Họ và Chúng Ta Nguyễn Mạnh Quang http://sachhiem.net/NMQ/HOVATA/NMQhvt-2.php PHẦN II NHỮNG ĐIỂM KHÁC NHAU GIỮA HỌ VÀ CHÚNG TA Trong Phần I, người viết đã nói khá rõ ràng về trình độ hiểu biết về môn sử và bản chất lươn lẹo ăn không nói có và cãi cối cãi chày của các ông văn nô Ca-tô viết sử mà điển hình là ông Lữ Giang tức Tú Gàn có tên thật là Nguyễn Cần. Trong Phần II này, người viết xin trình bày một số những điều trái ngược giữa một bên là những người được Vatican rèn luyện theo tinh thần công giáo và một bên là những nguời thuộc tam giáo cổ truyền và các tôn giáo khác hay những người ở ngoài đạo Ca-tô. Xin dùng từ “họ” để nói về những người được rèn luyện theo tinh thần công giáo (Ca-tô) và “chúng ta” là những người "phi Ca-tô", hoặc thuộc tam giáo cổ truyền, hoặc thuộc các tôn giáo khác, hay không bị ảnh hưởng của nền giáo dục Ca-tô. Dưới đây là một số những điều khác nhau giữa họ và chúng ta: 1.- Chúng ta là những người sống theo nếp sống văn hóa cổ truyền của dân tộc với tinh thần thực tế, lúc nào cũng ghi tâm khắc cốt là phải sống theo lương tâm và hành xử theo lẽ phải sao cho đúng với đạo con người ở trên cõi đời này. Đó là nền đạo lý vị tha với những quy luật bất thành văn là phải có tinh thần hiếu hòa, thương yêu “mọi người như anh em trong một nhà.” (Tứ hải giai huynh đệ), phải thành thật với chính mình và thành thực với mọi người, “biết thì nói rằng biết, không biết thì nói rằng không biết.” (Tri chi vi tri chi; bất tri vi bất tri.) Cho nên, đối với thế giới thần linh, thần thánh hay ma quỷ, chúng ta đều phải thành thực mà cho rằng “chưa thờ được người, thờ thế nào được thần” (vị năng sự nhân, an năng sự quỷ.) “Chưa biết được sự sống, biết thế nào được sự chết.” (Vị tri sinh, an chi tử); vậy thì chỉ nên “vụ lấy làm việc nghĩa của người, còn quỷ thần thi kính mà xa ra.” (Vụ dân chi nghĩa, kính quỷ thần nhi viễn chi), phải hướng vào nội tâm để tu tâm dưỡng tính bằng cách tìm phương kế khơi động, nuôi dưỡng và phát triển cái thiện tính thiên bẩm của con người (nhân chi sơ, tính bản thiện), dồn nỗ lực vào những suy tư tốt và hành động tốt hầu có thể giúp ích mọi người và cho chính mình trở thành người tốt, được thân tâm an lạc. Có như vậy, chúng ta mới hy vọng làm giảm bớt được những tội ác trong xã hội loài người và mang lại phúc lợi cho chính mình và cho mọi người ở chúng quanh ta. Trái lại, họ là những người theo đạo Ki-tô luôn luôn sống trong ảo tưởng, lúc nào cũng hướng ngoại hay vọng ngoại, mơ về nước Chúa qua cái ải quan Vatican để rồi đắm mình trong mưu mô, thủ đoạn, xảo trá, lưu manh, lường gạt, lươn lẹo, lừa bịp và bạo lực do tập đoàn canh gác cái ải quan này chủ mưu. Xin gọi cái tập đoàn tội ác này là bọn đầu nậu trong giáo triều Vatican. Trong các thư viện tại các quốc gia ở Bắc Mý, ở Úc Đại Lợi, ở Âu Châu và ở khắp mọi nơi trên thế giới cũng như ở trong internet đều có cả hàng rừng tài liệu nói về những rặng núi tội ác chống nhân lọai do tập đoàn canh gác ải quan Vatican (hay giáo triều Vatican) chủ mưu gây ra trong gần hai ngàn năm qua. Một trong những bằng chứng rõ ràng nhất, gần đây nhất và dễ dàng kiểm chứng nhất là những thuật ngữ và hành động của Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt kêu gọi giáo dân tụ tập cầu nguyên bất hợp pháp và gây bạo lọan tại tòa nhà công sở số 142 Phố Nhà Chung, Hà Nội từ ngày 18/12/2007 cho đến ngày 30/1/2008 và tại Công Ty May Chiến Thắng số 178 Đường Nguyễn Lương Bằng, Hà Nội từ ngày 15/8 cho đến ngày 22/9/2008 để đòi chiếm lại hai khoản bất động sản trên đây cho tập đoàn tội ác Nhà Thờ Vatican. Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. Vì sống trong cái môi sinh như vậy, họ cũng có những ác tính và những hành động tội ác giống y như tập đòan đầu nậu trong giáo triều Vatican. 2.- Chúng ta cho rằng “nhân chi sơ, tính bản thiện” và chỉ coi là có tội khi đương sự có những lời nói hay hành động làm tổn thương đến danh dự, tinh thần, tài sản hay sinh mạng của người khác. Trái lại, họ lại cho rằng con người mới sinh ra là đã có tội rồi. Người nào không được Nhà Thờ Vatican rửa tội là có tội và xấu xa. Cũng vì thế mà họ thường gọi những người khác tôn giáo với họ là tà giáo, là mọi rợ, là dã man và cần phải được khai hóa. Cái quan niệm khinh rẻ những nhóm dân thuộc các tôn giáo hay nền văn hóa khác tà giáo, là mọi rợ, là dã man rồi tự phong cho là có sứ mạng hay bổn phận phải đi khai hóa người ta là đầu mối khiến cho Nhà Thờ Vatican gây ra hàng rừng tội ác về việc sử dụng những thủ đọan lừa bịp người đời và bạo lực để cưỡng bách những người thuộc các tôn giáo khác phải theo "cái tôn giáo ác ôn" của họ. 3.- Chúng ta sống theo quy luật “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (không cưỡng bách những người khác phải làm những điều mà chính mình nếu ở vào địa vị bị cưỡng bách như vậy cũng cảm thấy bất mãn va không muốn làm.) Trái lại, họ luôn luôn đòi hỏi hay cưỡng bách những người khác phải theo đạo (tôn giáo) của họ nếu có cơ hội. Đây là một trong những tư duy, thái độ va hành động xấc xược ngược ngạo của họ được thể hiện ra bằng hành động cưỡng bách những người thuộc các tôn giáo khác phải theo đạo Ca-tô của họ. 4.- Chúng ta coi Việt Nam là tổ quốc của chúng ta và sống theo quan niệm “tổ quốc trên hết”, “nước mất nhà tan” và “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.” Trái lại, họ coi Vatican là “tổ quốc” của họ, và sống theo quan niệm “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa.” 5.- Chúng ta tranh đấu cho quyền lợi tối thượng cúa tổ quốc cũng như cho sự sống còn của đất nước và sự trường tồn của dân tộc. Trái lại, họ tranh đấu cho quyền lợi tối thượng của Vatican, cho sự sống còn và sự trường tồn của Giáo Hội La Mã. Việc ông Tổng Thống Ngô Đình Diệm lên cầm quyền, khi thấy rằng quyền lực đã được củng cố, ông ta liền cho tổ chức một buổi đại lễ vô cùng long trọng vào tháng 2 năm 1959 rồi mời vị đại diện của Tòa Thánh Vatican tại Sàigòn là Hồng Y Agagianian đến làm chủ tế để dâng nước Việt Nam cho Đức Mẹ Vô Nhiễm (tức là Vatican), việc ông ta cho tổ chức cuộc hành hương khổng lồ tới nhà thờ La Vang vào ngày 16/8/1961 có tới 200 ngàn giáo dân tham dự và tổ chức một đại lễ, rồi mời ông Giám Mục Ngô Đình Thục làm chủ tế để kinh dâng nước Việt Nam cho Đức Mẹ La Vang [10], việc Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt kêu gọi giáo dân tụ tập cầu nguyên bất hợp pháp và gây bạo lọan tại tòa nhà công sở số 142 Phố Nhà Chung, Hà Nội, từ ngày 18/12/2007 cho đến ngày 30/1/2008 và tại Công Ty May Chiến Thắng số 178 Đường Nguyễn Lương Bằng, Hà Nội, từ ngày 15/8 cho đến ngày 22/9/2008 để đòi lại các cơ sở bất động sản tại các nơi này cho Vatican, chỉ là một vài trong số hàng rừng bằng chứng cho sự kiện này. 6.- Chúng ta là những người thiết tha yêu thích “chân, thiện, mỹ,” quý mến những người thật thà, ngay thằng và thành thật, chỉ tin những gì có thể dùng lý trí kiểm chứng xem có thể tin được, thì mới tin, và nhất định không tin những gì mà lý trí cho biết không thể tin được. Trái lại, họ được Nhà Thờ Vatican dạy dỗ rằng “phúc cho ai không thấy mà tin” và họ nhắm mắt tin tin tưởng vào tất cả những điều gì mà Nhà Thờ của họ rao truyền hay dạy dỗ. Tình trạng này đã khiến cho họ luôn luôn “sống trong ảo tưởng và giả dối, sống trong lường gạt và lừa bịp”, lừa bịp từ trong nhà thờ lừa bịp ra. Đây là sự thật trong xã hội Ki-tô. Bằng chứng không thể chối cãi được cho sự thật này là trong thực tế, chưa hề có một ông linh mục nào đã lên thiên đường và cũng chưa hề có một ông linh mục nào đã xuống địa ngục. AAsan y thế khi nói về những thứ này, họ luôn luôn làm như là họ từ thiên đường mới về hay đã từ địa ngục mới thoát ra. Sự gian dối này cũng được thể hiện ra khi các ông linh mục hôn lên bản văn trong thánh kinh vào lúc ông ta vừa đọc xong trong giờ lễ. Vì quen sống trong môi trường của ảo tưởng, phỉnh gạt, lừa bịp, dối trá, lươn lẹo như vậy, cho nên theo thời gian, họ cũng trở thành những người gian manh, dối trá, lươn lẹo ưa thích vu khống, ưa thích đặt điều xấu xa để gán cho những người bất đồng chính kiến với họ, đặc biệt là những nạn nhân khác tôn giáo với họ. Vấn đề này đã được chúng tôi trình bày khá đầy đủ trong Chương 11 (Mục IV, Phần II) trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã. Chương sách này đã được đưa lên sáchhiem.net và giaodiemonline.com từ tháng tháng 9/2007. 7.- Chúng ta tuyệt đối không tin những chuyện lầm cẩm hoang đường được bịa đặt ra với dã tâm lừa gạt những người dốt nát và nhẹ dạ, rồi cấu kết với cường quyền để cưỡng bách những người lép vế thế cố phải tin theo và tuân hành hầu thủ lợi. Vì thế mới có chuyện ông Tây Môn Báo nước Ngụy đã thẳng tay trừng trị bọn thày cúng, đồng bóng ở Đất Nghiệp Đô trên ven sông Chương Hà về tội hãm hại con gái nhà lành phải làm vợ ông thần hà bá ở khúc sông này và tội cưỡng bách nhân dân trong vùng phải đóng góp tiền bạc làm lễ cưới vợ cho tên ác thần này để hưởng lợi. Trái lại, họ luôn luôn nhắm mắt tin tất cả những điều cực kỳ vô lý mà Nhà Thờ Vatican bảo họ phải tin. Bà Maria đã từng làm tình với ít nhất là hai người đàn ông và đã có 8 người con, đã thành một bà già xề từ thuở Chúa Giêsu còn sinh thời. Hơn ba trăm năm sau, Nhà Thờ Vatican tuyên bố và tôn vinh bà là "Đức Mẹ đồng trinh", thì lập tức họ (các con chiên) tin liền và tin một cách mãnh liệt. Họ trân trọng và triệt để tin tưởng rằng bà già xề này là “Đức Mẹ Đồng’ Trinh”, rồi tìm đủ mọi cách và đủ mọi cơ hội để cưỡng bách những người khác phải tin cái chuyện láo khoét này. 8.- Chúng ta sống theo quan niệm về trật tự “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh.” Trái lại, họ sống theo quan niệm trật tự trên dưới “nhất Chúa, nhì cha, thứ ba Ngô Tổng Thống”, tức là “Nhất Nhà Thờ, nhì Cha (giám mục và linh mục), thứ ba chính quyền.) Nói cho rõ hơn là Nhà Thờ Vatican chỉ đạo chính quyền hay chính quyền chỉ là công cụ cho Nhà Thờ Vatican để thực thi những thủ đọan lừa bịp, bòn rút, móc túi nhân dân và đàn áp những người không chịu khuất phục. 9.- Chúng ta sống theo quan niệm nếu ông vua hay người lãnh đạo chính quyền mà không làm tròn nhiệm vụ của ông vua hay người lãnh đạo, thì chúng ta cho rằng ông vua đó ở vào tình trạng bất xứng. Gặp trường hợp như vậy, nhân dân có quyền nổi loạn truất phế ông ta để đưa một người khác có tài có đức lên thay thế. Thí dụ như Nếu ông vua hay người lãnh đạo chính quyền lạm dụng quyền hành, dành những đặc quyền đặc lợi cho gia đình và phe đảng hay tôn giáo của mình, cướp đọat tài sản quốc gia, hà hiếp nhân dân và coi người dân như cỏ rác, THÌ nhân dân có quyền nổi lên khử diệt ông vua hay nhân vật lãnh đạo đó và đưa người đã có công khử diệt tên bạo chúa này lên thay thế. Sự kiện này được sách sử ghi nhận rõ ràng như sau: “Nếu người làm vua áp bức nhân dân (tức là không hành xử đúng theo nguyên tắc đạo lý), thì ông vua đó không còn xứng đáng được đối xử như đối với một ông vua nữa. Cá nhân ông vua đó không còn thiêng liêng nữa, và trừ khử ông vua đó không còn là một tội ác. Nổi loạn giết một tên bạo chúa như vậy không những là một việc làm hợp lý mà còn là một việc làm đáng được ca tụng, và người đứng ra phất cờ khử diệt tên bạo chúa đó đáng được đưa lên thay thế tên bạo chúa đó để nắm quyền lãnh đạo đất nước.” (“If the sovereign oppressed the people, he no longer deserved to be treated as the sovereign. His person was no longer sacred, and to kill him was no longer a crime. Revolt against such tyranny not only was reasonable but was a meritorious act and conferred upon its author the right to take over the powers of the soverieign.”) [11] Trái lại, quan niệm của họ về nhà lãnh đạo chính quyền hoàn toàn trái ngược với quan niệm của chúng ta. Lý do là vì Nhà Thờ Vatican dạy họ rằng:“mọi sự ở trên đời này đều do Chúa an bài cả,” dù cho có gặp phải nhà cầm quyền tàn ngược đến mức nào đi nữa, thì cũng phải ráng mà chịu và chỉ có một cách duy nhất là cầu nguyện Chúa để cho Chúa lo liệu, chứ nhân dân không có quyền vùng lên làm cách mạng để khử diệt tên bạo chúa đó.. Sách Triết Lý Quốc Trị Đông Phương ghi rõ sự kiện này như sau: “…, một triết gia Âu Châu khác là thánh Aquinas (1225-1274) chủ trương rằng nhà vua được thượng đế chọn lựa cho nên nhân dân phải dùng các phương tiện hợp pháp để trục xuất một vị vua gian ác; nhân dân KHÔNG THỂ LÀM CÁCH âMẠNG giết vua để thay đổi cơ chế chính quyền. Theo Aquinas,nhân dân thà có một ông vua gian ác còn hơn là phải đối đầu với hiểm họa đất nước bị phấn chia. Sự cai trị độc ác của một lãnh tụ có thể phản ảnh ý định trừng phạt người dân của Thượng Đế; và nếu các phương tiện hợp pháp không thể trục xuất vị lãnh tụ gian ác, người dân chỉ còn có một cách duy nhất là cầu nguyện Thượng Đế. Nếu Thượng Đế (tức là Nhà Thờ Vatican) không đáp lời để bắt buộc vị lãnh tụ quốc gia đó phải thoái vị hay từ chức, thì nhân dân phải chấp nhận vị lãnh tụ gian ác này bởi vì đó là ý của Thượng Đế (Nhà Thờ Vatican).”[[12]] Điều khôi hài là họ chỉ áp dụng cái chủ thuyết này đối với nhân dân ở trong các quốc gia đã nằm dưới ách thống trị của Nhà Thờ của họ. Còn đối với nhân dân sống trong các quốc gia mà chính quyền không chịu khuất phục Nhà Thờ Vatican, thi Nhà Thờ lại kêu gọi giáo dân bất tuân hành luật lệ và quyền lực của chính quyền đó. Đây là sư thật. Bằng chứng cho sự thật này là Nhà Thờ đã dạy tín đồ rằng: “Các nhà truyền giáo còn yêu cầu người Công Giáo Việt Nam đừng thừa nhận quyền lực Nhà Vua và luật pháp nước họ. Họ nói với các con chiên rằng, “Giáo Hoàng ở La Mã (Rome) mới là vị vua tối cao duy nhất của họ. Họ chỉ tuân phục quyền lực của Tòa Thánh Vatican.”[13] Đây là nguyên nhân TẠI SAO trong khi chúng ta nhiệt liệt hoan hô những việc làm của các vị tướng lãnh quân đội miền Nam đã anh dũng đứng lên lật đổ bạo quyền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa và khử diệt tên bạo chúa phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm vào chiều ngày 1/11/1963, thì họ lại xót thương, nhớ tiếc cái chế độ dã man này, xót thương tên bạo chúa đã bị sách sử ghi nhận là một trong số 100 tên bạo chúa ác độc nhất trong lịch sử nhân loại. Không những thế, họ còn lên án, sỉ vả, hạ nhục những vị tướng lãnh đã làm việc đại nghĩa cứu dân trong biến cố lịch sử này. 10.- Chúng ta phân biệt đạo lý hoàn toàn khác hẳn với tôn giáo. Đạo lý được tôn vinh lên hàng vị thế cao nhất, đứng trên chính quyền, và chính quyền đứng trên tôn giáo. Chính quyền có nhiệm vụ phải kiểm soát, kiềm chế và nghiêm trị những kẻ mưu sinh bằng nghề cúng lễ với danh nghĩa là thày cúng hay là tu sĩ. Như vậy, xã hội chúng ta là xã hội thượng tôn đạo lý. Sở dĩ có được trật tự trên dưới như vậy là nhờ nền đạo lý của người dân Đông Phương nặng tính cách thực tế, lấy con người làm đối tượng phục vụ. Trong những luật lệ quản lý các phạm vi sinh họat đời sống con người, KHÔNG HỀ ĐỀ CẬP ĐẾN THẦN THÁNH . Sự kiện này được ghi lại rõ ràng trong sách sử với nguyên văn như sau: "Họ (Nho giáo) cũng không quan tâm đến thế giới thần linh hay siêu nhiên vì họ cho rằng những khó khăn của con người chỉ có thể do chính con người giải quyết được. Sống ở cõi trần gian này họ chỉ mong sao làm cho nơi đây trở thành một nơi tốt đẹp hơn để sinh sống. Họ tích cực quan tâm đến công việc chính trị, kinh tế và quan trọng hơn cả là vấn đề đạo đức. Về siêu hình và tôn giáo, nếu cần, thì chỉ nên áp dụng trong phạm vi giới hạn của các công việc trần tục. Ý thức hệ của họ là lấy con người làm tụ điểm và mọi khả năng kiến thức là để phục vụ cho con người.” Nguyên văn: “They were not interested in the supernatural forces either because they believe that man's problems could only be solved by man himself. They were in this world, and they wished to make it a better place to live. They dealt extensively in politics, economics, and most importantly, ethics. Their interest in metaphysics and religion was confined to applying them if possible to the more mundane, worldfly affairs. Theirs was a “man-centered” ideology to which all branches of knowledge must submit themselves.”)[[14]] Vì lẽ này mà nền đạo lý Đông Phương vừa thực tế vừa vị tha, đòi hỏi TÔN GIÁO PHẢI TÁCH RỜI KHỎI ĐẠO LÝ, và ĐẠO Ý PHẢI ĐỨNG TRÊN TÔN GIÁO, đòi hỏi những người hành nghề tôn giáo phải biết rõ vai trò và giới hạn của họ không ra khỏi cái bàn thờ mà họ hành nghề, và phải biết rõ tôn giáo của họ chỉ có giá trị đối với chính họ và những người đồng đạo của họ mà thôi. Sự kiện này được sách The Ageless Chinese trình bày rõ ràng như sau: "Sự tách rời đạo đức ra khỏi tôn giáo không phải là không có phúc lợi. Đây là một nét đặc thù của nền văn hóa Trung Hoa. Người Trung Hoa cho rằng các tiêu chuẩn đạo đức quan trọng hơn các tiêu chuẩn tôn giáo. Trong trường hợp có sự xung đột giữa đạo đức và tôn giáo thì tiêu chuẩn đạo đức phải luôn luôn chiếm phần ưu thế. Người Trung Hoa quan niệm rằng các tiêu chuẩn đạo đức và tôn giáo không cần thiết phải giống nhau, trái lại đôi khi còn trái ngược nhau... Trong khi các tiêu chuẩn của một tôn giáo có vẻ kỳ dị đối với một hay với nhiều tôn giáo khác, thì các tiêu chuẩn đạo đức lại có tính bao quát phổ thông và phải được áp dụng cho tất cả mọi người. Không nên cưỡng bách những người khác phải theo tôn giáo của mình. Đối với hạng người cuồng tín về tôn giáo, làm như vậy (bắt người khác phải theo tôn giáo của mình) thì được coi là "ngoan đạo", có tinh thần tôn giáo, nhưng chắc chắn là phi luân lý, phi đạo đức. Những người cuồng tín về đạo giáo cương quyết chỉ trích, lên án và hủy diệt tất cả những tôn giáo khác bằng tất cả những phương tiện và biện pháp mà chúng có thể sử dụng được. Đó là một sự suy đồi của xã hội và chúng không đáng được đồng bào của chúng thương xót. Xã hội muốn tồn tại, thì các tiêu chuẩn đạo đức phải đứng lên trên tất cả các tôn giáo và các tôn giáo phải tuân hành các tiêu chuẩn đạo đức. Một tiêu chuẩn đạo đức như vậy phải được áp dụng để điều hành sự liên hệ giữa các tập thể (như là các giáo phái) cũng như giữa những cá nhân trong một tập thể. Khi đã tách rời đạo đức ra khỏi tôn giáo và coi đạo đức có giá trị cao hơn tôn giáo, người Trung Hoa thoát khỏi cảnh cuồng tín về đạo giáo, thoát khỏi cảnh ngược đãi và khủng bố nhau vì lý do tôn giáo. Trong khi đó các tôn giáo khác nhau vẫn sống bên nhau một cách hài hòa nếu so sánh với nhiều quốc gia khác (ở Âu châu).” Nguyên văn: "The separation of ethics from religion, a unique feature of the Chinese culture system, was not without its blessing. In the Chinese mind, ethical standards were more important than religious standards, and in case of conflict between them, the former should always prevail. As the Chinese looked at it, these two standards were not necessarily the same and were sometimes contradictory. While religious standards were peculiar to a certain religion or religions, ethical standards were universal and should be applied to all men. One should not impose his own religious standards upon others who did not belong to his religion. To do so might be regarded as religious from his point of view; certainly it was not ethical. A religious fanatic bent on the condemnation and destruction of all other religions by whatever means he possessed was a social degenerate, deserving no mercy from his fellow men. Above religious beliefs was an ethical standards which all religions must abide by if society were to survive. Such a standard governed the relations between groups of individuals (such as religious sects) as well as individuals themselves. As ethics was separated from religion and was regarded as superior to religion, the Chinese were remarkably free from religious bigotry, and persecution on religious grounds, while not absent altogether, was noticeably mild compared with that of many other countries.”) [15] Thứ đến là chính quyền. Chính quyền phải hành xử đúng theo những quy tắc của đạo lý. Thường thường những quy tắc này là những quy luật bất thành văn của đạo lý. Nếu chính quyền hành xử phản lại đạo lý thì sẽ bị nhân dân vùng lên lật đổ chính quyền để thiết lập một chính quyền khác biết hành xử đúng theo đạo lý. Sau cùng là tôn giáo. Như vậy, tôn giáo ở vào địa vị thấp nhất trong cái trật tự đẳng cấp trên dưới trong nếp sống văn hóa của người dân Đông Phương. Nói cho gọn là “Nhất là đức (đạo đức), nhì quyền (chính quyền), thứ ba tôn giáo.” Tôn giáo mà đi ngược với đạo lý thì sẽ bị chính quyền (thay mặt cho đạo đức và cũng là luật pháp) trừng trị và bị nhân dân phỉ nhổ. Việc quan thái thú Tây Môn Báo trừng trị bọn thày cúng và thày trò mụ đồng cốt trong chuyện Cưới Vợ Cho Hà Bá là bằng chứng hùng hồn nhất cho sự kiện này. Việc này cũng chứng minh rõ ràng là tôn giáo được coi như là ở hàng thấp nhất trong nếp sống sinh họat văn hóa của chúng ta. Trái lại, trong xã hội Ki-tô của họ là xã hội thượng tôn tôn giáo, không có đạo lý, mà chỉ có tôn giáo. Tôn giáo đứng ở vị thế cao nhất và ở vào địa vị độc tôn. Tôn giáo đẻ ra chính quyền và chính quyền có nhiệm vụ phải phục vụ tôn giáo. Đây là thực trạng trong xã hội Ki-tô giáo, và thực trạng này được các nhà sử học và chính trị học gọi là “tôn giáo chỉ đạo chính quyền” hay “thần quyền chỉ đạo thế quyền.” Thực trạng này cũng được nhà văn Ca-tô Nguyễn Ngọc Ngạn ghi lại bằng một thành ngữ “Nhất Chúa, nhì Cha, thứ ba Ngô Tổng Thống”. Thành ngữ này quả thật đã nói lên cái thứ bậc trên dưới về tôn giáo và chính quyền ở trong các xóm đạo và cũng là trong xã hội Ki-tô ở bất kỳ nơi nào mà quyền lực của Nhà Thờ Vatican vươn tới. Nói như vậy là trong xã hội Ca-tô giáo, không có đạo lý và cũng không có quy tắc đạo lý để cho người dân theo đó mà hành xử. Vậy dựa vào quy tắc nào để họ hành xử và giao tiếp với nhau trong cuộc sống ngày? Xin thưa, họ dựa theo những tín lý Ki-tô, giáo luật và lời dạy của Nhà Thờ để hành xử. Tín lý Ki-tô nói rằng: “Đừng nghĩ rằng ta xuống trần để mang lại hòa bình trên trái đất. Ta không xuống đây để mang lại hòa bình mà là gươm giáo. Vì ta xuống đây để làm cho con trai chống đối cha, con gái chống đối mẹ, và con dâu chống đối mẹ chồng. Và những kẻ thù của một người thì ở ngay trong nhà hắn.” (Matthew 10: 34-36) Luke 19:27. Giáo Hòang Paul IV tuyên bố: “Nếu bố tô là dị giáo đồ, tôi cũng sẽ chụm củi thiêu sống ông ta luôn..”[16] Nhà Thờ Vatican dạy rằng, “Phải tuyệt đối tin tưởng vào các tín lý Ki-tô”, “Phải tuyên đối tuân hành những lời dạy của các đấng bề trên.” Rằng: ”Giáo Hội La Mã đã được Thiên Chúa ban truyền toàn bộ sự thật cần thiết cho sự cứu rỗi và chỉ giáo Hội mới có quyền giải thích hoặc khai triển sự thật đó. Tất cả những gì ở ngòai sự thật nói trên hoặc trái với lời giải thích chính thức của Giáo Hội. chỉ có thể là sai lầm. Mà Giáo có quyền và có bổn phận tiêu diêt sự sai lầm để bảo vệ sự thật hầu hoàn thành sứ mạng cứu rỗi của Giáo Hội. Lẽ dĩ nhiên, Giáo Hội chỉ tiêu diệt sự sai làm còn chính con người sai lầm thì vẫn được kính trọng (de homme foi), và những “võ khí” mà Giáo Hội dùng để tiêu diệt sự sai lầm đều là những “võ khí tinh thần” như Thánh Phao Lồ đã viết.”[17] Cũng vì thế mà: “Lịch sử cho thấy rằng, từ khi Giáo Hội trở thành “Quốc Giáo” dưới triều đại Hoàng Đế Constantine và nắm được những thế lực lớn lao thì “cây gươm tinh thần” của Thánh Phao Lồ đã luôn cám dỗ được biến thành cây gươm thép thật sự. Kể từ dạo ấy, mỗi khi hoàn cảnh cho phép, Giáo Hội đã không ngần ngại dùng thế lực để tiêu diệt những tôn giáo khác, đập phá các đền thờ “tà thần”, đốt sách vở ngoại đạo và đốt luôn bọn người bị xem là “lạc đạo” nếu không chịu sửa sai.”[18] Như vậy, theo lời dạy của Nhà Thờ Vatican, họ (tín đồ Ca-tô) có bổn phận “phải tiêu diệt những tôn giáo khác, “phải đập phá các đền thờ “tà thần”, đốt sách vở ngoại đạo và đốt luôn bọn người bị xem là “lạc đạo.” Vấn đề này được chúng tôi trình bày khá đầy đủ trong Chương 8 (Mục III, Phần II) trong bộ sách Lịch Sử Và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã. Chưong sách này đã được đưa lên sachhiem.net từ tháng 2/2008. Chúng ta thấy họ đã hành xử đúng như những lời dạy trên đây. Hậu quả của lời dạy này là xã hội Ki-tô giáo là xã hội của những con người ác độc, dã man, phi nhân, phản nhân luân, phản dân tộc và phản quốc. Chúing ta hãy để ý đến cụm từ “mỗi khi hòan cảnh cho phép.” Ý chính của cụm từ này là khi Nhà Thờ Vatican có quyền lực trong tay hay ở thế thượng phong. Đây là những trường hợp khi họ đưa được tín đồ của Nhà Thờ lên cầm quyền ở một quốc gia nào. Khi đó, chính quyền và tất cả các tín đồ ngoan đạo của Nhà Thờ đều phải triệt để thi hành cái nhiệm vụ “tiêu diệt sự sai lầm” (những tôn giáo và nền văn hóa khác) bằng tất cả khả năng và bằng bất cứ giá nào. Vì thế mà mỗi khi một tín đồ Ca-tô ngoan đạo lên cầm quyền, thì nhân dân nước đó không thể tránh khỏi cái thảm họa “bị bách hại, bị tàn sát” vì bị cho là “sai lầm” (dị giáo). Tại Miền Nam, trong những năm 1954-1975, ông Ca-tô ngoan đạo Ngô Đình Diệm được Liên Minh Mỹ - Vatican đưa lên cầm quyền, thiết lập chế độ đạo phiệt Ca-tô và sau đó lại đưa ông Ca-tô Nguyễn Văn Thiệu lên cầm quyền thiết lập chế độ quân phiệt Ca-tô. Cái trật tự trên dưới tôn giáo – chính quyền được thể hiện ra qua khẩu hiệu “Nhất Chúa, nhì cha, thứ ba Ngô Tổng Thống”. Các chính quyền này có bổn phận đối với Nhà Thờ Vatican là phải bách hại và tiêu diệt các tôn giáo khác. Thế nhưng, vì bị các quan thày người Mỹ canh chừng bằng cách khuyên can, răn đe và làm áp lực, không cho phép các chính quyền này quá trớn. Bằng chứng cho việc canh chừng này là các ông Đại Sứ Mỹ tại Sàigòn như Donald Health (7/7/1954 - 8/11/1954), Lawrence J. Collins (8/11/1954 – 28/5/1955), Frederick Reinhardt (28/5/1955 – 1957), Elbridge Durbrow (1957 - 27/1/1961), Frederick Nolting (1/1961- 8/1963), ông Henri Cabot Lodge (22/8/1963 – 5/1964) và phái đoàn McNamara đến tận Dinh Gia Long vào ngày 29/9/1963 đều được lệnh của chính quyền Mỹ phải khuyên can và răn đe anh em Nhà Ngô không được quá trớn. Một trong những bằng chứng này được sách Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 Tập I-C: 1955-1963 ghi nhận như sau: “3/6/1960: Sàigòn Durbrow nghĩ đến lúc phải “thêm răng cho lời thuyết phục.” Đề nghi được nói thẳng với Diệm về vấn đề tham nhũng, lộng hành của Cần Lao, không tận dụng tài lực vào việc chống Cộng, ngưng việc khiêu khích và thù hận với Miên. Nếu Diệm không thay đổi, sẽ tam ngưng gia tăng viện trợ (FRUS, 1958-1960, I:Tài liệu 150 [Xem 9/5/1960].”[19] “Thứ Ba, 4/6/1963: Sàigòn, 11G45: Trueheart XLTV Đại –sư Mỹ, gặp Nguyễn Đình Thuần, Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống. Trueheart cảnh cáo là Mỹ có thể ngưng viện trợ cho Diệm nếu còn đàn áp Phật Giáo. Khác với NOLTING, Trueheart trở lại thái độ công khai áp lực Diệm mà DURBROW đã áp dụng. Thuần cho biết sau buổi họp hội đồng chính phủ, đã quyết định thành lập một Ủy Ban Liên Bộ, và Diệm chấp thuận. Nhu cũng sẽ tiếp xúc với các lãnh tụ Phật Giáo.”[20] Cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Robert McNamara viết trong cuốn Hồi Ký Những Thảm Kich và Bài Học Việt Nam: “Ross cũng như tôi có chung tâm trạng: ông hài lòng với những cuộc đàn áp từ phía chính phủ ông Diệm, nhưng chúng tôi không biết làm sao thay thế vào đó bằng chính phủ khá hơn. Chúng tôi nghĩ rằng tốt nhất là khuyến dụ cho ông Diệm thay đổi. Nào cố vấn, quân cụ và tiền bạc chúng tôi đổ vào Việt Nam khiến cho chúng nghĩ mình phải là sức bẩy quan trọng: tất cả những thứ ấy chúng tôi nghĩ là mấu chốt cho sự ổn định miền Nam Việt Nam. Bằng cách đe dọa cắt giảm viện trợ hoặc đã cắt giảm thật sự, chúng tôi nghĩ phải ép ông ta phải thay đổi hành vi thất lợi của ông ta.” [21] Các ông đại sử Hoa Kỳ và phái đoàn McNamara đến Sàigòn khuyên can và răn đe anh em ông Ngô Đình Diệm như thế nào, vấn đề này đã được chúng tôi trình bày khá rõ ràng nơi Chương 20 trong cuốn Viêt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000). Dưới đây là một vài đoạn văn do chính ông Robert McNamara tròn cuốn hồi ký trên đây của ông: 1.-“Cuối cùng, ngày 29/9/1963, Max cùng tôi đến Dinh Gia Long, Đường Công Lý, chỉ cách Tòa Đại Sứ có vài khu phố, để nói chuyện suốt ba (3) giờ liền, và buổi tiếp tân đó là buổi tiếp tân rất long trọng. Lodge và Harkins tháp tùng chúng tôi. Hôm ấy, không có Nhu tham dự. 2.- Rặc cung cách Tây và hút thuốc lá liên tục, ông Diệm dùng hai giờ rưỡi liền để nói thao thao bất tuyệt về những sáng suốt của chính sách do ông đề ra và những tiến triển của cuộc chiến, được khoa trương bằng những bằng chứng trên các bản đồ để chứng minh. Sự tự kết của ông ta không gây cho tôi nhiều chú ý. 3.- Khi ông nghỉ nói một lúc, tôi bắt đầu. Tôi bảo ông Diệm rằng Hoa Kỳ thật tâm muốn giúp miền Nam Việt Nam đánh bại Việt Cộng. Và tôi nhấn mạnh đến bản chất cuộc chiến là của người Việt Nam; Hoa Kỳ chỉ đến trợ giúp. Tôi đồng ý với ông (Diệm) rằng có tiến bộ về mặt quân sự, nhưng tôi cố tình và mạnh mẽ nhắc đến sự bất ổn chính trị của miền Nam Việt Nam, và rằng sự bất ổn cùng sự đàn áp đã gây ra nguy hại không nhỏ cho nỗ lực chiến tranh và sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ. Do đó, cần phải chấm dứt mọi sự đàn áp và tái lập sự ổn định chính trị. Ông Diệm thẳng thừng bác bỏ lời đề nghị của tôi. Ông nói những công kích của báo chí vào chính phủ và gia đình ông là do sự hiểu lầm về thực trạng của miền Nam Việt Nam. 4.- Mặc dầu tôi nhìn nhận báo giới có sai lầm, nhưng không thể phủ nhận sự khủng hoảng nghiệm trọng về niềm tin vào chính phủ miền Nam và vào chính phủ Hoa Kỳ. Ông ta lại phủ nhận. Ông ta cáo buộc sinh viên bị bắt trong các đợt ruồng bố gần đây là “thiếu trách nhiệm, thiếu rèn luyện và chưa chín chắn” Đáng kính thay! Ông ta còn nói ông ta chịu trách nhiệm về sự bất ổn. Về vụ Phật Giáo,(ông ta nói) làm như vậy là ông “quá nhân từ” với họ. 5.-Tôi cũng ép ông ta về vụ Bà Nhu, rằng lời tuyên bố không hay và thiếu suy nghĩ của bà ta gây cho công chúng Hoa Kỳ phẫn nộ. Tôi liền rút trong túi ta một bài báo trích đăng lời tuyên bố của bà ta nói về các sĩ quan cấp thấp của Hoa Kỳ tại Việt Nam có “hành động như những tên lính cầu may.” Tôi cho ông Diệm biết nói vậy là lăng nhục quân lính Hoa Kỳ. 6.- Lối ông nhìn và thái độ của ông ta lúc ấy cho thấy lần đầu tiên ông ta tỏ ra thông cảm với tôi, nhưng rồi, ông lại lên tiếng bênh vực cho bà Nhu. Tôi tiếp: “Như vậy chưa đủ.” Vấn đề này rất nghiêm trọng và phải được giải quyết trước khi cuộc chiến chấm dứt. Max nhắc lại ý kiến của tôi. Ông ta nhấn mạnh cho ông Diệm thấy sự cần thiết phải đáp ứng để xoa dịu nỗi bất bình mỗi lúc một gia tăng tại Hoa Kỳ trước những biến cố gần đây.”[22] Trong 6 đọan văn trích dẫn trên đây, đọan văn 2 cho mọi người thấy ông Roberts McNamara tỏ ra khinh rẻ ông Diệm ra mặt và cho rằng ông Diệm là một người Việt Nam bị Tây hóa (mất gốc). Đọan văn 3 nói lên cái họat cảnh phái đòan Roberts McNamara hạch tội ông Diêm và ra lệnh cho ông Diệm phải sửa sai. Đoạn văn 4 cho thấy rõ ông Diệm ương ngạnh, ngoan cố, không chịu nhận tội, và còn để lộ cho phái đòan Roberts McNamara thấy rằng ông ta sẽ còn tiếp tục bách hại Phật Giáo và đàn áp học sinh sinh viên mạnh tay hơn. Đọan văn 5 cho chúng ta thấy cái họat cảnh phái đòan Roberts McNam hạch tội ông Diệm về những hành động xấc xược, ngược ngạo của Bà Nhu. Đọan 6, phái đòan Roberts McNamara đưa ra lời cảnh cáo và cũng là tối hậu thư đối với ông Diệm, “ nếu ông Diệm không chịu sửa sai, thì Hoa Kỳ sẽ hành động.” Như vậy là người Mỹ đã làm hết khả năng để canh chừng, khuyên can, răn đe, dùng áp lực cắt giảm viện trợ, thậm chí phải dùng đến cả những lời cảnh cáo như trên để ngăn chặn, không cho chính quyền Ngô Đình Diệm quá trớn và ra lệnh cho ông Diệm phải sửa sai để lấy lại niềm tin đối với nhân dân Hoa Kỳ. Có như thế thì nhân dân Hoa Kỳ mới nguôi ngoai, không còn phẫn uất đối với chính quyền Ngô Đình Diệm về những hành động bạo ngược bách hại Phật Giáo cũng như việc bắt bớ và giam cầm học sinh sinh viên. Có như vậy thì nhân dân Hoa Kỳ mới ủng hộ và dồn phiếu cho Đảng Dân Chủ trong kỳ bầu cử vào tháng 11/1964. Thế nhưng tên bạo Chúa họ Ngô cuồng tín quá, cho nên đã chống lại những lời khuyên răn và răn đe của họ, bất chấp cả lời cảnh cáo trên đây, rồi lại còn rêu rao la lối là người Mỹ đã can thiệp vào nội tình miền Nam Việt Nam. Hành động ngược ngạo này đã khiến cho họ bật đèn xanh và ngoảnh mặt đi để mặc cho quân dân miền Nam vùng lên đạp đổ bạo quyền và để mặc cho anh em tên bạo chúa phản thần tam đại Việt gian này b lôi ra, đem đập chết trong cơn phẫn nộ của nhân dân miền Nam đã sôi sục và tích lũy suốt trong chín năm trời. Sự can ngăn, răn đe, làm áp lực cắt giảm việt trợ và cảnh cáo trên đây của Hoa Kỳ sau này bị bọn văn nô Ca-tô người Việt xuyên tạc và rêu rao là ông Diệm chống lại việc người Mỹ làm áp lực với chính quyển Ngô Đình Diệm phải chấp thuận cho Mỹ đổ quân vào Việt Nam, nhưng bị ông Diệm từ chối, cho nên Mỹ mới ra lệnh cho các tướng lãnh quân đội miền Nam làm đảo chánh giết ông Diệm. Đây là là lời cáo buộc láo khoét hoàn toàn không có cơ sở. Sự thực hoàn toàn trái ngược. Sách sử đều ghi nhận rằng ngày 13/10/1961, ông Ngô Đìinh Diệm đã yêu cầu Mỹ gửi lực lượng chiến đấu Mỹ vào miền Nam để chống lại phong trào nổi dậy của quân dân miền Nam và canh giữ ở vùng gần vĩ tuyến 17 để đề phòng quân đội miền Bắc vượt tuyến tấn công miền Nam. Sự kiện này được sách sử ghi lại rõ ràng. Tham khảo và trích dẫn từ tài liệu The Pentagon Papers, tác giả Tường Minh - Chu Văn Trình ghi lại trong sách Hội Chứng Việt Nam như sau: “Trang 80 của tài liệu: Trong một thông điệp gửi Tổng Thống Kennedy (vào khoảng giữa ngày 29/9/1961 và ngày 13/10/1961), Tổng Thống Diệm yêu cầu Lực Lượng Hoa Kỳ trang bị “số lớn” và tăng cường 100 ngàn người cho quân đội Việt Nam. Các nhà nghiên cứu cho rằng Diệm đã thổi phồng cón só (Việt Cộng) thâm nhập trợ lực cho mối đe dọa của Cộng Sản.” (Presedient Diem, in a letter to President Kennedy, asks “considerable” increase in South Vietnamse Army, User “inflated infiltration figures “to supoport threat of Communism, study says.”)[23] “Đại Sứ Fredrick Nolting Jr báo cáo rằng Sàigòn dự kiến yêu cầu Trung Hoa Quốc Gia (phe Tưởng Giới Thạch) gửi “một sư đoàn bộ binh” và muốn có “các đơn vị huấn luyện quân sự Mỹ.” (Embassador Frederick Nolting Jr reports that Saigòn is considering asking Nationalist China for “one division of combat troops” and wants United States “comnbat-trainer units .”)[24] “Trong cuộc họp ngày 13/10/1961, (Nguyễn Đình) Thuần yêu cầu những điều dưới đây: 1.- “Thêm phi đội AD-6 thay thế T-28 và chuyển giao càng sớm càng tốt.” (Extra squadron of AD-6 in lieu of proposed T-28’s and delivery ASAP. 2.- “Các phi công dân sự Mỹ cho trực thăng và C-47 cho các chiến dịch “phi quân sự.” (U.S. Civilian contract pilots for helicopter and C-47’s for “non-combat” opertaions.) 3.- “Các đơn vị chiến đấu Mỹ hay các đơn vị được đưa vào miền Nam Việt Nam như những đơn vị huấn luyện quân sự. Một phần trấn đóng ở phía Bắc, gần vĩ tuyến 17 để cho quân đội VNCH trú đóng tai đây có thể đưa về đối phó với họat động du kích tại cao nguyên. Đồng thời có thể trấn đóng ở một số thành phố chính tại cao nguyên Trung Việt.” (Combat units or units to be introduced into SVN as “combat trainer units”. Part to be stationed in North near 17th Parallel to free ARVN forces there for anti-guerrlilla asction in high plateau. Also perhaps in several provincial seats in the highlands of Central Vietnam.” [25] Vào đầu năm 1963, chính quyền Tổng Thống Kennedy đã cứu xét và quyết định rút 1000 cố vấn quân sự và quân nhân về nước, và sẽ rút dần dần nhiều hơn nữa, chỉ để lại một số sĩ quan cố vấn ở mức tối thiểu là mấy ngàn thôi. Mục đích của việc rút quân này là sách lược lấy lòng dân cúa Đảng Dân Chủ để kiếm phiếu trong kỳ bầu cử vào tháng 11/1964. Lời kể lại của ông cự Bộ Trưởng Quốc Phòng Roberts McNamara dưới đây là bằng chứng cho sự kiện này: “Tổng kết các điều trên xong, tôi liên ra lệnh phát thảo một kế họach dài hạn, quy định các giai đọan rút các cố vấn Hoa Kỳ được trù tính theo dự đoán trong ba năm tới Việt Cộng sẽ hoàn toàn bị đè bẹp. Lúc ấy chúng tôi có khoảng 16 ngàn cố vấn tại Nam Việt Nam. Mùa xuân năm sau, vào tháng 3 năm 1963, tôi hỏi ông Robert Thompson xem ông có thấy nên rút bớt số cố vấn thì ông ta trả lời rằng nếu với tiến bộ như vậy và tình hình Việt Cộng bị đánh dẹp một vài nơi trong mùa hè này, thì có thể rút chừng một ngàn. Qua lần họp với Harkins vào ngày 6 tháng 5 năm 1963, tại Honolulu, ông tướng này nói rằng chúng tôi vẫn tiến triển khá quan trọng. Vì vậy tôi cho giới quân sự rút bớt một ngàn cố vấn vào cuối năm đó.”[26] . Sự thật là như vây. Ấy thế mà bọn văn nô Ca-tô người Việt xuyên tạc và rêu rao rằng Mỹ làm áp lực với chính quyền Ngô Đình Diệm để đổ quân thêm vào miên Nam, nhưng bị ông Diệm chống lại. Vì thế Mỹ mới ra lệnh cho các tướng lãnh làm đảo chánh và giết ông Diệm. Đúng là miệng lưỡi Ca-tô, giống y hệt như miệng lưỡi Nhà Thờ Vatican! Không lươn lẹo và không ăn gian nói dối, thì không phải là Nhà Thờ Vatican và không phải là tín đồ ngoan đạo của của cái “tôn giáo ác ôn” này! 11. Chúng ta cho rằng việc thờ cúng cha mẹ, ông bà tổ tiên cũng như việc sùng kính thờ thờ phượng bất kỳ một vị thần linh nào là quyền tự do của mọi người trong xã hội, miễn rằng việc thờ phượng của họ không làm phương hại đến quyền lợi và sinh mạng của người khác. Vì thế mà trong xã hội của chúng ta là một xã hội hoàn toàn tự do về tín ngưỡng, có rất nhiều tôn giáo và một người có thể theo nhiều tín ngưỡng khác nhau mà không cảm thấy có gì là mâu thuẫn hay xung khắc với nhau. Đây là thực trạng về tín ngưỡng trong xã hội chúng ta. Đoạn văn dưới đây trích ra từ cuốn The Essence of Chinese Civilization nói lên thực trạng này: “Tử Bình nêu lên thắc mắc: “Về việc này, ông Hoàng mà tôi đã gặp, ông ta là người theo đạo Lão hay theo đạo Phật? Ông ta nói thì giống như một người theo đạo Lão, tuy nhiên, nhưng khi nói chuyện, ông ta lại thường hay viện dẫn những kinh nhà Phật.”Người thiếu nữ trả lời: “ông Hoàng không phải là tín đồ của đạo Lão và cũng không phải là tín đồ của đạo Phật. Ông ta ăn mặc theo cách ông ta thích. Ông ta thường nói rằng có ba tôn giáo lớn là đạo Khổng, đạo Phật và đạo Lão. Ba tôn giáo này giống như ba cửa tiệm bán cùng một thứ sản phẩm. Chỉ có một sự khác biệt giữa các tôn giáo này là đạo Khổng là một cửa tiệm rộng hơn hai cửa tiệm kia quá nhiều và có bán thêm một vài sản phẩm khác mà hai cửa tiệm kia không bán. Ông Hoàng cũng nói rằng trong ba tôn giáo này, tôn giáo nào cũng có hai bộ mặt: Một bộ mặt thật của riêng mỗi tôn giáo là những nghi lễ của nó, và bộ mặt khác của nó là những lời dạy căn bản. Những lời dạy căn bản thì cả ba tôn giáo này đều giống nhau dù là bề ngoài có vẻ khác nhau. Ông Hoàng tin cả ba tôn giáo này. Tử Bình nói: “Đây là một điều rất hay! Nếu cả ba tôn giáo này đều dạy cùng một thứ như cô vừa mới nói, thì cái cùng một thứ đó là cái gì? Có hay không có sự khác biệt nào không? Tại sao cô lại nói đạo Khổng rộng lớn hơn hai đạo kia? Người thiếu nữ trả lời: “Cho tới bây giờ, cả ba tôn giáo này đều dạy người đời phải làm người tốt và công bằng, cả ba tôn giáo này đều dạy như vậy cả. Nếu tất cả chúng ta đều công bằng và không ích kỷ thì sẽ có hoà bình ở trên trái đất này, bằng không thì hỗn loạn sẽ lan tràn trên khắp thế giới. So với tất cả các tôn giáo khác ở trên thế giới thì đạo Khổng là một tôn giáo vi tha nhất. Hãy nhìn vào Đức Khổng Tử. Suốt đời Ngài, có nhiều người chỉ trích về ý thức hệ tư tưởng của Ngài. Ấy thế mà Ngài vẫn ca ngợi họ vì rằng Ngài cho rằng chính những lời chỉ trích của họ đã soi sáng cho Ngài. Khổng Giáo rất đúng vì tôn giáo này không tin những điều mê tín dị đoan. Khổng Tử nói, chỉ trích những người khác là tự hại mình (hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu). Về phía những tín đồ đạo Phật và đạo Lão, họ mê tín và ích kỷ. Sợ rằng những người khác không theo tôn giáo của họ, họ sáng chế ra thiên đường và địa ngục để hù dọa người ta . Ông có thể nói rằng cứu cánh biện minh cho phương tiện và cho rằng mục đích của việc sáng chế (bịa đặt) này là để lôi cuốn người đời làm điều thiện và vì thế mà chúng ta có thể gọi họ là những người vị tha, không ích kỷ. Tuy nhiên, nếu họ vượt qua giới hạn đó (mà họ đã làm) và rao truyền rằng nếu ai theo đạo của họ thì tất cả tội ác của người đó sẽ được tẩy rửa hết sạch, và nếu không chịu theo đạo của họ thì người đó sẽ bị đày xuống địa ngục đời đời; như vậy thì họ trở thành ích kỷ và mê tín. Ngày nay có nhiều tôn giáo ở Tây Phương còn mê tín dị đoan hơn đạo Phật và đạo Lão rất nhiều. Không những hăm dọa người ta bằng những lời lẽ vô nghĩa như thiên đường và địa ngục, các tôn giáo này còn dạy dỗ tín đồ thù ghét những người thuộc các tôn giáo khác và kêu gọi tín đồ của họ tuyên chiến với những người mà họ gọi là tà giáo. Họ cho rằng họ càng giết được nhiều người hơn thì họ càng trở nên ngoan đạo hơn. Làm sao mà con người lại có thể hèn hạ đến như vậy! Về phần những người theo đạo Hồi, họ nói rằng máu của những người Hồi giáo hy sinh trong các cuộc chiến chống lại những người tà giáo đẹp như tử ngọc. Có lẽ họ nghĩ rằng tất cả mọi người ở trên trái đất này chỉ là một lũ điên rồ.” Người thiếu nữ nói tiếp: “Ý nghĩa đích thực của Khổng Giáo đã mất từ lâu. Các nhà Nho học đời Hán quá bận tâm với cú pháp trong kinh điển đến nỗi họ quên mất cả caí ý nghĩa đích thực của Kinh Điển. Trong thời nhà Đường, người ta không quan tâm đến cú pháp, mà cứ hiểu theo như Kinh Điển. Vì quá quan tâm đến việc thấu hiểu đạo Khổng, Hàn Dũ trở thành một anh mù chữ. Ông ta càng viết thì ông ta càng trở nên lộn xộn.” (“As for this, Mr. Huang whom I have just met,” Said Tzu P'ing, “is he a Taoist or a Buddhist? He talk like a Taoist, and yet he quotes Buddhist sciptures.” Mr. Huang is neither a Taoist nor a Buddhist,” replied the girl. “He dresses the way as he pleases. He often says that the three major religions, Confucianism, Buddhism, and Taoism, are like three separate stores selling the same products, and the only difference between them is that Confucianism, being a much larger store, sells some products which the other two stores do not sell. He also says that every religion has two facets, the ritualistic and the real, and that the basic teachings of the three religions are the same, even though they look different in appearance. Mr. Huang believes in all three of them.” ”This is very interesting,” said Tzu P'ing. “If the three religions teach the same thing as you have just stated, what is this “same thing”? Is or is there not any difference them? Why did you say Confucianism is more broadly based than either of the other two religions?” ”Insofar as all of these three religions teach people to be good and just, they are the same.” The girl replied. “If all of us are just and selfless, there will be peace on earth, otherwise chaos will rule the world. Of all religions in the world, Confucianism is the most selfless. Look at Confucius. Throughout his life there were many people who criticized him on ideological grounds. Yet he praised them highly because, as a result of their criticisms, they, Confucius believed, had enlightened him. Confucianism is great precisely because it does not believe in religious bigotry. To attack others who do not agree with you is to bring harm to yourself”, says Confucius. The Buddhists or Taoists, on the other hand, are bigoted and selfish. Fearful that other people will not follow their religion, they invented such things as paradise and hell to intimidate them. You might say that the end justifies the means: since the purpose of their invention is to induce people to be good, they can be still regarded as selfless. However, when they go beyond this point (as they do) and announce to the world that a person will be automatically cleansed of his sins when converted to their faith, or that he will be forever condemned and will inevitably go to hell if he refuses conversion, they become bigoted and selfish. Nowadays there are the Western religions that have gone further in bigotry than Buddhism and Taoism. They not only intimidate people with such nonsense as heaven and hell; they also teach their followers to hate people of other religions and urge them to declare war on what they call pegans. The more they kill, the more they become religious. How low a man can sink! As for the Muslims, they says that the blood shed by the faithful in waging holy wars against the infidels is as beautiful as purple jewel. They probably think that all people in the world are simply fools.” The true meaning of Confucianism has been lost for a long time,” the girl continued. “The Han scholars were so occupied with the syntax of the Classics” that they forgot the true meaning of the Classics. During the Tang dynasty people did not even care for the syntax, let alone of the Classics. As far as understanding Confucianism was concerned, Han Yu was really a illiterate. The more he wrote, the more confused he became.” [[27]]. Theo sử hiểu biết của người viết, đạo Phật, đạo Lão và đạo Khổng không hề đề cập đến "thiên đàng" và "địa ngục". Tuy nhiên, có một số người nhân danh đạo Phật hay đạo Lão, hành nghề thày cúng, đã bịa ra "thiên đàng" và "địa ngục" đê mê hoặc người đời và hù dọa những người ngu dốt hay nhát gan với hy vọng họ sẽ đem của lễ đến dâng cúng để cho họ được thụ hưởng. Cũng may, đây chỉ là những việc làm lưu manh của những cá nhân lẻ tẻ, không được hệ thống hóa thành một hệ thống tín lý, và bọn người lưu manh này cũng không hề cấu kết với nhau thành một tổ chức đại quy mô như Nhà Thờ Vatican, và cũng không thể cấu kết với cường quyền như nhà thờ Vatican đã làm. Vì thế mà xã hội Đông Phương của chúng ta, khong có một tôn giáo nào hay có những người nhân danh tôn giáo có thể cưỡng bách người đời phải tin những chuyện hoang đường bịp bợm này. Trong khi đó thì, trong đạo Thiên Chúa, những chuyện "thiên đường" và "địa ngục" thực sự đã trở thành là những tín lý và được khai triển thành một hệ thống với hàng nàn chuyện hoang đường nhảm nhí khác được bịa đặt thêm về sau, đặc biết nhất là từ khi Hội Nghị Nicaea khỏi nhóm vào ngày 20/5/325. Kể từ ngày này, cái hệ thống tín lý nhảm nhí này lại được Giáo Hội La Mã sử dụng kèm theo với bạo lực để cưỡng bách người đời phải tin theo với dã tâm theo đuổi chủ nghĩa bá quyền nhằm thống trị toàn cầu và nô lệ hóa nhân loại. Sở dĩ, trong xã hội Đông Phương, chúng ta có được tình trạng hài hòa giữa các tôn giáo như trên là vì cả đạo Khổng, đao Lão và Phật đều có chủ trương dạy đờ phải mở rộng tâm hồn để đón nhận tất cả những tư tưởng hay triết thuyết cao đẹp của tất cả các tôn giáo hay của nền văn hóa nào mang tới từ bất kỳ từ phương trời nào. Về phương diện tôn giáo, chủ trương này cũng có thể gọi là lòng khoan dung về tôn giáo. Lòng khoan dung tôn giáo như vậy đã khiến cho trong xã hội Đông Phương nói chung, và Việt Nam nói riêng, có rất nhiều người sống theo cái nguyên tắc “một tôn giáo là tốt, thì càng nhiều tôn giáo càng tốt hơn”. Sự kiện này được nhà viết sử Virginia Thompson viết: “Tôn giáo ở Việt Nam có thể so sánh như một khu rừng nhiệt đới trong đó không có một cây nào chiếm giữ một chỗ biệt lập. Không có biên giới rõ ràng giữa các tôn giáo ở Việt Nam, và ở đây một người có thể tin theo hàng nửa tá tín ngưỡng mà không cảm thấy mâu thuẫn. Người Việt Nam sống theo nguyên tắc nêu một tôn giáo là tốt thì ba tôn giáo càng tốt hơn. Nếu có gây ra hỗn loạn thì ít nhất cũng làm mất đi tính cách cuồng tín về tôn giáo. Cả lòng khoan dung và nghi thức tôn giáo đều bắt nguồn từ Trung Hoa nhưng cũng bao gồm rất nhiều tín ngưỡng bản địa (Việt Nam) mà không bao giờ bị xóa bỏ hay biến mất.” Nguyên văn: “The religions of Annam [Vietnam] have been compared to a tropical forest where no one tree can live isolated. There is no clearcut boundary between them, and one may hold simultaneously and without friction a half dozen beliefs. The Annamites [Vietnamese] work on principle that if one religion is good, three are better. If the result is chaos, there is at least a comforting absence of fanaticism. Both this tolerance and the all pervading formalism of Annamite [Vietnamese] religions, which are Chinese origin, cover a multitute of indigenous beliefs that have never been eradicated…”[28] Tiến-sĩ Vũ Tam Ích nói rõ ràng hơn như sau: “Người Việt Nam tin rằng có rât nhiều loại thần khác nhau ở khắp mọi nơi trong Thiên Nhiên. Trên Trời dưới đất ở đâu cũng có đầy dẫy những thần là thần. Ở trên mặt trời, mặt trăng, các hành tinh, tinh tú đều có thần hết. Thần làm cho gió và mây di chuyển. Thần làm ra mưa làm ra sấm sét. Ngay ở cả những nơi như trên đồi, trong các dòng sông, dòng suối, trên các cây cối, trong các ruộng lúa, trên các hòn đá cũng như trong nhà, phòng ngủ, nhà bếp cũng đều có thần ngự trị cả. Thêm vào đó, người ta còn thờ Trời, thờ thần Đất (thổ công), thần nông, và mỗi làng đều có thờ thành hoàng, vị thần này có địa vị chính thức ở Việt Nam.” Nguyên văn:“The Vietnamese people believed that spirits of many different kinds exist everywhere in Nature. Heaven and Earth are, so to speak, crowded with spirits, which occupy the sun, the moon, the planets, and the stars, which move the winds and the clouds, which make rain and thunder, which dwell in hills, streams, trees, ricefields, stone, as well as in each house, room, kitchen. In brief, everything has its own spirits. Added to that was the cult of Heaven, Earth, deities of agriculture, and village genii, which had acquired an official status in Vietnam.”[29] Nhờ những đặc tính này, người dân Việt Nam thường có thái độ xử thế rất khoan dung đúng theo tinh thần đạo nhân của Khổng Giáo và đức từ bi hỉ xả của Nhà Phật. Vì vậy mà người dân Việt Nam nói riêng, người dân Đông Phương nói chung, không mang căn bệnh cuồng tín về tôn giáo. Cũng vì thế mà các quốc gia Đông Phương không hề xẩy ra chiến tranh tôn giáo và cũng không hề xẩy ra chuyện chính quyền bách hại tôn giáo như các quốc gia sống theo nền đạo lý hiếu chiến và vị kỷ như đạo Thiên Chúa. Trái lại, với niềm tin “Ngoài Giáo Hội Lã Mã không thể có sự Cứu rỗi” , “Chỉ có Giáo Hội mới được Thiên Chúa ban truyền toàn bộ sự thật…, chì có Giáo Hội mới có quyền giải thích hoặc khai triển sự thật”, “tất cả những gì ngòai sự thật nói trên … chỉ là sai lầm”, “Giáo Hội có quyền và có bổn phận phải tiêu diệt sai lầm đó”, và “mỗi khi hoàn cảnh cho phép, Giáo Hội đã không ngần ngại dùng thế lực để tiêu diệt những tôn giáo khác, đập phá các đền thờ “tà thần”, đốt sách vở ngoại đạo và đốt luôn bọn người bị xem là “lạc đạo”, cho nên, họ luôn luôn không thể chấp nhận một tôn giáo nào khác ở những nơi mà quyền lực của Nhà Thờ Vatican vươn tới. Rõ ràng nhất là khi có người thuộc một tôn giáo khác muốn thành hôn với người yêu đồng đạo với họ, thì người đó lập tức bị họ đòi hỏi phải từ bỏ tôn giáo cổ truyền của gia đình, phải theo học một lớp giáo lý Ki-tô và phải làm lễ rửa tội theo đạo, rồi mới được tiến hành làm lễ thành hôn. Chính vì cái đặc tính bất khoan dung về tôn giáo này mà trong xã hội Ki-tô không có một tôn giáo nào khác có thể hiện diên bên cạnh họ nhất là vào khi họ có quyền lực trong tay, chứ đừng nói chi đến chuyện một người có thể theo nhiều tín ngưỡng khác nhau như người dân Đông Phương chúng ta. 12.- Thánh kính trong đạo Khổng của chúng ta dùng thuyết “nhân ái” để dạy đời và đạo Phật cũng dạy chúng ta phải lấy lòng từ bi, hỉ xả và khoan dung mà đối đãi với mọi người. Tất cả các tôn giáo hay đạo lý Đông Phương đều dạy rằng “tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác”, “ác giả ác báo” và “thiện giả thiện lai.” Nhờ vậy, mà ầu hết người dân Đông Phương hiền lành, đầy lòng nhân ái, và hiếu hòa, luôn luôn lấy sự “dĩ hòa vi quý” trong việc hành xử ở đời. Cũng vì thế mà các quốc gia Đông Phương tuyệt nhiên không hề xẩy ra chiến tranh tôn giáo và người dân sống theo tam giáo cổ truyền của chúng ta không có người nào độc ác, dã man và man rợ như tín đồ của Nhà Thờ Vatican hay trong xã hội Ki-tô giáo. Trái lại, thánh kinh Ki-tô giáo lại chủ trương dạy dỗ và xúi giục tín đồ làm nhiều điều tham tàn, bạo ngược, giết người, đọat của, hàm hiếp đàn bà con gái và tàn sát người dân khác tôn giáo hay bất đồng chính kiến với họ một cách cực kỳ dã man và vô cùng man rợ. Đây là sự thực mà ngay những tín đồ Ki-tô còn có lương tâm cũng phải công nhận. Sự thật này được ghi rõ ràng trong các bản văn trong các sách như Deteronomy (19:21), Exodus (21: 23-25), Dân Số (25:3-5,31:1-54), Leviticus 24:19-20, 26: 1-43), Phục Luật (6:14, 7:1, 2 và 16, 12: 2-3, 13:6-9. 18: 4 và 20, 20:14-16, 22: 13-21 và 23), Xuất Hành (13:12, 20 11, 22: 20. Các sách này đều nằm trong Cựu Ứớc và độc giả có thể tìm đọc để kiểm chứng vấn đề này. Ngoài ra, Nhà Thờ Vatican lại còn sử dụng thủ đoạn khêu gợi và nuôi dưỡng lòng tham lam ích kỉ như tham lợi, háo danh và thèm khát quyền lực của tín đồ và nhân dân dưới quyền rồi dùng những miếng mồi này câu nhử, lôi cuốn khiến cho họ tối mắt hăng say gia nhập các đạo quân thập ác trong các chiến dịch tấn chiếm các vùng mục tiêu mà nhà thờ nhắm tới. Bản văn sử dưới đây là bằng chứng: “Theo quyền lực Chúa ban và quyền lực của Tòa Thánh, Đức Giáo Hoàng ban cho triều đình Lisbon (Bồ Đào Nha) "toàn quyền tự do xâm lăng, chinh phục, chiến đấu, đánh giặc và khuất phục tất cả các quân Sarrasins (tức người Ả Rập), các dân ngoại đạo và các kẻ thù khác của Giáo Hội, gặp bất cứ nơi nào: được toàn quyền chiếm cứ tất cả các vương quốc, lãnh địa, vương hầu, đất đô hộ và tài sản của chúng; toàn quyền chiếm đoạt tất cả của nổi và của chìm của chúng và bắt tất cả chúng nó làm nô lệ vĩnh viễn."[30] Chính vì lẽ này mà xã hội Âu Châu và các vùng Trung Đông đã xẩy ra chiến tranh vì tôn giáo triền miền từ đầu Thời Trung Cổ cho đến ngày nay mà vẫn còn chưa chấm dứt. Hiện nay, những điểm nóng gần như lúc nào cũng có chiến tranh giữa Ki-tô Giáo và các hệ phái Thiên Chíua Giáo khác. Ở Ái Nhĩ Lan, tình hình lúc nào cũng căng thẳng giừa Ki-tô giáo Vatican và Ki-tô Giáo Tin Lành, nếu không có chiến tranh nóng thì cũng vẫn có chiến tranh lạnh. Hiện nay, tình trạng vẫn còn như vậy, hai phe vẫn còn luôn luôn coi nhau như kể thù bất cộng đái thiên mặc dù họ cùng thờ cả ông Chúa Bố Jehovah lẫn ông Chúa Con Jesus; điểm đặc biệt là khi xuất quân hay khi lâm trận, họ cùng cầu một câu: “Chúa ở cùng chúng con.” Chúng ta không hai bố con Chúa Jehovah và Jesus sẽ ở bên nào, giúp bên nào, và chống lại bên nào? Nhiều nơi khác như ở Croatia, Serbia, và Palestine cũng đều là những điểm nóng và lúc nào cũng có thể bùng nổ thành chiến tranh giữa các hệ phái Thiên Chúa Giáo cùng thờ ông Chúa Bố Jehovah, dù rằng người Hồi Giáo gọi ông chúa này là Allah. Ki-tô giáo không những là cha đẻ ra các cuộc chiến tranh tôn giáo như đã nói ở trên, mà còn sản xuất ra toàn những người mất hết nhân tính và đã trở thành hạng ngươi súc sinh cực kỳ độc ác, hết sức dã man và vô cùng man rợ. Đây là sự thật đã từng xẩy ra trong lịch sử. Cái đặc tính man rợ này của người Ki-tô giáo sẽ thể hiện ra thành hành động nếu hòan cảnh cho phép hay quyền lực chính trị lọt vào trong tay họ. Những sự thât lịch sử dưới đây cho chúng ta thấy những hành động cực kỳ độc ác và hết sức man rợ của tín đồ Ca-tô ngoan đạo ở vào bất kỳ thời điểm nào và ở bất kỳ nơi nào. Sách Smokescreens viết: Tại Pháp: ”Ngày 22-8-1572 (Nhiều sách khác ghi là ngày 24/8./1572 chứ không phải là ngày 22/8/1572.) bắt đầu xẩy ra một cuộc tàn sát đẫm máu ở nhà thờ St. Bartholomew. Đây là một trong những vụ tàn sát ghê gớm để tiêu diệt phong trào Tin Lành ở Pháp. Pháp Hoàng đã khôn khéo sắp đặt cuộc hôn nhân giữa người em gái của nhà vua với Đô Đốc Coligny, một nhân vật lãnh đạo của Tin Lành. Một bữa tiệc lớn được tổ chức ăn mừng lễ cưới. Sau bốn ngày, quân lính của tân lang Coligny được cho ăn uống no say, một hiệu lệnh được ban hành. 12 giờ đêm hôm đó, tất cả nhà cửa của những người Tin Lành ở trong thành phố đều bị bắt buộc phải mở cửa. Đô Đốc Coligny bị giết. Thi hài của ông bị liệng qua cửa sổ ra ngoài đường. Thủ cấp của ông bị cắt đem gửi cho giáo hoàng. Hai cánh tay và bộ phận sinh dục của ông cũng bị cắt. Rồi chúng lôi kéo phần còn lại của xác chết đi khắp các đường phố cả ba ngày trời. Sau đó, chúng treo ngược cái xác chết không đầu, không tay, không bộ phận sinh dục ở một nơi ngoại ô thành phố. Đồng thời, chúng còn tàn sát nhiều người Tin Lành khác nữa. Trong 3 ngày, hơn mười ngàn dân Tin Lành (ở Paris) bị giết hại. Những xác chết này bị liệng xuống sông và máu nạn nhân lênh láng chẩy thành dòng ra tới tận cửa sông giống như một dòng máu. Trong cơn hung hãn này, chúng có thể giết cả những người đồng đạo của chúng nếu nạn nhân bị nghi ngờ là không mạnh tin vào Giáo Hoàng. Từ Paris, bịnh dịch tàn sát vì lòng cuồng tín như vậy lan tràn ra khắp nơi trong nước Pháp. Tính ra có tới hơn tám ngàn nạn nhân bị sát hại. Rất ít người Tin Lành thoát khỏi tai họa trong cơn hung hãn của chúng." Nguyên văn: ("On August 22, 1572, the bloody St. Bartholomew massacre began. This was to be one fatal blow to destroy the Prostestant movement in France. The King of France had cleverly arranged a marriage between his sister and Admiral Coligny, the chief Protestant leader. There was a great feast with much celebrating. After four days of feasting the soldiers were given a signal. At twelve o'clock midnight, all the houses of the Protestants in the city were forced open at once. The admiral was killed, his body thrown out of a window into the street where his head was cut off and sent to the pope. They also cut off his arms and privates and dragged him through the streets for three days until they finally hung his body by the heels outside the city. They also slaughtered many other well kown Protestants. In the first three days, over ten thousands were killed. The bodies were thrown into the river and blood ran through the streets into the river until it appeared like a stream of blood. So furious was their hellish rage that they even slew their own followers if they suspected that they were not very strong in their belief in the pope. From Paris, the destruction spread to all parts of the country. Over eight thousand more people were killed. Very few Pretestants escaped the fury of their persecutors.")[31] Tại Ái Nhĩ Lan: iKhông phải chỉ ở ở Pháp, tín đồ Da-tô mới dã man như vậy, ở Ái Nhĩ Lan, họ cũng hành động man rợ không kém gì tín đồ Da-tô cuồng tín người Pháp. Chuyện man rợ này cũng được sách Smokescreens ghi lại với nguyên văn như sau: “Một vụ tàn sát người tập thể tương tự như vậy cũng xẩy ra ở Ái Nhĩ Lan vào năm 1641. Bọn tín đồ Gia-tô chủ mưu chọn ngày 23 tháng 10 là ngày lễ kỷ niệm Ignatius Loyola, người sáng lập ra Dòng Tên: Chúng dự trù một cuộc tổng nổi dậy trong toàn quốc. Tất cả những người theo đạo Tin Lành đều phải bị giết ngay tức thì. Để làm cho những người Tin Lành không chú ý đến việc làm của chúng, chúng tỏ ra rất là tử tế với họ. Sáng sớm ngày vùng dậy, bọn chủ mưu đều có võ trang đi lùng bắt những người Tin lành. Gặp người nào là chúng giết người đó, không một chút thương xót. Những người Tin Lành này chưng hửng trong kinh hoàng. Họ đã sống trong yên bình từ nhiều năm. Giờ đây, gặp cảnh ngộ như vậy, họ không biết phải chạy trốn đi đâu. Những kẻ tàn sát họ lại là những người láng giềng, bạn bè và bà con của họ. Phụ nữ bị trói vào cọc (cột) lột trần đến thắt lưng, vú bị cắt đứt ra để cho máu chẩy cho đến chết. Những đàn bà mang thai thì bị trói và treo vào cành cây. Chúng mổ bụng nạn nhân lấy thai nhi ra để cho chó ăn. Trong khi đó thì những ông chồng của nạn nhân bị cưỡng bách phải đứng nhìn những cảnh dã man như vậy.” Nguyên văn:"A similar massacre occurred in Ireland in 1641. The conspirators picked October 23, the feast of Ignatius Loyola, the founder of the Jesuit Order. They planned a general uprising for the whole country. All Protestants would be killed at once. To throw them off guard while the plan was being made, extra acts of kindness were shown to the Protestants. Early in the morning the conspirators were armed and every Protestant they could find was immediately murdered. They showed no mercy. From children to the aged, they were killed. Even invalids were not spared. They were caught by complete surprise. They had lived in peace and safety for years and now find no place to run. They were massacred by neighbors, friends, and even relatives. Death often was the least they had to fear. Women were tied to posts, stripped to the waist, their breast cut off with shears and left to bleed to death. Others who were pregnant were tied to tree branches, their unborn babies cut out and fed to the dogs while the husbands were forced to watch.")[32] Tại Croatia: trong những năm 1941-1945, tín đồ Da-tô cuồng tín ở Croatia còn dã man gấp bội phần tín đồ Da-tô cuồng tín ở Pháp và ở Ái Nhĩ Lan. Bản văn sử dưới đây cho thấy rõ sự thật cực kỳ kinh khủng này: “Nạn nhân của bọn mật vụ Ustachi (đạo phiệt Gia-tô Croatia trong thời bạo chúa Ante Pevalich) không những bị tra tấn tàn nhẫn về thể xác, mà còn bị hành hạ đau đớn về tinh thần và lương tâm nữa. Một trường hợp vô cùng dã man và tàn ác chưa từng thấy như trường hợp dưới đây đã được ghi lại và phối kiểm qua nhiều nhân chứng có tuyên thệ: “Tại Nevesinje, bọn mât vụ Ustachi càn bắt hết tất cả cha mẹ (vợ chồng) và bốn người con của một gia đình người Serb (theo đạo Chính Thống). Người cha bị giam riêng ở một chỗ khác, người mẹ và 4 người con bị giam ở một chỗ khác. Suốt trong 7 ngày giam giữ, chúng không cho nạn nhân ăn uống gì hết. Rồi thì chúng mang đến cho người mẹ và 4 đứa con mỗi người một miếng thịt nướng khá lớn và nước uống thừa thãi. Sau nhiều ngày không được ăn uống, những người bất hạnh này ăn hết sạch miếng thịt nướng đó. Sau khi ăn xong, bọn mật vụ Ustachi mới nói với gia đình nạn nhân rằng đó là thị người cha của họ." Nguyên văn: "The atrocities of the Ustachi far surpassed mere physical torture. Their victims were tormented emotionally as well. An example of the unprecedented brutality is recorded by the sworn testimony of several witnesses regarding the following incident. At Nevesinje, the Ustachi arrested one whole Serbian family consisting of father, mother and four children. The mother and children were separated from the father. For seven days they were tortured by starvation and thirst. Then they brought the mother and children a good-sized roast, and plenty of water to drink. These unfortunates were so hungry that they ate the entire roast. After they finished, the Ustachi told them that they had eaten the flesh of their father.”)[33] Tại Việt Nam: Trong thời Kháng Chiến 1945-1954, bọn lính đạo Phát Diệm dưới quyền chỉ huy của Linh-mục Hoàng Quỳnh đã chiếm giải quán quân về thành tích giết người một cách cực kỳ man rợ, man rợ còn ghê gớm hơn tín đồ Ki-tô ở Pháp, ở Ái Nhĩ Lan và ở Croatia. Chúng trói ké nạn nhân bị nghi là Việt Minh, dùng dao nhọn phanh ngực nạn nhân, móc lấy mật pha với rượu, moi lấy gan đem nướng, rồi ngồi cùng nhậu hả hê với nhau. Nhậu xong, chúng hè nhau cắt đầu các nạn nhân, xâu vào cái cọc dài rồi đem bêu ở đầu làng.[34] Vấn đề này đã được trình bày khá đầy đủ trong một chương sách có tựa đề là Những Hành Động Dã Man Của Quân Lính Liên Hiệp Pháp Và Lính Đạo Việt Nam (Mục XV, Phần V) trong bộ sách Lịch sử Và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã.) Tai miền Nam Việt Nam: Chính quyền đạo phệt Ca-tô Ngô Đình Diệm tra tấc các TỌi Ác tra tấn các tù nhân chính tri một cách cực kỳ man rợ. Sự kiện này được sách War Crimes In Vietnam (New YorK: M R Press, 1967) của tác giả Bertrand Russell ghi lại một số những trường hợp hết sức kinh khủng và được tác giả Tường Minh Chu Văn Trình tham khảo sách và ghi lại trong cuốn Hội Chứng Việt Nam như sau: “Nạn nhân Nguyễn Thị Thơ kể lại: “Tôi là một phụ nữ trú quán tại tỉnh Thủ Đầu Một, ở phía Bắc Sàigòn, gần rừng cao su Đông Nam Việt Nam. Nay tôi 40 tuổi, làm nghề nông, chống tội bị chết, tôi sống với mẹ và một con trai 14 tuổi. Tôi xin kể một vài kinh nghiệm bản thân dưới chế độ Ngô Đình Diệm: 1.- Chiến Dịch Tố Cộng: “Tôi bị bắt trên một xe búyt trong khi đang nói chuyện với những người trên xe. Năm 1956, người dân miền Nam bị bắt giữ dưới mũi súng. Chính quyền Sàigòn (Ngô Đình Diệm) mở chiến dịch Trương Tấn Bửu hay chiến dịch càn quét (mopping up operation). Các trung đoàn binh lính chống phá nhân dân. Cuộc bầu cử (thống nhất hai miền) không thực hiện. Khi tôi bị tống vào nhà giam, tôi thấy nơi đó chật ních người bị giam. Chúng bắt khoảng 700 người, các hội viên của các nhóm và các tổ chức xã hội, các tổ chức phụ nữ, nhiều người bị bắt vì phát động các cuộc nói chuyện. những người khác thì đang dạy dân chúng cách đọc và viết chữ. Họ là những nhà giáo và trí thức. Chủ nghĩa khủng bố chống lại nhân dân được tiến hành khắp nơi. Bất cứ ai từng là cựu kháng chiến đều bị săn lùng khắp nơi. (Anyone who had been in the former resistance was hunted). Kể cả những ai nói về bầu cử cũng bị bắt. Nhân dân cố gắng tìm gặp Ủy Hội Kiểm Sóat Quốc Tế để nói cho họ biết sự vi phạm điều 14c Hiệp Định Genève và điều 7 Bản Tuyên Bố Cuối Cùng đều bị bắt giam. Mười nghìn (10,000) người bị bắt giam (dịp 20/7/1956). Không đủ phòng cho tù nhân ngồi hay nằm, họ phải đứng suốt ngày đêm. Bắt đầu chiến dịch Tố Cộng, những người vợ có chồng tập kết ra Bắc theo Hiệp Định Genève phải ly dị với chồng. Có người bị giam tới 6 năm không xét xử. Tôi bị giam nhiều năm không xét xử. Đôi khi báo chí loan tin thả một người như bà Nguyễn Thị Tư, người ta tưởng bà ấy được thả ra sau những năm tù, bởi vì không có tội gì. Nhưng sự thật, bà ấy không bao giờ được thả, mà bị đày tới một nhà tù mới tại Côn Đảo. Rắn độc được nhét vào âm hộ của phụ nữ. Nhiều phụ nữ bị đau đớn đến cực độ rồi chết. Viên chức chính quyền sử dụng chai vỡ đâm mạnh vào âm hộ phụ nữ đến bất tỉnh và chết. Những tên cai tù dùng đinh sắt đóng vào đầu các ngón tay tù nhân. Rồi chúng băng các ngón tay bị thương và nhúng vào gasoline (set xăng) rồi châm lửa đốt. Chúng bơm nước vào mồm vào mũi. Nước trộn lẫn với nước mắm và ớt cực cay. Chúng cũng dùng sà bông và chất “Crezil” lọai thuốc rửa ống cống cực mạnh để rửa cầu tiêu sát hại vi trùng. Những chất ấy đốt các màng trong cơ thể. (Poisonous snakes were put in the vaginas of the women. Women died agonizingly. The authorities used broken bottles, which forced into the vaginas of the women. The women became unsconscious and usually died. The guards used iron nails, which they drove under the finger nails of all fingers of the prisoners. They, then bandaged the fingers, soaked them in gasoline and set them alight. They pumped water into our mouths and noses. The water was mixed with fish sauce which was extreme spiced. It burned the membrane.) 2.- Tra tấn em bé 5 tuổi: “Tôi có thể nói thế nào với ông về vụ này? Có nhiều người từng nói đến vụ chúng bắt hụt ông Kiểm, nên chúng bắt bà vợ và đứa con gái nhỏ của ông. Bà vợ ông Kiểm bị tra tấn nhiều giờ nhưng không phát hiện được gì về người chồng. Chúng mang một thùng chứa đầy nước và đặt đứa con gái Nga 5 tuổi vào thùng nước và nhận chìm đứa nhỏ, rồi chúng đánh mạnh ngòai thùng. Áp suất nước làm chảy máu tai, mũi và mồm đứa nhỏ. Tôi nhìn thấy điều này bằng chính mắt tôi. Theo lời bà Thơ là nhân chứng bất đắc dĩ. Có 150 phụ nữ bị nhốt trong một căn phòng rộng 12 ft, dài 21 ft. Chúng tôi không có cầu tiêu. Chúng đặt một thùng trong phòng (để làm cầu tiêu). Mùi hôi thối tràn ngập trong một nơi (căn phòng) bé nhỏ. Hầu hết những kẻ sống sót khi được thả ra đều trở thành vô dụng, không đi được. Họ bị bệnh thần kinh đau đớn và bất tỉnh định kỳ. (Almost all those who survived and were eventually released are now invalids, incapable of walking. They suffer from nervous diseases and from periodic loss of consciousness.) Ngày đầu tiên tôi bị tra tấn liên tiếp 8 giờ, chúng thay phiên nhau tra tấn tôi bằng nhiều kiểu. Trước nhất, chúng đánh tôi bằng cây gậy gỗ hình chữ nhật, bốn cạnh sắc. tôi bị đánh vào ngực và vào lưng đến chết ngất. Khi tỉnh dậy, tôi bị trói bằng lạt tre chắc và sắc. Chúng treo ngược hai chân lên trần nhà. Mỗi cái đấm làm tôi tưởng như chân tay tôi rời khỏi cơ thể. Sự đau đớn và phản ứng của hệ thần kinh làm tim tôi đau nhói. Trận đòn thứ nhất kéo dài hơn một giờ. Khi tôi hồi tỉnh, chúng lại đánh tiếp. Khi chúng cởi trói, hạ tôi xuống sàn nhà, tôi đứng không nổi. Chúng lột hết quần áo và trói chặt tôi vào một cái bàn. Chúng bịt miệng và mũi tôi bằng một tấm vải mỏng. Chúng dùng ông nước bằng cao su bơm nước vào mồm và mũi tôi. Tôi bị ngộp thở và bụng đầy nước, dạ dầy trương phồng lên. Lúc đầu, chúng chỉ dùng nước, sau chúng trộn nước lạnh với nước mắm và nước sà bông. Trận tra tấn (kiểu đi tầu ngầm) này kéo dài 40 phút. Rồi tôi cảm thấy tất cả tối sập. Tôi bị ngất. Chúng ép bụng tôi và lắc mạnh đầu làm cho nước trong bụng ộc ra tại mồm và mũi. Tôi hồi tỉnh. 3.- Hành Động thương luân bại lý của chế độ Gia-tô Ngô Đình Diệm: Chúng lại trói tôi trần truồng vào một cái bàn. Đầu tôi cũng bị trói chặt vào một cái bàn mặt ngửa lên trần nhà, rồi từng giọt nước lạnh buốt từ trên cao nhỏ vào trán tôi, cứ như thế sau một giờ tưởng như không có gì. Nhưng sau một thời gian, tôi không chịu nổi những giọt nước lạnh buốt, tôi bắt đầu cảm thấy mặt và đầu bị tấn công. Đến 4 giờ sau, óc tôi bị tê cóng, cứng đờ và bất tỉnh. Lúc sắp bất tỉnh, tôi nghe chúng nói với tôi: “Chúng tao sẽ làm mày thành một phế nhân suốt đời.” (We will make you a lifelong invalid.) (trang 169) Thật vậy, từ khi tôi được thả cho đến nay, tôi đã mắc bệnh tim hành hạ, và bệnh hệ thần kinh gây tác dụng định kỳ. Sau những đợt tấn công của bệnh ấy, tôi bị đau đớn và chảy máu ở hậu môn. Đó là hậu quả của những trận đòn tra tấn mà tôi phải chịu đựng. Ở phòng giam, chúng nhét vào miệng tôi một cái ổ khóa bằng gỗ hình tròn như đồng xu. Ổ khóa này giữ miệng tôi phải mở suốt ngày đêm và khó thở. Tôi bị bắt cùng với một người đàn ông. Tôi bị giam chung với anh ta trong một tháng. Vào một buổi tối, chúng tôi được di chuyển đến một căn phòng nhỏ. Đến 2 giờ sáng, chúng ở bên ngoài nghe tiếng chúng tôi. Chúng muốn chúng tôi giao cấu. Chúng muốn làm nhục chúng tôi. Cuối cùng, chúng phân cách chúng tôi và nói: “Bọn mày biết chúng tao muốn chúng mày làm gì không?” Tôi đáp: “Chúng mày là lũ man rợ ghê tởm. Chúng tao không bao giờ mất nhân phẩm.” (You, who are odious and barbarous, are of such character. We will never lose our dignity.) (tr. 170). Sau những trận tra tấn vô tận, tôi bị tống giam vào đề lao Gia Định, một trung tậm tạm giam chật ních tù chính trị chờ gửi đi nơi khác. Đế lao Gia Định rất nóng. Mỗi tối có 20 người hay hơn bị ngất xỉu vì thiếu dưỡng khí. Sau một tháng sống trong điều kiện này, mọi người đều bị nổi mụn nhọt, da bịp giộp và sưng. (Afetr one month in these conditions, everyone had rashes, pimples, blisters and swelling.) (Tr. 170). Suốt tháng đầu tiên ở đề lao Gia Định, tôi thấy 7 người đàn ông bị chết ngộp. Tôi không thể hiểu bằng cách nào mà những người phụ nữa sống sót ở đây lại chịu đựng nổi những điều kiện như thế. Thực phẩm hàng ngày rất ít, mỗi người chỉ được một chén cơm nhỏ, gạo trộn với trấu (the rice was mixed with pady husks), không có rau hay nước chấm. Tôi ở đây 7 tuần. Sau đó, chúng tội bị đày ra Côn Đảo. (tr. 170). Chế độ nhà tù ở Côn Đảo có mục đích giết hại tù nhân bằng hành hạ và lao động cực nhọc. Tôi chứng kiến tù nhân chết mỗi ngày. Mỗi tù nhân hàng ngày phải vào rừng chặt cây làm củi mang về nhà giam một thước khối củi. Ai không thực hiện đủ số củi ấn định sẽ bị đánh đòn và bị biệt giam vào xà lim. Hầu hết tù nhân tại Côn Đảo đều bị bệnh kiết, viêm ruột (dysentery) và giun, sán (worms). Tôi bị giam một năm ở Côn Đảo, trong đó có 10 tháng bị biệt giam cùng với 4 người trong một xà lim (cell) diện tích rộng 3ft, dài 6ft, tường dày 15 in, trần nhà bê tông. Nhờ có phong trào phản đối giam chính trị phạm nữ ở Côn Đảo, nên một năm sau, tôi được chuyển vào đất liền. Cuộc chống đối này, có hơn 100 tù chính trị bị bọn cai ngục sát hại. Tên tỉnh trưởng Côn Đảo Bạch Văn Bốn vỗ tay cười nhìn xác tù bị giết. Sau 10 tháng bị biệt giam, tôi chỉ còn là một bộ xương (after ten months of detention, I was reduced to a skeleton.) Chúng đưa tôi vào trại tập trung Phú Lợi. Trại này rất rộng, giam giữ 8 ngàn tù chính trị. Ở trại Phú Lợi, chúng bắt chúng tôi phài chào tên đại tá trưởng trại (Trần Vĩnh Đắc) và hô khẩu hiệu ủng hộ chế độ Diệm. Chúng tôi từ chối. Chúng đánh chúng tôi và gửi chúng tôi về trại Thủ Đức. (At Phu Loi camp, they forced us to salute their colonel and to shout slogans of support for the Diem regime. We refused to do so. We were beaten and sent to another prison, called Thur Duc Gool.” (tr. 173.) [35] Trên đây chỉ là 3 chuyện trong nhiều chuyện được tác giả Chu Văn Trình ghi lại trong cuốn Hội Chứng Việt Nam. Ngoài tập sách này, còn có cuốn The War Behind Me: Vietnam Veterans Confront The Truth About U.S. War Crimes của tác giả Seymour Hersh, cuốn phim tài liệu Chiến Tranh Viêt Nam - Những Điều Chưa Biết do Daniel Costelel biên sọan & tường thuật và Isabelle Clarke đạo diễn (điện thọai liên lạc: (714) 555-2515), và nhiều bài viết của những người cựu chiến binh Hoa Kỳ đã từng chiến đấu ở Việt Nam kể lại, trong đó có ông John Forbes Kerry (cựu ứng cử viên Tổng Thống của Đảng Dân Chủ trong kỳ bầu cử tổng thống tháng 11/2004, vụ tàn sát người ờ hơn môt ngàn người trong trại tù Phú Lợi (Bình Dương) vào tháng 1/1959, vụ tàn sát dân làng Mỹ Lai xẩy ra vào giữa tháng 3 năm 1968, tất cả đều là sản phẩm của Nhà Thờ Vatican. Tại Rwanda: Chỉ trong vòng có 100 ngày vào giữa năm 1994, họ tàn sát tới hơn 800 ngàn người trên tổng số dân trên tòan quốc chỉ có 8,196,000 (vào năm 1995). 13.- Chúng ta cho rằng những người tốt là những người vô tư, không ích kỷ, không vị lợi, không vơ vào, không lấn lướt những người khác, sẵn sàng giúp đỡ những người khác khi người ta cần được giúp đỡ, và những người xấu là những người có những ác tính như gian giảo, xảo quyệt, thiên vị, ích kỷ, gian tham, hám lợi, háo danh, háo sát, hung dữ, thèm khát quyền lực, lố bịch, trịch thượng, xấc xược, ngược ngạo, bốc hốt, vơ vào, lấn lướt những người khác, băng xăng, xun xoe, bợ đỡ những người quyền thế hay có địa vị cao, khinh khi, làm oai, làm phách, hách dịch và bắt nạt những người lép vế thế cô. Trái lại, họ cho rằng tất cả những gì không thuộc về hay không phải là của Giáo Hội La Mã đều là tội ác, đều là xấu xa, đều là man di, đều là mọi rợ, và cho rằng, tất cả những gì thuộc về hay của Giáo Hội La Mã đều tốt đẹp, đều thánh thiện mà trong thực tế Giáo Hội và tín đồ của Giáo Hội đều mang những ác tính tham tàn, bạo ngược, xãc xược, lấn lướt, vơ vào, hung dữ, háo sát, khát máu, v.v… Chính vì những ác tính này mà Giáo Hội trong gần hai ngàn năm qua đã gây ra hàng chục rặng núi tội ác chống lại nhân loại. 14.- Chúng ta coi cô ALINE REBEAUD, người đã làm những việc từ thiện từ đầu thập niên 1990 cho đến ngày nay, là một người tốt, một vị nữ thánh hiếm có ở trên cõi đời này. Cô là người Thụy Sĩ. Trong chuyến đi du lịch ở Việt Nam, tình cờ gặp một em bé đang hấp hối ở một vỉa đường, bên cạnh một đóng rác, động lòng trắc ẩn, cô đem em bé này về cứu giúp chạy chữa và nuôi dưỡng. Sau đó, cô quyết định ở lại Việt Nam để tiếp tục làm từ thiện cứu giúp những trẻ em bất hạnh như trường hợp em bé trên đây. Thế là kể từ đó, cô đi gom các trẻ em mồ côi sống lang thang ở ngoài đường phố về sống chung một mái nhà, rồi chạy đây chạy đó, vận động quyên tiền bạc để nuôi dưỡng các em. Hành động như vậy là những hành động cao đẹp, và cá nhân cô xứng đáng được tôn vinh lên hàng bậc thánh. Trái lại, ở hải ngoại, vừa mới bắt đầu nói là giúp đỡ Cô Tim, thì họ liền tấn công, ngăn cản, đặt điều kiện, đòi hỏi cô phải đứng chào lá cờ "ba que tượng trưng cho Chúa Ba Ngôi của họ." Không được, họ liền biến cô thành kẻ "có tội"! Xin xem nơi link này. 15.- Chúng ta tôn trọng quyền tự do tôn giáo và các quyền tự do khác của những người khác đúng như lời dạy của Nho Giáo “kỷ sử bất dục vật thi ư nhân.” Trái lại, họ không bao giờ tôn trọng quyền tự do tôn giáo và các quyền tự do khác của những người khác vì rằng: “Đức Giáo Hoàng Grégoire XVI đã gọi tự do báo chí là ”thứ tự do tai hại nhất, đáng ghét nhất kinh tởm nhất mà một số người dám đòi hỏi một cách ồn ào cuồng nhiệt và quảng bá khắp nơi....[[36]] 16.- Chúng ta sống theo quan niệm “vừa mắt ta ra mắt người”, “dĩ hòa vi quý”, và “tứ hải giai huynh đệ”, coi mọi người trong thiên hạ như anh em trong một gia đình. Trái lại, bản chất của họ là luôn luôn có những thái độ và hành động “trịch thượng” vào khi họ có hoàn cảnh cho phép, tức là khi họ ở thế thượng phong hay có quyền lực trong tay. Một trong những bằng chứng cho sự kiện này là họ coi việc đặt điều kiện cho người khác tôn giáo muốn thành hôn với con em của ho là phải từ bỏ tôn giáo cổ truyền của gia đình, phải theo học lớp giáo lý Ki-tô và phải làm lễ theo đạo Ca-tô rồi mới được tiến hành lễ thành hôn. Khi giao tiếp với những người thuộc tôn giáo khác, nếu họ ở vào thế thượng phong, họ thường có những ngôn ngữ, thái độ và hành động vô cùng lố bịch, cực kỳ trắng trợn và hết sức thô bạo. Người viết đã nhiều lần chứng kiến những hành động trịch thượng như vậy của họ. Thiết tưởng rằng có rất nhiều người cũng đã từng chứng kiến hay kinh qua những ngôn ngữ, thái độ và hành động trịch thượng như thế của họ. Hơn thế nữa, người viết cũng đã từng chứng kiến những hành động cực kỳ dã man của những toán lính đạo người Việt trong các đạo quân phụ lực Patisans hay Commandos trong quân đội Pháp và trong các xóm đạo được giặc võ trang trong thời Kháng Chiến 1945-1954 trong các tỉnh Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên và Kiến An. Quả thật là họ đã hành xử đúng như thánh kinh và Nhà Thờ Vatican đều dạy dỗ họ, và đúng như Giao-sư Lý Chánh Trung đã viết trong cuốn Tôn Giáo và Dân Tộc: “Hậu quả của quan niệm ấy là tính cách bất khoan dung (intolérance) của Giáo Hội Công Giáo: Giáo Hội đã được Thiên Chúa ban truyền toàn bộ sự thật cần thiết cho sự cứu rỗi và chỉ Giáo Hội mới có quyền giải thích hoặc khai triển sự thật đó. Tất cả những gì ở ngòai sự thật nói trên hoặc trái với lời giải thích chánh thức của Giáo Hội chỉ có thể sai lầm. Mà Giáo Hội có quyền và có bổn phận tiêu diệt sự sai lầm để bảo vệ sự thật hầu hòan thành sứ mạng cứu rỗi của mình.” … “Kể từ dạo ấy, mỗi khi hoàn cảnh cho phép, Giáo Hội đã không ngần ngại dùng bạo lực để tiêu diệt những tôn giáo khác, đập phá các đền thờ "tà thần", đốt sách vở ngọai đạo và đốt luôn bọn người bị xem là "lạc đạo", nếu không chịu sửa sai.” [[37]] 17.- Chúng ta hiểu rằng “Việt gian” là “người Việt Nam phản đất nước” (Lê Văn Đức, Việt Nam Tư Điển, Quyển Hạ, tr.1777), và phản đất nước hay phản bội tổ quốc là đi làm những công việc đưa đường dẫn lối, chỉ điểm hay làm việc trong chính quyền của quân xâm lăng cướp nước thống trị dân ta. Theo nghĩa này, thì Ngô Đình Diệm là một tên Việt gian và thuộc về một gia đình có tới ba đời nối tiếp nhau làm Việt gian bán nước cho Vatican, cho Pháp, cho Nhật và cho Mỹ. Trái lai, họ phủ nhận tất cả những định nghĩa trên đây để suy tôn những người đồng đạo của họ đã từng làm những việc đưa đường dẫn lối, chỉ điểm hay làm việc trong chính quyền của Liên Minh Xâm Lăng Pháp - Vatican cướp nước thống trị dân ta, và cũng là để suy tôn tên bạo chúa phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm như là một anh hùng dân tộc đã chết vì nước. 18.- Chúng ta cho rằng Vatican mang tội chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam qua những hành động cấu kết với Pháp trong việc đánh chiếm và thống trị Việt Nam từ năm 1858 cho đến tháng 3 năm 1945 và trong việc đem quân sang tái chiếm Đông Dương và gây nên cuộc chiến 1945-1954. Sau đó, Vatican lại cấu kết với Mỹ trong việc vi phạm điều khỏan tổng tuyển cử để thống nhất đất nước vào năm 1956. Điều khỏan này đã được quy định trong Hiệp Định Genève 1954. Vì thế mà nhân dân Việt Nam lại phải lao vào cuộc chiến đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican để đòi lại miền Nam cho dân tộc và hoàn thành sứ mạng thống nhất đất nước cho tổ quốc. Đây là một món nợ mà Nhà Thờ Vatican còn chưa tạ tội và bồi thường cho dân tọc Việt Nam ta.i Trái lại, họ cho rằng Vatican là nước tổ của họ. Vì thế, đối với họ, việc Vatican cấu kết với Pháp đánh chiếm Việt Nam chỉ là việc bình thường trong sứ mạng khai hóa văn minh đúng như lời Vatican đã dạy dỗ họ rằng: “Chính sách thực dân có tính cách nhân đạo ở chỗ: một cường quốc khai hóa cho một nước mà nền văn minh còn thô sơ.”[38] Tương tự như vậy, họ cho rằng việc Vatican cấu kết với Mỹ cũng là chuyện bình thường vì rằng họ cho rằng mục đích của việc Vatican cấu kết với Mỹ là để chống Cộng và để bảo về quyền lợi của Nhà thờ Vatican của họ. Vatican đã dạy họ như vậy và bổn phận của họ là phải tuyệt đối vâng lời và triệt để tuân hành lệnh truyền của Vatican. Hành động như vậy mà họ không hề biết rằng đó là hành động của quân mất gốc, của những phường vong bản và phản quốc. 19.- Chúng ta cho rằng những người Việt Nam chiến đấu trong suốt chiều dài lịch sử từ năm 1858 đến ngày 30/4/1975 trong cuộc chiến đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Pháp Vatican để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc và trong cuộc chiến đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Mỹ – Vatican để đòi lại miền Nam cho tổ quốc và hòan thành sứ mạng thống nhất đất nước là những người yêu nước. Đồng thời, chúng ta cũng cho rằng những người Việt Nam chiến đấu trong hàng ngũ quân thù xâm lược trên đây là những thằng Việt gian phản quốc. Trái lại, họ cho rằng những người Việt Nam chiến đấu đánh đuổi các đế quốc xâm lược Vatican, Pháp và Mỹ là Việt gian, và những thằng Việt gian chiến đấu trong hàng ngũ các đế quộc thực dân xâm lược trên đây là những nhà ái quốc. 20.- Chúng ta cho rằng chính quyền Quốc Gia với ông Bảo Đại làm Quốc Trường là do Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican dựng nên để làm tay sai cho hai đế quốc này, và các chính quyền miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 là do Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican dựng nên để làm tay sai cho cả Mỹ và Vatican. Trái lại, họ cho rằng các chính quyền này không phải là do các đế quốc Pháp, Mỹ và Vatican dựng nên, nhưng lại không chứng minh được vì đâu và do đâu mà các chính quyền bù nhìn này xuất hiện. 21.- Chúng ta rằng lá cờ vàng ba sọc đỏ là do Vatican làm ra từ thời Vatican móc nối với ông vua gỗ Thành Thái (1889-1907) để làm biểu tượng cho chính quyền tay sai của Vatican trong mưu đồ chống lại phe thực dân Pháp để giành giật quyền lực ở Việt Nam trong thời kỳ này. Năm 1916, khi truất phế Vua Duy Tân và đưa Nguyễn Phúc Bửu Đảo (Khải Định) lên thay thế, phe thực dân Pháp không cho triều đình bù nhìn Huế sử dụng lá cờ này, và buộc phải sử dụng là cờ Long Tinh. Trong thời Kháng Chiến 1945-1954, khi chủ mưu đưa Bảo Đại trở lại ngai vàng và thành lập cái gọi là chính quyền Quốc Gia làm tay sai cho Liên Minh Xâm Lăng Pháp – Vatican, Nhà Thờ Vatican lại đưa ra lá cờ vàng ba sọc đỏ này ra làm biểu tượng cho tín đồ Ca-tô với danh xưng là người Việt Quốc Gia để chiến đấu chống lại chính quyền và quân đội Kháng Chiến của nhân dân Việt Nam. Trái lại, họ cho rằng lá cờ này là biểu tượng cho lý trưởng tranh đấu của họ với danh nghĩa là người Việt Quốc Gia, nhưng họ lại giấu nhẹm cái lý lịch của lá cở này, giấu nhẹm cái lý lịch phản quốc, phản dân tộc của họ, giấu nhẹm vai trò của Nhà Thờ Vatican trong việc cấu kết với Pháp đem quân đánh chiếm và thống trị Việt Nam từ năm 1858 cho đến năm 1945, và giấu nhẹm luôn cả vai trò của Vatican trong việc cấu kết với Pháp đem quân tái chiếm Đông Dương gây nên cuộc chiến tàn khốc 1945-1954. 22.- Chúng ta cho rằng đất nước Việt Nam là của dân tộc Việt Nam và phải do người Việt Nam làm chủ. Khi đất nước chúng ta bị người ngoại bang đánh chiếm và thống trị, dân ta trở thành nô lệ cho người ngọai bang, thì chúng ta gọi là “mất nước” Trái lại, họ cho rằng nước Việt Nam là của Vatican. Cho nên khi Việt Nam bị liên Minh Xâm Lược – Vatican đem quân đến tấn chiếm và thống trị từ năm 1862-1945, thì họ không gọi là “mất nước”, và khi miền Nam Việt Nam bị Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican thống trị trong những năm,1954-1975, họ cũng không gọi là “mất nước”. Nhưng từ ngày 30/4/1975, đất nước đã được thống nhất, giang sơn đã thu về một mối, đất nước do người Việt Nam làm chủ và được cả thế giới công nhân là một nước độc lập. Ấy thế mà họ vẫn gọi là “mất nước”. Tại sao lại có tình trạng ngược đời như vây? Lý do rất dễ hiểu. Họ coi nước Việt Nam là của Vatican và tổ quốc của họ là Vatican. Khi Vatican còn quyền lực ở Việt Nam, thì họ không gọi là “mất nước”, khi đó, họ tích cực và liều chết chiến đấu với tinh thần “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa” để củng cố và bảo vệ quyền lực của Vatican. Khi Vatican không còn quyền lực ở Việt Nam nữa, thì họ gọi là “mất nước” và luôn luôn tìm đủ mọi cách để đánh phá Việt Nam, gièm pha, hạ nhục các nhà lãnh đạo và chính quyền Việt Nam cũng như các nhân viên cao cấp của chính quyền ta bằng những mánh mung và thuật ngữ Ca-tô mà Giáo Hội La Mã đã sử dụng trong gần hai ngàn năm qua đối với các thế lực chống lại Giáo Hội. 23.- Chúng ta cho rằng vì hoàn cảnh lịch sử, đất nước tạm thời bị chia đôi bởi Hiệp Định Genève 1954 và sẽ được thống nhất qua một kỳ tổng tuyển cử được tổ chức vào tháng 7 năm 1956 cũng do Hiệp Định Genève quy định. Nhưng Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican đã ra lệnh cho chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm chống lại việc tổng tuyển cử này với mục đích vừa biến miền Nam thành tiền đồn chống Cộng cho Mỹ ở Đông Nam Á Châu, vừa biến miền Nam thành vương quốc theo đạo Ki-tô làm thuộc địa cho Vatican. Do đó, vì quyền lợi tối thượng của tổ quốc và của dân tộc, chúng ta cho rằng miền Nam Việt Nam cần phải được giải phóng bằng bất cứ giá nào để thống nhất đất nước, một nguyện vọng mà bất cứ dân tộc nào ở vào hoàn cảnh như vậy cũng phải làm như vậy. Trái lại, họ chủ trường duy trì Việt Nam mãi mãi ở trong tình trạng chia đôi, coi miền Nam Việt Nam như là một quốc gia riêng biệt của Vatican và quyết tâm chiến đấu cho mục đích này của họ. 24.- Khi xét về một người, hay sự việc hoặc một chế độ, chúng ta đều phải căn cứ vào bản chất, tư cách, khả năng, kinh nghiệm, sự lăn lộn hay từng trải, hành động và thành quả của việc làm của người đó hay chế độ đó, CHỨ KHÔNG CĂN CỨ VÀO lý lịch như các yếu tố gia đình, tôn giáo, bằng cấp, chức vụ, phẩm trật và danh xưng. Trái lại, khi xét về một người, về một sự việc hay về một chế độ chính trị, họ lại căn cứ vào cái vỏ bề ngoài và lý lịch như gốc rễ gia đình, tôn giáo, chức vụ, phẩm trật, bằng cấp, CHỨ KHÔNG CĂN CỨ VÀO bản chất, tư cách, khả năng, sự lăn lộn từng trải, hành động và việc làm. Chủ tâm của họ là dùng cái vẻ bề ngoài để lòe bịp và đánh lừa người đời. Cũng vì thế mà Nhà Thờ Vatican mới có chủ tâm dùng những thuật ngữ với những hoa ngôn, mỹ ngữ và danh xưng hào nhoáng hàm chứa cái gì trân trọng nhất và kính mến nhất để lừa bịp tín đồ và người đời. Rõ ràng nhất là Nhà Thờ đã sử dụng những danh xưng như “Hội Thánh duy nhất thánh thiên, công giáo và tông truyền”, gọi tắt là “hội thánh” để nói về Giáo Hội của họ; các tu sĩ đều được gọi là cha, Đức Cha, Đức Ông, Đức Tổng Giám Mục, Đức Hồng Y, Đức Thánh Cha, và tất cả cái gì thuộc về hay là của Vatican đều thánh thiện tốt đẹp cả. Lưu manh hơn nữa, Nhà Thờ Vatican còn sử dụng những từ ngữ mang nặng tính cách khinh rẻ và miệt tguj nhất để nói về tất cả những gì không thuộc về hay không phải là của Vatican. Kinh sách của Nhà Thờ Vatican cũng thường gọi các tôn giáo khác là "tà giáo". Sách Kinh Nhựt Khoá, trang 707, gọi dân Việt Nam là "chim muông cầm thú". Sách Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo (Phần Nhất) của Linh-mục Bùi Đức Sinh (Saigòn: Chân Lý, 1972), sử dụng không biết bao nhiêu lần các từ "man di", "mọi rợ" và "dã man" để nói thẳng hay ám chỉ những người hay nhóm dân thuộc các tôn giáo hay văn hóa khác. Riêng nơi trang 208, ông linh mục tác giả của cuốn sách này sử dụng từ "man di" tới hai lần. Sự kiện Giáo Hội La Mã và tất cả tín đồ của Nhà Thờ Vatican từ giáo hoàng cho đến những tín đồ thuộc loại bạch đinh sử dụng những từ “vô thần”, "tà giáo", "tà đạo", "ngoại đạo", "vô đạo", "man di", "dã man" và "mọi rợ" để nói về các tôn giáo hay văn hóa khác và những dân tộc không thờ ông Jesus là những bằng chững rõ ràng nhất cho sự kiện này. Từ năm 1848 cho đến nay, họ lại sử dụng thêm cụm từ “Cộng Sản”, “Cộng Sản vô thần” và bất cứ từ ngữ nào hàm chứa đặc tính xấu xa nhất để tố cáo các thế lực chống lại Nhà Thờ. Trong thực tế, vô thần và cộng sản đều không có gĩ xấu xa và cũng không có một hành động tội ác dã man, bạo ngược và ghê tởm như những hành động tội ác cực kỳ man rợ mà Nhà Thờ Vaticanđã làm trong gần hai ngàn năm qua. (Xem lại điều 12 ở trên.) Nếu những người vô thần có một hành động nào được coi là bạo ngược thì cũng chỉ xẩy ra trong lúc hăng say khi tiến hành những biện pháp mạnh chống lại những hành động tội ác của Nhà Thờ Vatican và cũng là để trừng trị các phần tử ương ngạnh không chịu thức tỉnh, vẫn còn ngoan ngoãn tuân phục cái thế lực mà văn hào Voltaire gọi là “cái tôn giáo ác ôn” với dã tâm bơi ngược dòng lịch sử, chống lại trào lưu tiến hóa của nhân lọai và chống lại phục lợi của nhân dân. Đó là những trường hợp phải sử dụng biện pháp mạnh trong trong thời kỳ tiến hành cách mạng của các cuộc Cách Mạng Anh 1691, Cách Mạng Pháp 1789, Cách Mạng Mễ Tây Cơ 1857 và 1917, Cách Mạng Ý 1870, Cách Mạng Nga 1917, Cách Mạng Tây Ban Nha 1936, Cách Mạng Trung Quốc 1949, Cách Mạng Việt Nam 1945, Cách Mạng Cuba 1959, Các Mạng Nicaragua 1979. Bị các phong trào cách mạng của nhân dân thế giới đối phó và trừng trị thẳng tay như vậy mà Nhà Thờ Vatican vẫn chứng nào tật ấy. Gian manh và quỷ quyệt hơn nữa, Nhà Thờ còn ra lệnh cho bộ máy tuyên truyền tăng cường và đẩy mạnh những chiến dịch sử dụng những thủ đọan gièm pha, hạ nhục và sỉ vả những người mà Nhà Thờ không ưa hay thù ghét bằng cách gọi họ những người “chống Chúa”, “vô thần” hay cộng sản”, rồi tìm đủ mọi từ ngữ xấu xa gán ghép cho họ. Trong số những nạn nhân này, có những người bất khuất, không chịu khuất phục Vatican và những người có ngôn ngữ hay tác phẩm nói lên bộ mặt thật ghê tởm của Nhà Thờ hay sự thật về những rặng núi tội ác của cái “tôn giáo ác ôn” này trong gần hai ngàn năm qua. Đây là một trong những thủ đọan được Nhà Thờ sử dụng để che đậy và lấp liếm những rặng núi tội ác mà khi còn sinh tiền, chính Giáo Hòang John Paul II (1978-2005) cũng phải công nhân bằng những hành động xin lỗi cả hàng trăm quốc gia nạn nhân của Giáo Hội La Mã. Rồi cũng chính Ngài đã cho tổ chức một buổi đại lễ vô cùng long trọng tại Quảng Trường Peter (Rome) vào sáng ngày Chủ Nhật 12/3/2000 để chính Ngài và các vị chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican đứng ra cáo ác với Chúa về 7 rặng núi tội ác chống lại nhân lọai trước sự chứng kiến trực tiếp của hàng triệu người tại chỗ và hàng trăm triệu người khác qua các màn ảnh truyền hình ở khắp nơi trên thế giới. Về bộ máy tuyên truyền của Nhà Thờ, chúng ta phải nói là siêu việt. Tính cách siêu việt này được chính người trong cái chăn Nhà Thờ là học giả Phan Đình Diệm ghi nhận như sau: “Hàng ngàn năm, để bưng bít và che dấu 7 chương tội đối ngọai và 1 chương tội đối nội là tám, nghệ thuật tuyên truyền của Giáo Hội Roma phải đạt đến chő cực kỳ ảo diệu, thiên biến vạn hóa, một nghệ thuật tuyên truyền thần thánh, một nghệ thuật tuyên truyền nhồi sọ tuyệt vời: Giáo Hội là Thánh, Giáo Hội là Mầu Nhiệm, Giáo Hội là Bí Tích, Giáo Hội là Hiền Thê của Đức Giê-su, Giáo Hội là Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền, Giáo Hội là Vương Quốc của Thiên Chúa... Giáo Hội tự nhận cho mình hết tất cả những khái niệm cao cả thánh thiện, vừa linh thiêng siêu hình, vừa hữu hình thế tục, chẳng bỏ sót một phạm trù nào! Ngòai nghệ thuật tuyên truyền, Giáo Hội vẫn phải xây "vạn lý trường thành đức tin" và buông bức "màn sắt thần học" lên đầu đoàn chiên. Mỗi tòa giảng là một cái loa tuyên truyền, dựa vào khoa thần học phù phép, ảo thuật "núi tội thành con chuột" , "kẻ cướp mặc áo thày tu" và "quỷ Satan có diện mạo ông thánh." [39] Kinh nghiệm lịch sử cho thấy rằng cá nhân hay thế lực nào càng chú ý đến cái vẻ hào nháng bề ngoài để lòe bịp hay đánh lừa người đời, thì cá nhân hay thế lực đó càng có nhiều chủ tâm đi vào con đường tội ác. Câu nói, “Tốt mã rẻ cùi” nói lên tình trạng này và áp dụng cho Giáo Hội La Mã quả thật là vô cùng thích hợp. Đúng như vậy, lịch sử đã cho thấy rằng, hầu hết các ông tu sĩ của Vatican, từ Giáo Hoàng cho các ông linh mục bạch đinh, đều là những tên đại bịp, ăn gian nói dối, quay quắt, lắt léo, lươn lẹo, lưu manh, xảo trá, tham tàn và bạo ngược, v.v… Đây là sự thật mà bất kỳ người dân hay dân tộc nào đã có kinh nghiệm máu với Vatican đều nhìn nhận như vậy. Hơn dân tộc nào hết, dân tộc Ý là một dân tộc có quá nhiều kinh nghiệm với giới tu sĩ của Nhà Thờ Vatican và với Tòa Thánh Vatican. Cũng vì thế mà vị đại anh hùng Giuseppe Garibaldi (1807-1882) của quốc gia này đã lớn tiếng nói với nhân dân Ý và nhân dân thế giới rằng: a.- “Linh muc là hiện thân của sự gian trá". (The priest is the personification of falsehood), b.- “Vatican là con dao găm đâm vào tim nước Ý” (The Vatican is a dagger in the heart of Italy). c.-, "Giao Hội Ca Tô là nàng hầu của sự chuyên chế và là kẻ thù trung kiên của tự do.” (The Catholic Church is the handmaid of tyranny and the steady enemy of liberty.”[40] Vì giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ đưa ra một thí dụ cụ thể trên đây. Trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã, nơi Phần VII, Mục XXV, chúng tôi đã dành ra tới 2 chương với tựa đề là “Văn Chương Phản Kháng Nhắm Vào Giáo Hội La Mã, Nhắm Vào Giới Tu Sĩ Và Các Ông Thánh Trong Giáo Hội.” Hai chương sách này dài tới gần 20 trang computer, nghĩa là khoảng 40 trang sách khổ bình thường với khổ chữ 10 và khổ giấy 20 cm x 13 cm hay 5’’ x 8’ [giống như cuốn The Politics of Heroin in Southeast Asia của tác giả Alfred W. McCoy hay cuốn Việt Nám Sử Lược của cụ Trần Trọng Kim] để ghi lại những nhận xét hay những lời tuyên bố của khoảng trên dưới hai trăm vĩ nhân và danh nhân trên thế giới tố cáo và lên án toàn bộ tín lý, tổ chức, thành phần lãnh đạo trong giáo triều Vatican và các tu sĩ các cấp trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội La Mã. Những lời nhận xét hay tuyên bố này có nội dung tương tự như lời tuyên bố của nhà đại ái quốc Ý Giuseppe Garibaldi nói về Giáo Hội La Mã và các ông tu sĩ của cái giáo hội quái đản này. Bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội La Mã có chủ đề là trình bày những lời lẽ hay lời dạy phỉnh gạt lừa bịp người đời trong hệ thống tín lý Ki-tô cùng những thủ đọan và việc làm vô cùng thâm độc và đại gian đại ác của Giáo Hội La Mã. Bộ sách này được chia ra làm 7 phần, mỗi phần có nhiều mục, mỗi mục có nhiều chương và tổng số lên đến khỏang 130 chương, trong đó có tới khoảng hơn 50 chương đã được phổ biến trên các websites sáchhiem.net (từ tháng 7/2007), giaodiemonline.com (từ tháng 7/2006), và một số các websites khác. Những chương sách này cũng như các tác phẩm của Giáo-sư Trần Chung Ngọc, của cựu thẩm phán Charlie Nguyễn (Bùi Văn Chấn), của Bác-sĩ Nguyễn Văn Thọ, của Giáo-sư Cao Huy Thuần và của nhiều tác giả khác (đăng trên sachhiem.net và giaodiemomlin.com đã giúp cho rất nhiều người nhìn ra bộ mặt thật cực kỳ tham tàn, cực kỳ nham hiểm và cực kỳ độc ác của Nhà Thờ Thiên Chúa Giáo. 25.- Nền đạo lý Đông Phương của chúng ta chú trương lấy nhân dân làm đối tượng để phục vụ. Chính quyền đối xứ với người dân cũng như người dân đối xử với nhau đều phải lấy lòng thành thực và tình thương yêu (đạo nhân) mà hành xử đúng theo bổn phận (do đạo lý đã quy định) của cái thế đứng của mỗi người đối với gia đình, xóm làng, quốc gia và dân tộc. Sự kiện này được sách Sách The Ageless Chinese viết:về sự kiện này như sau: “Xã hội là một tập thể nhiều người thuộc nhiều thành phần và địa vị khác nhau và mỗi người có một trách nhiệm riêng biệt. Tuy nhiên, chính quyền không có nghĩa là một chế độ độc tài chuyên chế. Theo Khổng Tử thì mỗi chức vụ của một người có kèm theo một nghĩa vụ. Không làm tròn cái nghĩa vụ được giao phó cho mình thì ý nghĩa của cái chức vụ của mình sẽ không còn nữa. Như vậy, một ông vua sẽ không thể gọi là vua được nếu không làm tròn cái nghĩa vụ đã giao phó cho ông ta. Nếu ông ta dùng quyền hành để theo đuổi những mục đích ích kỷ thay vì chăm lo phúc lợi cho muôn dân thì ông ta chỉ còn mang cái tên ông vua thôi, chứ thực sự ông ta không còn là vua nữa. Nhà lãnh đạo nắm quyền cai trị cũng như người dân bị trị đều có nghĩa vụ thiên định. Người cầm quyền cai trị muôn dân phải nêu gương tốt cho muôn dân noi theo. Chỉ khi nào người cầm quyền là người hiền đức thì mới hy vọng được muôn dân trung thành và tuân phục. Cái nguyên tắc này cũng được áp dụng trong mối liên hệ tương quan giữa những người trong cùng một gia đình. Dầu rằng người chồng có quyền thế hơn người vợ, cha mẹ có quyền hơn con cái, anh có quyền hơn em, nhưng cũng phải có những nghĩa vụ hỗ tương đối với nhau: người trên phải thương yêu và che chở cho kẻ dưới, và bổn phận của kẻ dưới thì phải trung thành và tuân phục người trên. Bằng cách nào đi nữa thì sự kính trọng và tùng phục của kẻ dưới đối với người trên cũng không phải là tự động. Khổng Tử đã nói rằng chỉ khi nào nhà vua biết dùng lễ đối với quần thần và muôn dân thì mới hy vọng họ đem lòng trung đáp lại. Tương tự như vậy, một người cha tàn ác và bất nhân đối với con cái là tự làm mất đi cái quyền đòi hỏi con cái phải có lòng hiếu thảo đối với mình. Mối tương quan đúng nghĩa và chính đáng là phải áp đặt nghĩa vụ cho cả kẻ trên và người dưới; kẻ nào không sẵn lòng hay không có thiện ý hy sinh làm tròn nghĩa vụ của mình thì không có quyền đòi hỏi người khác phải làm đầy đủ nghĩa vụ của họ đối với mình." (”Society was composed of a variety of individuals and each individual had a special function to perform. However, authority did not and should not imply despotism. With each name, according to Confucius, there was a reality; without reality a name would be deprived of its meanings. Thus a prince (name) could not be rightly called a prince if he did not perform the functions (reality) assigned to him. If, for instance, he used his authority for selfish purposes instead of the welfare of his subjects, he was a prince in name only, but not a real prince. There was a heavenly imposed duty on the ruler as well as on the ruled. A ruler should set an example to his subjects. Only when the ruler was wise and virtuous could the people be expected to be loyal and obedient. The same principle was also applied to the household. Though the husband was superior to his wife, parents superior to children, and alder brothers superior to the young ones, there were mutual obligations governing each other: love and protection on the part of the superiors and loyalty and obedience on the part of the inferiors. The respect and obedience a superior received was not automatic by any means. Only when a king treated his ministers with li (propriety), said Confucius, could the ministers reciprocate it with chung (loyalty). By the same token, a cruel, unloving father forfeited all rights of demanding filial piety from his son. A correct relationship imposed obligations on both sides; those who were not willing to give should receive either.")[41] Vì bổn phận của mỗi người ở trong gia đình cũng như ở ngoài xã hội hay trong cộng đồng quốc gia đã được phân định rõ ràng như vậy, cho con người trong xã hội chúng ta là con người tự do, tự do hành sử theo lương tâm, theo lẽ phải, theo công đạo và có quyền đòi hỏi mọi người dù ở vị thế nào (vua quan hay cha mẹ) cũng phải hành xử đúng theo các trách nhiệm đã được phân định. Nếu một người nào đó không làm tròn trách nhiệm của mình đối với người khác, thì chính họ đã tự làm mất đí cái quyền đòi hỏi kẻ khác phải làm tròn trách nhiệm đối với họ. Nói tóm lại, trong xã hội chúng ta, mọi sự ở trên cõi đời này đều do con người xếp đặt, lo liệu và giải quyết với nhau, chứ không phải do một thế lực siêu nhiên hay đấng thần linh nào xếp đặt, lo liệu và giải quyết. Vì lẽ này, chúng ta chẳng bao giờ hướng về một đấng thần linh mơ hồ trong cõi xa xăm để trông cậy, cầu xin và lạy lục để cứu giúp hay ban phước lành, phép lạ để cho họ được hưởng thụ những đặc quyền đặc lợi hay được quyền đè đầu cỡi cổ những người khác hầu có thể sống phủ phê thỏa mãn những duc vọng bất chính, bất nhân và bất nghĩa. Cũng vì thế mà chúng ta nhìn những người làm cái nghề trung gian giữa con người và thế giới thần linh chỉ là bọn lưu manh buôn thần bán thánh mượn danh tôn giáo để lừa bịp người người đời, những người bất lương, giống như người Pháp khinh rẻ chúng và gọi chúng là “lũ quạ đen” (les corbeaux noirs) và sẵn sàng thẳng tay nghiêm trị khi thấy chúng trổ mòi như trường hợp ông Tây Môn Báo đã làm trong chuyện Cưới Vợ Cho Hà Bá. Trái lại, xã hội Ki-tô của họ lấy ông Chúa bố Jehovah, Chúa Con Jesus làm đối tượng thờ phượng và phục vụ. Vì thế mà họ luôn luôn nói đến cụm từ “phục vụ Chúa”. Họ cho rằng: 1.- Trái đất này là do ông bố Chúa tạo dựng nên và là của riêng nhà Chúa. 2.- Loài người là do Chúa sinh ra theo hình ảnh của Chúa và tất cả đều do Chúa xếp đặt và lo liệu. 3.- Con người chỉ có nghĩa vụ tuân theo ý Chúa, phục vụ Chúa và thờ phượng Chúa. Họ lại cho rằng Chúa ở mãi tận thiên đường xa lắc xa lơ vài phải lo cả trăm công ngàn chuyện, cho nên, không thể quán xuyến được mọi việc ở trên thế gian này. Vì vậy, Chúa phải lập ra Giáo Hội La Mã. Họ nói rằng Chúa mặc khải cho họ biết là Giáo Hội có danh xưng là “Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”. Giáo Hội hay Hội Thánh là đại diện duy nhất của Chúa ở trên cõi trần gian này. Ngoài Giáo Hội, không có cá nhân hay tập thể hoặc một thế lực nào tự xưng hay nói là đại diện cho Chúa, nếu có, thì đó chỉ là tiếm danh hay ngụy tạo, và đều phải coi là tà giáo, tà đạo, chống Chúa, là quỷ Satan, v.v… Họ nói như vậy đó. Quả thất là siêu lưu manh! Tự phong là đai diện duy nhất của Chúa ở trên trái đất này, Giáo Hội có quyền đặt ra thể chế chính trị và tổ chức bộ máy cại trị để quản lý con người ở trên trái đất và đặt ra tất cả những tín lý, những giáo luật, những tập tục và ban hành những thánh lệnh, những tuyên huấn, những lời dạy để cho con người ở thế gian này theo đó mà hành xử. Đã có nhiều người thắc mắc: Dựa vào đâu mà bảo rằng Chúa lập ra Giáo Hội? Dựa vào đầu mà Giáo Hội nói rằng Giáo Hội được Chúa công nhận là đại diện duy nhất của Chúa ở trên cõi trần gian này? Dựa vào đâu và tiêu chuẩn nào mà Giáo Hội đặt ra những tín lý, những giáo luật, những tập tục và ban hành những thánh lệnh, những tuyên huấn, những lời dạy để con người ở thế gian này theo đó mà hành xử? Tất cả đều được Giáo Hội trả lời rằng các nhà thần học của Giáo Hội đã được mặc khải. (Chúa trực tiếp nói với họ.) Lại có người thắc mắc: Tại sao Chúa chỉ mặc khải với Giáo Hội mà không mặc khải với những người khác, thì được trả lời rằng Chúa chỉ tin có Giáo Hội mới xứng đáng được Chúa mặc khải, còn những người cá nhân hay tập thể khác không có đủ tư cách cho Chúa tin tưởng để mặc khải. Giáo Hội La Mã được mặc khải là phải thiết bộ máy cai trị theo chế độ tăng lữ quân chủ toàn (sacerdotal monarchy) hay còn gọi là chế độ giáo hoàng (papacy) với tất cả những gì cực kỳ chuyên chính, cực kỳ phong kiến, cực kỳ phản tiến hóa và cực kỳ phản nhân quyền. Giáo Hội lại được Chúa mặc khải cho biết là tất cả mọi người ở trên trái đất này đều phải làm nô lệ cho Giáo Hội mà Giáo Hội gọi là “con cái hèn mọn của nhà Chúa”. Cũng vì thế mà Giáo thường bịa ra chuyện được Chúa “mặc khải” để ban hành những thánh lệnh (cũng gọi là sắc chỉ) ăn cướp trong thế kỷ 15 trong đó có Sắc Chỉ Romanus Pontifex được ban hành vào ngày 8/1/1454 trong thời Giáo Hoàng Nicholas V (1447-1455). Ý chính của sắc chỉ này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh tóm lược và đã được ghi lại nời điều 12 ở trên. Tất cả những người có lý trí và còn biết sử dụng lý trí đều cho rằng không làm gì có chuyện Chúa mặc khải cho Giáo Hội những điều như đã nói ở trên. Tất cả những tín lý Ki-tô và tất cả những gì Giáo Hội nói hoặc rao truyền đều là bịp bợm và lừa gạt người đời, và tất cả những người chẳng may bị lọt vào vòng kèm tỏa của Giáo Hội đều là những tên nô lệ cho Giáo Hội và được Giáo Hội phỉnh gạt là “con Chúa”, nhưng Giáo Hội cũng không giấu giếm, nói trắng ra rằng là “tôi tớ hèn mọn” của Giáo Hội và gọi họ là “con chiên” tức là một lũ súc sinh ngu như con cừu. Chúng ta nên minh định cho rõ trong xã hội Ki-tô, ai là nô lệ? Ai là chủ nô? Ai là người lừa bịp và phỉnh gạt? và Ai là những người bị lừa bịp và bị phỉnh gạt? Rõ ràng là Giáo Hội cùng với giai cấp tu sĩ là bọn chủ nô và là những tay tổ đại bịp, giáo dân là những bầy nô lệ và cũng là những nạn nhân bị lừa bịp và bị phỉnh gạt. Do đó, chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi thấy rằng: 1.- Nhà ái quốc Ý Đại Lợi Giuseppe Garibaldi (1807-1882) tuyên bố: a.- "Linh muc là hiện thân của sự gian trá". (The priest is the personification of falsehood). b.- “Vatican là con dao găm đâm vào tim nước Ý” (The Vatican is a dagger in the heart of Italy.) c.- "Giao Hội Ca Tô là nàng hầu của sự chuyên chế và là kẻ thù trung kiên của tự do". (The Catholic Church is the handmaid of tyranny and the steady enemy of liberty.) [42] 2.- Tiểu thuyết gia Anh Daniel Defoe (1660-1731) nhận xét: "Trong tất cả tai họa mà nhân loại phải gánh chịu, sự độc đoán của giới giáo sĩ là tệ hại nhất." (Of all the plagues with which mankind are cursed, Ecclesiastic tyranny's the worst.) [43] 3.- Tổng Thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson (1743-1826) tuyên bố: "Trong mọi quốc gia và trong mọi thời đại, linh mục đã thù nghịch đối với tự do." (In every country and in every age, the priest has been hostile to liberty.)[44] Có ở trong chăn mới biết chăn có rận. Người ở trong cái chăn Nhà Thờ Vatican là học giả Ca-tô Charlie Nguyễn nói về cái bản chất lưu manh bịp bợm của giai cấp giáo sĩ và bọn văn nô tay sai của Nhà Thờ như sau: “Nhân dịp này, tôi xin gửi xin kính gửi đến 10 vị nhân sĩ ký tên chung trong bức thư gửi Giáo Hoàng Jean Paul II đã đăng trên báo Vậ Hội Mới Xuân Kỷ Mão (1999) cũng như kính gửi đến toàn thể quý vị hằng tân đến nền văn hóa và tiền đồ dân tộc một số kinh nghiệm bản thân tôi về vấn đề Công Giáo và dân tộc như sau: 1.- Chúng ta nên phân biệt hai lọai người đối tượng đối tượng. Lọai người thứ nhất là các tu sĩ Công Giáo và tập thể chính trị gia, trí thức Công Giáo lưu manh là bọn xưa nay chỉ vì tư lợi mà đã gây ra rất nhiều tội ác chống lại nhân loại và dân tộc. Đối với loại người này, chúng ta phải xác định họ là kẻ thù nguy hiểm và chúng ta cần phải đấu tranh diệt trừ không thể khoan nhượng. Đứng đầu bọn này phải kể đến Hội Đồng Giám Mục, những dòng tu đang biến đức tin Công Giáo thành một món hàng béo bở để tận dụng khái thác làm giầu như dòng tu Đồng Công ở Missouri chẳng hạn. Kế đến là bọn chính trị lưu manh đang ẩn núp trong các đòan thể ở nhà thờ như hiệp sĩ đoàn. Vào một lúc nào đó thuận tiện, chúng sẽ mau chóng biến thành những đòan quân võ trang hoặc những đòan quân mật vụ háo sát như những đòan thể của Linh-mục Hoàng Quỳnh, Lê Hữu Từ, Le Roy hoặc Trần Kim Tuyến. Lọai người thứ hai là tuyệt đại đa số giáo dân, những người mải lo làm ăn, vô tư chất phác. Chỉ vì thiếu hiểu biết, cho nên họ đã bị các tu sĩ và trí thức lưu manh lừa gạt và kích động, xô đẩy vào những họat động phá hoại đất nước mà họ vô tình không biết…”[45] Cũng trong sách này, trong tiểu mục Huyền Thoại Vườn Địa Đàng, ông viết: “Hầu hết các tu sĩ là những kẻ đại gian đại ác ngụy trang dưới lớp áo đen, áo đỏ, áo trắng đóng vai đạo đức giả phỉnh gạt tín đồ. Bề ngoài, họ làm ra vẻ thuận thảo với nhau, thật sự bên trong nội bộ, họ ganh tị tranh đua nhau và sẵn sàng hạ thủ nhau để tranh quyền đoạt thế. Họ dùng đủ mọi thủ đoạn để bòn rút tiền bạc xương máu của giáo dân để xây nhà thờ nguy nga đồ sộ chỉ cốt để họ được vênh vang với đời. Mái nhà thờ của họ càng rộng lớn bao nhiều, càng che khuất ánh sáng mặt trời chân lý bấy nhiêu. Các bức tường của nhà thờ càng cao bao nhiêu càng ngăn cách giữa con người với nhau bấy nhiêu. Giáo sĩ là những con ký sinh trùng vừa ăn bám, vừa phá hoại xã hội. Họ tội lỗi cùng mình lại nắm quyền tha tội cho đám tín đồ vô tội hoặc ít tội hơn họ. Họ thực sự là một bọn ăn cướp nguy hiểm hơn bọn cướp thường vì những kẻ cướp thường đều bị luật pháp trừng trị. Trái lại, bọn cướp đội lốt giáo sĩ lại được giáo dân tôn kính, đi lại tự do vênh váo và được xã hội tâng bốc là “những vị lãnh đạo tinh thần”. Tất cả các tệ nạn này đều phát xuất từ sự thiếu hiểu biết của đại đa số giáo dân. Do vậy, việc giáo dục khai sáng tâm linh là vô cùng cần thiết để cứu nước và bảo vệ nền văn hóa nhân bản rất cao đẹp của dân tộc ta mà tuyệt đối đa số giáo dân không hề biết tới.”[46] Hai bản văn trên đây giúp cho chúng ta có cái nhìn rõ ràng về xã hội Ki-tô giáo. Bọn tu sĩ là giai cấp chủ nô và cũng là bọn chủ động những việc làm lừa gạt và bịp bợm trong Giáo Hội. Bọn chính trị gia và bọn trí thức lưu manh là bọn là tay sai cho bọn chủ nô của Nhà Thờ. Còn tuyệt đại đa số giáo dân đều là bọn nô lệ của bọn chủ nô Nhà Thờ và cũng là những nạn nhân của bọn chủ nô và bọn tay sai của Nhà Thờ,. Họ bị phỉnh gạt gọi là “dân Chúa”, và đôi khi họ cũng được Nhà Thờ nói cho họ biết cai thân phận nô lệ của họ bằng cụm từ “những tôi tới hèn mọn của Nhà Thờ.” Như vậy là trong xã hội Ki-tô, giáo dân thường trực bị bọn tu sĩ và bọn tay sai của Nhà Thờ lừa bịp, bị lợi dụng tối đa và bị bóc lột đến tận xương tận tủy mà cứ ngỡ là họ đã đem hết khả nằng cả về tinh thần và vật chất để dâng hiến và phục vụ Chúa. Vì sống thường trực trong cái môi trường lường gạt và lừa bịp như vậy, thét rồi họ cũng trở thành hạng người chủ động lừa bịp và phỉnh gạt mọi người. Dưới đây là một vài trường hợp cụ thể mà bất kỳ người nào cũng thể kiểm chứng được: Thứ nhất, họ rêu rao tranh đấu cho nhân quyền và tự do tôn giáo: Sau ngày 30/4/1975, con số người Việt sinh sống ở hải ngọai, đặc biệt là ở Bắc Mỹ, Úc Đại Lợi và Âu Châu, càng ngày càng nhiều. Khi mà người Việt càng ngày càng đông tại các địa phương thì lại phát sinh ra các hội đoàn tự nhận là đại diện cho những người Việt, khởi đầu là là cá hội ái hữu tương trợ lẫn nhau. Sau đó, các hội ái hữu này suy thoái biến thể thành các hội đoàn chính trị xôi thịt, rồi phân hóa thành hai ba phe, rồi tranh giành chức vụ đấu đá và chụp mũ cho nhau là cộng sản, nhưng phe nào cũng rêu rao tranh đấu cho nhân quyền và tự do tôn giáo. Luận điệu này được các cơ quan truyền thông tiếng Việt do các ông Ca-tô làm chủ hò reo tán trợ phổ biện rộng rãi theo sách lược cố hữu “Tăng Sâm giết người” của Nhà Thờ Vatican. Điều khôi hài là trong khi họ lớn tiếng rêu rao tranh đấu đòi nhân quyền và tự do tôn giáo cho Việt Nam, thì chính Nhà Thờ Vatican và tín đồ Ca-tô người Việt không bao giờ tôn trọng nhân quyền và tự do tôn giáo của người khác. Bằng chứng là: a.- Theo sự hiểu biết của người viết thì từ lâu lắm rồi Nhà Thờ Vatican có truyền thống (có người nói là giáo luật) quy đinh rằng khi có một người ngoài đạo Ca-tô muốn lập gia đình với người yêu là tín đồ Ca-tô, thì người đó lập tức bị họ đòi hỏi (nếu không muốn nói là cương bách) phải từ bỏ tín ngưỡng cỏ truyền của gia đình, phải theo học lớp giáo lý Ki-tô và phải rửa tội theo đạo Ki-tô trước rồi mới được tiến hành làm lễ thành hôn. Cái truyền thống hay giáo luật bất nhân, phàn nhân quyền và vi phạm tư do tôn giáo của người khác như vậy đã gây nên không biết bao nhiêu thảm cảnh hạnh phúc lứa đôi của trai gái yêu nhau tha thiết mà phải xa lìa nhau. Tình trạng này đã khiến cho Bà Ngọc Tuyết Tiên đã phải nghẹn ngào nói ra trong buổi Hội Thảo Liên Tôn Việt Mỹ được tổ chức tại San José, California vào ngày 15/10/1994. Bà nói: "Tôi rất đau buồn suốt mấy chục năm qua khi thấy những mối tình duyên bất thành giữa nhiều đôi trẻ, phần lớn do cha mẹ Thiên Chúa Giáo quá khắt khe buộc dâu, rể theo các đạo khác phải đi nhà thờ rửa tội, xưng tội; đã có nhiều trường hợp đôi bạn trẻ phải ly di hoặc quyền sinh.” [47] b.- Dưới đây là một chuyện mới nhất, mới xẩy ra trong năm 2001: Giám-mục Emmanuel Milingo 71 tuổi, nguyên gốc là người nước Zambia (Châu Phi). Ngày 27/5/2001, ông giám mục này đã thành hôn với bà Maria Sung 43 tuổi, một y sĩ người Nam Hàn. Họ đã thành vợ chồng có hôn phối và đã làm phép cưới tại một nhà thờ Thiên Chúa Giáo (thuộc hệ phái khác) tại New York do tu sĩ Sun Myung Moon làm chủ lễ. Khi được tin này, Tòa Thánh Vatican cho người tiếp xúc với Giám-mục Milingo và đòi ông phải đến gặp Giáo Hoàng vào ngày Thứ Ba trong tuần đầu tháng 8/2001. Khi đến gặp Giáo Hoàng John Paul II, Giám Mục Milingo bị cưỡng bách phải bỏ rơi bà vợ yêu quý của ông trước ngày 20/8/2001, nếu không thì sẽ bị rút phép thông công. Sự kiện này được tờ The News Tribune (Tacoma) loan tin như sau: "Tòa Thánh Vatican đe dọa sẽ phạt vạ tuyệt thông ông Milingo nếu ông không bỏ rơi người vợ cúa ông vào ngày 20/8; ra lệnh cho ông phải cắt đứt mối liện hệ với giáo phái của mục sư Moon, phải công khai hứa sống đời độc thân, "phải biểu lộ lòng tuân phục đối với Giáo Hòang" (“Vatican had threatened to excommunicate Milingo if he didn’t leave his wife by August 20, sever his ties with Moon’s movement, publicly promise to remain celibate and “manifest his obedience to the Supreme Pontiff." ) Nicole Winfield “Archishop’s wife pleads with Vatican.”[48] Thứ hai, đồng thời, họ cũng thường rêu rao là tranh đấu cho dân chủ tự do ở Việt Nam. Thậm chí, họ còn lập ra cái gọi là khối 8406 do các ông Linh-muc Phan văn Lợi, Linh-muc Nguyễn Văn Lý và một vài giáo dân chủ trương. Tổ chức này được thành lập và cho ra đời vào ngày 8 tháng 4 năm 2006 và lấy tên là khối 8406 để tranh đấu cho mục đích trên đây. Tại hải ngọai, luận điệu tranh đấu cho dân chủ tự do của tổ chức chính trị này thường được các ông Ca-tô người Việt và những phần tử vong bản, phản động khác vào hùa cùng phổ biến rộng rãi bằng các phương tiện truyền thông của họ như truyền thanh, truyền hình, sách báo giấy, các websites, các diễn đàn điện tử và các điện thư của họ. Thế nhưng, có một điều hết sức quái lạ là chính bản thân họ nằm trong thế lực Nhà Thờ Vatican, mà Nhà Thờ Vatican lại theo chế độ tăng lữ quân chủ chuyên chế toàn trị (sacerdotal monarchy), một chế độ độc tài tàn ngược nhất, phong kiến nhất, phản động nhất và lạc hậu nhất. Tàn ngược đến độ mới cách đây hơn mười năm, tại Rwanda, chỉ trong vòng 100 ngày trong ăm 1994, Nhà Thờ Vatican đã tàn sát tới hơn 800 ngàn người trong một quốc gia nhỏ bé với diện tích chỉ có 26,338 cây số vuông, và dân số là 8,196,000 (vào năm 1995); phản động và lạc hậu đến độ chính Giáo Hòang Gregory XVI (1831-1846) dám tuyên bố ngang ngược rằng: “Tự do báo chí là “thứ tự do tai hại nhất, đáng ghét nhất, kinh tở nhất mà một số người dám đòi hỏi một các ồn ào cuồng nhiệt và quảng bá khắp nơi…”[49] Tệ hơn nữa, ở ngay Bắc Mỹ này, nơi mà các quyền tự do tôn giáo, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tư do hội họp, tự do di chuyển, v.v… được hiến pháp và luật pháp bảo vệ triệt để. Ấy thế mà họ lại dám ngang nhiên chống đối và cấm đoán người ta đã đến thưởng lãm các tác phẩm nghệ thuật mang từ Việt Nam đến triển lãm ở trong Viện Bảo Tàng Bowers (California) trong thời gian từ tháng 6 cho đến ngày 3 tháng 10 năm 1999. Hành động ngang ngược phản dân chủ và phản nhân quyền này của họ đã bị một người Hoa Kỳ ném ra cái nhìn cực kỳ khinh bỉ và dạy cho bài học công dân như sau: “Chúng nó có hiểu hay không? Chúng nó đến đây để tìm tự do, nhưng (tại sao) lại không cho tôi hành xử quyền tự do của tôi? (Don’t they get it? They came here for freedom, but won’t allow me to exercise mine?”)[50] Nhà thờ Vatican và chính bản thân họ có những hành động ngang ngược phản nhân quyền, phản tiến hóa và phản dân chủ như vậy. Ấy thế mà họ vẫn ra rả rêu rao là tranh đấu cho nhân quyền, cho tư do dân chủ và tự do tôn giáo cho Việt Nam. Họ nói không biết ngượng. Đúng là: “Loài giòi bọ trong đống rác thối tha lại chê bướm tiên trong vườn thượng uyển.” Vì thế, chúng ta hãy đề cao cảnh giác mà nhớ rằng, “Đừng nghe những gì Nhà Thờ Vatican và tín đồ Ca-tô người Việt nói, mà hãy nhìn kỹ những gì họ làm.” 26.- Chúng ta cho rằng chính sách của Nhà Thờ Vatican là cấu kết Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp trong việc đánh chiếm và thống trị Việt Nam trong những năm 1858-1945, việc đem quân sang tái chiếm Đông Dương vào mùa thu năm 1945 gây nên cuộc “chiến tranh bẩn thỉu” (la sale guerre) 1945-1954, cấu kết với siêu cường Hoa Kỳ để cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam để biến thành tiền đồn Chống Cộng và biến thành một quốc gia riêng biệt theo đạo Ki-tô. Chúng ta khẳng định như vậy là dựa vào các tài liệu lịch sử như: a.- Các thánh lệnh hay sắc chỉ do chính Vatican ban hành trong thế kỷ 15 trong đó có Sắc Chỉ Romanus Pontifex được ban hành vào ngày 8/1/1454 như đã trích dẫn nơi điều 12 ở trên. b.- Bản văn sử do người trong chăn Nhà Thờ Vatican là cựu giáo sĩ Avro Manhattan ghi trong sách Vietnam Why Did We Go? với nguyên văn như sau: "Bản nghiên cứu về tiêu chuẩn lịch sử cho thấy rằng Giáo Hội La Mã đã sử dụng một sách lược hành động trong nhiều thế kỷ là đồng hóa (liên kết) các mục tiêu tôn giáo của Giáo Hội với mục tiêu của một cường quốc thế tục đương thời. Như chúng ta đã thấy, Giáo Hội đã sử dụng sách lược này ở Á Châu vào những thời kỳ Bồ Đào Nha, Tây Ban và Pháp đang là những đại cường đang lên. Ở Âu Châu, sách lược trên đây cũng được áp dụng nhiều lần trong thế kỷ 20 này. Có lúc, Giáo Hội đã liên kết với nước Pháp, liên kết với Đế Quốc Gia-tô Áo - Hung trong thời Đệ Nhất Thế Chiến, rồi trước và trong thời Đệ Nhị Thế Chiến thì Giáo Hội lại liên kết với các chế độ độc tài Ý và Đức của phe hữu. Bằng cách đồng hóa với các cường quốc trên đây vào thời đang lên về các quyền lợi kinh tế, chính trị và chiến tranh, Giáo Hội đã thâu tóm được rất nhiều quyền lợi. Vì rằng không còn một siêu cường Da-tô nào kể từ khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt mang theo sự hủy diệt của chế độ phát xít ở Âu Châu, Giáo Hội La Mã quay ra chọn Hoa Kỳ để liên kết thành một liên minh chính trị. Đây là hành động để đối phó với sự bành trướng của nghĩa Cộng Sản Bôn-sê-vích và siêu cường Nga Sô sau thời Đệ Nhị Thế Chiến. Tình trạng này khiến cho cả Giáo Hội La Mã lẫn Hoa Kỳ cùng lo sợ và bắt buộc hai thế lực này liên kết với nhau thành một liên minh thực sự trong thời Chiến Tranh Lạnh.” ("The study of historical patterns reveals a formula which the Catholic Church has used for centuries, namely identification of her religious objectives with those of a major lay political power of a given period. As we have seen, she used this formula in Asia when she identified herself with the major powers of those days, Prortugal, Spain, and France. In Europe the formula was applied several times in this century. She identified herself at vaious intervals with France, then with the Catholic Empire of Austria-Hungry during the First World War, and with the right wing dictatorships of Italy and Germany, before and during the Second World War. She advanced her interests in the wake of these Powers by identified herself with their economic, political and war interest. Since the end of the Second World War and the annihilation of European fascism she adopted the U.S. as her lay partner, in the absence of a Catholic superpower. This was prompted by the grim reality of the appearance of Boshevism and the growing military presence of Soviet Russia after World War II. The menacing reality of these two compelled the Vatican and the U.S. together and in due course force them into veritable alliance known as the Cold War.")[51] c.- Việc Nhà Thờ Vatican phong thánh vào ngày 19/6/1988 cho 117 tên tội đồ bị dân ta xử tử vì đã có những họat động chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam, việc chính quyền đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm và quân phiệt Ca-tô Nguyễn Văn Thiệu vinh danh những tên tội đồ Ca-tô đã từng chống lại tổ quốc và dân tộc ta bằng cách đem danh tính của chúng đặt tên đường và trường học. Ai đã từng sống ở Sàigòn trong những năm 1954-1975 đều biết rằng tại thành phố này có những trường học mang tên những tên Việt gian Ca-tô. Đó là các trường học như trường tiểu học Đỗ Hữu Vi (tức Đỗ Hữu Phương), Trường Huỳnh Tịnh Của, Trường Petrus Ký, Trường Hồ Ngọc Cẩn, Trường Trần Lục (vào cuối thập niên 1960 đổi thành Trường Nguyễn Du), Trường Nguyễn Bá Tòng, Trường Lê Bảo Tinh, Trường Nguyễn Duy Khang, trường Saint Thomas, trường Saint Paul. Về tên các đường ở Sàigòn thì có các đưởng Petrus Ký, Đường Tổng Đốc Phương (Đỗ Hữu Phương tức Đỗ Hữu Vị), đường Tổng Đốc Lộc (Trần Bá Lộc), Đường Ngô Đình Khôi (từ cầu Công Lý chạy dài tới phi trường Tân Sơn Nhất). Ngoài ra, lại còn có một con đường mang tên Bùi Chu và một con đường khác mang tên Phát Diệm. Ai cũng biết rằng Bù Chu và Phát Diệm là hai sào huyệt lừng danh của Nhà Thờ Vatican chống lại tổ quốc và chống lại dân ta trong thời Kháng Chiến 1945-1954. Vì vậy mà trong suốt chiều dài lịch sử từ cuối thế kỷ 18 cho đến ngày 30/4/1975, tất cả các tu sĩ hay giáo sĩ và tín đồ Ca-tô người Việt đều triệt để tuân lệnh Nhà Thờ Vatican bằng hành động cộng tác chặt chẽ với Minh Xâm Luợc Pháp – Vatican trong những năm 1858-1954 và với Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican trong những năm 1954-1975 để chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam.e Trái lại, họ lại cái cối, cãi chày, cái bựa rằng các giáo sĩ hay tu sĩ và tín đồ Ca-tô cộng tác chặt chẽ với Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp trong việc đánh chiếm và thống trị Việt Nam trong thời kỳ 1858-1945 cũng như trong thời Kháng Chiến 1945-1954 là những hành động cá nhân riêng rẽ không dính dáng gì đến Nhà Thờ Vatican. Thế nhưng, họ lại cố gắng tối đa để giấu nhẹm những họat động của những người đồng đạo của họ đã tích cực tiếp tay cho giặc trong các thời kỳ trên đây. Chẳng hạn như (1) tên Ca-tô Việt gian Trần Bá Lộc dẫn lính mã tà mà hầu hết là lính đạo đi dánh dẹp các lực lượng nghĩa quân kháng chiến của nhân dân ta ở miền Nam trong thập niên 1860. (2) Tên Việt gian Ca-tô Ngô Đình Khả cùng với tên Việt gian Nguyễn Thân dẫn ngụy quân mà hầu hết là linh đạo tấn công vào căn cứ nghĩa quân kháng chiến ở Vụ Quang dưới quyền lãnh đạo của nhà ái quốc Phan Đình Phùng và chỉ thành công sau khi cụ Phan qua đời vì bệnh kiết lỵ. Tệ hơn nữa, hai tên Việt gian đầu sỏ này còn làm một việc hết sức dã man là cho đào mả cụ Phan, lấy xác đốt thành tro, lấy tro trộn vào thuốc súng rồi bắn xuống sông Lam Giang để trả thù cho những thất bại của chúng trước đó. (3) Tên Việt gian Linh-mục Trần Lục dẫn hơn 5 ngàn giáo dân có vũ trang đi tiếp sức cho đạo quân Pháp dưới quyền chỉ huy của Trung-tá Metzinger và Đại-úy Joffre bao vây và tấn công lực lượng nghĩa quân kháng chiến của nhân dân ta tại chiến lũy Ba Đình đưới quyền chi huy của nhà ái Đinh Công Tráng. Riêng về việc Nhà Thờ Vatican cấu kết với siêu cường Hoa Kỳ đưa tên Ca-tô tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm về cầm quyền ở Việt Nam để làm tay sai cho cả Hoa Kỳ và Vatican trong sách lược biến miền Nam Việt Nam thành tiền đồn chống Cộng ở Đông Nam Á Châu và trong mưu đồ biến miền Nam vĩnh viễn thành một quốc gia riêng biệt theo đạo Ki-tô, thì họ phủ nhận và cãi cối, cãi chày bằng những luận điệu lươn lẹo và diễn dịch những sự kiện lịch sử một cách sai lệch, không đưa ra được luận cứ nào có sức thuyết phục. Đây là các cuốn ngụy thư và bài viết của các ông văn nô Vũ Đình Họat (linh mục), Lữ Giang (còn một bút hiệu khác là Tú Gàn), Đinh Từ Thức, Nguyễn Văn Chức, Cao Thế Dung, Minh Võ, Tôn Thất Thiện, Lâm Lễ Trinh, Nguyễn Kim Khánh (Phan Thiết), Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Lục, Nguyễn Vy Khanh, Nguyễn Đạt Thịnh, Hòang Thái Du, Nguyễn Học Tập, v.v… Tất cả các ông văn nô này (1) đều là tín đồ Ca-tô, (2) đều hoặc là ông cha họ hoặc là chính họ đã được hưởng những đặc quyền đặc lợi của Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican trong những năm 1858-1954 hay ở miền Nam trong những năm 1954-1975, (3) đều không có căn bản sử học và cũng không có một hoạt động nào liên hệ đến ngành sử học, và (4) đều là những người viết sử tài tử với mục đích duy nhất chạy tội cho Nhà Thờ Vatican, chạy tội cho giới tu sĩ và tín đồ Ca-tô người Việt đã làm Việt gian bán nước cho Vatican và Pháp, chạy tội cho các chinh quyền miền Nam Việt Nam, đặc biệt là chạy tội cho anh em tên bạo chúa phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm và bạo quyền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa. 27.- Chúng ta sống trong nếp sống văn hóa tự do và khai phóng, mọi người được tự do tìm đọc sách sử thế giới và tự do tìm đọc tất cả các tư tưởng cao đẹp của tất cả các đại tư tưởng gia ở trên thế giới từ ngàn xưa, nếu thấy rằng tư tưởng hay triết thuyết nào cao đẹp, thì đón nhận học hỏi và gom lại làm cho gia tài văn hóa cho dân tộc thêm phần phong phú. Nhờ vậy mà kho tàng văn hóa của dân ta rất dồi dào, và cũng nhờ vậy người Việt Nam chúng ta dễ dàng theo kịp với đà tiến bộ của nhân lọai trong thời đại tin học ngày nay, dù rằng đất nước chúng ta đã phải trải qua hai cuộc chiến tàn khốc nhất trong lịch sử, bị Mỹ bao vây kinh tế cho đến năm 1994, và cho đến ngày nay vẫn còn bị Nhà Thờ Vatican và bọn người “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa” đánh phá bằng trăm phương ngàn kế. Trái lại, họ bị giam hãm trong ngục tù ngu dốt do việc Nhà Thờ Vatican chủ trương “nắm độc quyền giáo dục thanh thiếu niên để rèn luyện theo tinh thần công giáo”, nghĩa là thi hành chính sách ngu dân, trong đó có việc tuyệt đối không cho thanh thiếu niên được học và đọc những gì mà Nhà Thờ không cho phép, và chỉ cho họ được học hay đọc những gì Nhà Thờ cho phép. Điều cấm kị đối với Nhà Thờ là môn sử thế giới, lịch sử Giáo Hội La Mã, thuyết tiến hóa của nhà bác học Charles Robert Darwin (1809-1882), và tất cả những tư tưởng cao đẹp của các đại tư tưởng gia và vĩ nhân trên thế giới, đặc biệt nhất là những đại tư tưởng gia và vĩ nhân từ Thời Đại Lý Trí và Thời Cách Mạng trở về sau. Thực trạng này được Linh-mục Trần Tam Tình ghi nhận như sau: "Ngọai trừ các cụm nhà thành thị dân chúng sống lẫn lộn, người Công Giáo thường được tập trung lại thành làng xóm riêng, tách rời khỏi người lương, sống chen chúc quanh tháp nhà thờ xây theo kiểu Tây, chọc lên trời, cao vượt khỏi lũy tre. Bị đóng khung và được đòan ngũ hóa bởi hàng giáo sĩ, họ trở thành một lực lượng quần chúng, một lực lượng đáng ghê sợ khi cha xứ kêu gọi họ đứng lên bảo vệ đức tin, bảo vệ nhà thờ. Hệ thống ốc đảo đó tách biệt và cô lập phần lớn giáo dân khỏi liên hệ với đồng bào, thúc đẩy họ từ khước, tẩy chay bất cứ điều gì không được Giáo Hội chính thức phê chuẩn, chẳng hạn sách Truyện Kiều, một kiệt tác văn thơ cổ điển của Việt Nam, hoặc các tài liệu cách mạng đều bị cho là ngược với đạo. Cac sách của Voltaire, Montesquieu, khỏi nói tới Các Mac, vừa bị nhà nước thuộc địa cấm, vừa bị giáo luật khai trừ, nhưng ngay cuốn sách thánh đã dịch ra tiếng bản xứ mà cũng chẳng ai được biết đến (có một bản sách thánh in bằng hai thứ tiếng La Tinh và Việt ngữ, khổ lớn, nằm trong thư viện các chủng viện và một vài cha xứ, còn giáo dân thì không thể rờ tới.)"[52] Ngoài việc bị nhốt trong ngục tù ngu dốt như trên, họ còn bị kiểm soát gắt gao, không được phép “có ý kiến riêng mà luôn luôn phải tuân thủ theo lời dạy của giáo quyền.” Nếu họ có một ý kiến riêng thì sẽ bị coi là “lạc đao” và sẽ bị nghiêm trị nếu không chịu sửa sai. Sự kiện này được Giáo-sư Lý Chánh Trung ghi lại trong sách Tôn Giáo và Dân Tộc với nguyên văn như sau: Trong Giáo Hội Công Giáo thì trái lại, khuynh hướng đóng kín và tự mãn hiện diện ngay trên bình diện tập thể, vì Giáo Hội đã tự ý thức mình như một dân tộc được Thiên Chúa chọn lựa và giao cho sứ mạng cứu rỗi nhân loại. Giáo Hội là con đường độc nhất đưa tới Thiên Chúa: "Ngòai Giáo Hội không thể có sự cứu rỗi" (hors de l' Église, point de salut). Hậu quả của quan niệm ấy là tính cách bất khoan dung (intolérance) của Giáo Hội Công Giáo: Giáo Hội đã được Thiên Chúa ban truyền toàn bộ sự thật cần thiết cho sự cứu rỗi và chỉ Giáo Hội mới có quyền giải thích hoặc khai triển sự thật đó. Tất cả những gì ở ngòai sự thật nói trên hoặc trái với lời giải thích chánh thức của Giáo Hội chỉ có thể sai lầm. Mà Giáo Hội có quyền và có bổn phận tiêu diệt sự sai lầm để bảo vệ sự thật hầu hòan thành sứ mạng cứu rỗi của mình. Kể từ dạo ấy, mỗi khi hoàn cảnh cho phép, Giáo Hội đã không ngần ngại dùng bạo lực để tiêu diệt những tôn giáo khác, đập phá các đền thờ "tà thần", đốt sách vở ngọai đạo và đốt luôn bọn người bị xem là "lạc đạo", nếu không chịu sửa sai. Những hành động nói trên không phải bắt nguồn từ một khuynh hướng đế quốc mà từ cái ý thức rất chân thành và nghiêm chỉnh của Giáo Hội về sứ mạng cao cả của mình. Thật là cảm động khi nhìn lại cái ý chí sắt đá mà Giáo Hội đã giữ được nguyên vẹn qua bao cuộc thăng trầm trong gần hai ngàn năm lịch sử, để thi hành mạng lịnh cuối cùng của Đức Kitô: "Các con hãy ra đi dạy dỗ các dân tộc". Điều đáng buồn là một số phương pháp mà Giáo Hội đã dùng đến để dạy dỗ các dân tộc có tính cách phản giáo khoa. Sự bất khoan dung khiến cho, trong quá khứ, Giáo Hội không bao giờ chấp nhận tự do trong nội bộ của mình cũng như trong xã hội loài người nói chung. Trong nội bộ Giáo Hội, người Công Giáo không có quyền có ý kiến riêng mà luôn luôn phải theo lời dạy của giáo quyền. Có một ý kiến riêng là đã "lạc đạo" rồi như Giám-mục Bossuet viết: "Người lạc đạo" (hétérique) là người có một ý kiến theo nguyên nghĩa. Mà có một ý kiến là gì? Là một tư tưởng riêng, một tình cảm riêng. Nhưng người Kitô hữu là người Công Giáo nghĩa là con người phổ biến (universel), con người không có tình ý riêng tư mà luôn luôn phải tuân theo tình ý của Giáo Hội không một chút do dự. ” Trong xã hội loài người, Giáo Hội không bao giờ công nhận cho các tôn giáo khác hoặc cho những người không công giáo cái quyền ăn nói ngang hàng với mình, bởi các lý do giản dị là chỉ có Giáo Hội mới có sự thật mà chỉ có sự thật mới có quyền ăn nói. Người sai lầm thì chỉ có mỗi một quyền sửa sai. Trong thông điệp ngày 29-4-1814 gửi Đức Giám-mục địa phận Troyes, Đức Giáo Hoàng Pie VII viết “Người ta lẫn lộn sự thật với sự sai lầm, người ta đặt Hiền thê thánh thiện và tinh tuyền của Đức Kitô (tức Giáo Hội Công Giáo) ngang hàng với những giáo phái lạc đạo và ngay cả với bọn Do Thái bất tín”. Đức Giáo Hoàng Grégoire XVI đã gọi tự do báo chí là ”thứ tự do tai hại nhất, đáng ghét nhất, kinh tởm nhất mà một số người dám đòi hỏi một cách ồn ào cuồng nhiệt và quảng bá khắp nơi...”. Tóm lại, ít nữa là trước Công Đồng Vatican II, lý tưởng của Giáo Hội vẫn là thời vàng son Trung Cổ trong đó Giáo hội có đủ thế lực để giành độc quyền dạy dỗ các dân tộc. Tôi nghĩ rằng chính sự bất khoan dung nói trên (ngòai những lý do khác) đã khiến cho Giáo Hội va chạm nặng nề với các dân tộc Á Đông và đã không thành công mỹ mãn trong việc rao giảng tin mừng tại vùng này. Sau bốn thế kỷ giảng đạo với những phương tiện hùng hậu, những hy sinh lớn lao, phải nhận rằng số người Á Đông theo đạo thật là ít oi, ngoại trừ xứ Phi Luật Tân. Lý do căn bản của kết quả khiêm tốn ấy phải chăng là người Á Đông, khi theo đạo phải ly cách với cộng đồng dân tộc chính vì Giáo Hội đã xem các nền văn hóa Á Đông là vô giá trị, sai lầm, tội lỗi, do đó gần như bắt buộc người Á Đông phải lựa chọn giữa dân tộc và Giáo Hội. Ngày nay hầu hết mọi người đều đồng ý rằng việc cấm đạo, giết đạo dưới các nhà vua triều Nguyễn là một hành động bất nhân và sai lầm. Nhưng nếu chúng ta tự đặt mình vào địa vị các nhà vua ấy, vào cái khung cảnh tâm lý thời đó, thì có lẽ chúng ta khó có thể làm khác hơn.” [53] Tình trạng bị nhốt trong ngục tù ngu dốt và bị cấm, không được có ý kiến riêng như trên đã làm cho tín đồ Ca-tô ngoan đạo (cuồng tín) không những dốt đặc cán mai táu về sử học mà còn không biết gì về những thủ đoạn lưu manh, thâm độc và quỷ quyệt trong hệ thống tín lý Ki-tô, trong giáo luật, trong lời dạy của Nhà Thờ Vatican và những rặng núi tội ác của Giáo Hội La Mã trong gần hai ngàn năm qua. 28.- Vì những quy tắc đạo lý của chúng ta không có mục đích phục vụ cho quyền lợi của một cá nhân hay một lớp người đặc biệt nào, mà là nhằm để phục vụ cho quyền lợi chúng của tất cả mọi người trong xã hội không phân biệt giầu nghèo, địa phương, tôn giáo hay chủng tộc, cho nên người dân Đông Phương chúng ta được rèn luyện bằng những lời dạy vô tư, vô vị lợi. Dù là như vậy, những vị thánh tổ của nền đạo lý Đông Phương của chúng ta cũng vẫn dạy bảo rằng chúng ta phải dùng lý trí để phân tách hay suy nghĩ về những lời dạy xem có đáng tin thì mới tin, nếu không đáng tin thì loại bỏ. Thí dụ như mười lời dạy của nhà Phật dưới đây: 1.- Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó là truyền thuyết. 2.- Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống. 3.- Chớ vội tin vào điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền. 4.- Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong kinh điển hay trong sách vở. 5.- Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc lý luận siêu hình. 6.- Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường của mình 7.- Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt. 8.- Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với định kiến của mình. 9.- Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được sức mạnh và quyền uy ủng hộ. 10.- Chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình truyền thuyết.” [54] Trái lại, vì chủ trương phính gạt, lừa bịp tín đồ và nhân dân dưới quyền bằng những chuyện hoang đường, phi lý được ngụy tạo là các tín lý Ki-tô (tội tổ tông, Chúa Ba Ngôi, Đức Mẹ Đồng Trinh, các phép bí tích, phép mầu, phép lạ, Giáo Hòang không lẫm lẫn, v.v…), cho nên Nhà Thờ Vatican bắt buộc phải đưa ra những lời dạy nặng tính cách võ đóan, lưu manh, phỉnh gạt, lừa bịp và vơ vào, v.v… Dưới đây là một số những lời dạy lưu manh này: “Niềm tin tôn giáo không cần đến lý trí.” "Phúc cho ai không thấy mà tin.” “Chỉ cần có một niềm tin bằng hạt cải thì có thể bê cả trái núi quăng xuống biển.” “Phải tuyệt đối tin tưởng và trung thành với Tòa Thánh Vatican.” “Phải triệt để vâng lời và tuân hành lệnh truyền của các đấng bề trên.” “Phải giấu kín những chuyện tội lỗi, dù có thật, xẩy ra trong giáo xứ, không nên để cho người ngoại đạo được biết.” “Cha (linh mục) là đại diện của Chúa”. “Phải coi Cha như Chúa”. Những gì Cha nói và hành động là nói và hành động theo ý Chúa.” “Nếu các Cha có làm gì sai trái, thì đã có Chúa phán xét”, là giáo dân ngoan đạo, không được bàn tán và nói hành nói tỏi các Cha.“ “Bàn tán, nói hành nói tỏi hay nói xấu các Cha, tức là bàn tán, nói hành nói tỏi hay nói xấu Chúa và sẽ Chúa trừng phạt đàng xuống hỏa ngục đời đời.” “Chỉ công nhận quyền lực của Tòa Thánh Vatican, chỉ công nhận các chính quyền Liên Minh với Tòa Thánh Vatican và các chính quyền bù nhìn làm tay sai cho Vatican hay các thế lực liên minh với Vatican.” "Phải chống lại các chính quyền không thần phục Vatican." 29.- Chúng ta dùng lý trí để tìm hiểu sự vật (cách vật trí tri). Trái lại, họ chỉ biết dùng cảm tính để nói về sự vật. 30.- Chúng ta phân biệt rõ rệt sự khác nhau giữa ý kiến và sự kiện, giữa nguyên nhân và hậu quả, giữa gốc và ngọn, giữa thuận lý và nghịch lý. Trái lại, họ lẫn lộn hay không thể phân biệt được sư khác nhau giữa những điều nêu lên trên đây. 31.- Chúng ta đứng trên lập trường hay đứng về phía dân tộc để thẩm định giá trị những nhân vật lịch sử và các thế lực chính trị. Do đó, đối với chúng ta, cụ Hồ Chí Minh cũng như Đảng Cộng Sản Việt Nam và Mặt Trận Việt Minh lãnh đạo cuộc Kháng Chiến 1945 – 1954 đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican chiến để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc và cuộc chiến đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican 1954-1975 để đòi lại miền Nam cho tổ quốc và thống nhất đất nước chỉ là một phong trào tự phát và là sự nối tiếp của các lực lượng nghĩa quân kháng chiến của nhân dân ta đã vùng lên chống lại Liên Quân Xâm Lược Pháp Vatican từ đầu thập niên 1860 ở miền Nam rồi lan rộng ra toàn quốc theo bước chân của liên quân giặc. Vì thế mà Cụ Hồ cũng như Đảng Cộng Sản Việt Nam và Mặt Trận Việt Minh đã được toàn dân hết lòng ủng hộ, tích cực tham gia để cùng chung lưng đấu cật cứu nứớc đòi lại quê hương cho dân tộc và được hầu hết nhân dân thế giới nhiệt tình ủng hộ. Cũng vì thế nhân dân ta đã đại thắng cả hai cuộc chiến anh hùng này. Trái lại, vì đứng trên lập trường hay đứng về phía của Nhà Thờ Vatican, một thành viên của Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican trong những năm 1858-1954 và cũng là thành viên của Liên Minh Đế Quốc Xâm Lược Mỹ - Vatican trong những năm 1954-1975, cho nên họ có cái nhìn đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng như Mặt Trận Việt Minh dưới quyền lãnh đạo của cụ Hồ Chí Minh và hai cuộc chiến đánh đuổi hai liên minh xâm lược trên đây hoàn toàn trái ngược với cái nhìn của chúng ta. Cũng vì thế mà trong suốt chiều dài lịch sử từ cuối thế kỷ 18 cho đến ngày nay, họ đã đứng về phía liên minh giặc, phục vụ cho liên minh giặc chống lại dân tộc ta. Vì lẽ này mà tất cả những suy tư, lý luận trong các bài viết hoặc tác phẩm của họ đều có mục đích duy nhất chạy tội cho Nhà Thờ Vatican và cũng là chạy tội cho ông cha và chính bản thân họ về tội làm Việt gian bán nước cho Vatican, cho Pháp và cho Mỹ. 32.- Vì quen sống nếp sống văn hóa hiếu hòa (sĩ hòa vi quý, chín bỏ làm mười) và nhân ái ứ hải giai huynh đệ) do nền đạo lý vi tha của nền tam giáo cổ truyền tạo nên, cho nên chúng ta không bao giờ có ý định cưỡng bách người khác phải làm theo ý muốn của mình (kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân. Mẫu người lý tưởng của chúng ta là “chính nhân quân tử” và chúng ta phải hành xử theo cáo đạo của người quân tử, nghĩa là phải thành thật với chính minh và thành thật với mọi người và luôn luôn phải sống theo cái quy luật “nhân, nghĩa, lễ trí, tín và dũng” của kẻ sĩ mà ngày nay có thể gọi là cái liêm sỉ và lương tâm của người trí thức. Trái lại, họ quen sống trong nếp sống văn hóa phỉnh gạt, lừa bịp, gian tham, dối trá (qua việc rao truyên tín lý Ki-tô láo khoét) và có thói quen sử dụng bạo lực (cưỡng bách người khác phải theo đạo Ki-tô), cho nên, những ác tính ghê tởm này đã trở thành bản chất trong con người của họ. Giang sơn dễ đổi, bản khó chừa. Vì thế mà trong xã hội loài người, ở đâu có Nhà Thờ Vatican là ở đó có phỉnh gạt, lừa bịp, gian tham, dối trá, bạo hành và bạo lực. Cũng vì thế mà xã hội Ki-tô của họ là xã hội của những người ưa thích phỉnh gạt, lừa bịp, gian tham, dối trá và ưa thích sử dụng bạo lực để cưỡng bách những người khác làm theo ý muốn của họ. Do đó, chúng ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy (1) vợ chồng ông Ca-tô cựu luật sư, cựu thượng nghĩ sĩ (định cư ở Texas từ năm 1975) bày trò làm chủ hội, hốt hụi rồi ôm tiền hụi của hụi viên trốn biệt. (2) Ông chủ một tờ báo tiếng Việt ở California có tên là Hồ Anh T. cuỗm gần 300 ngàn Mỹ kim tiền đóng góp của những người ủng hộ việc biểu tình chống vợ chồng ông Trần Trường vào năm 1999 trong vụ treo hình Cụ Hồ và cờ đỏ sao vàng trong cửa hàng bán và cho mướn băng nhạc và phim Tầu. (3) Ông Ca-tô quê ở Bùi Chu thường tự phong là thi sĩ, là Tổng Giám Đốc một đài truyền thanh ở tiểu bang Washington dùng đài phát thanh hô hào đồng bào góp tiền giúp đỡ nạn nhân bão Katrina ở New Orleans (Louisiania) được gần chục ngàn rồi bỏ túi. (Xin đọc cuốn Lá Bài Lật Ngửa (Tacoma, WA: TXB, 2007), của tác giả Ngô Quốc Dân để biết rõ nhân vật này.] (4) ông Ca-tô tu xuất quê ở Châu Đốc, mở tiệm bách hóa và chuyển tiền về Việt Nam, tới khi có nhiều khách hàng gửi tiền về cho thân nhân ở Việt Nam, ông chủ tiệm này làm một vố ôm hết tiền của khách hàng rồi lẩn trốn. Chuyện xẩy ra vào năm 2006. Ngòai 4 vụ nêu trên đã xẩy ra ở Bắc Mỹ, thiết tưởng còn hàng ngàn vụ khác tương tự như vậy. Ấy là chưa kể hàng rừng vụ các linh mục lừa gạt tín đồ, ôm tiền đóng góp của tín đồ đi nuôi tình nhân. Có ở trong chăn mới biết chăn có rận. Những con rận lớn, rận nhỏ trong cái chăn Ca-tô do chính những người trong chăn kể lại cho thiên hạ biết, mặc dù là Nhà Thờ Vatican đã dạy họ rằng: “Là tín đồ ngoan đạo, họ có bổn phận phải giấu kín những chuyện tội lỗi, dù có thật, xẩy ra trong giáo xứ, không nên để cho người ngoại đạo biết.”[55] Một trong những người trong chăn Ca-tô này là Linh-mục Nguyễn Thanh Sơn kể lại trong cuốn Tận Thế Số Ra Mắt Ngày 15/6/2002 với nguyên văn như sau: "Những ai đã biết, đọc và nghe về những ác quỉ dưới đây mà còn cố tình bênh vực, bao che, ủng hộ, ca tụng và đi xem lễ do chúng làm, sẽ bị Đức Mẹ nghiêm khắc trừng phạt:... A.- Nhóm ác quỉ thuộc Phụ tỉnh DCCT/VN (Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam hải ngoại): Nguyễn Đức Mầu, Châu Xuân Báu, Vũ Minh Nghiễm, Đinh Ngọc Quế, Nguyễn Văn Phan, Phạm Quốc Hưng, Nguyễn Tất Hải, Đinh Minh Hải, Phan Phát Huồn, Nguyễn Trường Luân, Trần Ngọc Bích, Nguyễn Đức Thành, Bùi Quang Tuấn, và thầy bẩn moi và qụit Nguyễn Văn Mới. B.- Nhóm ác quỉ thuộc giáo phận Los Angeles: Trần Công Nghị, Nguyễn Văn Sang, Nguyễn Quang Hòa, Lê Sơn Hà, Chu Quang Minh, Vũ Thế Toàn, v.v... C.- Nhóm ác quỉ thuộc giáo phận Orange County: Nguyễn Đức Tiến, Mai Khải Hoàn, Nguyễn Văn Tuyên, Phạm Ngọc Tuấn, Chu Vinh Quang, Nguyễn Văn Luân, Đỗ Thanh Hà, Vũ Tuấn Tú, Ngô Văn Trọng, Mai Thành Hân, Xuân Nguyên Hồ, Trần Văn Kiểm, Đinh Viết Thục, Bùi Công Minh, Nguyễn Trọng Tước, tức Nguyễn Tầm Thường, v.v... D.- Những ác quỉ ở nhiều nơi: Đinh Đức Đạo (Đức Ông giám đốc văn phòng thờ quỷ Rôma), Phan Tấn Thành (giáo sư thờ quỉ Rôma), Cao Minh Dung (Đức Ông, nhân viên Bộ Ngọai Giao tòa... quỷ!), Nguyễn Văn Phương (Chủ Tịch Liên Đoàn thờ Qủy, Riverale, Georgia) Lê Xuân Thượng (Đức Ông thờ quỷ cái Trần Thị Liễu, (Houston, Texas), Đào Quang Chính (Houston, Texas), Nguyễn Ngọc Tư (Houston, Texas), Nguyễn An Ninh (Eastpointe, MI), Hoàng Xuân Nghiêm (Tổng Thủ Quỹ Liên Đoàn Thờ Quỷ, (Wyoming, MI), Phạm Văn Tuệ, Trần Cao Tường, Vũ Hân (Marrero, LA), Việt Châu (Chủ Nhiệm Nguyệt San Thờ Quỷ, Gretna, LA), Nguyễn Đức Huyên (Giám Đốc đền thơ Quỷ), Nguyễn Văn Dậu (giáo sư thờ Quỷ, Metairie, LA) Phạm Quốc Hùng (Wichita, KS), Phan Đình Cho (Gíao-sư đại học thờ quỷ, Washington DC), Nguyễn Thanh Long (Silver Sprin, MD), Trần Quí Thiện (Arlington, VA), Nguyễn Huy Quyền (Glen Ellyn, IL), Trịnh Thế Hùng (Chicago, IL), Đỗ Quang Biên (hưu trí thờ quỉ cái: Mầu, San Diego, CA)... (Còn tiếp với vô vàn vố số ác quỉ nằm trong Chi Dòng Đồng Công ở Carthage, MO, đã lợi dụng Đức Mẹ để làm tiền trắng trợn từ 24 Đại Hội Thờ Quỷ Mammon, đã qua, và Đại Hội thứ 25 sắp tới. Chính Đức Mẹ sẽ đánh tan đại hội bịp này.”)[56] Và trong tờ Tận Thế Số 2, ông viết: “Vì 95% các kẻ mang danh “Kitô hữu”, cách riêng hàng giáo phẩm gồm giáo sĩ và tu sĩ nam nữ, đã và đang sống trong tỗi lỗi ngập đầu, chúng đã bị “vua sự tối tăm” chiếm đoạt, nghĩa là chúng đã bị Chúa Giêsu, vị Thẩm Phán Tối Cao, ném xuống “vực thẳm hỏa ngục” hỏa thiêu.”[57] Nhất sự bất tín, vạn sự bất khả tín. Với cái thói quen trong nếp sống văn hóa phỉnh gạt, lừa bịp, gian tham, dối trá như vậy, với tình trạng được dạy dỗ rằng “phải giấu kín những chuyện tội lỗi, dù có thật, xẩy ra trong giáo xứ, không nên để cho người ngoại đạo biết”, thì chăc chắn là các phẩm của họ về lịch sử, đặc biệt là những tác phẩm đó lại có liên hệ đến những việc làm tội ác của Nhà Thờ Vatican và tín đồ Ca-tô đã chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam từ cuối thế kỷ 18 cho đến ngày 30/4/1975, chỉ có thế là làm cho những người đồng đạo của họ được hài lòng, còn chúng ta, làm sao chúng ta có thể tin được tính cách khách quan trong những tác phẩm lịch sử của họ? 33.- Nền đạo lý Đông Phương cổ truyền của chúng ta cho rằng mọi tội ác ở trên cõi đời này đều do những dục vọng bất chính như (lòng ham muốn lợi lộc, công danh, quyền lực (tham), ganh ghét, đố kị, tị hiềm, thù hận (sân), sự ngu dốt (si) và thiếu lòng nhân ái, tương thân tương ái mà gây ra. Vì thế, Nhà Phật mới chủ trương dạy đời phải diệt dục, dứt bỏ tham, sân, si để trừ khử cái căn nguyên thôi thúc người đời lao vào con đường tội ác, Khổng Giáo mới đề cao, cổ súy và hoằng dương lòng nhân ái với hy vọng là người nguời trong thiên hạ sẽ thương yêu nhau như anh em một nhà (tứ hải giai huynh đệ). Nhờ vậy mà xã hội chúng ta, dù cho không được hoàn hảo, nhưng hầu hết mọi người trong chúng ta thường có thái độ khiêm tốn, hòa nhã, và nhẫn nại chịu đựng, khinh thường lợi lôc phi nghĩa, coi nhẹ công danh và quyền lực, coi trọng lòng nhân ái và tinh thần hiếu hòa. Cũng vì thế mà trong xã hội chúng ta tương đối là ít có những người hợm hĩnh, huênh hoang, khoác lác, ham hố, tham lợi, băng xăng, xun xoe, nịnh bợ những người quyền thế, ít có những người làm oai, làm phách, hách dịch, trịch thượng và chèn ép những người dưới quyền và lép vế thế cô. Trái lại, Nhà Thờ Vatican chủ trương khơi động và nuôi dưỡng lòng tham lam ích kỷ của tín đồ và người đời, rồi dùng những miếng mồi vật chất và chức vụ trong Nhà Thờ cũng như trong chính quyền để câu nhử những phương tham lợi, háo danh, thèm khát quyền lực chạy theo bắt mồi với dã tâm lợi dụng họ, đưa họ vào cái tròng danh lợi để sai khiến. Cuối cùng, họ trở thành một thứ nộ lệ cho Nhà Thờ, chẳng hạn Nhà Thờ đã lùa họ vào các đạo quân thập ác đi tấn công chiếm đọat đất đai của các dân tộc thuộc các tôn giáo hay văn hóa khác để làm thuộc địa cho Nhà Thờ. Đây là sự thật và đã được ghi vào sách sử: "Giáo Hoàng kêu gọi phát động cuộc chiến thập tự. Giáo Hoàng Urban II (1088-1099) hăng say phát động cuộc chiến thập tự để thâu hồi lại Đất Thánh. Năm 1095, ông trịệu tập một đại hội gồm các tu sĩ chức sắc và các nhà quý tộc Pháp nhóm họp tại Clemont, Pháp. Ông thúc dục các nhà quý tộc có quyền thế hãy ngừng đánh phá lẫn nhau để tham gia vào một cuộc chiến lớn chống lại những người tà giáo (những người thuộc các tôn giáo khác.). Người ta gia nhập vào các Đoàn Quân Thập Ác này vì nhiều lý do. Giáo Hoàng hứa hẹn sẽ ban thưởng cho họ vừa lên thiên đường vừa được hưởng những phần thưởng vật chất thiết thực ở nơi trần thế. Mọi tội lỗi của nguời lính Thập Ác đều được tha thứ. Tài sản và gia đình của họ được Giáo Hội bảo đảm, trông nom săn sóc trong thời gian họ xa nhà đi chiến đấu. Những ai còn mang nợ sẽ được xóa bỏ hết nợ nần và những tội đồ sẽ được xóa bỏ hết tội ác, miễn bị trừng phạt nếu họ gia nhập vào đoàn quân Thập Ác của Giáo Hội. Nhiều ông hiệp sĩ chóa mắt vì những miếng mồi quyến rũ về những đất đai và của cải mà họ hy vọng sẽ ăn cướp được ở vùng Cận Đông giầu có. Các thương gia thì thấy đây là cơ hội bằng vàng cho họ kiếm được những món lời lớn trong việc kinh doanh. Các cuộc viễn chinh của Đoàn Quân Thập Ác này một phần mang tính cách tôn giáo, nhưng cũng là một cuộc chiến tranh khích động lòng yêu thích phiêu lưu của con người, lòng hám lợi và khát vọng trốn thoát khỏi cảnh nợ nần, tù tội và buồn chán." ("The pope's call for a crusade.- Pope Urban II (1088-1099) was eager to promote the idea of Christian offensive to regain the Holy Land from Moslems. In 1095 he called a great meeting of churchmen and French nobles at Clemon, France. He urged the powerful nobles to stop warring among themselves and join in one great war against unbelievers.... Men joined the Crusades for many different reasons. The pope promised both heavenly and earthly rewards. All the sins of a crusader were forgiven. His property and family were guaranteed protection by the Church during his absence. A debtor who took the cross had his debts canceled; a criminal was relieved of punishment. Knights were dazzled by the lure of lands and plunder in the rich Near East. Merchants saw and chance for commercial gain. The Crusades were partly religious expeditions, but they appealed to men's love of adventure, hope of gain, and desire to escape debts, punishment, or boredom.")[58] Bản văn sử trên đây cho chúng ta thấy rõ Nhà Thờ Vatican có chủ trương khơi động và nuôi dưỡng lòng ích kỷ, tham lam, háo danh, háo lợi của tín đồ và người đời để lôi cuốn họ lao vào làm những tên lính cảm tử hy sinh mạng sống phục vụ cho mưu đồ bất chính, đại gian và đại ác của Nhà Thờ trong việc đem quân đi ăn cướp đất đai của các dân tộc thuộc các tôn giáo hay nền văn hóa khác.. Bị khích động bởi những hứa hẹn này, những người lính thập ác trong đòan quân viễn chinh của Nhà Thờ Vatican đã phóng tay giết người, đốt nhà, đốt chùa, phá miếu, phá đình, tàn sát đàn ông, hãm hiếp đàn bà con gái, và vơ vét của cải mang đi tất cả những gì có thể mang đi được. Những hành động dã man tàn ác của các đạo quân thập tự này quả thật là độc nhất vô nhị trong lịch sử nhân loại. Sách sử đã ghi lại rõ ràng là như vậy. Sách Men and Nations - A World History viết: "Trong cuộc chiến Thập Ác Thứ Nhất,… Sau một thời gian bao vây, quân Thập Ác chiếm được thành Jerusalem. Họ tàn sát dân Hồi giáo thật là vô cùng rùng rợn. Một vị chỉ huy quân Thập Ác viết cho Giáo Hoàng rằng con chiến mã của ông ta phải đi băng qua những xác chết và máu người lênh láng lên đến đầu gối." ("The crusaders captured Jerusalem after a short siege and slaughtered the Moslem inhabitants in a terrible massacre. One leader wrote to the pope that his horse' s legs had been bloodstained to the knees from riding among the bodies of the dead.") [59] Vì lẽ này mà trong xã hội Ca-tô của họ mới có quá nhiều những phần tử (nếu không phải là hầu hết), mang căn bệnh tham lợi, háo danh và thèm khát quyền lực, gian tham chộp giật, bốc hốt, vơ vào và lấn lướt. Chính vì mang căn bệnh ghê tởm này mà họ đã lao vào làm những hành động cực kỳ tàn ngược và hết sức man rợ như đã trình bày trong điều 12 ở trên. Cũng chính vì mang căn bệnh ghê tởm này mà hầu hết những tín đồ Ca-tô đều có những đặc tính hợm hĩnh, huênh hoang, khóac lác, khoa trương (không có bằng cấp đại học cũng nói láo là có như ông Ca-tô Cao Thế Dung; ưa thích khoe khoang bằng cấp, chức vụ và tước vị như trường hợp ông Ca-tô Nguyễn Văn Chức; lươn lẹo, ăn không nói có như ông Ca-tô Lữ Giang tức tú Gàn), khinh phú, phụ bần, tiền hậu bất nhất, băng xăng, xun xoe, bợ đỡ những người có quyền thế. Đây là thực trạng trong xã hội Ca-tô. Thực trạng này được người trong chăn Nhà Thờ Vatican là nhà trí thức Da-tô Nguyễn Văn Trung viết trong bài viết Một Số Tình Hình Đặc Biệt Của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam như sau: “Ai có dịp gần gũi các giám mục Việt Nam đều có chung nhận xét về mặt cá nhân, các ngài có vẻ đạo mạo, cởi mở, dễ mến, trừ một ít vị tỏ ra cao ngạo, khép kín quan liêu. Nhưng trong lề lối làm việc của các giám mục thường rất độc tài, độc đóan. Trong đối xử thường tỏ ra kỳ thị, ban phát ân huệ, coi thường kẻ dưới, ganh tị và kèn cựa với đồng liêu để lập công với Tòa Thánh. Những điểm nổi bật nhất là tiền hậu bất nhất, việc làm không đi đôi với lời rao giảng, trọng ngoại khinh nội, tham phú phụ bần (có nghĩa là bạc nghĩa, phản phúc- NMQ), vô cùng sợ hãi Tòa Thánh Vatican, đến nỗi có những linh mục nói rằng Tòa Thánh đánh rắm cũng khen thơm.”[60] 34.- Chúng ta hay bất kỳ một người bình thường nào dù là mang quốc tịch nào, cũng phải nhìn nhận rằng: A.- Liên Minh Xâm Lược Pháp Vatican là những quân cướp nước và đã bị tống cổ ra khỏi nước sau cả gần một thế kỷ chiến đấu gian khổ của dân tộc Việt Nam. B.- Tất cả những khối bất động sản bị Liên minh xâm lược này cướp đoạt trong thời gian tấn chiếm và thống trị Việt Nam từ năm 1858-1954 đều là của ăn cướp. C.- Tất cả những khoản tài sản bị ăn cướp này đều được gọi là của ăn cướp. Tất cả những kẻ nào chứa chấp hay thủ đắc những khoản tài sản ăn cướp này đều là những kẻ đồng mưu với liên minh giặc nói trên, dù là đã có giấy tờ hay bằng khoán thủ đắc do chính quyền của liên minh giặc này cấp phát và phải bị truy tố ra trước pháp đình để xử lý đúng theo luật pháp của chính quyền nào đã có công tổng cổ được cái liên minh xâm lược này. D.- Tất cả những khoản tài sản ăn cướp này sẽ phải hoàn trả lại cho khổ chủ sau khi Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican bị tống cổ ra khỏi Việt Nam. E.- Bất kỳ thế lực nào tống cổ được Liên Minh Xâm Lược Pháp–Vatican ra khỏi đất nước phải có trách nhiệm kiểm tra, truy tầm và thâu hồi những khoản tài sản đã bị ăn cướp này để trả về cho khổ chủ. Trái lại, dù cho vào một trường hợp nào đó, họ cũng công nhận người Pháp là quân xâm lược, nhưng trong thực tế họ vẫn coi thực dân xâm lược Pháp là đồng minh thân thiết của Vatican và họ đã liên tục đứng vào hàng ngũ Liên Quân Xâm Lược Pháp – Vatican để chống lại tất cả các lực lượng kháng chiến của nhân dân ta. Họ cho rằng tất cả những khoản bất động sản do Nhà Thờ Vatican thủ đắc trong thời 1862-1954 là hợp pháp và Nhà Thờ Vatican có quyền thủ đắc, bất kể là trong thực tế những khoản bất động đó chỉ là đồ ăn cướp do Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican đã ăn cướp của dân ta trong thời kỳ này. Cũng vì thế mà Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt và đồng bọn tu sĩ áo đen xúi giục giáo dân tập họp bất hợp pháp, cắm thập ác và dựng tượng bà già xề Maria tại tòa nhà công sở số 142 Phố Nhà Chung, Hà Nội trong những ngày từ 18/12/2007 cho đến ngày 30/1/2008 và tại cơ sở Công Ty May Chiến Thắng số 178 Đường Nguyễn Lương Bằng, Hà Nội từ ngày 15/8 đến ngày 22/9/2008 với mục đích vừa gây bạo lọan, vừa đòi chiếm lại hai khỏan bất động sản này cho Nhà Thờ Vatican dù rằng họ thừa biết những khoản bất động sản này là đồ ăn cướp mà Vatican đã ăn cướp của dân ta trong thời 1885-1945. 35.- Khi xét về một biến cố lịch sử, chúng ta xét đến nguyên nhân chính, tức là cái gốc rễ làm cho biến cố đó bùng nổ hay xẩy ra. Thí dụ như: A.- Xét về cuộc Kháng Chiến 1945-1954, chúng ta cho rằng vì Liên Minh Xâm Lược Pháp đánh chiếm và thống trị nước ta, cho nên nhân dân ta mới phải tổ chức các lực kháng chiến vùng lên đánh đuổi quân thù xâm lược để đòi lại quyền độc lập cho dân tộc. B.- Khi xét và cuộc chiến giải phóng miền Nam, chúng ta cho rằng vì Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican dùng sức mạnh quân sự cưỡng chiếm miền Nam để vừa biến thành tiền đồn chống Cộng theo “chính sách be bờ” để ngăn chặn làn sóng Cộng Sản từ miền Bắc tràn xuống, vừa biến thành một quốc gia riêng biệt theo đạo Ki-tô để phục vụ cho quyền lợi của Nhà Thờ Vatican. Vì thế mà chính quyền miền Bắc cũng như toàn thể nhân dân ta phải lao đầu ào cuộc chiến đánh đuổi Liên Quân Xâm Lược Mỹ - Vatican để hòan thành sứ mạng thống nhất đất nước, đem giang sơn về một mối. C.- Khi xét về phong trào Phật Giáo vùng lên tranh đấu đòi quyền bình đẳng về tôn gíáo vào năm 1963, chúng ta cho rằng nguyên nhân làm cho phong trào này bùng nổ là do bạo quyền Ngô Đình Diệm tiến hành kế họach Ki-tô hóa miền Nam bằng bạo lực như đã nói ở trên, trong đó có chính sách bách hại và chèn ép Phật Giáo là một phần trong kế hoạch này. Trái lại, cũng xét:: A.- Về cuộc Kháng Chiến 1945-1954, họ cho rằng nguyên do có cuộc chiến này là do Đảng Cộng Sản và Mặt Trận Viêt Minh chủ trương phát động khiến cho nhân dân Việt Nam phải gánh chịu những cảnh chết chóc và đau thương do cuộc chiến này gây ra. B.-Về cuộc chiến giải phóng miền Nam, họ cho rằng nguyên nhân của cuộc chiến này là do miền Bắc xâm lăng miền Nam mà gây ra cuộc chiến này. C.- Về phong trào Phật Giáo vùng lên tranh đấu đòi quyền bình đẳng về tôn gíáo, họ cho rằng nguyên nhân là do các phong trào Phật Giáo nổi loạn chống chính quyền, nhưng họ lại luôn luôn giấu nhẹm hay không hề đả động gì đến những hành động bách hạị và chèn ép Phật Giáo. Rõ ràng là họ luôn luôn, chặt bớt mất cái gốc, lấy ngọn làm gốc rồi cãi cố cãi chày để chạy tội cho Liên Minh Xâm lược Pháp – Vatican, chạy tôi cho Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican và chạy tội cho bạo quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam. 36.- Khi xét một vấn đề gì, đặc biệt là khi xét về một nhà lãnh đạo chính quyền hay một chế độ chính trị, chúng ta luôn luôn phải tìm hiểu theo thứ tự (1) nguyên nhân hay nguồn gốc, lý lịch hoặc mục đích, (2) diễn tiến hay việc làm, và (3) hậu quả hay tác dụng hoặc phản ứng của nhân dân. Thí dụ như: I.- Xét về “con người và việc làm của Nguyễn Trường Tộ”, chúng ta phải xét đến các yếu tố NGUỒN GỐC hay LÝ LỊCH của ông ta. Lý lịch của ông ta là: A.- Tín đồ Ca-tô ngoan đạo. B.- Có người Cha đờ đầu là Linh Mục Gauthier với cái tên Việt là Ngô Gia Hậu. C.- Linh-mục Gauthier là cánh tay mặt của Giáo-mục Puginier. D.- Giám-mục Puginier là đại diện của Nhà Thờ Vatican tại miền Bắc Việt Nam (Đường Ngoài) từ đầu thập niên 1860, và cũng là tác giả Kế Họach Puginier với chủ trương “diệt tận gốc, trốc tận rễ” Nho Giáo cùng nếp sống cổ truyền của dân tộc Việt Nam, và đã nói thẳng với viên chức Pháp tại Đông Dương rằng phải giết hết Nho Sĩ Việt Nam. E.- Tín đồ Ca-tô ngoan đạo phải tuyệt đối trung thành với Nhà Thờ Vatican, phải triệt để tuân hành lệnh truyền của các đấng bề trên, và phải: “Chỉ công nhận quyền lực của Tòa Thánh Vatican, chỉ công nhận các chính quyền Liên Minh với Tòa Thánh Vatican và các chính quyền bù nhìn làm tay sai cho Vatican hay các thế lực liên minh với Vatican.” Từ những dữ kiên trên đây, chúng ta có thể đi đến kết luận không thể sai lầm là “ông Nguyễn Trường Tộ không thể là một nhà ái quốc, không có ý định làm một việc gì có lợi cho đất nước và dân tộc Việt Nam, và tất cả những gì ông ta làm là để phục vụ cho Vatican trong kế họach củng cố quyền lực của Vatican tại Việt Nam mà thôi. II.- Xét về “con người và việc làm của Ngô Đình Diệm”, chúng ta cũng theo nguyên tắc xét như trên, ông ta: A.- Là một tín đồ Ca-tô ngoan đạo thuộc một gia đình đã có tới ba đời nối tiếp nhau làm việt gian bán nước cho Vatican, cho Pháp, cho Nhật và sau đó chính ông ta lại bán nước cho Mỹ nữa. B.- Được chính quyền Bảo Hộ Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican đặc cách thâu nhận vào theo học tại trường Hậu Bổ ở Huế với chương trình học là hai năm. C.- Đã làm quan cho chính quyền Bảo Hộ Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatcan trong những năm 1922-1933 và đã có những hành động cực kỳ dã man đối với nhà ái quốc chẳng may bị ông ta bắt được: “Có người cho rằng Diệm, khi làm tri phủ Hòa Đa, đã dùng đèn cầy [nến] thiêu đốt hậu môn tù nhân CS để lấy khẩu cung tù nhân CS để lấy jkhẩu cung [Hoàng Trọng Miên, Bùi Nhung.]” [61] . D.- Đầu tháng 5/1933, ông ta được Tòan quyền Pierre Pasquier cho làm Thượng Thư Bộ Lại trong triều đình bù nhìn Huế. Vì là tín đồ ngoan đạo, ông ta nghe theo lời xúi bẫy của Nhà Thờ Vatican trong mưu đồ giành giật quyền lực với thế lực thực dân Pháp tại Việt Nam bằng cách biến triều đình Huế thành công cụ cho Vatican và đòi cho triều đình Huế có thêm quyền hành (tức là đòi quyền hành cho Vua Bảo Đại mà Vatican đã có kế họach biến ông vua gỗ này thành người của Vatican giống như kế họach mà Vatican đã áp dụng vào đầu thập niên 1850 để biến Tổng Thống Louis Napoléon của nền Đệ Nhị Cộng Hòa Pháp thành người của Vatican. (sẽ được nói rõ nơi Phần VI ở sau.) Vì thế ông ta mới bị Toàn Quyền Pierre Pasquier “nổi giận truất hết chức tước”, "bị trục xuất khỏi Huế", và cả mấy tên đầu sỏ trong băng đảng Ca-tô Việt Nam như Nguyễn Hữu Bài và Nguyễn Đệ cũng bị trừng phạt. [62] E.- Vì bất mãn với Pháp về việc bị bãi chức và bị trừng phạt như vậy, rồi lại dại dột nghe lời xúi giục của Nhà Thờ Vatican, đầu thập niên 1940, ông ta cùng người em là Ngô Đình Nhu tham gia Việt Nam Quang Phục Hội do ông Ca-tô Cường Để làm minh chủ được Nhật bảo trợ với sự ủng hộ ngầm của Nhà Thờ Vatican để chống lại Pháp. Xin xem Mục B, (nói về Việt Nam Quang Phục Hội hay Đai Việt Phục Hưng) Chương 5 trong sách Chân Dung Người Việt Quốc Gia. Sách này đã được đưa lên sáchhiem.net từ ngày 21/6/2008. Đây là nguyên nhân tại sao Giám-mục Ngô Đình Thục viết lá thư đề ngày 21/8/1944 gửi Toàn Quyền Jean Decoux trong đó ông giám mục này kể ra những công lao của thân phụ là Ngô Đình Khả đối với nước Pháp để xin tha cho hai người em của ông ta là Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. F.- Tháng 8/1950 được Giám-mục Ngô Đình Thục đã sang Tòa Thánh Vatican chầu hầu và nhận lệnh Giáo Hoàng Pius XII (1939-1958, rồi lại được dẫn sang Mỹ giao cho Hông Y Francis Spellman (1889-1967) vận động với các chính khách Ca-tô có thế lực trên sân khấu chính trị Mỹ để làm áp lực với Pháp và với Quốc Trường đưa về Việt Nam cầm quyền để phục vụ cho quyền lợi của Vatican và quyền lợi của Hoa Kỳ. Nhưng phải đợi đến khi chính quyền Cộng Hòa trong thời Tổng Thống Eisenhower và khi Pháp sa lầy và bị thảm bại tại Điện Biên Phủ, ông ta mới được Mỹ đồng ý với Vatican đưa về Việt Nam cầm quyền. Xét về cá tính như gian xảo, cuồng tín và ngu xuẩn của ông ta, chúng ta phải căn cứ vào những lời do chính ông tuyên bố, căn cứ vào những hành động của chính ông ta, và căn cứ vào những nhận xét của những người thân cận (không phải là bà con thân thuộc), của những chính khách, của những học giả và của các nhà trí thức đã từng làm việc hay tiếp xúc với ông ta. Những nhận xét này đã được ghi vào những bản văn trong hồi ký, trong công văn hay trong các tác phẩm của họ. Đó là những nhân vật như Tướng Ca-tô Hùynh Văn Cao, Đại Tá Edward G. Lansdale, Đại-sứ Henry Cabot Lodge, sử gia Bernard B. Fall, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, Giáo-sư Lý Chánh Trung, v.v… Vấn đề này đã được người viết trình bày khá rõ ràng trong một tiểu mục của chương sách có tựa đề là “Thân Thế và Đặc Tính Cuồng Tín củâ Ngô Đình Diệm.” Chương sách này nằm trong Mục XVIII, Phần VI của bộ sách lịch sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã và đã được đưa lên sachhiem.net trước đây. Xét về việc làm bất chính và tội ác của ông ta trong thời gian ông ta được Mỹ và Vatican cho cầm quyền ở miền Nam Việt Nam, chúng ta phải xét đến tất cả những việc làm mà cá nhân và chính quyền của ông ta đã làm trong thời gian ông ta cầm quyền, thì mới có thể thẩm định chính xác về con người và chính quyền của ông ta. Theo sách sử, trong thời gian cầm quyền, cá nhân và chính quyền ông Diệm đã làm những việc sau đây: A.- Từ chối lời yêu cầu của chính quyền Hà Nội, cương quyết không cộng tác với miền Bắc để tiến hành tổ chức tổng tuyển cử vào tháng 7 năm 1956 để thống nhất đất nước như Hiệp Định Genève 1954 đã quy định. B.- Toa rập với Nhà Thờ Vatican trong việc cưỡng bách nhân dân miền Nam Việt Nam phải sử dụng danh xưng “Công Giáo” thay thế cho các danh xưng Da-tô giáo, Ki-tô giáo, Cơ Đốc giáo và Thiên Chúa giáo La Mã trong các văn thư hành chánh, sách giáo khoa, ấn phẩm văn hóa, trên các báo chí và trong các tài liệu truyền thông.[63] C.- Toa rập với Nhà Thờ Vatican trong việc làm chương chính học bậc trung học, không cho học sinh học toàn bộ lịch sử thế giới cũng như toàn bộ quốc sử từ A đên Z vì sợ rằng thanh thiếu niên sẽ biết rõ thuyết tiến hóa của nhà bác học Charles Robert Darwin (1809-1882) và sẽ biếtrõ những rặng núi tội ác của Giáo Hội La Mã đã chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm và liên tục chống lại dân tộc Việt Nam từ hậu bán giữa thế kỷ 16 cho đến nay.[64] D.- Toa rập với Nhà Thờ Vatican trong việc tổ chức một buổi đại lễ vô cùng trọng thể rồi mời vị khâm-sứ đại diện của Vatican là Hồng Y Agagianian đến làm chủ tế dâng nước Việt Nam cho Vatican dưới danh nghĩa là Đức Mẹ Vô Nhiễm.[65] E.- Toa rập với Nhà Thờ Vatican trong việc việc bảo quản khối ruộng đất khổng lồ 370 ngàn mẫu Anh của Giáo Hội La Mã ở miền Nam khi chính quyền Mỹ đòi hỏi phải thi hành chính sách cải cách ruộng đất, theo đó mỗi điền chủ chỉ được giữ lại tối đa là 100 mẫu thôi.[66] F.- Thiết lập các tổ chức cảnh sát, công an, mật vụ và an ninh quân đội như thiên la đia vọng để tăng cường khả năng đàn áp nhân dân và chuẩn bị cho tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa nhân dân bằng bạo lực. [67] G.- Tiến hành những chiến dịch “làm sáng danh Chúa” bằng bạo lực được ngụy tạo bằng những chiến dịch truy lùng và diệt Cộng Sản để đạt được mục đích mà ông Ngô Đình Nhu đã tuyến bố (có lẽ và cuối năm 1954) rằng: “Tôi có cả một chương trình, đã bản tính kỹ với Đức Giám-mục sẽ lần hồi tiến đến chỗ mà Hội Truyền Giáo hoạt động một thế kỷ mới đạt tới, còn chúng ta chỉ cầm quyền mười năm thôi là cả miền Nam này sẽ theo Công Giáo hết.”[68] H.- Trong những chiến dịch “làm sáng danh chúa” bằng bạo lực trên đây, chính quyền đã tàn sát đến hơn 300 ngàn người, bắt giam, tra tấn và cầm tù gần 1 triệu người, cưỡng bách, chèn ép hàng triệu người phải theo đạo Ca-tô. Họ phải theo đạo để “khỏi bị cảnh sat quấy nhiễu” và được “an toàn về chính trị.” Vì vậy mà con số tín đồ Ca-tô ở miền Nam Việt Nam tăng vọt hẳn lên. Vào đầu năm 1955 chỉ có độ vào khỏang chưa tới 1 triệu. Năm 1975, con số này tăng lên đến hơn hai triệu. Về con số người bị sát hại và bị cầm tù, xim xem nơi các trang 127-131 trong cuốn Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX: Đa Nguyên, 2004) của tác giả Nguyễn Mạnh Quang. Về vấn đề chính quyền Ngô Đình Diệm dùng những thủ đọan bất chính, gian manh và quỷ quyệt để hù dọa, chèn ép, khủng bố tinh thần khiến cho nạn nhân phải tìm cách theo đạo Ca-tô “để khỏi bị cảnh sát quấy nhiễu” hay được “an toàn về chính trị” cũng như vấn đề dùng những miếng mồi vật chất và chức vụ trong chính quyền để câu nhử những người tham lợi, háo danh chạy theo bắt mồi mà theo đạo, xin đọc cuốn Thập Giá Và Lưỡi Gươm (Paris: Nhà Xuất Bản Trẻ, 1978) của Linh-mục Trần Tam Tỉnh. I.- Toa rập với chính quyền và quân đội Mỹ dùng vũ khí hóa học gọi là Chất Độc Da Cam với một khối lượng khổng lổ 77 triệu lít rải xuống đồng ruộng và rừng cây ở miền Trung và miền Nam đế sát hại nhân dân, hủy họai mùa màng, tàn hại thổ nhuỡng đất đai canh tác của đất nước và gây thảm họa cho người dân trong vùng sinh ra những trẻ em bị khuyết tật. Tội ác này được sách Chất Độc Màu Da Cam và Cuộc Chiến Việt Nam ghi lại như sau: “Ngày 30/11/1961, Tông Thống John F. Kennedy phê chuẩn cho quân đội Mỹ tiến hành chiến dịch khai quang đồng cỏ Việt Nam. Quyết định này được Ngô Đình Diệm, lúc đó là Tổng Thống Nam Việt Nam ủng hộ nhiệt liệt. Diệm cho rằng ông ta “biết cộng sản ở đâu” và tin rằng chiến dịch này sẽ thành công mĩ mãn.”[69] Vì thế mà chiến dịch khai quang này được quân đội Mỹ cho tiến hành trên đất nước Việt Nam và hậu qủa ghê gớm của chiến dịch này được sách sử ghi nhận như sau: “Quân đội Mỷ rải 77 triệu lít chất độc da cam xuống miền Nam và Trung Việt Nam, gây ảnh hưởng và tác hại đến môi truờng của 2,630,000 mẫu Tây và gần 5 triệu người sống trong 35,585 thôn ấp.”[70] J.- Toa rập với anh em trong gia đình (Ngô Đình Thục, Ngô Đình Cẩn, Trần Lệ Xuân tức Bà Ngô Đình Nhu, Bà Cả Lễ) cùng băng đảng Cần Lao và những người đồng đạo trong những hành động thao túng chính quyền, tham nhũng thả giàn, tận tình vơ vét tài nguyên quốc gia, chuyển ngân lậu, ăn bớt tiền viện trợ Mỹ, độc quyền đấu thầu các dịch vụ xây cất các cơ sở của chính quyền và quân đội, độc quyền cung cấp văn phòng phẩm trong các cơ quan chính quyền và trong quân đội, độc quyền cung cấp thực phẩm cho các các trường Võ Bị Đà Lạt, Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức, Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân tại Nha Trang, Trung Huấn Luyện Hải Quân ở Nha Trang, Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, v.v…, cưỡng ép công chức, sĩ quan trong quân đội, và các thương gia giầu có trong toàn quốc phải đóng tiền tổ chức lễ kim khánh của Giám-mục Ngô Đình Thục vào mùa xuân 1963, và xây cất các nhà thờ La Vang và Nhà Thờ Phú Cam. Để hiểu rõ vấn đề này, xin đọc chương sách nói về Vấn Nạn Tham Nhũng (ở miền Nam Việt Nam) và chương sách nói về Vấn Nạn Giáo Hội La Mã nằm trong Mục XXIII, Phần VI trong bộ sách Lịch Sử và Hô Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã. Cả hai chương sách này đều đã được đưa lên giaodiemonline trong năm 2007. Riêng về Chương Vấn Nạn Giáo Hội La Mã cũng đã được đưa lên sachhiem.net từ ngày 21/9/2008. K.- Độc quyền nhập cảng thuốc phiện lậu vào miền Nam rồi biến chế thành sản phẩm tiêu thụ cho dân nghiền, thiết lập và phát triển hệ thông phân phối sản phẩm này lên tới 2,500 tiệm hút ở Sàigòn và Chợ Lớn để cung ứng cho khách hàng tiêu thụ. Thực trạng này đã khiến cho sách The Politics of Heroin in Southeast Asia của tác giả Alfred W. McCoy gọi chế độ Ngô Đình Diệm là “Triều Đại Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu” (Diem’ s Dynasty and the Nhu Bandits.” L.- Biến miền Nam thành một trung tâm cung cấp thuốc phiện sống cho tổ chức Mafia quốc tế tại Marseille. Trung tâm này chuyên nghề biến chế thuốc phiện sống này thành bạch phiến rồi chuyển vận sản phẩm này sang Bắc Mỹ để phấn phối cho khách hàng tiêu thụ ở Hoa Kỳ. Đây là một hệ thống tội ác quốc tế tay ba: (1) Nguồn cùng cấp thuốc phiện sống là miền Nam Việt Nam do anh em Ngô Đình Diệm điều hành. Người phụ trách chuyển thuốc phiện sống từ Lào về là Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Lào, và tổ chức mật vụ do Trần Kim Tuyên chỉ huy. Người phụ trách chuyển vận thuốc phiện sống từ Sàigòn đi Marseille là Rọck Fracncisci, một Pháp kiều đã ở Việt Nam lâu năm. Trụ sở là khách sản Mạjestic. (2) Trung tâm biến chế thuốc phiện sống thành bạch phiến đặt cơ sở tại Marseille (Pháp) do anh em Antoine Guerini nguời Pháp điều khiển. (3) Trung tâm phân phối bạch phiến tại Bắc Mỹ dưới quyền điều khiển của các tay trùm Carlos Marcello, Sam Giancana và Santos Traficante. Xin xem các trang 304-319 trong sách Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm (bản tiếng Việt do Phạm Viêm Phương và Mai Sơn chuyển dịch (Việt Nam (?): Nhà Xuất Bản Tự Do, 2000) cúa hai tác giả Bradley S. O’ Leary và Edward Lee. Vấn đề này đã được người viết trình bày khá rõ ràng trong một chương sách có tựa đề là Vấn Nạn Buôn Bán Nha Phiến (Mục XXIII, Phần VII) trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã. Chương sách này sẽ được đưa lên sáchhiem.net trong một ngày gần đây. Cái lý lịch dơ bẩn ghê tởm đến cùng độ của ghê tởm cùng với cái cá tính cực kỳ cuồng tín và siêu ngu xuẩn của ông Ngô Đình Diệm và những việc làm tội ác trên đây của anh em nhà Ngô đã khiến cho nhân dân Việt Nam ở miền Nam và toàn thể nhân dân thế giới đều hết sức khinh bì, cực kỳ căm phẫn và thù ghét ông ta đến tận xương tận tủy. Vì vậy dân ta mới gọi ông ta là thằng bạo chúa phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm và chỉ chờ cơ hội thuận tiện là vùng lên lôi cổ cả nhà ông ta ra đập chết. Cũng chính vì những chính sách và hành động tham tàn và bạo ngược trên đây cúa anh em ông ta mà sách sử mới khẳng định ông ta là một trong số 100 tên bạo chúa ác độc nhất trong lịch sử nhân loại.[71] Trái lại, khi xét về một nhà lãnh đạo chính quyền hay một chế độ chính trị, đặc biệt là về Giáo Hội La Mã hay những nhà lãnh đạo chính quyền mà người đó là người đồng đạo của họ như ông Ngô Đình Diệm, họ lọai bỏ (che giấu) hết những cái quá khứ xấu xa, che giấu những chính sách bạo ngược và những việc làm tội ác, rồi bịa đặt ra những thành tích tốt đẹp để tôn vinh đúng như một tín đồ Ca-tô đã viết và đăng trong tờ Văn Nghệ Phong Số 548, ra ngày 16 đến 30/11/1998: “Một sử gia có lương tri, hãy tôn trọng lời khuyên các bậc tiên bối răn dạy con cháu: tốt đẹp khoe ra, xấu xa đậy lại.”[72] Ta có thể nói đây là cái nguyên tắc viết sử của họ. Cái nguyên tắc này cũng được nhà văn Ca-tô Nguyễn Ngọc Ngạn nói rõ trong cuốn Xóm Đạo với nguyên văn như sau: “Phải giấu kín những chuyện tội lỗi, dù có thật, xẩy ra trong giáo xứ, không nên để cho người ngoài đạo được biết.” [73] Theo kinh nghiệm của người viết, hầu như tất cả các ông bà Ca-tô ngoan đạo (cuồng tín hay còn nhận đạo Ki-tô La Mã là tôn giáo của họ) khi viết sử đều viết theo nguyên tắc trên đây. Do đó, chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi thấy tất cả các tác phẩm viết về lịch sử của họ có liên hệ đến Nhà Thờ Vatican hay các chế độ đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm và quân phiệt Ca-tô Nguyễn Văn Thiệu đều được viết theo nguyên tắc trên đây và có luận điệu võ đóan, lố bịch trịch thượng, lươn lẹo, vòng vo và quanh co như luận điệu của ông văn nô Ca-tô Lữ Giang tức Tú Gàn mà chúng tôi đã trình bày ở trong Phần I. Độc giả có thể kiểm nghiệm vấn đề này bằng các tìm đọc các tác phẩm của các ông văn nô Nguyễn Văn Chức, Linh-mục Vũ Đình Họat, Lê Hữu Mục, Lữ Giang hay Tú Gàn, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Lục, Tôn Thất Thiện, Lâm Lễ Trinh, Nguyễn Kim Khánh (Phan Thiết), Nguyễn Học Tập, Nguyễn Vy Khanh, Hoàng Thái Du, Minh Võ, v.v… 37.- Truyền thống của chúng ta là: Nên ra tay kiếm tay cờ, Chẳng nên thì chớ, chẳng nhờ cậy ai. Cũng vì thế mà suốt trong chiều dài lịch sử dựng nước, mở nước và giữ nước, tiền nhân ta hoàn toàn trông cậy vào sự hy sinh của toàn dân: Toàn dân ta đồng lòng lăn xả vào các cuộc chiến này, đem hết nhân lực vật lực, tài năng và trí óc, cùng chung lưng góp sức đánh đuổi quân cướp ngọai thù để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc. Vì thế mà “kẻ thù nào dân ta cũng đánh thắng, khó khăn nào dân ta cũng vượt qua.” Nhờ vậy mà ngọn cờ Việt Nam của dân ta ngày nay đã hiên ngang phất phới tung bay cùng với những lá cờ của các dân tộc khác trên thế giới ở trước của Tòa Nhà Liên Hiệp Hiệp Quốc tại New York, đại diện của chính quyền ta đã chiếm một chỗ ngồi cao trọng trong tổ chức Liên Hiệp Quốc và dân ta được toàn thể nhân dân thế giới ngưỡng mộ và kính nể. Trái lại, truyền thống của họ là vọng ngoại, hàng ngày, lúc nào họ cũng hướng về ải quan canh gác cửa thiên đường (Nhà Thờ Vatican) đem lễ vật dâng cúng (hối lộ), lạy lục, năn nì và cầu xin những tên “quạ đen” canh gác ải quan này mở cửa cho họ lên thiên đường để “được đời đời hưởng nhan Chúa.” Nhưng khốn nỗi, thiên đường chỉ là cái bánh vẽ mà họ vẫn tưởng như là có thật. Thành thử ra suốt đời, họ bị Nhà Thờ Vatican lừa gạt mà không biết rằng họ bị lừa gạt. Cũng vì không biết bị lừa gạt, cho nên họ mới luôn luôn bị Nhà Thờ Vatican lạc dẫn, bị biến thành “những tên sát nhân cuồng nhiệt”, và bị đoàn ngũ hóa thành “một lưc lượng đáng ghê sợ” để sử dụng làm đạo quân đánh thuê cho Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican trong những năm 1858-1954 và cho Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican trong những năm 1954-1975. Lịch sử đã cho chúng thấy rõ ràng là như vậy. Hiện nay, Nhà Thờ Vatican cũng đang có mưu đồ sử dụng họ như vậy song song với việc dồn nỗ lực vào việc lối kéo Mỹ trở lại chính sách liên minh với “tôn giáo ác ôn” để chèn ép hay cưỡng chiếm Việt Nam. 38.- Bản chất của chúng ta là ngay thẳng và thành thật, thành thật với chính mình và thành thật với mọi người, không lươn lẹo, không gian dối, cho nên chúng ta luôn luôn hành xử theo phương châm “biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe” (Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả.” Trái lại, ngay từ khi mới chào đời, họ đã bị Nhà Thờ Vatican giam nhốt trong nhà tù ngu dốt như đã trình bày ở Phần I với những đọan văn trịch dẫn từ trong sách Xóm Đạo của nhà văn Ca-tô Nguyễn Ngọc Ngạn và sách Thập Giá và Lưỡi Gươm của Linh-mục Trần Tam Tỉnh. Đặc biệt là về ngành sử học, họ lại càng ngu dốt hơn cả. Ấy thế mà họ lại không biết rằng họ là những người ngu dốt như vậy. Khôi hài hơn nữa, không những họ đã không biết biết là những người ngu dốt về sử học, mà họ lại cho rằng họ hiểu biết hơn những tác giả có căn bản về sử học. Cũng vì thế mới có tình trạng ông Tôn Thất Thiện viết bài viết Cần Thẩm Định lại giá trị của ông Ngô Đình Diệm & Nền Đệ Nhất Cộng Hòa, ông TS Nguyễn Học Tập viết bài Giáo Hội Công Giáo Roma, ông Tú Gàn viết bài Giấc Mơ Thủ Tướng, sách Những Bí Ẩn Lịch Sử Đàng Sau Cuộc Việt Nam, v.v…, ông Nguyễn Văn Chức viết cuốn Việt Nam Chính Sử, Linh-muc Vũ Đình Họat viết bộ sách Việt Nam Tôn Giáo Chính Trị Quan, ông Cao Thế Dung viết cuốn Việt Nam Huyết Lệ Sử, ông Minh Võ viết cuốn Ngô Đình Diệm: Lời Khen Tiếng Chê, và các ông văn nô Ca-tô khác cũng ti toe viết sử và phê bình các tác phẩm lịch sử của các tác giả có căn bản sử học. Đây cũng là trường hợp của các ông văn nô Ca-tô Sức Mấy, Nguyễn Đạt Thịnh, Nguyễn Kim Khánh (Phan Thiết), Nguyễn Văn Lục, Nguyễn Vy Khanh, Hoàng Thái Du, Lê Hữu Mục, Nguyễn Gia Đệ, Bằng Phong, Phạm Xuân Thu, Trần Trung Lương, v.v… Rõ ràng là: Người khôn biết rõ phận mình, Đứa ngu không biết chính mình là ai! 39.- Chúng ta cho rằng, ở quốc gia nào cũng vậy, pháp có quốc pháp, gia có gia quy. Do đó, bất kỳ người nào sinh sống ở Việt Nam hay di du lịch tới Việt Nam cũng đều phải tôn trọng luật pháp Việt Nam không cần biết người đó mang chức vụ và trọng trách gìì, mang quốc tịch nào, thuộc tôn giáo nào. Đây vừa là luật pháp vừa là công lý. Vì là công lý, cho nên, bất kỳ quốc gia nào trong cộng đồng nhân lọai cũng áp dụng cái nguyên tắc hay quy luật này. Tại Hoa Kỳ, vào cuối năm 1973, Tổng Thống Nixon vin vào cái đặc quyền của hành pháp, không chịu giao cho Quốc Hội những cuốn băng ghi âm những cuộc nói chuyện liên hệ đến Watergate để điều ta nội vu. Chuyện được đưa lên Tôi Cao Pháp Viện phân xử, và Tối Cao Pháp Viện liền ra lệnh cho Tổng Thống Niixon phải tuân hành luật pháp, trao những cuốn băng đó cho Quốc Hôi bằng một câu nói, “không một người Mỹ nào đứng trên pháp luật.” Sách sử ghi lại chuyện này như sau: “Tháng 10 năm 1973, Ưy Ban Tư Pháp Hạ Viện bắt đầu mở cuộc điều trần về việc điều tra và truy tố Tổng Thống Nixon (liên hệ đến vụ nghe lén tại tổng hành dinh của Đảng Dân Chủ tại Tòa Nhà Watergate). Lại một lần nữa,Tổng Thống Nixon từ chối, không trao những cuốn băng ghi âm (các cuộc nói chuyện của ông về vụ này) cho Quốc Hội. Ông lý luận rằng tổng thống có đặc quyền hành pháp để giữ kín những tin tức không để cho quần chúng biết. Nhưng vào tháng 7 năm 1974, Tối Cao Pháp Viện quyết định rằng không có một người Mỹ nào được đứng trên pháp luật.” (“In October 1973, the House Judiciary Committee began empeachment hearings. Nixon again refused to provide the tapes. He argued that the president had the executive privilege of withholding information from the public if necessary. But in July 1974, the Supreme Court decided that no American was above the law.”)[74] . Trái lại, vì quen sống nếp sống lạc hậu, xấc xược và ngược ngạo của nền văn hóa Ki-tô, quen với truyền thống phản tiến hóa và trịch thượng “tôn giáo đứng trên chính quyền và chỉ đạo chính quyền”, họ cho rằng họ không cần phải tôn trọng pháp luật của Việt Nam, mà chỉ cần hành xử đúng theo giáo luật của Nhà Thờ Vatican mà thôi. Hai bản văn lịch sử dưới đây cho chúng ta thấy rõ sự kiện này: 1. Văn thư của ông chủ tịch UBND TP Hà Nội gửi HĐGMVN va DCCTVN Ủy Ban Nhân Dân Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Thành Phố Hà Nội Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc Số 3990 Hà Nội ngày 12 tháng 12 năm 2008 Về những việc làm sai trái của các giáo sỹ Nhà Thờ Thái Hà Kính gửi: Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam; Giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Thay mặt Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội, tôi gửi đến ông Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, ông Giám Tỉnh Dòng Chúa Việt Nam lời chào trân trọng. Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội thông báo và kiến nghị quý vị về việc sau: Ngày 08 tháng 12 năm 2008, Tòa Án Nhân Dân Quận Đống Đa, Thành Phố Hà Nội đã xét xử công khai, đúng pháp luật của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đối với 8 bị cáo về các hành vi gây rối trật tự công cộng và hủy hoại tài sản. Với chính sách nhân đạo và khoan hồng của Nhà Nước và Pháp Luật, Hội Đồng xét xử đã tuyên phạt các bị cáo với các mức án cảnh cáo, cải tạo, không giam giữ, án treo nhằm tạo điều kiện để họ sớm hòa nhập với cộng đồng, được tiếp nhận sự giám sát giáo dục của gia đình và xã hội, sửa chữa lỗi lầm, trở thành những công dân có ích. Trước và trong quá trình diễn ra phiên tòa, một số giáo sỹ tại nhà thờ Thái Hà không những không ý thức được trách nhiệm công dân, mà còn có những lời nói, việc làm cổ súy, khuyến khích các hành vi vi phạm pháp luật. Ông Nguyễn Ngọc Nam Phong, giáo-sỹ Nhà Thờ Thái Hà đã có thái độ và lời nói phỉ báng Pháp Luật và Nhà Nước Việt Nam. Trước đông đảo giáo dân, ông Nguyễn Ngọc Nam Phong đã nói phiên tòa xét xử 8 giáo dân vi phạm pháp luật là “phiên tòa của ma quỷ và bóng tối”, hăm dọa những người đại diện cho Pháp Luật xét xử các bị cáo rằng, “họ và gia đình họ sẽ bị trừng trị.” Một số giáo sỹ khác khi phát ngôn và trả lời phỏng vấn đã có những lời lẽ kích động các hành vi vi phạm pháp luật và vu cáo chính quyền. Với những việc làm và lời nói đó, ông Nguyễn Ngọc Nam Phong và một số giáo sỹ đã tự bộc lộ thái độ chống đối chính quyền và Pháp Luật, tạo hình ảnh xấu của một chức sắc Thiên Chúa Giáo, làm tổn hại đến quan hệ chính quyền và Giáo Hội, đi ngược lại tinh thần giáo huấn của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam “kính Chúa, yêu nước”, “sống tốt đời, đẹp đạo”. Để tạo điều kiện mối quan hệ giữa nhà thờ và chính quyền và làm tốt chức trách đối với cộng đồng giáo dân, Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội nhắc lại yêu cầu với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam cần có thái độ phê phán và giáo dục đối với ông Nguyễn Ngọc Nam Phong và các giáo sỹ Nhà Thờ Thái Hà; đồng thời sớm điều chuyển linh-mục Vũ Khởi Phụng và các giáo sỹ Nguyễn Văn Khải, Nguyễn Văn Thật, Nguyễn Ngọc Nam Phong khỏi địa phận Thành Phố Hà Nội. Một lần nữa, xin gửi đến quý vị lời chào trân trọng./. Nơi nhận: TM. Ủy Ban Nhân Dân Như trên Chủ Tịch Văn phòng Nguyễn Thế Thảo Ban Tôn Giáo Chính Phủ Ký tên và đóng dấu (để báo cáo) Lưu VT. 2.- Thư phúc đáp của Tỉnh Dòng Cứu Thế Việt Nam gửi ông Chủ Tịch UBND TP Hà Nội TỈNH DÒNG CỨU THẾ VIỆT NAM The Redemptorist Province of Vietnam 38 Kỳ Đồng - Quận 3 Tp Hồ Chí Minh Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc Ngày 19 tháng 12 năm 2008 Kính gửi ông Nguyễn Thế Thảo Chủ Tịch UBND TP Hà Nội Xin gửi đến ông lời chào tôn trọng sự thật và tôn trọng lẫn nhau. Chúng tôi đã nhận được văn thư số 3990/UBND – NC do ông ký ngày 12/12/2008. Chúng tôi thấy rằng xét theo giáo kuật của Giáo hội Công Giáo, Hiến Pháp và Quy Luật Dòng Chúa Cứu Thế, đồng thời cũng xét về phương diện mục vụ, các linh mục Vũ Khởi Phụng, Nguyễn Văn Thật, Nguyễn Văn Khải và Nguyễn Ngọc Nam Phong không vi phạm điều gì để phải bị “phê phán và giáo dục” và bị “điều chuyển khỏi địa phận Thành Phố Hà Nội”. Chúng tôi không thấy các linh mục này có lời lẽ nào kích động và vu cáo, ngược lại, những lời phát biểu của họ hoàn toàn đúng sự thật. Các linh mục này không hề chống đối và gây chia rẽ đối với nhà nước. Họ chỉ chống những điều sai trái. Các linh mục Vũ Khởi Phụng, Nguyễn Văn Thật, Nguyễn Văn Khải và Nguyễn Ngọc Nam Phong không làm việc gì sai trái, và thậm chí đang làm việc rất tốt, tức là đứng về phía người nghèo, đứng về phía người bị oan sai để bảo vệ sự thật và nói lên sự thật. Nếu quý vị xét thấy các linh mục này có hành vi vi phạm pháp luật, xin quý vị cứ tiến hành các trình tự tố tụng và xét xử đúng theo pháp luật. Kính chào trân trọng. Nơi nhận: TL Giám Tỉnh Như trên Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam Đức Cha Chủ Tịch HĐGMVN Chánh Văn Phòng (để báo cao) LM Đinh Hữu Thọai, CSCR Văn Phòng Chính Phủ Ký tên và đóng dấu Ban Tôn Giáo Chính Phủ [75] 40.- Cũng như các nếp sống văn hóa khác, nền văn hóa của chúng ta thường nói đến cụm từ “phục vụ đất nước”, “phục vụ tổ quốc”, “phục vụ nhân dân” và cho rằng vấn đề này là tối quan trọng vì rằng đất nước hay tổ quốc đều có nhu cầu cần phải đóng góp của tất cả mọi người dân về tài lực, nhân lực và sinh mạng nếu cần như trường hợp đất nước bị xâm lăng hay bị thiên tai hoặc bất kỳ một tai ương thảm họa nào khác. Trái lại, trong nền văn hóa Ki-tô, họ thường nói đến cụm từ “phục vụ Chúa” và cho rằng vấn đề này là toíoi quan trọng. Vấn đề đặt ra là “Chúa toàn năng, toàn thiện và có mặt ở khắp mọi nơi”, Chúa có quyền biến hóa và tạo dựng nên tất cả mọi thứ ở trên thế gian này. Không có một thế lực nào có thể làm hại được Chúa. Cần một thứ gì Chúa cũng có thế biến hóa ra được để Chúa sử dụng. Kẻ thù nào Chúa cũng đánh thắng, khó khăn nào Chúa cũng có thể vượt qua, nguy hiểm nào cũng phải lùi bước trước quyền năng của Chúa. Vậy thì Chúa có cần đến người đời phục vụ Chúa hay không? Chắc chắn là không rồi. Vậy thì cụm từ “phục vụ Chúa” chỉ là một trong muôn ngàn thủ đọan lưu manh được sáng tác ra để lừa bịp và lợi dụng tín đồ làm nô lệ cho Nhà Thờ Vatican, giống như bọn thày cúng và đồng cốt ở đất Nghiệp Đô trên ven sông Chương Hà bịa đặt ra chuyện hàng năm phải cưới một cô vợ trẻ đẹp cho ông thần hà bá ở khúc sông này, rồi cấu kết với bọn cường hào ác bá địa phương để hà hiếp và bóc lột nhân dân trong vùng mà thôi. Quý vị nào nói rằng Chúa cần phải được người đời phục vụ, xin lên tiếng bằng những lời giải thích thuận lý và gửi về sáchhiem.net để phổ biện rộng rãi cho mọi người được lãnh giáo và tham luận. Trên đây là 40 điều trong hàng ngàn điều trái ngược nhau giữa chúng ta và họ về nếp sống văn hóa và cung cách hành xử. Những gì chúng ta cho là tầm thường, xấu xa, tội ác, nghịch lý, phàn quốc, phản nhân luân, phản nhân quyền, ngược ngạo, thì họ cho là cao cả, tốt đẹp, thánh thiện, thuận lý, yêu nước, rất thích hợp với đạo Chúa của họ. Do đó, chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi thấy 117 tên tội đồ chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam ta và đã bị chính quyền và nhân dân ta xử tử vì trọng tội này, thì họ lại gọi những thằng tội đồ này là những ông thánh của họ, chỉ vì những tên tội đồ khốn nạn này đã được Nhà Thờ Vatican của họ phong thánh vào ngày 19/6/1988. Tương tự như vậy, tên bạo chúa phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm đã bị sách sử khẳng định rõ ràng là một trong 100 tên bạo chúa ác độc nhất trong lịch sử nhân loại mà họ vẫn tôn vinh nó như là một vị anh hùng dân tộc đã chết vì nước, rồi hè nhau lập ra cái gọi là “Phục Hưng Tinh Thần Ngô Đình Diệm”. Nếp sống văn hóa của họ thật là quái đản. Quái đản ở chỗ họ ưa thích hành sử lố bịch, trịch thượng và ngược ngạo. Đây là nếp sống văn hóa của bọn tu sĩ Ca-tô và những người có thế lực hoặc nằm trong giai cấp thống tri của các chế độ đạo phiệt Ca-tô ở Âu Châu trong thời Trung Cổ, ở các thuộc địa của đế quốc Tây Ban Nha (tại Châu Mỹ La-tinh và tại Phi Luật Tân), của đế quốc Bồ Đào Nha (tại Ba Tây và tại Châu Phi), của đế quốc Pháp (tại Đông Dương trong những năm 1885-1945, tại Bắc Phi và Trung Phi), của chế độ đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm và quân phiệt Ca-tô Nguyễn Văn Thiệu tại Miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975. Nếp sống văn hóa quái đản này không những không thích hợp với xã hội tam giáo cổ truyền của chúng ta, mà cũng không thích hợp với xã hội văn minh tiến bộ của thời hậu Cách Mạng Pháp 1789, đặc biệt là thời kỳ điện tử và tin học như ngày nay. Vì thế, cho nên, dù cho họ đã sinh sống ở Hoa Kỳ trong nhiều năm, thì họ cũng vẫn không có khả năng thực thi được lời dạy “nhập gia tùy tục” của tiền nhân ta để thích nghi với xã hội dân chủ tự do ở Bắc Mỹ. Vì lẽ này mà bọn người Rip Van Winkle Việt Nam này mới bị người Hoa Kỳ ghê tởm, khinh bỉ như loài chó ghẻ và mắng nhiếc là “hạng người ngu xuẩn” là “thiếu giáo dục”, hạng người đã từng được Pháp và Mỹ huấn luyện làm tay sai cho hai thế lực ngọai xâm này, và dạy cho những bài học Công Dân Giáo Dục thật là đích đáng. Mấy tài liệu dưới đây cho chúng ta thấy rõ sự thật này: “Bạn có biết không? Ngu xuẩn là chính danh. Pháp và sau đó là Mỹ đã huấn luyện những người ngu dốt này để phục vụ cho chúng. Công việc của họ là đánh hơi ra những kẻ nào chống chủ của họ, cộng sản hay không. Họ gọi bất cứ người nào chống lại sự thống trị của ngoại bang là “cộng sản” và cầm tù và giết người đó. Đó là tại sao họ không được sự ủng hộ của dân chúng. Đó là tại sao khi Mỹ tháo chạy thì họ cũng phải tháo chạy. Chế độ Saigon không có ngay cả sự ủng hộ của binh sĩ của mình, đó là tại sao mà chỉ có trong vòng 55 ngày mà quân đội miền Bắc có thể kiểm soát hoàn toàn Nam Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Một điều mà cái guồng máy chiến tranh lớn nhất trên thế giới không thể làm nổi dù rằng đã làm cả mười năm, đã giết cả triệu người, đã thả 8 triệu tấn bom và đã trải 70 triệu lít chất khai quang màu cam. Cho đến ngày nay, suốt cuộc đời của họ dính cứng vào cái trạng thái tâm lý đó. Họ nghĩ rằng nếu họ cứ kiên trì hô to những khẩu hiệu trống rỗng như vậy thì họ sẽ được sự ủng hộ để họ đi hiếp đáp những người khác ở trên đất Mỹ này, và lạ lùng thay họ đã thành công. Điều này chứng tỏ một điều là còn rất nhiều người ngu trên đất Mỹ. Những người biểu tình chống đối có biết rằng trong thế giới ngày nay mà lên án một người nào là cộng sản thì thật là ngu xuẩn không? Nó đã quá lỗi thời và chứng tỏ là các người thiếu giáo dục. 1000 sinh viên Mỹ gốc Việt học ở USC đúng khi nói rằng lá cờ đỏ sao vàng không đại diện cho họ. Đó là vì lá cờ ba màu đỏ, trắng, và xanh (cờ Mỹ) đã đại diện cho họ ở mọi cơ sở liên bang, tiểu bang, quận, và các công sự trong thị trấn. Các người không có quyền bảo USC hay bất cứ ai về vấn đề lá cờ nào mà họ muốn treo. Đó không phải là một đặc quyền mà là quyền đã tranh đấu để có được. Nếu những người chống đối muốn lá cờ cũ của Nam Việt Nam được treo thì các người phải ở lại trong nước và chiến đấu [nếu thắng thì đương nhiên lá cờ đó là cờ của quốc gia Việt Nam]. Miền Bắc đã ở lại và chiến đấu và họ đã được cái họ muốn. Sự kiện là điều này không xẩy ra cho miền Nam và ngày nay chúng ta đang ở năm 2008. Các người muốn gì nữa từ nước Mỹ? Các người muốn chúng tôi gây một cuộc chiến khác với Việt Nam?” Nguyên văn: “You got it. Ignorant is the word. France and later the US had trained these ignorant people to serve them. Their job is sniffing out their people who is against their masters, communist or not. They would call anyone opposes foreign domiation “communist” and jail and kill them. That’s why they didn’t have any support from the population. That’s why when the US run, they had to run too. The Saigon regime didn’t even have the support of its own soldiers, that’s why it took only 55 days for the North Army to take total control of South Vietnam in the Ho Chi Minh Campaign in 1975. Something that the biggest war machine this world has ever seen couldn’t do in ten years despite killing millions of people, dropping 8 million tons of bombs anf 70 million liters of Agent Orange. All their lives until this day, they’re stuck in that mentality. They think if they chant those empty slogans often enough they will get the support they need to bully others here in the US, and surprisingly they did succeed. That proves one thing. There’re a lot of ignorant people in the US ‘ population too. Do you protestors realize how ignorant it sound to utilize and accuse someone of being a communist in today’s world? It’s outdated and clearly demonstrates your lack of education. The 1000 USC American Vietnamese students are correct to state that the Red flag with the star doesn’t represent them. It is because the red, white, and blue represents them in every federal, state, county, and city building. You have no right to tell USC or anyone of that matter to fly what flag they want to. It is neither a privilege but a right that was given and fought for. If you protestors wanted to the old South Viet Nam flag to fly you should have stayed and fought. The North stayed and fought and they got what they wanted. The facts remain for the South that didn’t occur and we are here now in 2008. What else do you want more from the US? Do ou want us to wage another war against Vietnam?”[76] Trên đây là bài học công dân của người dân bản địa Hoa Kỳ dành cho các ông Xóm Đạo Bolsa (con chiên của những thằng Việt gian Trần Lục, Nguyễn Bá Tòng, Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi, Hoàng Quỳnh, Mai Ngọc Khuê, Nguyễn Lạc Hóa, Trần Đình Vận, Nguyễn Bá Lộc, Đinh Xuân Hải, v.v…), chuyên môn được mướn làm công việc cầm “cờ ba que” và vác biểu ngữ đi biểu tình cho cái gọi là tranh đấu cho chính nghĩa của những ông Ca-tô đã từng làm Việt gian bán nước cho Liên Minh Pháp Xâm Lược Pháp – Vatcian trong những năm 1945-1954 và Liên Minh Mỹ Xâm Lược Mỹ - Vatican trong những năm 1954-1975, nhưng lại tự xưng là “người Việt Quốc Gia”. Dưới đây là một bài học Công Dân Giáo Dục khác do ông chánh án Robert Gardner tại Superior Court ở Santa Ana (Los Angeles, California) dạy bảo các ông “người Việt Quốc Gia” về cái đạo của người cầm bút hoặc làm báo và chủ báo. Nội dung của bài học Công Dân Giáo Dục này được ông Tú Gàn ghi lại trong bài viết có tựa đề là “Bôi Nhọ Chính Nghĩa Quốc Gia” đăng trên tờ báo Sàigòn Nhỏ số 97, phát hành ngày 23/10/1998, trong đó có mấy đoạn chính có nguyên văn như sau: “Khi kết thúc cuộc tranh chấp Việt Nam (the Vietnam conflict), dân chúng Mỹ đã mở rộng cánh tay đón nhận những người Việt Nam sống sót qua cuộc tranh chấp đó và tìm đến tỵ nạn tại quốc gia này. Để đổi lại, dân chúng Hoa Kỳ ít có hy vọng rằng người Việt Nam trên mọi sinh hoạt của cuộc sống, biết sống tối thiểu theo những tiêu chuẩn về trách nhiệm, về lịch sử và về sự tự trọng. Không một bài nào của các bài viết bị khiếu nại của những người được gọi là các chủ bút của báo chí trong vụ này đã đáp ứng được tiêu chuẩn đó. Mỗi người, như là một chủ bút, có một trách nhiêm nặng nề. Trách nhiệm của một người chủ bút là trông coi bài viết của các ký giả cho các tờ báo riêng của mình và những người chủ bút phải chính mình duy trì một tiêu chuẩn trách nhiệm về sự đứng đắn (decency) trong bài viết của mình. Những gì xuất phát từ bốn tờ báo liên hệ trong vụ này sặc mùi công kích vô trách nhiệm (reeks with irresponsible diatribes). Mỗi một người trong họ, với tư cách là chủ bút của một tờ báo, là một sự bối rối nghiêm trọng cho giới báo chí có trách nhiệm. Bài viết của họ phản ảnh trong vụ này đã hạ cấp nó xuống tình trạng của sự thô lỗ buồn nản (dismal vulgarity.”[77] Với tư cách là người cầm cán cân công lý vừa đại diện cho pháp luật của Hoa Kỳ theo chế độ tự do dân chủ, vừa có trọng trách giáo dục những người không có khả năng phân biệt được sự khác biệt giữa một bên là điều phải, điều đúng, công lý, (common sense), thuận lý và một bên là điều trái, điều sai lầm, phi lý và nghịch lý, cho nên ông Chánh Án Robert Gardner mới đưa ra lời tuyên bố trên đây vừa có ý mắng nhiếc, vừa có ý dạy dỗ các ông “dân Chúa” tự nhận là “người Việt Quốc Gia” như vậy. Đây là cái hậu quả của Nhà Thờ Vatican đã “đào tạo thanh thiếu niên theo tinh thần công giáo”. Cái lối đào tạo thanh thiếu niên này khiến cho họ bị ràng buộc bởi những tín lý Ki-tô và những lời dạy của Nhà Thờ Vatican như đã nêu lên ở trên, và vì đã quen sống với nếp sống văn hóa trái ngược với các nếp sống văn hóa của các xã hội ngoài đạo Ki-tô, cho nên họ không thể thích nghi với xã hội dân chủ tự do như ở Bắc Mỹ này. Vì thế, họ mới bị mắng nhiếc là “ngu xuẩn”, là “thiếu giáo dục” và là sản phẩm của người Pháp và người Mỹ đã huấn luyện để làm tay sai cho các thế lực ngoại xâm. Cuối cùng, hạng người “ngu xuẩn” và “thiếu giáo dục” này trở thành cái di lụy cho Việt Nam và là gánh nặng cho xã hội loài người. ốVì lẽ này, mà tín đồ Ca-tô ngoan đạo hay còn tuyệt đối trung thành với Nhà Thờ Vatican không thể nào trở thành các nhà viết sử chân chính, và tác phẩm lịch sử của họ tất nhiên là không thể nào phản ảnh trung thực với những sự kiện đã xẩy ra trong lịch sử, chứ đừng nói đến chuyện họ đóng vai trò thẩm định một tác phẩn lịch sử. CHÚ THÍCH [11] Bernard B. Fall, The Two Vietnams (New York: Frederick A. Praeger, 1964), p. 18 [12] Dương Thành Lợi, Triết Lý Quốc Trị Đông Phương (Toronto, Canada: Làng Văn, 1997), tr. 93. [13] Nguyễn Xuân Thọ, Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam 1858-1897 (Saint Raphael, Pháp: TXB, 1005), tr. 17. [14] Dun J. Li,. Dun J. Li,. The Ageless Chinese (New York Charles Scriber's Sons, 1978), tr. 67 [15] Dun J. Li, Sđd. tr 70-71. [16] Phan Đình Diệm, “Kiến Nghị 6.” Ngày 15/6/1999. Tanvien@kitohoc.com. [17] Lý Chánh Trung, Tôn Giáo Và Dân Tộc (Sàigòn, Lửa Thiêng, 1973), tr.74. [18] Lý Chánh Trung, Sđ d., tr. 74-75. [19] Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 Tập I-C: 1955-1963 (Houston, TX: Văn Hóa, 2000), tr. 175. [20] Chính Đạo, Sđd., tr, 290-291. [21] Roberts McNamara, Hồi Ký: Những Thảm Kịch và Bài Học Việt Nam – Duy Nguyên dịch (San Jose, CA: Nhà Xuất Bản Thế Giới, 1995), tr.72. [22] Roberts McNamara, Sđd., tr. 100-101. [23] Tường Minh – Chu Văn Trình, Hội Chứng Việt Nam (Taveres, Florida: Ban Tu Thư Tự Lục 2006), tr 208. [24] Tường Minh – Chu Văn Trình, Sđd., tr. 209. [25] Tường Minh – Chu Văn Trình, Sđd., tr. 210-211. [26] Roberts McNamara,Sđd., 65-66. [27] Dun J. Li, The Essence of Chinese Civilization (New York: Van Nostran Reinhold Co.,, 1967), p 104. [28] Vũ Tam Ích, A Historical Survey Of Educational Developments In Vietnam (Lexington,Kentucky: College of Education, Uuniversity of Kentucky, 1959), p. 27. [29] Vũ Tam Ích, Ibid., p. 27. [30] Trần Tam Tỉnh, Thập Giá và Lưỡi Gươm (Paris: Sudestasie, 1978), tr. 14-15. [31] JackT.Chick., Smokescreens (Chino, CA: Jack T. Chick, 1983), tr. 14-17. [32] Jack T. Chick, Ibid., tr. 17. [33] Jack T. Chick. Ibid., tr. 32. [34] Cửu Long Lê Trọng Văn, Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng (San Diego, CA: Mẹ Việt Nam, 1996), 188-193. [35] Tường Minh Chu Văn Trình, Sđd., tr. 185-191. [36] Lý Chánh Trung, Tôn Giáo và Dân Tộc (Sàigòn: Lửa Thiêng, 1973), tr. 76. [37] Lý Chánh Trung, Sđd., tr. 74 và 75 [38] Quảng Toàn & Nguyễn Hoài, Những Họat Của Bọn Phản Động Đội Lốt Thiên Chúa Trong Thời Kỳ Kháng Chiến (Hà Nội: Nhà Xuất Nam Khoa Học, 1965), tr. 21. [39] Phan Đinh Diệm. "Mea Culpa Bài 3 – Giáo Hội Công Giáo Roma La Tinh Cáo Thú Tội Lỗi Ngàn Năm" http:// www.kotohoc.com/Bai/Net066.html. Ngày 19/9/2000. [40] Trần Chung Ngọc, Đức Tin Công Giáo (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000), tr. 300. [41] Dun J. Li,. The Ageless Chinese (New York Charles Scriber's Sons, 1978), trang 75-76. [42] Trần Chung Ngọc, Sdd., tr. 300. [43] Trần Chung Ngọc, Sđd., tr. 289-290. [44] Trần Chúng Ngọc, Sđd., tr. 292. [45] Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), tr.29-30. [46] Charlie Nguyễn, Sdd., tr. 63-64. [47] Nhiều tác giả, Tại Sao Không Theo Đạo Chúa - Tuyển Tập 1 (Spring, TX: Ban Nghiên Cứu Tôn Giáo, 1994) tr.222-223. [48] The News Tribune [Tacoma, WA]. August 12, 2001: A5. [49] Lý Chánh Trung, Tôn Giáo Và Dân Tộc (Sàigòn: Lửa Thiêng, 1973 ), tr. 76. [50] Anneke Mendiola, “Attempts to Ban Vietnamese Art.” Latetimes.com Orange County, Sunday, July 4, 1999. [51] Avro Manhattan, Vietnam why did we go? (Chino, CA: Chick Publications, 1984), p. 157. [52] Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr. 54. [53] Lý Chánh Trung, Tôn Giáo và Dân Tộc (Sàigòn: Lửa Thiêng, 1973), tr. 73-78. [54] Thích Nhật Từ, Kinh Tụng Hàng Ngày (New Delhi, Ấn Độ:Đạo Phật Ngày Nay, 2002), tr. 98-99. [55] Nguyễn Ngọc Ngạn, Xóm Đạo (Đông Kinh: Tân Văn, 2003), tr. 320. [56] Joseph Nguyễn Thanh Sơn, Tận Thế Số Ra Mắt 15/6/2002 (Fountain Valley, CA: TXB, 2002), tr, 27. [57] Joseph Nguyễn Thanh Sơn, Tận Thế số 2, 15/7/2002, (Fountain Valley, CA: TXB, 2002), tr.5. [58] Anatole G. Mazour & John M. Peoples. Men and Nations (New York: Harcourt Brace Jovanovich, 1975), p. 217. [59] Anatole G. Mazour & John M. Peoples, Ibid., p. 218. [60] Nhiều tác giả, Tại Sao Không Theo Đạo Chúa Tuyển Tập 2 (Spring, TX: Ban Nghiên Cứu Đạo Giáo, 1998), tr. 116. [61] Vũ Ngự Chiêu, Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí (Houston, TX: Văn Hóa, 1993), tr. 262. [62] Vũ Ngự Chiêu, Sđd., tr. 263. [63] Vũ Đình Họat, Việt Nam Tôn Giáo Chính Trị Quan - Tập II (Fall Church, VA: Alpha, 1991), tr.1013- 1014. [64] Nguyễn Hiến Lê, Đời Viết Văn Của Tôi (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1986), tr 99-101. [65] Trần Tam Tỉnh, Thập Giá Và Lưỡi Gươm (Paris: Nhà Xuất Bản Trẻ, 1978), tr. 126-127. [66] Joseph Buttinger, Vietnam: A Dragon Embattled – Volume II (New York: Frederick A. Praeger, 1967), tr. 932-933. [67] Joseph Buttinger. Ibid, p. 956, và Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1993) tr. 645. [68] Hoàng Trọng Miên, Đệ Nhất Phu Nhân - Tập I (Los Alamitos, CA: Nhà Xuất Bản Việt Nam, 1989), tr. 428. [69] Nguyễn Văn Tuấn, Chất Độc Màu Da Cam và Cuộc Chiến Việt Nam (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2005), tr. 35. [70] Nguyễn Văn Tuấn, Sđd., tr 171. [71] Nigel Cawthorne, Tyrants History’s 100 Most Evil Despots & Dictators (London: Arcturus, 2004), pp.167-168. [72] Bùi Hoàng Thư, “Bạn Đọc Góp Ý.” Văn Nghệ Tiền Phong số 548 ngày 16/11/1998: Tr. 44-45. [73] Nguyễn Ngọc Ngạn,Sđ d., tr. 320. [74] Jack Abramowitz, American History Chicago, Illinois: Follett Publishing Company, 1979), p. 568. [75] Nguồn: sáchhiem.net ngày 23/12/2008. [76] Trần Chung Ngọc “Thắc Mắc Cần Được Giải Đáp.” Sachhiem.net Ngày 7/5/2008. [77] Tú Gàn. “Bôi Nhọ Chính Nghĩa Quốc Gia.” Sàigòn Nhỏ số 97. Ngày 23/10/1998. |
Trang Nguyễn Mạnh Quang |