|
02 tháng 5, 2010 |
1
2
3
4
III.- TỔNG THỐNG FRANKLIN D. ROOSEVELT
(30/1/1882 – 12/4/1945)

Sinh trưởng trong một gia đình giầu có ở vùng thung lũng
sông Hudson, tiểu bang New York, khi học xong bậc trung học, năm 1905, ông
Franklin D. Roosevelt ghi danh theo học tại Phân Khoa Luật, Trường Đại Học
Columbia ở New York. Năm 1907, ông trúng tuyển kỳ thi được công nhận làm luật
sư của tiểu bang New York (passed the New York State Bar exam.) Năm 1910, ông
được bầu chọn vào Thượng Viện tiểu bang New York. Năm 1913, ông được Tổng Thống
Woodrow Wilson bổ nhiệm làm Phụ Tá Bộ Trưởng Bộ Hải Quân và giữ chức vụ này liên
tiếp 6 năm.
Mùa hè năm 1921, ông lâm trọng bệnh “bệnh bại liệt”, gần
như cả hai chân đều bị bại liệt tưởng như chẳng bao giờ phục hồi đuợc. Tình
trạng này khiến cho ông phải sử dụng xe lăn để di chuyển. Dù là vậy, ông vẫn
hăng say hoạt động chính trị.
Năm 1928, ông ra ứng cử chức vụ thống đốc tiểu bang New
York và trúng cử. Tháng 10 năm 1929, Hoa Kỳ lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh
tế. Tổng Thống Hoa Kỳ là ông Herbert Hoover (Đảng Cộng Hòa) hành động rất chậm
chạp để cứu trợ anh em nông dân lâm vào cảnh khốn cùng, và từ chối, không chịu
trợ giúp giới công nhân nhà máy lâm vào cảnh thất nghiệp. Trong khi đó, tại tiểu
bang New York, ông Franklin Roosevelt cho thiết lập Ủy Ban Cứu Trợ Khẩn Cấp (the
New York State Emergency Relief Commission) để trợ giúp những người cần được trợ
giúp. Việc làm này đã giúp cho những người dân nghèo ở New York thoát khỏi cảnh
điêu đứng lầm than. Vì thế mà họ nức lòng ca tụng ông là người có tài lãnh đạo
quản lý nhân dân. Tiếng lành đồn xa tiễn dữ đồn xa. Chẳng bao lâu, nhân dân cả
nước đều biết đến ông và ông trở thành niềm hy vọng của người dân Hoa Kỳ giữa
thời đại khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Trong kỳ bầu cử tổng thống vào tháng 11 năm 1932,
ông được Đảng Dân Chủ đề cử ra làm ứng cử viên đối đầu với ứng cử viên của Đảng
Cộng Hòa là Tổng Thống Herbert Hoover để cùng thi tài chạy đua vào Tòa Bạch Ốc.
Ông chọn ông John Nance Garner cùng đứng chung liên danh với ông. Một phần nhờ
đã có tiếng tăm lừng lẫy của ông từ năm 1929 qua vụ ông cho thành lập Ủy Ban
Cứu Trợ Khẩn Cấp ở New York để
giúp đỡ những người dân cần được giúp đỡ, một phần do tình trạng thất nhân tâm
của Tổng Thống Herbert Hoover và đảng Cộng Hòa do việc chậm trễ trong việc cứu
trợ anh em nông dân lâm cảnh khốn cùng, và từ chối, không chịu trợ cấp cho anh
em công nhân tại các nhà máy kỹ nghệ bị thất nghiệp gây ra, ông Roosevelt đắc
cử dễ dàng với 472 phiếu cử tri đoàn, và 22, 821, 277 phiếu bầu
của nhân dân (57.4%), trong khi ứng cử viên của Đảng Cộng Hòa là Tổng Thống
Herbert Hoover chỉ được có 59 phiếu cử tri đoàn (của 8 tiểu bang:
New Hampshire, Maryland, New Jersey, Massachusetts, Rhodes Island, Connecticut,
Delaware, và Vermont) , và 15, 761, 254 phiếu bầu của nhân dân
(39.7%).
Khi nhậm chức
vào ngày 4 tháng 3 năm 1933, ông phải đứng trước một tình trạng khủng hoảng kinh
tế trầm trọng nhất trong lịch sử: Hàng triệu người thất nghiệp, mất nhà, mất
ruộng đất. Các nhà ngân hàng ở khắp nơi trong nước đều đóng cửa vì người ta
hoảng hốt rút tiền ra. Nhiệm vụ của ông là phải giải quyết cấp bách vấn đề này.
Nhờ trí thông minh và nhờ kinh nghiệm lão luyện trong việc giúp đỡ những người
dân khốn cùng ở New York trước đó, ông biết phải giải quyết vấn đề này như thế
nào. Ông quyết định đưa kế họach Tân Kinh Tế gọi là ‘New Deal” trình lên Quốc
Hội và được thông qua. Theo kế hoạch này thì:
1.- Về vấn đề canh nông: Chính phủ thiết lập các cơ
quan nông tín dụng để cho anh em nông dân vay tiền, khuyến khích anh em nông dân
cố gắng sản xuất ít nông phẩm để cho giá nông phẩm lên cao, chính phủ trợ cấp
một phần nào cho số ruộng đất tạm hưu canh, và như vậy anh em nông dân sẽ hưởng
lợi nhiều hơn.
2.- Về vấn đề thất nghiệp: Chính quyền cố gắng tìm
công ăn việc làm cho những người thất nghiệp bằng cách đưa ra những dự án xây
nhà, xây đập nước, làm đường xá và thiết lập các công viên. Các đoàn quân bảo vệ
dân sự được thành lập để phân phối công việc làm cho những người không thể kiếm
được việc làm. Những người này sống ở trong các trại và cùng làm những công việc
như nhau như phá rừng, trồng cây.Trong các dự án kém hữu ích hơn, đôi khi lại
được xếp đặt một cách mau chóng chỉ cốt để tạo công việc làm cho những người
thất nghiệp. Chính phủ phải chi ra những khoản tiền khổng lồ để tạo công việc
làm cho dân chúng và chi ra những khỏan tiền lớn lao khác để mua thực phẩm và
quần áo, nhà cứa cho những người không thể kiếm được việc làm.
3.- Về công việc kinh doanh và ngân hàng: Chính phủ
cho các nhà kinh doanh vay tiền để phục hồi các hầm mỏ, nhà máy, các tiệm buôn
hoạt động trở lại và tạo ra nhiều việc làm. Đồng thời, Quốc Hội cũng cho thông
qua các đạo luật để điều hành và kiểm soát các nhà máy kỹ nghệ và công việc kinh
doanh. Kế hoạch New Deal không dừng lại ở đây. Vì rằng có nhiều người đã mất hết
tiền bạc ở trong trương mục tiết kiệm vào khi các ngân hàng vỡ nợ, cho nên Quốc
Hội phải thông qua các đạo luật về ngân hàng để đảm bảo trương mục tiết kiệm của
dân chúng.
4.- Kế hoạch New Deal chấp thuận luật lệ lao động:
Trong thập niên 1930, Quốc Hội cho thông qua nhiều đạo luật để đưa nhân dân Mỹ
ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, trong đó có nhiều đạo luật (như luật bảo đảm
trương mục tiết kiệm của dân chúng) cho đến ngày nay vẫn còn quan trọng. Ngoài
ra, còn có hai đạo luật quy định quyền lợi của anh em công nhân. Tổng Thống
Rooselvelt tin rằng quyền tự do gia nhập nghiệp đoàn và điều hành tập thể với
giới chủ nhân phải được công nhận và phải được bảo vệ. Năm 1935, Quốc Hội cho
thông qua luật Quan Hệ Lao Động Quốc Gia (The National Labor Relations Act), qui
định chính phủ phải bảo vệ những quyền tự do trên đây của anh em công nhân. Luật
này còn được gọi là luật Wagner.
Tổng Thống
Rooselvelt cho rằng nếu nâng cao đồng lương của anh em công nhân và giảm số
giờ làm việc (trong mỗi tuần) để có thêm việc làm cho nhiều người khác, thì đất
nước sẽ được thịnh vượng hơn. Đạo luật ấn định về lương bổng và số giờ làm việc
hàng tuần công nhân được thông qua vào năm 1938. Đạo luật này ấn định số giờ làm
việc hàng tuần của tất cả những người làm việc chế tạo hàng hóa đem bán ra ngoài
tiểu bang sản xuất được giới hạn là 40 giờ một tuần. Luật này cũng qui định rằng
giá tiền công tối thiểu cúa một công nhân là 40 xu một giờ (từ đó tới nay, giá
tiền công tối thiểu của công nhân đã được tăng lên nhiều lần). Nếu một người làm
việc hơn 40 giờ một tuần thì những giờ làm thêm này (giờ phụ trội) phải được trả
cao hơn.
5.- Thông qua luật an ninh xã hội (The social Security
Act):
Một trong những đạo luật quan trọng nhất được mọi người hiểu lả “trợ
cấp xã hội” (public assistance), được thông qua trong thời Tổng Thống Roosevelt.
Đó là đạo luật về an ninh xã hội. Đã từ nhiều năm, có nhiều người đặt ra vấn đề
là: “Nếu chẳng may tôi bị mất công việc làm mà tôi không kiếm đuợc một công
việc khác liền sau đó, tôi và gia đình tôi sẽ ra sao? Hay là cho rằng tôi may
mắn vẫn còn giữ được việc làm, nhưng tới khi tôi già rồi, không thể làm việc
được nữa, hoặc là nếu tôi đã không có thể để dành đủ tiền để lo cho vợ chồng
tôi vào lúc tuổi già, thì tôi sẽ ra sao?.” Đây là những vấn đề quan trọng có
thể xẩy ra cho bất kỳ người nào.
Để giải quyết những sự lo lắng như trên của
người dân lao động, Tổng Thống Roosevelt đệ trình lên Quốc Hội dự luật An Ninh
Xã Hội để thảo luận và xin được thông qua. May mắn cho người dân nghèo nước Mỹ,
dự luật này được
Quốc Hội đã tán đồng và cho thông qua và trở thành luật sau khi tổng thống ký.
Theo luật này, người dân sẽ được bảo đảm vào những khi lâm cảnh thất nghiệp cũng
như lúc tuổi già. Luật này qui định việc trả lương từ ba tới bốn tháng cho anh
em công nhân chẳng may bị thất nghiệp. Khi người công nhân về hưu, hàng tháng họ
sẽ được lãnh một số tiền cho tới khi chết. Để có tiền thực hiện như vậy, chính
phủ cho trích ra một số phần trăm tiền lương hàng tháng của công nhân và giới
chủ nhân cũng phải đóng góp một số tiền bằng như vậy. Các tiểu bang phải cộng
tác với chính phủ Liên Bang trong việc trả tiền phụ cấp thất nghiệp. Tuy nhiên,
việc bảo hiểm tuổi già là trách nhiệm của chính phủ Liên Bang.
6.- Kế hoạch New Deal giúp việc bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên:
Tổng Thống Roosevelt rất quan tâm đến việc bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên. Vì thế mà có nhiều dự luật đưa lên Quốc Hội và được thông qua (thành đạo
luật) nhằm giúp cho nông dân bảo vệ đất đai. Tổ chức CCC (Civil Conservations
Corps = Đoàn Bảo Vệ Dân Sự) cung cấp công ăn việc làm cho nhiều thanh niên,
đồng thời cũng là để bảo vệ rừng cây. Việc xây đập Grand Coulee không những sẽ
tạo nên nhiều công ăn việc làm, mà còn vừa chặn dứng được nạn lụt lội, vừa dẫn
nước vào cả một khu ruộng đất rộng lớn để trồng trọt. Dự án quan trọng nhất
trong kế hoạch New Deal là dự án quản trị thung lũng sông Tennessee (The
Tennessee Valley = TVA). Dự án TVA là một dự án dài hạn nhằm cải thiện toàn thể
vùng đất rộng lớn bao gồm các vùng đất của 7 tiểu bang miền Nam. Dự án này là
nhằm chặn đứng nạn lụt, dẫn nước vào ruộng, bảo vệ đất đai và cung cấp điện lực.
7.- Kế hoạch New Deal làm tăng thêm tốn phì và quyền lực
của chính quyền Liên Bang:
Muốn thực hiện được những chương trình cải cách
của kế hoạch New Deal , chính phủ phải thành lập các cơ quan mới. Các cơ quan
này (gọi là các hội đồng quản trị) phải mướn thêm hàng ngàn công nhân và phải
chi tiêu những khoản tiền lớn lao. Tại Washington DC, các bộ, các nha và các
phòng đều được mở rộng. Vì những lẽ này mà có nhiều người (nhất là từ phía Đảng
Cộng Hòa) chỉ trích kế hoạch New Deal vì tốn phí quá nhiều tiền khiến cho chính
phủ phải mang nợ nhiều. Những người này cho rằng chính phủ can thiệp quá nhiều
vào công việc làm ăn của dân chúng. Họ cho rằng các hội đồng quản trị và các văn
phòng ở Hoa Thịnh Đốn cai trị đất nước. Hơn thế nữa, họ còn tố cáo Tổng Thống
Roosevelt củng cố chính quyền cho mạnh để duy trì việc nắm quyền của Đảng Dân
Chủ.

Trên, trái: Các chuyên gia Thung Lũng Tennessee của kế hoạch New Deal, ký thành luật năm 1933.
Trên, phải: Cố Tổng Thống Franklin Delano Roosevelt người có trách nhiệm cho kế hoạch New Deal.
Dưới: Tranh vẽ tường của một họa sĩ của chương trình New Deal.
Ảnh https://en.wikipedia.org/wiki/File:NewDeal.jpg
Thực ra, những lời chỉ trích kế hoạch New Deal đều nhắm vào cá nhân tổng
thống. Nhưng Tổng Thống Roosevelt cũng có rất nhiều người thán phục và ủng hộ
ông, đặc biệt nhất là dân nghèo và em công nhân lao động. Nhờ vậy mà trong kỳ
bầu cử tổng thống vào tháng 11 năm 1936, ông tái đắc cử với số
phiếu cử tri đoàn là 523 và phiếu nhân dân là 27,752,648
(60.8%), trong khi đó thì ứng cử viên của Đảng Cộng Hòa là ông Alf Landon chỉ
được có 8 phiếu cử tri đoàn của 2 tiểu bang (Vermont và New
Hampshire) và 16,681,862 (36.5%) phiếu nhân dân.
Ngay khi vừa
mới ban hành các đạo luật trong kế hoạch New Deal thì tình hình thế giới biến
chuyển. Tại Á Châu, Tháng 9 năm 1931 Nhật Bản xua quân tấn chiếm Mãn Châu,
tháng 3 năm 1932, họ đem Phế Đế Phổ Nghi lên ngai vàng. Hành động xâm lăng này
bị Hội Quốc Liên lên án. Phản ứng lại, ngày 27 tháng 3 năm 1933, chính phủ Nhật
tuyên bố rút lui khỏi Hội Quốc Liên. Hành động này của Nhật làm cho tình hình
thế giới trở nên cực kỳ căng thẳng.
Cũng trong
những năm này, Âu Châu cũng trở nên cực kỳ rối ren và hết sức căng thẳng. Tai
Đức, ngày 30/1/1933, Adolf Hitler (1889-1945) và Đảng Đức Quốc Xã lên cầm
quyền, tuyên bố rằng Đức không còn bị ràng với Thỏa Hiệp Versailles và phải tái
võ trang, có nghĩa Đức chuẩn bị chiến tranh. Tại Ý, Thủ Tướng Benito Mussolini
(1883-1945) cũng thi hành chính sách xâm lăng. Tháng 10 năm 1935, Ý đem quân ồ
ạt tiến vào lãnh thổ Ẹthiopia. Tại Tây Ban Nha, phe phong kiến phản động Ki-tô
La Mã dưới quyền lãnh đạo của Tướng Francisco Franco (1892-1975), người của Tòa
Thánh Vatican, nổi loạn chống lại chính quyền Cộng Hòa. Chính quyền Cộng Hoa còn
được gọi là chính quyền Mặt Trận Bình Dân (Popular Front government) dưới quyền
lãnh đạo của Diego Martínez Barrio (1883-1962).
Đức và Ý nhảy vào viện trợ dồi dào
cho thế lực phong kiến phản động Ki-tô La Mã, gây nên cuộc nội chiến vô
cùng khốc liệt. Cuộc chiến kéo dài từ ngày 17/7/1936 đến ngày 1/4/l 1939, thì
phe chính phủ Mặt Trận Bình Dân
không thể đương đầu với thế lực của Tướng Franco có cả Đức, Ý và Vatican hỗ trợ
tích cực, cho nên bị thảm bại và bị tiêu diệt.
Đồng thời, ngày 25/10/1936 hai nước Ý và Đức cùng ký với
nhau một liên minh phòng thủ nói là để chống lại hiểm họa Cộng Sản. Rồi ngày
22/11/1936, Đức và Nhật lại ký một thỏa hiệp theo đó thì hai nước sẽ cùng hành
động để chống lại những hoạt động của Đệ Tam Quốc Tế. Ngày 6/11/1937, Ý gia nhập
Thỏa Hiệp Đức – Nhật để cùng hành động chống lại cộng sản quốc tế (mà thực tế là
chống lại phe Đồng Minh Anh – Pháp – Trung Quốc (Tưởng Giới Thạch) và Nga. Sách
sử gọi Liên Minh Đức Ý Nhật là Phe Trục.
Như vậy là Phe Trục đã được hình thành
để tiến hành cuộc xâm lăng trong mưu đồ thống trị toàn cầu và nô lệ hóa nhân
loại. Vatican ngầm theo Phe Trục để hưởng lợi. Tại Âu Châu, Vatican cấu kết với
Đức và Ý để củng cố chế độ đạo phiệt Ca-tô Fancisco Franco tại Tây Ban Nha và
đưa tên con chiên cuồng tín Ante Pavelich lên thiết lập chế độ đạo phiệt Ca-tô
(1941-1945) tại Croatia.
Tại Á Châu, Vatican bám trụ hai con chiên Cường Để (ở
Nhật) và Ngô Đình Diệm tại Việt Nam trong cái gọi “Đại Việt Phục Hưng Hội”
(còn gọi là Việt Nam Quang Phục Hội) với hy vọng rằng nếu Phe Trục toàn thắng,
thì Nhật sẽ đưa con chiên Cường Để về làm vua thay Bảo Đại và sẽ dùng con chiên
Ngô Đình Diệm làm thủ tướng.
Nhân đây xin được nói thêm chi tiết về trường hợp Việt Nam. Trong bài viết “Sự Hình Thành Phong Trào Quốc Gia Mới: Từ Trung Quân sang Ái
Quốc” nhà văn Vũ Ngự Chiêu nói rõ:
"Thời gian này (từ 1890 trở về sau), Hội truyền giáo đã
phát triển và củng cố tổ chức chặt chẽ theo hàng dọc, từ các giáo phận xuống
giáo xứ, họ đạo. Hầu hết các họ đạo tại các xã thôn đều do các giáo mục (curé)
bản xứ trông nom. Mỗi giáo phận là một tiểu vương triều tự trị, với những luật
lệ riêng. Dưới sự hướng dẫn của các linh mục, giáo dân trở thành kiêu dân, hoành
hành bất kể luật pháp. Alphonse Louis Klingler ở Nghệ An và Martin ở Thanh Hoá
chỉ là những thí dụ tiêu biểu.
Không những chỉ lấn áp dân chúng, đập phá chùa chiền,
cướp đoạt ruộng đất, công điền công thổ tại các xã lẫn lộn người Lương và giáo
dân, “thập tự quân” còn kéo nhau đi làm tiền cả thân nhân Từ Dụ Thái Hoàng Thái
hậu, hay cựu Phụ chính Ðại thần Trương Quang Ðãn, vì tư gia họ đã dùng gỗ lim,
mới bị ra lệnh cấm đẵn để dành độc quyền cho các nhà khai thác.
Các quan lại chẳng ai dám phản ứng, vì phạm lỗi với các
giáo sĩ hay linh mục bản xứ sẽ lập tức bị cách chức, hay quở phạt.
Trước viễn ảnh rạn nứt khó tránh giữa chế độ Bảo hộ Pháp
và Hội truyền giáo – đồng thời, để tạo áp lực với các viên chức “rối đạo” – các
giáo sĩ tìm cách móc nối, ăn rễ vào Hoàng tộc và những phong trào kháng Pháp.
Một mặt, giới quan lại xuất thân thông ngôn được yểm trợ ngày một thăng tiến
nhanh trong triều đình, hầu gây ảnh hưởng với vua và Hoàng tộc. Mặt khác, một
số tìm cách liên kết với tổ chức Duy Tân Hội của Phan Bội Châu và Cường Ðể, dòng
dõi duy nhất của Hoàng tử Cảnh. Sự ủng hộ của số giáo sĩ, giáo dân từ Vinh tới
Quảng Nam – kể cả nhóm Ngô Ðình Khả, Nguyễn Hữu Bài, Mai Lão Bạng, v.. v...–
liên hệ không nhỏ với bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh giữa Giáo hội và phe tả
khuynh Pháp.
Tuy nhiên, tưởng cũng cần nhấn mạnh, khối giáo
dân – hoặc ít nữa các nhóm thiểu số giáo sĩ và giáo dân tham vọng – không đoàn
kết, nhất trí như có thể ngộ nhận. Ðường nứt rạn lớn nhất là giữa hai giáo phận
gốc Espania – có liên hệ chặt chẽ với Manila (Philippines), và Roma – và các
giáo phận của Hội Truyền giáo Pháp. Thêm nữa, ý thức chủng tộc cũng tách biệt
dần giáo dân Việt và giáo sĩ ngoại quốc – đặc biệt là các giáo sĩ Pháp. Sau gần
nửa thế kỷ được Pháp “giải phóng” (nói theo ngôn ngữ của Petrus Key năm 1859),
giáo mục và giáo dân Việt vẫn bị xếp loại tín hữu hạng nhì. Triều đình Ki-tô
Ðông Dương vẫn do các “cha triều” Pháp thống trị. Chưa một “linh mục triều”
người Việt nào được lên chức Giám mục. Nói cách khác, Hội truyền giáo Pháp tự nó
cũng là một tiểu vương triều “trắng” bảo hộ tiểu vương quốc Ki-tô “vàng.” Hội
truyền giáo cũng không chỉ có con chiên người Việt. Các giáo sĩ bắt đầu mở mang
họ đạo tới những vùng sơn cước ở Trung và Bắc Kỳ. Từ thập niên 1900, toàn thể
Ðông Dương đã chia làm 7 giáo phận. Tại Bắc Kỳ, thêm giáo phận “Haut Tonkin”
(Ðàng Ngoài Cao), để lo việc Ki-tô hoá dân thiểu số. Tại Trung Kỳ, hai giáo phận
Ðông Ðàng Trong và Tây Ðàng Trong nỗ lực Ki-tô hoá các sắc tộc Ê-đê, Gia-rai,
Sê-đăng, v.. v... trên cao nguyên.”
[1]
Như vậy, Đảng Việt Nam Quang Phục hay Đại Việt Phục Hưng chỉ là công cụ của
Vatican trong mưu đồ sử dụng Cường Để để thiết lập chế độ đạo phiệt Ca-tô rồi
Ki-tô hóa Việt Nam từ trên xuống dưới bằng bạo lực của chính quyền. Cũng
vì có dă
tâm Ki-tô hóa từ trên xuống dưới bằng bạo lực của nhà nước, cho nên khi không
được người Nhật cho làm thủ tướng, Ngô Đình Diệm quay ra đòi nắm giữ Bộ Nội Vụ
để có thể bổ nhậm bọn đàn em (cũng là tín đồ Ca-tô) làm tỉnh trưởng. Thế nhưng,
"già néo thì đứt giây" để rồi ”mất luôn cả chì lẫn chài”. Sự kiện
này được ông Hoàng Cơ Thụy ghi lại trong Việt Sử Khảo Luận - Cuốn 4 như sau:
"Đại Việt Phục Hưng Hội của nhóm Ngô Đình Khôi, Ngô Đình
Diệm (ông Diệm sinh ngày 3/1/1901) thành lập từ năm 1942 liên lạc với Hoàng Thân
Cường Để ở bên Nhật (coi VSKL/8 tr. 1842).
Sau vụ làm thủ tướng hụt cuối tháng 3/1945, một phái
đoàn 5 người của "Ủy Ban Kiến Quốc" là Vũ Văn An, Vũ Đình Dy, Ngô Đình Diệm,
Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn sang Nhật tham dự Hội Nghị Đại Đông Á tại tỉnh Kudan
hồi đầu tháng 5/1945. Cuối tháng ấy và hai tháng 6 và 7/1945, có tin đồn rằng
Cường Để sắp được Nhật đưa về nước để giúp cháu là vua Bảo Đại và sẽ giữ chức vụ
chủ tịch Hội Đồng Tư Vấn đang dự bị thành lập.
Theo lời bác sĩ Hồ Tá Khanh kể với chúng tôi (tháng
3/1992) thì hồi cuối tháng 7/1945, Vũ Văn An có vào Huế đề nghị với cụ Trần
Trọng Kim để cho Ngô Đình Diệm tham gia nội các. Khi ấy còn khuyết mấy bộ trưởng
là các bộ Công Chính (Lưu Văn Lang từ chối, Hoàng Xuân Hãn tạm kiêm nhiệm) và Y
Tế (Vũ Ngọc Anh vừa chết vì bom Mỹ hôm 23/7/1945), nên cụ Kim đề nghị (cho ông
Diệm giữ) một trong hai bộ đó. Song Vũ Văn An đòi cho ông Diệm (giữ) bộ Nội Vụ
để có thể bổ bán bọn đàn em làm tỉnh trưởng. Vì bộ này đã có Trần Đình Nam (năm
giữ), nên cụ Kim không thể nhận lời."
[2]
Trở lại tình hình quốc tế vào lúc đó, chúng ta thấy khắp nơi
trên thế giới đang đứng trên bờ vực thẳm của một cuộc chiến toàn cầu.
Là một cường
quốc giữ ngôi bá chủ trên các Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Đại Tây Dương, có
thuộc địa ở Phi Luật Tân, có quyền lợi khai thác mỏ dầu ở vùng Trung Đông và
Indonesia, dĩ nhiên là Hoa Kỳ không thể khoanh tay đứng nhìn phe Trục lấn lướt
uy hiếp và cướp đoạt quyền lợi của Hoa Kỳ ở những nơi này. Vì thế mà Tổng
Thống Roosevelt lại phải lèo lái Hoa Kỳ nhẩy vào vòng chiến đứng về phía Đồng
Minh Anh Pháp Nga chống lại phe Trục.
Nhân dân Hoa
Kỳ tin tưởng vào tài lãnh đạo tài ba của Tổng Thống Roosevelt, vì thế mà trong kỳ bầu cử vào tháng 11 năm 1940, ông lại đắc cử vẻ vang với số phiếu
cử tri đoàn là 449 và phiếu nhân dân là 27,313,945 (54.7%). Trong
khi đó thì ứng cử viên của Đảng Cộng Hòa là ông Wendell Willkie chỉ được có
82 phiếu cử tri đòan (10 tiểu bang: North Dakota, South Dakota,
Nebraska, Iowa, Kansas, Colorado, Michigan, Indiana, New Hampshire, Vermont) và
22,347,744 (44.7%) phiếu nhân dân.
Về cuộc chiến,
sau khi Nhật tấn công Trân Châu Cảng vào sáng ngày Chủ Nhật 7/12/1941, Hoa Kỳ
thực sự nhẩy vào cuộc chiến vừa trực diện đối đầu với quân Nhật tại mặt Trận Á
Châu, vừa cùng với các nước đồng minh Anh, Pháp, Nga tích cực chống lại liên
quân Đức – Ý tại mặt trận Âu Châu và Bắc Phi. Đầu năm 1942, Hoa Kỳ đưa ra “Kế
Họach Lưỡng Dương” (The Two-Ocean Progam) nhằm phục hồi và tối tân hóa lực lượng
hải quân để tranh thủ đưa Hải Quân Hoa Kỳ lên hàng đầu thế giới hầu có thể điều
động đi lãnh nhận nhiệm vụ khó khăn tại các mặt trận ở những nơi xa xôi. Cũng từ
đó, chiến tranh đã xoay chiều, phe Trục bị thảm bại ở nhiều nơi, nhất là ở Bắc
Phi, và ở các vùng biển Thái Bình Dương.
Tại Âu Châu,
ngày 6/6/1944, quân Đồng Minh đã thành công đổ bộ vào lục địa Âu Châu qua vùng
bở biển Normandie (phía tây nước Pháp) rồi nước Pháp được giải phóng, Tướng De
Gaulle kéo quân vào kinh thành Paris mừng chính thắng. Trong khi đó, tại mặt
trận Thái Bình Dương và tại quốc đảo Phi Luật Tân cũng như trên lục địa Á Châu,
quân Nhật bị thảm bại tại nhiều nơi và co dần vào trung khu rồi nội khu phòng
thủ. Những chiến thắng này làm cho uy tín Hoa Kỳ và cá nhân Tổng Thống
Roosevelt tăng lên khiến cho toàn thể nhân dân thế giới đều tin tưởng rằng nhờ
có Hoa Kỳ mà phe Trục sớm muộn cũng phải bị đánh bại và đầu hàng. Chính vì thế
mà trong kỳ bầu cử tổng thống vào tháng 11 năm 1944, ông lại đại thắng
một lần nữa. Đây là lần thứ tư ông ra tranh cử trong cuộc chạy đua vào Tòa Bạch
Ốc và lần này ông cũng đại thắng vẻ vang như 3 lần trước, với số phiếu cư tri
đoàn là 432 phiếu và 25,612,916 (53.4%) phiếu nhân dân. Trong khi
đó, thì ứng cử viên của Đảng Cộng Hòa chỉ chiếm đuợc có 99 phiếu cử tri
đoàn (12 tiểu bang: Wyoming, Colorado, North Dakota, South Dakota,
Nebraska, Kansas, Iowa, Wisconsin, Indiana, Ohio, Vermont và New Hampshire) và
22,017,929 phiếu nhân dân.
Đầu năm 1945,
khi quân đội Đồng Minh đang trên đà đại thắng ở khắp mọi nơi và tiến sâu vào
nội địa nước Đức, thì ngày 12/4/1945, tin buồn loan ra làm cho toàn thể nhân dân
thế giới đều bàng hoàng sửng sốt: Tổng Thống Roosevelt đã từ trần vì bệnh xuất
huyết não. Đây là cái tang lớn của nhân loại. Ví như Tổng Thống Roosevelt còn
sống đến hết nhiệm kỳ thứ tư thì ông đã có thể chặn đứng mưu đồ tái chiếm Đông
Dương của Liên Minh Xâm Lược – Vatican. Và như vậy Việt Nam đã được độc lập sớm
hơn và không phải trải qua cuộc chiến kéo dài cả 30 năm trời, tốn phí mất vào
khoảng 4 hay 5 triệu sinh mạng người mới đạt được nguyện vọng độc lập và thống
nhất đất nước của toàn dân.
Nhìn vào công nghiệp của ông đối với nhân dân Hoa Kỳ và đối
với nhân dân thế giới, các nhà sử học đều cho rằng Tổng Thống Roosevelt là vị
tổng thống Hoa Kỳ được cả nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới kính phục và mến
thương nhất ngọai trừ những nhóm thiểu số phản động phong kiến và Vatican. Dù là
sự phán xét của lịch sử như thế nào đi nữa, thì nhân dân Hoa Kỳ vẫn còn nhớ đến
ông và coi như là một nhà lãnh đạo tài giỏi và đầy lòng nhân ái vì những công ơn:
1.- đưa đất nước Hoa Kỳ ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế
đất nước,
2.- gíup cho dân nghèo, những phế nhân hay người bất hạnh
bị tàn tật không thể mưu sinh được bảo đảm khỏi phải sống
trong cảnh điêu linh khốn khổ thiếu cơm thiếu áo. ,
3.- giúp cho người dân lao động trút được gánh nặng lo âu
vào những khi thất nghiệp, không có công ăn việc làm hay vào khi đau ốm và
già yếu,
4.- lèo lái con thuyền Hoa Kỳ trong suốt thời kỳ chiến
tranh và cùng Đông Minh chiến đấu đánh bại Phe Trục khiến cho những thế lực
phong kiến phản động và bọn lưu manh độc quyền bán vé lên thiên đường phải chùng
bước truớc các phong trào vùng lên của các dân tộc nằm dưới ách thống trị của các
đế quốc thực dân xâm lược Anh, Pháp, Hòa Lan, Bỉ và Vatican, và
5.- đưa Hoa Kỳ lên hàng siêu cường trên thế giới.
kỳ sau: BARACK OBAMA >>>
<<< kỳ trước: ABRAHAM LINCOLN
CHÚ THÍCH
[1] Vũ Ngự
Chiêu.“Sự Hình Thành Phong Trào Quốc Gia Mới: Từ Trung Quân sang Ái
Quốc.” chuyenluan.net Tháng 6/2006.
[2] Hoàng
Cơ Thụy, Việt Sử Khảo Luận – Cuốn 4 (Paris: Nam Á, 2002),
tr. 1963.