|  | 08 tháng 6, 2007 | 
	 
Sách dày 600 trang, Paris, 2000 (Không đề nhà xuất bản, không ghi giá bán) 
	 
					
 
	Quá khứ - ăn năn!
	 
	Ngụ cư ở 
					Pháp, tác giả "Tổ Quốc Ăn Năn", Nguyễn Gia Kiểng ( NGK ) là 
					một vận động viên tích cực trong các sinh hoạt của ngưòi 
					Việt tại Pháp, Hòa Lan, Hoa Kỳ... trong các đề tài thảo luận 
					về Dân chủ từ đầu thập niên 80. Ông cũng là một người viết 
					báo, thường là các bút ký thời sự, và là một trong những 
					người chủ trương báo Thông Luận. Nhóm Thông Luận đặt nặng 
					vấn đề thảo luận rộng rãi, cởi mở, được nhiều phản ánh nhận 
					định của mình ở khắp nơi. "Tổ Quốc Ăn Năn" là cuốn sách tổng 
					hợp những bài báo, những ý kiến của ông bấy lâu.
	Cuốn sách 
					được sự chú ý hiếm có: Vừa phát hành, trong hai tuần lễ cuối 
					tháng Năm, 2001, chỉ riêng California, đã có hai tờ báo với 
					hơn 5 bài viết về cuốn sách này. Các phạm vi được đề cập 
					trong nội dung TQAN rất rộng: Lịch sử, nhân chủng, tôn giáo, 
					tâm lý, văn hóa, kinh tế.v.v... với nhiều dẫn chứng, luận 
					định từ Âu sang Á, từ Hòa Lan tới Chilê, từ Nhật bản tới Phi 
					luật tân... Nhưng nóng hổi nhất, do tính thiết thực, thuộc 
					về những luận định về tâm lý, nhãn quan giữa người Việt với 
					nhau: Lịch sử, chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Cộng sản, chủ nghĩa 
					chống Cộng, kèm với các nhận định về phát triển trong tương 
					lai của đất nước.
	NGK chủ 
					trương dùng hiểu biết, lý luận để người Việt đồng thuận cùng 
					nhau có một đất nước tươi sáng. Vì chúng ta từng có nhiều 
					sai lầm, nên hãy cùng nhau, Tổ Quốc Ăn Năn. Đó là kết luận, 
					cũng là nhan sách của tác giả Nguyễn Gia Kiểng.
	Tuy chỉ ra 
					và chỉnh lý những sai lầm, nhưng NGK cũng có những tán 
					dương, người đọc không thấy đâu là ý chính của cả cuốn sách, 
					tác giả muốn chứng minh điều gì. Những luận định toàn cuốn 
					sách, chỉ là những trộn lộn. Ngay cả trong tán dương, cũng 
					là lý sự những nửa nạc, nủa mỡ.
	Chẳng hạn, 
					để tự hào làm người Việt, tác giả kể chuyện Dì Năm, một 
					người phụ nữ đầy từ tâm cứu vớt một em nhỏ xa lạ. Sau bao 
					nhiêu vật đổi sao dời, bà trao em gái nọ cho họ hàng. Bà này 
					chính là một người Cộng sản: "Chúng nó phản bội lý tưởng 
					Cộng sản" (tr.113). Tác giả nhận rằng những người như vậy, 
					xứng đáng tự hào là người Việt Nam.
	NGK tán 
					dương hành động từ tâm hay tán dương những người Cộng sản 
					đích thực ? Rất nhiều băn khoăn, với những nhận định không 
					khoan nhượng kiểu này.
	Các chương 
					sau, rõ ra NGK là người chống Cộng. Không giống những người 
					chống Cộng khác, những ngưới kia chỉ chống - nhưng không 
					biết giải pháp tối hậu nào thay thế trước dòng chảy lịch sử. 
					Riêng Kiểng thì biết.
	Bề ngoài, 
					NGK đòi đa nguyên. NGK đề nghị hòa hợp, hòa giải. Đối với 
					những người chống Cộng hung hăng, Kiểng không bận tâm. Những 
					người chống Cộng khác gồm nhiều cung cách, không phải giống 
					nhau cả ( cho nên mới có kiện tụng, chụp mũ, hành hung, và 
					kêu gọi đoàn kết ). Người chủ trương, "nhờ Mỹ bảo đảm Nhân 
					Quyền"; Người yêu cầu, nếu không thả những người tranh đấu 
					cho dân chủ, sẽ nhờ Mỹ "tái lập cấm vận"; Người đòi lập 
					chiến khu; Người thả truyền đơn; Người chủ trương "Đấu tranh 
					hòa bình"; Người lập nội các; Người không tin nội các, chỉ 
					biểu tình trước các hành động tuyên truyền Cộng sản...
	NGK thì 
					khác. Đòi mở rộng thảo luận đa nguyên. Đa nguyên có lợi thế 
					nào, xưa nay không rõ. Chỉ trong TQAN mới thấy: Thực ra Kiểng thích một chế độ đã có 
					trong lịch sử. Chế độ này đã mang ánh sáng cho 
					toàn các nơi chậm tiến: Chế độ Bảo 
					hộ. Làm sao biết Kiểng ngấm ngầm khâm phục chế độ 
					Bảo hộ? Bất cứ sự chống can thiệp ngoại quốc nào, sẽ thành 
					bế quan (Bỏ lỡ dịp may phát tiển); Bất cứ gì thuộc giá trị 
					cổ truyền Kiểng phê phán, đặt dấu hỏi (từ kẻ sĩ, từ anh 
					hùng, từ văn hóa, từ tôn giáo...) -thực ra duy trì tình 
					trạng hủ lậu. Hãy đón nhận cái mới.
	Cái mới ấy 
					là truyền giáo. Nhưng nếu truyền giáo có hậu quả thế nào, 
					Kiểng nhắc rất phớt qua ( Người Conquistador với thổ dân 
					châu My堩.
	Riêng với 
					truyền đạo ở Việt Nam, Kiểng cho là Giáo sĩ, giáo dân... không can thiệp vào chính trị, xã hội Việt Nam, thuần 
					tín ngưỡng. Cho nên Văn Thân và kỳ thị tôn giáo phải 
					có lời xin lỗi. Bất cứ thịnh vượng nào, Kiểng đổ cho là dân 
					chủ Tây phương [ chẳng hạn như nước Hòa Lan ] (nhưng không 
					nói gì về cách mạng công nghiệp, cách mạng tiền kỹ nghệ.). 
					Bất cứ cuộc chiếm đóng nào, Kiểng cho - không vì tham vọng, 
					chỉ muốn phát triển thương trường (Hoa Kỳ không có truyền 
					thống thực dân và cũng không cần đất đai mà chỉ tìm kiếm các 
					đầu cầu thương mại (tr. 425). Những nước những vùng không 
					như thế, Kiểng chứng minh là do Cộng sản và ngu dốt, hoặc "Dân 
					chủ dấu mặt" - chẳng hạn như Nhật Bản. Các lý luận lan 
					man chỉ để nhảy vào kết luận muốn hướng đến (Jump to 
					conclusion) không chứa kiến thức. Bất cứ minh định nào cũng 
					vậy, tư tưởng Mác, theo Kiểng, bắt nguồn từ J.J. Rousseau. 
					Còn chủ nghĩa Mác? - Mác là thiên tài lấy ý kiến người khác, 
					đảo ngược lại thành ý kiến mình (!).
	Trên chiêu 
					bài Đa nguyên, bên ngoài là bình phong luận định về vai trò 
					nhà nước (Nhà nước nào? Phong kiến, tư sản hay tư bản?) 
					Kiểng không hề thấy vai trò chuyên chính của chế độ phục vụ 
					giai cấp nào, luận điểm mà Kiểng cổ võ không khác các người 
					truyền giáo thế kỷ trước:
	
		- 1.Dân chủ Tây phương 
- 2.Thương nghiệp 
- 3.Gạt bỏ cái cũ. 
Hết thảy 
					những phê phán sĩ phu, Văn Thân, Khổng giáo, luận định sĩ 
					phu, nhận xét ngôn ngữ, những chậm tiến, sai lầm lịch sử 
					(trong mắt Kiểng) chỉ vì Việt Nam đã chống đạo Catô. Các nhà 
					truyền giáo, các giáo dân Đạo này đã bị oan ức.
	Nhưng đối 
					với nhận định "lịch sử Tây phương là lịch sử tôn giáo"?. Thế 
					còn sự xuất hiện đạo Tin lành?
	- "Dù 
					cho có thành công như ở Hòa Lan, giáo dân có thể giữ đạo, 
					chỉ cần cộng với đa nguyên". "Đạo Tin Lành đã đem lại phồn 
					vinh (không ai có thể chối cãi là các dân tộc theo đạo Tin 
					Lành tiến bộ hơn hẳn các dân tộc theo tôn giáo khác) vì nó 
					chuyên chở văn hóa và đối thoại. Nhưng chúng ta cũng có thể đạt tới một văn hóa tự do, dân 
					chủ và đa nguyên làm những giá trị căn bản, mà không cần cổ 
					xe Tin Lành."(tr.411, 412) [chúng tôi nhấn 
					mạnh].
	Đa nguyên 
					đối với Kiểng, không là đa nguyên trong sinh hoạt chính đảng 
					: Kiểng cực lực lên án chủ nghĩa Cộng sản!. Đó là đa nguyên Vatican. 
	"Đạo 
					Tin Lành chỉ là ngón tay mà thôi [...]". (tr.411). mặt 
					trăng của Kiểng ở đâu, không cần nói, ai cũng biết rồi.
	
	Hết thảy dẫn chứng TQAN là để minh định công lao của 
					chế độ Bảo hộ, biết ơn truyền giáo, và sự chậm hiểu của các 
					dân tộc được khai hóa. Tác giả chứng minh lòng vòng bằng nhiều cách :
	+ Ở Nhật, 
					không phải cải cách của Minh trị, mà do Tây phương đã xuất 
					hiện trước đó 3 thế kỷ. Ở Hòa Lan, do vì dân Hòa Lan biết 
					buôn bán sớm nên thịnh vượng. (Chứ không phải do công lao 
					của các trí thức chạy tứ tán trốn ách độc tài tôn giáo. Catô 
					đến xứ này, như Rene Descartes từ Pháp, John Locke từ Anh, 
					Spinoza - gốc Do Thái -từ Bồ Đào Nha... cùng với cách mạng 
					công nghiệp lúc bấy giờ mà thành).
	+ Còn các 
					nước được khai hóa từ ánh sáng Tây phương, như Phi luật tân 
					bấy lâu, sao vẫn chưa ổn định, chứ chưa nói đến thịnh vượng? 
					Kiểng bảo là vì Marcos bịp bợm, không chịu thi hành dân chủ, 
					hoặc dân Phi chưa thấm nhuần dân chủ đã bị Mỹ trả độc lập.
	+ Thế còn 
					các nước Nam Mỹ? -Ở Chilê, thì vì Allende theo Cộng sản. Thế 
					còn các nước Phi châu? -Kiểng bảo vì dân Phi châu không hề 
					biết ý niệm quốc gia. Họ cũng chỉ biết đến bộ lạc mình và 
					liên hệ huyết thống, khó phát triển vì thế.
	Hết tất cả 
					những nước thiếu phát triển, từ da đen, da nâu, da vàng, da 
					đỏ đều là vì thiếu tinh thần dân chủ Tây phương của da 
					trắng.
	Nhưng với 
					những nước mắt do lịch sử truyền giáo tạo nên, Kiểng nói rất 
					phớt qua. Về quân đội chiếm đóng đã gây đổ máu bấy lâu? -Sở 
					dĩ nên nỗi, vì cấm đạo hoạc ngăn trở sự buôn bán. 
					Chính sách chiếm đóng, thì "Hoa Kỳ chỉ muốn lập đầu cầu 
					thương mại" (tr.425).
	Đối với 
					những tán dương, Kiểng không quên liệt kê sự dũng cảm của 
					Hoa Kỳ. Đối với quan tâm đến một cái nước là nước Việt Nam; 
					Kiểng không quên liệt kê sự quan tâm chống Cộng của một 
					người Pháp: Chỉ vì người Việt không chịu tự mình chống Cộng, 
					người bạn Pháp kia (Michel Tauriac, tr.577) cũng phải thở 
					dài, và làm Kiểng cũng ngượng ngập trước tấm thịnh tình của 
					một công dân mẫu quốc: "Ý chí tranh đấu của chúng ta còn 
					kém cả các dân tộc châu Phi, chưa nói châu Mỹ La tinh. Ở bất 
					cứ một nước nào khác, chắc chắn chế độ như chế độ Cộng sản 
					Việt Nam không thể yên ổn như thế". (tr.578)
	Trước sự 
					trách móc của một ông Tây lo lắng cho dân Việt, Kiểng không 
					biết trả lời sao, nhưng, để trả lời dùm tác giả, chúng ta 
					những người thích thảo luận, những độc giả có thể trình bày 
					: "Chúng tôi đã được quý quốc giúp đỡ trong công cuộc ở Điện 
					Biên Phủ, sau rồi với Hoa Kỳ ở trận Ia Drang. Rất cám ơn. 
					Nhưng chúng tôi quá khổ trong việc Bảo hộ rồi".
	"Tổ Quốc 
					Ăn Năn" có nhắc tới các nước phát triển, cả ở Mỹ châu La 
					tinh. Theo tác giả, vì chưa đủ dân chủ. Dân chủ là thịnh vượng, đã bao 
					lần cuốn sách nhắc nhở. Nhưng nguời ta tự hỏi, nguyên nhân 
					nào, không có cộng sản, các nước Mỹ châu La tinh sao không 
					có phát triển? Tất nhiên câu trả lời như sau mới đúng lịch 
					sử: Vì họ hay nổi dậy. Sự bướng bỉnh như sau: các 
					cuộc nổi dậy, Peru' 59, Paraguay' 60, Bolivia' 65, Columbia' 
					67, Ecuador' 67, Panama' 69, Argentina' 65,66, Nicaragua' 
					66, Mexico' 94-2000, Puerto Rico' 2001 (đảo Vieques)... 
					Zapatistat ở Chiapas, Mexico đang lúc này.
	Các cuộc nổi 
					dậy không phải lúc nào cũng thành công (dĩ nhiên lỗi của 
					bọn Cộng sản tồi kém) hẳn phải được dẹp loạn bằng lực 
					lượng chính phủ. Chúng ta hãy nghe Noam Chomsky, người Mỹ 
					theo thuyết xã hội, chống Cộng, từng lên án Lênin có tội 
					nhất với chủ nghĩa xã hội, thuật :
	"Hoa Kỳ 
					không thành công tối đa, nghĩa là, ta đã không thành công 
					làm cho Việt Nam hạnh phúc như Haiti hay Cộng hòa Dominic. 
					Nhưng cũng thành công trong mục đích chính.
	"Đối với các 
					mục đích chính yếu, chiến tranh Mỹ là một chiến thắng quét 
					sạch. Một mặt, là một cuộc tàn sát vĩ đại. Lối đánh trước, 
					Pháp đánh, chừng nửa triệu xác. Từ 1954 đến 1965, ta thành 
					công trong việc giết được chừng 160 hay 170 ngàn dân Nam VN, 
					phần lớn là nông dân. Đánh nhau từ 1965 đến 1975, tính chung 
					các phụ cận, ta giết thêm được khoảng 3 triệu nữa. Cũng có 
					thể kể thêm khoảng 1 triệu tại Căm Bốt và Lào. Gom chung, 
					khoản tới 4 tới 5 triệu xác, một thành quả đáng nể trong 
					việc ngăn chận bất cứ sự cải cách xã hội và phát triển nào. 
					Thêm nữa, được khoảng 10 triệu dân chạy loạn vì bom Mỹ, các 
					oanh kích tàn sát ngoại hạng trên không, chưa kể các cuộc 
					hành quân tàn sát trên bộ.
	"Mặt đất san 
					bằng. Dân không cày cấy được nữa vì đất bị tàn phá trộn các 
					đạn dược chưa nổ còn cài lại. Và thế là thắng lợi tất. Việt 
					Nam hết còn là một mẫu phát tiển xã hội hay kinh tế cho ai 
					nữa. Thực ra, sống sót là hên lắm." ( * ) ["The Chomsky 
					reader", Pantheon books,NY. 1987, p.324]
	Thế còn sự 
					can thiệp ở Cuba hay Phi luật tân? Có những bắt nguồn từ rất 
					xa, để cùng nhau nhìn về dũng cảm của Hoa Kỳ.
	Năm 1898, 
					Tây ban nha kiệt quệ tài chính, binh đội xuống tinh thần, sợ 
					thuộc địa Cuba có thể độc lập, Hoa Kỳ cảnh giác hải quân đế 
					quốc Đức đang lảng vảng biển Carribean, bèn đưa chiến hạm 
					Maine vào cảng Havana.
	Sau ba tuần 
					lễ neo, ngày 15 tháng Hai, tàu phát nổ, 266 lính hải quân Mỹ 
					chết, dù cho thuỷ thủ Tây ban nha đã vớt dùm được một số nạn 
					nhân rớt xuống biển. Chưa đầy hai ngày sau, tờ New york 
					Journal của William Randolph Hearst, số 17, tháng Hai 1898, 
					loan tin chiến hạm Maine bị "đánh tan làm đôi vì quân thù 
					xâm nhập", gây một làn sóng đòi chiến tranh trong quần 
					chúng.
	"Hãy nhớ tàu 
					Maine! Tụi khốn Tây ban nha! (Remember the Maine! To hell 
					with Spain!). Tháng sau, ban điều tra hải quân kết luận tàu 
					phát nổ vì bị đánh mìn ngầm. (Nhưng tái Phúc trình, năm 
					1975, của Đề đốc Hyman Rickover kết luận tai nạn vì kỹ thuật 
					đóng tàu, đã để hầm than cạnh kho giấy có thuốc nổ chứa 
					trong vỉ đồng).
	Tháng Tư, 
					Tổng thống Mac Kinley yêu cầu Quốc hội cho quyền điều động 
					quân đội. Hai ngày sau, Hoa Kỳ phong tỏa Cuba. Tiểu chiến 
					thắng huy hoàng (Splendid little war!) như lời tuyên bố của 
					Ngoại trưởng John Hay, dài 113 ngày. Sau đó, các doanh nhân 
					Mỹ kiểm soát toàn bộ đường sắt, quặng mỏ, xưởng làm đường 
					mía. Trong 3 năm dưới quyền kiểm soát của Hoa Kỳ, dân Cuba 
					nghèo hơn 80 năm về trước. (56 năm sau, du kích Cuba mới 
					đuổi được nhà cầm quyền tham nhũng Batista do Mỹ đở đầu, ra 
					khỏi xứ).
	Ít ngày sau 
					khi tuyên chiến với Tây ban nha đã bị bại, vậy mà 70,000 
					quân Mỹ dưới quyền Mac Arthur phải mất 3 năm mới quét sạch 
					lực lượng yêu nước của Phi dưới sự chỉ huy của Emilio 
					Aguinaldo. Mỉa mai thay, nhà lãnh tụ Aguinaldo lại được Hoa 
					kỳ chở từ Hồng Kông về Phi trên chiến hạm năm 1898... để 
					lãnh đạo cuộc chiến đấu chống Tây ban nha.
	Nửa triệu 
					người Phi bị giết từ 1898 đến 1902, khi họ chống chế độ Bảo 
					hộ. Tướng Mỹ Jacob Smith ra lệnh cho quân sĩ, "Ta không muốn 
					tù binh, chỉ muốn các anh giết rồi đốt hết. Càng giết càng 
					đốt nhiều chừng nào, các anh càng làm ta hài lòng chừng ấy" 
					("I want no prisoners. I wish you to kill and burn. The more 
					you kill and burn the better you will please me"). Người Mỹ 
					cũng đem người lớn, phụ nữ, trẻ con vào trong các 
					reconcentrado (trại tập trung) y như người Tây ban nha đã 
					làm cho người Phi trước đó. Các kỹ thuật tra tấn có hệ thống 
					áp dụng bởi lực lượng Mỹ lúc ấy, cũng đã được tái áp dụng về 
					sau, của các Sát thủ do Washington cung cấp cho các 
					chính quyền quân phiệt Nam Mỹ. Sát thủ được huấn luyện từ 
					ngôi trường nổi tiếng Fort Benning, bang Georgia để về nước 
					giết đồng chủng.
	Trong việc 
					sát nhập quần đảo Phi vào ảnh hưởng Hoa Kỳ vì là ngưỡng cửa 
					nhòm vào thị trường Trung quốc, Mac Kinley giảng giải, "Tôi 
					quỳ cầu nguyện Thiên chúa ban cho ánh sáng dẫn dắt tôi hành 
					động", cho đến khi được thấy rằng, "không còn việc gì cho 
					chúng ta nữa ngoài việc phải chiếm tất cả và giáo dục dân 
					Phi, nâng cao trình độ cho họ văn minh hóa họ và Kitô hóa 
					họ" (Civilize and Christianize them).
	Đây là nguồn 
					cảm hứng cho thi hào Rudyard Kipling viết thành câu nổi 
					tiếng "Gánh nặng của người da trắng" (White man' s burden)
	Khi dưới ánh 
					sáng khai hóa của Hoa Kỳ, không biết đến thế nào, mà đến nỗi 
					quân Nhật tiến vào, dân Phi mừng đón họ. Nhưng sự tàn ác của 
					người Nhật làm lực lượng Cộng sản Stalinít Phi là Hukbalahap 
					phải nổi dậy. Sau Thế chiến II, dân Phi đón lực lượng Mỹ trở 
					lại, kết hợp lính Mỹ đánh Nhật. Khi Nhật bại, mỉa mai thay, 
					quân Huk bị lính Mỹ càn quét. Ngày 4 tháng bảy, 1946, người 
					Mỹ trả độc lập cho Phi, cùng lúc với các đòi hỏi của lính Mỹ 
					tha hương quá lâu, đòi về nhà.
	Sau khi được 
					mẫu quốc trả độc lập, chính quyền Phi sau đó vẫn chống Cộng, 
					Marcos không bịp bợm nhu NGK nghĩ, khi Marcos không chia 
					ruộng đất cho dân nghèo theo những đòi hỏi của quân Huk, mà 
					Marcos coi những nông dân là quân Cộng sản. Marcos chính là 
					người chống Cộng, Cả Aquino, cả Estrada, Arroyo cũng thế. Có 
					chính quyền nào được ánh sáng dân chủ Tây phương khai hóa mà 
					không chống Cộng?
	Thái độ vì 
					khinh miệt người da đen mà "khai hoá" cả châu Phi (Ý, Đức, 
					Bồ, Anh, Pháp... ) tưởng đã chết ở thế kỷ trước, chế độ xuất 
					vốn buôn nô lệ, tưởng ai cũng biết chế độ nào bỏ vốn 1 triệu 
					Ducat vàng, giờ này còn một cuốn sách tiếng Việt bảo rằng người da đen châu Phi không có tính nhân bản, chỉ biết tinh 
					thần bộ lạc và liên hệ huyết thống! Thái độ kỳ thị màu 
					da như thế, cộng thêm với khái niệm Sáng Thế ký, giai đoạn 
					đầu tiên của con người "như là một bóng đêm mênh mông và 
					dày đặc, con người sờ soạn tiến tới có khi rơi vào vực thẳm, 
					có khi đụng đầu vào đá, nhiều khi đi giật lùi. Phải sau ba 
					triệu năm người bộ hành mỏng manh nhưng ngoan cố đó mới may 
					mắn tìm được vùng có ánh sáng. Nhưng đó là một nhiệm mầu 
					không giải thích nổi. Nếu bảo đó là mầu nhiệm của tạo hóa 
					thì cũng không phải không có lý do. Giai đoạn đầu tiên này 
					thực ra kéo dài quá 99% lịch sử loài người." (tr.380)... 
					thật quả không phải không có căn nguyên !
	Trên đây, 
					nếu là một bài giảng của bất cứ cha xứ nào, đấy là quyền của 
					người giảng, người nghe, độc giả hẳn không có ý kiến. Nhưng 
					vì của một kỹ sư, du học dân chủ Tây phuơng từ năm 19 tuổi, 
					làm người đọc liên tưởng một hôm trong nhà kỹ sư tắt điện, 
					vợ đi vắng, sờ soạng trong bóng tối, có khi đi giật lùi, rồi 
					sống sót được vì ánh sáng trong tủ lạnh chứa thực phẩm. Còn 
					lịch sử tiến hóa, thì con người, dù có là khỉ hóa thành đi 
					nữa, cũng không sống nổi mấy triệu năm không mặt trời. Không 
					mặt trời, làm gì có thảo mộc. Điều mà trẻ em lớp 5 nào cũng 
					biết! Trong "bóng đêm dầy đặc" mấy triệu năm, diệp 
					lục tố ở đâu? Không cây cỏ làm gì có hoa trái? Hay là khỉ ăn 
					chuối... cất sẵn trong tủ lạnh?
	Niềm tin tôn 
					giáo của NGK không ai bàn luận, nhưng dẫn chứng lịch sử thì 
					khác. Chương bàn về chính trị Chilê, NGK đổ cho Allende là 
					Cộng sản. Thực ra ông này thuộc đảng Bình Dân Thống Nhất 
					(Popular Unity), tác giả căn cứ theo tài liệu của CIA công 
					bố trên báo chí tư bản, rồi cứ thế mà nói theo.
	Trong một số 
					sử sách, có viết là Allende là Mác xít. "Soy Marxist!", 
					("Tôi là Mác xít!"), là khẩu hiệu của các linh mục Nam Mỹ 
					nói với người nghèo, tuy nhiên, các 
					linh mục này không là đảng viên Cộng sản. Họ thuộc Vatican. 
					Đây là điều khó hiểu đối với Kiểng, cho nên Kiểng đã viết 
					bừa bãi.
	Riêng về sự 
					dũng cảm của Hoa Kỳ, NGK không sai hoàn toàn. Bởi vì, Hoa Kỳ 
					dũng cảm không ở những người chiếm đất, mà ở những người 
					chống kỳ thị, chống chế độ thuộc địa. Không ở Custer, Curtis 
					Lemay, Nixon, Johnson, William Calley, Bob Kerrey... mà ở 
					Tom Paine, Clarence Darrow, Malcom X, Angela Davis, Mumia 
					Abdul _ Jamal. 
	Thịnh vượng 
					không ở Bill Gates, không ở Kinh tế Thị trường, - mà thịnh 
					vượng ở khắp các người lao động không bị bóc lột trên thế 
					giới. Đa nguyên không ở những người 
					cộng đa nguyên vào Vatican. Ăn năn không ở những người chống 
					chế độ Bảo hộ. Lịch sử tiến hóa ngày nay, con người 
					nếu muốn cùng tiến quả thât cũng cần ít nhiều ăn năn. Những 
					ai muốn ăn năn cần thực tâm tìm hiểu quá khứ.
	Không biết 
					quá khứ, thì dù cho lúc chế độ Bảo hộ bành trướng nhất, 
					những người cộng tác, được huấn luyện, ngưỡng mộ nhất, biết 
					ơn chế độ ấy nhất... thì khi ăn, cũng không được ngồi chung 
					bàn. Cho dù có du học được cùng bằng cấp... thì khi làm, 
					cũng không được cùng một địa vị. Tác đại sự, bất tác đại 
					quan, cộng tác với chế độ Bảo hộ thì được đặc quyền, làm 
					quan lớn... Có khi làm Tổng thống nữa. Nhưng phải đi lính 
					cho họ, cùng đạo với họ.
	Đấy là điều 
					lịch sử cân đại Việt Nam đã ghi.
	Vũ 
					Huy Quang 
	Tháng Năm 2001
	 
	Cước chú 
					( * ):
	"The United 
					States did not achieve its maximal aims, that is, we did not 
					succeed in bringing Vietnam to the happy State of Haiti or 
					the Dominic Republic. But we did succeed in the major aims.
	As far as 
					the major aims were concerned, the American war was a 
					smashing success. For one thing, there was a huge massacre. 
					The first phase of the war, the French war, probably left 
					about half a million dead. From 1954 to 1965, we succeeded 
					in killing maybe another 160,000 to 170,000 South 
					Vietnamese, mostly peasants. The war, from 1965 to 1975, 
					left a death toll of maybe in the neibhorhood of 3 million. 
					There were also perhaps a million dead in Cambodia and Laos. 
					So altogether about 4 to 5 million people were killed, which 
					is a respectable achievement when you're trying to prevent 
					any succeedful social and economic development. Furthermore, 
					there were well over 10 million refugees created by the 
					American bombardment, which was quite extraordinararily 
					savage, not to mention the murderous ground operations.
	The land was 
					devastated, People can't farm because of the destruction and 
					unexploded ordinance. And this is all a success. Vietnam is 
					not going to be a model of a social and economic development 
					for anyone else. In fact, it will be lucky to survive." 
					Noam Chomsky
					 
		Cùng tác giả:
			Sự sụp đổ các Đông Âu: Sự hình thành và biến dạng (Vũ Huy Quang)Sự sụp đổ Đông Âu: Lòng ái quốc và chủ nghĩa Cộng sản (Vũ Huy Quang)Tưởng nhớ ông Hoàng Khoa Khôi (Vũ Huy Quang)Tưởng niệm một nhà cách mạng Trung quốc (Hoàng Phàn-Tây /Vũ Huy Quang dịch)Tưởng Niệm Đinh- Bài Thơ Không Hi Vọng Được Công Bố (Vũ Huy Quang)Vài góp ý về “Nội chiến” (Vũ Huy Quang)Văn Nghệ và Chính Quyền (Vũ Huy Quang)Vũ khí thay đổi nếp sống xã hội & lịch sử tại Nhật (Vũ Huy Quang)Đọc "Tổ quốc ăn năn" của Nguyễn Gia Kiểng