòng Tên và các tu sĩ khác của Giáo Hội La Mã nếu họ nghe được
những gì Giáo-sư Morse đã nói với tôi về những âm mưu được hoạch định ngay tại
La Mã để tiêu hủy chế độ Cộng Hòa Hoa Kỳ của chúng ta, và NẾU họ biết được rằng
các ông tu sĩ và các bà phước của Giáo Hội La Mã hàng ngày nhập cảnh vào Hoa Kỳ
những người với bề ngoài là truyền đạo, dạy học và săn sóc những người ốm đau,
mà thực chất chỉ là những tên gián điệp của Giáo Hoàng, của Napoleon (Đệ III của
nước Pháp) và của những tên bạo chúa khác ở Âu châu đến đây để phá hoại những cơ
cấu chính quyền của chúng ta, làm cho nhân dân ta mất thiện cảm với hiến pháp và
luật lệ của chúng ta, để phá hoại các trường học của chúng ta.
Mục đích của họ
là làm cho đất nước chúng ta trở thành hỗn loạn, một tình trạng vô chính phủ như
họ đã làm ở Ái Nhĩ Lan, ở Mễ Tây Cơ, ở Tây Ban Nha, và ở bất kỳ nơi nào mà nhân
dân ở đó muốn được sống đời tự do."
"Tổng Thống Abraham Lincoln nói tiếp: "Có phải là một sự
vô lý hay không, nếu đem cho một người một cái gì mà chính họ đã thù ghét,
nguyền rủa và thề phải hủy diệt? Và vào bất kỳ khi nào có thể làm được một cách
an toàn, Giáo Hội La Mã có thù ghét, nguyền rủa và hủy diệt tự do lương tâm hay
không? Tôi là người đứng về phía tự do của lương tâm theo ý nghĩa cao thượng
nhất, rộng rãi nhất và cao cả nhất. Nhưng tôi không thể nào lại trao tự do lương
tâm cho giáo hoàng và tín đồ của ông ta khi mà qua các công đồng của họ, qua các
nhà thần học của họ và qua luật thánh của họ, tôi vẫn còn nghe thấy tiếng nói
lương tâm của họ ra lệnh cho họ phải thiêu đốt và bóp cổ vợ con tôi cho đến
chết, và cắt cổ tôi khi mà họ có cơ hội! Nhân dân ta ngày nay hình như chưa
hiểu được điều này. Nhưng rồi sớm hay muộn, ánh sáng của công lý sẽ làm sáng tỏ
điều này, và khi đó tất cả mọi người sẽ hiểu rằng không thể nào trao tự do lương
tâm cho những người đã thề phải tuân phục một ông giáo hoàng tự phong cho chính
mình cái quyền được sát hại những người khác biệt niềm tin tôn giáo với ông ta."[4]
Việc Giáo Hội La Mã xúi giục các tiểu bang miền Nam ly
khai cùng với việc hứa sẽ viện trợ tài chánh, vũ khí, nhân sự và tích cực tiếp
tay cho miền Nam tiến hành chiến tranh chống lại miền Bắc khiến cho chính quyền
Hoa Kỳ phải cắt đứt quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh Vatican kể từ đó. Sự kiện
này được ông Lương Minh Sơn ghi lại trong bản văn mà chúng tôi đã trích dẫn ở
trên.
Người viết thiết tha mong mỏi rằng hành động của Giáo
Hội La Mã xúi giục những thế lực bất mãn với chính quyền đương thời để gây nên
cuộc nội chiến ở Hoa Kỳ là một bài học lịch sử vô cùng quý giá cho cả chính
quyền và tất cả mọi người dân Việt Nam để suy nghĩ và có cái nhìn chính xác về
chủ trương bất di bất dịch của Tòa Thánh Vatican, rồi tìm ra biện pháp hay chính
sách thích hợp đối với nhóm thiểu số giáo dân Ca-tô cuồng tín và giới tu sĩ áo
chùng đen vong bản hiện nay ở đất nước chúng ta.
Đánh bại được miền Nam và mang lại thống nhất cho đất nước
là công lao vĩ đại và tài lãnh đạo vô cùng khôn khéo của Tổng Thống Abraham
Lincoln. Nhờ vậy mà Hoa Kỳ mới có thể dồn nỗ lực vào công cuộc kiến thiết đất
nước và mở rộng lãnh thổ về phía Tây tới tận bờ biển Thái Bình Dương, về phía
bắc tới vĩ tuyến 49, về phía nam xuống tới Vịnh Mễ Tây Cơ và biên giới Mexico,
rồi lại mua thêm Alaska của nước Nga vào năm 1867. Cũng nhờ vậy mà quốc gia này
càng ngày càng trở nên hùng mạnh. Chính vì lẽ này mà nhân dân Hoa Kỳ đã coi
Tổng Thống Lincoln là một trong các vị tống thống vĩ đại nhất trong lịch sử Hoa
Kỳ, và đã dành cho ông một chỗ ngồi danh dự nhất trong lịch sử, sánh ngang cùng
với Tổng Thống George Washington. Để tri ơn hai vị tổng thống vĩ đại này, Quốc
Hội Hoa Kỳ đã chọn một ngày quốc lễ của đất nước gọi là Ngày Tổng Thống
(President’ s Day). Ngày quốc lễ này được ấn định vào Ngày Thứ Hai của tuần lễ
thứ ba trong tháng Hai hàng năm.
CHUYỆN BÊN LỀ
NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG GIỮA HAI CUỘC CHIẾN
THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC CỦA HOA KỲ (1861-1865)
VÀ CỦA VIỆT NAM (1960-1975)
Nếu đem cuộc chiến giữa hai miền Nam – Bắc Hoa Kỳ trong những năm
1861-1865 so sánh với cuộc chiến giữa hai miền Nam - Bắc Việt Nam trong những
năm 1960-1975, chúng ta thấy có mấy
điểm gần giống nhau như sau:
1.- Tại Hoa Kỳ, phe bảo thủ, giới đại điền chủ miền Nam chủ động việc ly khai
trong mưu đồ biến miền Nam thành một quốc gia riêng biệt và vĩnh viễn, không cần
biết đến quyền lợi tối thượng của tổ quốc và dân tộc. Tại Việt Nam, phe bảo thủ,
phong kiến và bọn Ca-tô Việt gian đã từng cấu kết với quân cướp xâm lăng là Liên
Minh Xâm Lược Pháp – Vatican cũng có chủ trương biến miền Nam thành một quốc gia riêng
biệt và vĩnh viễn mà không cần biết đến quyền lợi tối thượng của tổ quốc và dân
tộc.
2.- Tại Hoa Kỳ, miền Nam được sự hỗ trợ ngầm của Giáo Hội La Mã và của chính
quyền Napoléon III của nước Pháp liên minh với Vatican. Tại Việt Nam, miền Nam
cũng
được sự ủng hộ tích cực của Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican và Hoa Kỳ và được
Hoa Kỳ đài thọ cho tất cả về vũ khí, tổ chức, huấn luyện quân sự cũng như trả
lương hàng tháng cho toàn thể quân nhân các cấp trong quân đội và toàn thể nhân
viên các cấp trong chính quyền.
3.- Tại Hoa Kỳ, Miền Bắc chủ trương phải thống nhất đất
nước bằng bất cứ giá nào và phải theo đuổi cuộc chiến cho tới khi giành được
thắng lợi cuối cùng. Tại Việt Nam, Miền Bắc cũng chủ trương phải thống nhất đất
nước bằng bất cứ giá nào và phải theo đuổi cuộc chiến cho tới khi giành được
thắng lợi cuối cùng.
kỳ sau: FRANKLIN D. ROOSEVELT >>>
<<< kỳ trước: GEORGE WASHINGTON
CHÚ THÍCH
[1] Nguồn:
http://gardenofpraise.com/ibdlinco.htm
“By the time he was 17,
he knew he wanted to be a lawyer. He would walk 17 miles to the county
courthouse in order to watch the lawyers work. He sat in the back of the
courtroom and watched them as they shook their fists and became red in
the face. Then he would go home and think about what he had seen.”
[2] Howard
B. Wilder, Robert P. Ludlum, & Harriett McCune Brown, This Is
America’ Story (Atlanta GA: Houghton Mifflin Company Boston, 1974)
pp. 384-385.
[3]
Harriett McCune Brown, Robert P. Ludlum & Howard B. Wider, Ibid., pp.
392-393.
“When Abraham Lincoln became
President of the United States on March 4, 1861, he faced a very
difficult problem. What should he do about the seceded states?
Lincoln did not want war. As he took oath of
office, he said, “Suppose you go to war, you cannot fight always; and
when, after much loss on both sides, and no gain on either, you cease
fighting, the [same] old questions… are upon you.”
Slavery in the South was in no danger, for Lincoln
promised that he had “no purpose, directly or indirectly, to interfere
with… slavery in the states where it exists.” He went on to say, “In
your hands, my dissatisfied fellow countrymen, and not in mine, is the
momentous issue of civil war. The government will not assail you.”
Lincoln, however, made it clear that he had taken a solemn oath to
“preserve, protect, and defend” the United States government. Finally he
pleaded with the people of the whole country to unite one again.
Solemnly he said:
“We are not enemies, but friends. We must not
be enemies… The mystic chords of memory, streching from every patriot
grave to every living heart and hearthtone all over this broad land,
will yet swell the chorus, as surely they will be, by the better angels
of our nature.”
[4]
Jack.T.Chick, Smokescreens (Chino, Chick Publications, 1983,
trang 85-86.)
"This war would never been
possible without the sinister influence of the Jesuits. We owe it to the
popery that we now see our land reddened with the blood of her noblest
sons. Though there were great differences of opinion between the South
and the North on the question of slavery, neither Jeff Davis nor anyone
of the leading men of the Confederacy would have dared to attack the
North, had they not relied on the promises of the Jesuits, that, under
the mask of Democracy, the money and the arms of the Roman Catholic,
even the arms of France were at their disposal, if they would attack us.
I pity the priests, the bishops and monks of Rome in the United States,
when the people realize that they are, in great part, responsible for
the tears and the blood shed in this war. I conceal what I know, on that
subject, from the knowledge of the nation; for if the people knew the
whole truth, this war would turn into a religious war, and it would at
once, take a tenfold more savage and bloody character. It would become
merciless as all both sides. The Protestants both the North and the
South would surely united to exterminate the priests and the Jesuits, if
they could hear what Professor Morse has said to me of the plots made in
the very city of Rome to destroy this Republic, and if they could learn
how the priests, the nuns, and the monks, which daily land on our
shores, under the pretext of preaching their religion, instructing the
people in their schools, taking care of the sick in the hospitals, are
nothing else but the emissaries of the Pope, of Napoleon, and the other
despots of Europe, to undermine our institutions, alienate the hearts of
our people from our constitution, and our laws, destroy our schools,
and prepare a reign of anarchy here as they have done in Ireland, in
Mexico, in Spain, and wherever there are any people who want to be
free."
"And then President Abraham Lincoln went on
to say: "Is it not an absurdity to give a man a thing which is sworn to
hate, curse, and destroy? And does not the Church of Rome hate, curse
and destroy liberty of conscience whenever she can do it safely? I am
for liberty of conscience in its noblest, broadest, highest sense. But I
cannot give librerty of conscience to the Pope and to his followers, the
Papists, so long as they tell me, through all their councils,
theologians, and canon laws, that their conscience orders them to burn
my wife, strange my children, and cut my throat when they find their
opportunity! This does not seem to be understood by the people today.
But sooner or later, the light of common sense will make it clear to
every one that no liberty of conscience can be granted to men who are
sworn to obey the Pope, who pretends to have right to put death those
who differ from him religion."