Đọc "Tổ quốc ăn năn" của Nguyễn Gia Kiểng

Vũ Huy Quang

nguồn: https://www.giaodiem.com/doithoai/phebinhngk_vhq.htm


08 tháng 6, 2007

 

Sách dày 600 trang, Paris, 2000 (Không đề nhà xuất bản, không ghi giá bán)

 

Quá khứ - ăn năn!

 

Ngụ cư ở Pháp, tác giả "Tổ Quốc Ăn Năn", Nguyễn Gia Kiểng ( NGK ) là một vận động viên tích cực trong các sinh hoạt của ngưòi Việt tại Pháp, Hòa Lan, Hoa Kỳ... trong các đề tài thảo luận về Dân chủ từ đầu thập niên 80. Ông cũng là một người viết báo, thường là các bút ký thời sự, và là một trong những người chủ trương báo Thông Luận. Nhóm Thông Luận đặt nặng vấn đề thảo luận rộng rãi, cởi mở, được nhiều phản ánh nhận định của mình ở khắp nơi. "Tổ Quốc Ăn Năn" là cuốn sách tổng hợp những bài báo, những ý kiến của ông bấy lâu.

Cuốn sách được sự chú ý hiếm có: Vừa phát hành, trong hai tuần lễ cuối tháng Năm, 2001, chỉ riêng California, đã có hai tờ báo với hơn 5 bài viết về cuốn sách này. Các phạm vi được đề cập trong nội dung TQAN rất rộng: Lịch sử, nhân chủng, tôn giáo, tâm lý, văn hóa, kinh tế.v.v... với nhiều dẫn chứng, luận định từ Âu sang Á, từ Hòa Lan tới Chilê, từ Nhật bản tới Phi luật tân... Nhưng nóng hổi nhất, do tính thiết thực, thuộc về những luận định về tâm lý, nhãn quan giữa người Việt với nhau: Lịch sử, chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Cộng sản, chủ nghĩa chống Cộng, kèm với các nhận định về phát triển trong tương lai của đất nước.

NGK chủ trương dùng hiểu biết, lý luận để người Việt đồng thuận cùng nhau có một đất nước tươi sáng. Vì chúng ta từng có nhiều sai lầm, nên hãy cùng nhau, Tổ Quốc Ăn Năn. Đó là kết luận, cũng là nhan sách của tác giả Nguyễn Gia Kiểng.

Tuy chỉ ra và chỉnh lý những sai lầm, nhưng NGK cũng có những tán dương, người đọc không thấy đâu là ý chính của cả cuốn sách, tác giả muốn chứng minh điều gì. Những luận định toàn cuốn sách, chỉ là những trộn lộn. Ngay cả trong tán dương, cũng là lý sự những nửa nạc, nủa mỡ.

Chẳng hạn, để tự hào làm người Việt, tác giả kể chuyện Dì Năm, một người phụ nữ đầy từ tâm cứu vớt một em nhỏ xa lạ. Sau bao nhiêu vật đổi sao dời, bà trao em gái nọ cho họ hàng. Bà này chính là một người Cộng sản: "Chúng nó phản bội lý tưởng Cộng sản" (tr.113). Tác giả nhận rằng những người như vậy, xứng đáng tự hào là người Việt Nam.

NGK tán dương hành động từ tâm hay tán dương những người Cộng sản đích thực ? Rất nhiều băn khoăn, với những nhận định không khoan nhượng kiểu này.

Các chương sau, rõ ra NGK là người chống Cộng. Không giống những người chống Cộng khác, những ngưới kia chỉ chống - nhưng không biết giải pháp tối hậu nào thay thế trước dòng chảy lịch sử. Riêng Kiểng thì biết.

Bề ngoài, NGK đòi đa nguyên. NGK đề nghị hòa hợp, hòa giải. Đối với những người chống Cộng hung hăng, Kiểng không bận tâm. Những người chống Cộng khác gồm nhiều cung cách, không phải giống nhau cả ( cho nên mới có kiện tụng, chụp mũ, hành hung, và kêu gọi đoàn kết ). Người chủ trương, "nhờ Mỹ bảo đảm Nhân Quyền"; Người yêu cầu, nếu không thả những người tranh đấu cho dân chủ, sẽ nhờ Mỹ "tái lập cấm vận"; Người đòi lập chiến khu; Người thả truyền đơn; Người chủ trương "Đấu tranh hòa bình"; Người lập nội các; Người không tin nội các, chỉ biểu tình trước các hành động tuyên truyền Cộng sản...

NGK thì khác. Đòi mở rộng thảo luận đa nguyên. Đa nguyên có lợi thế nào, xưa nay không rõ. Chỉ trong TQAN mới thấy: Thực ra Kiểng thích một chế độ đã có trong lịch sử. Chế độ này đã mang ánh sáng cho toàn các nơi chậm tiến: Chế độ Bảo hộ. Làm sao biết Kiểng ngấm ngầm khâm phục chế độ Bảo hộ? Bất cứ sự chống can thiệp ngoại quốc nào, sẽ thành bế quan (Bỏ lỡ dịp may phát tiển); Bất cứ gì thuộc giá trị cổ truyền Kiểng phê phán, đặt dấu hỏi (từ kẻ sĩ, từ anh hùng, từ văn hóa, từ tôn giáo...) -thực ra duy trì tình trạng hủ lậu. Hãy đón nhận cái mới.

Cái mới ấy là truyền giáo. Nhưng nếu truyền giáo có hậu quả thế nào, Kiểng nhắc rất phớt qua ( Người Conquistador với thổ dân châu My堩.

Riêng với truyền đạo ở Việt Nam, Kiểng cho là Giáo sĩ, giáo dân... không can thiệp vào chính trị, xã hội Việt Nam, thuần tín ngưỡng. Cho nên Văn Thân và kỳ thị tôn giáo phải có lời xin lỗi. Bất cứ thịnh vượng nào, Kiểng đổ cho là dân chủ Tây phương [ chẳng hạn như nước Hòa Lan ] (nhưng không nói gì về cách mạng công nghiệp, cách mạng tiền kỹ nghệ.). Bất cứ cuộc chiếm đóng nào, Kiểng cho - không vì tham vọng, chỉ muốn phát triển thương trường (Hoa Kỳ không có truyền thống thực dân và cũng không cần đất đai mà chỉ tìm kiếm các đầu cầu thương mại (tr. 425). Những nước những vùng không như thế, Kiểng chứng minh là do Cộng sản và ngu dốt, hoặc "Dân chủ dấu mặt" - chẳng hạn như Nhật Bản. Các lý luận lan man chỉ để nhảy vào kết luận muốn hướng đến (Jump to conclusion) không chứa kiến thức. Bất cứ minh định nào cũng vậy, tư tưởng Mác, theo Kiểng, bắt nguồn từ J.J. Rousseau. Còn chủ nghĩa Mác? - Mác là thiên tài lấy ý kiến người khác, đảo ngược lại thành ý kiến mình (!).

Trên chiêu bài Đa nguyên, bên ngoài là bình phong luận định về vai trò nhà nước (Nhà nước nào? Phong kiến, tư sản hay tư bản?) Kiểng không hề thấy vai trò chuyên chính của chế độ phục vụ giai cấp nào, luận điểm mà Kiểng cổ võ không khác các người truyền giáo thế kỷ trước:

1.Dân chủ Tây phương
2.Thương nghiệp
3.Gạt bỏ cái cũ.

Hết thảy những phê phán sĩ phu, Văn Thân, Khổng giáo, luận định sĩ phu, nhận xét ngôn ngữ, những chậm tiến, sai lầm lịch sử (trong mắt Kiểng) chỉ vì Việt Nam đã chống đạo Catô. Các nhà truyền giáo, các giáo dân Đạo này đã bị oan ức.

Nhưng đối với nhận định "lịch sử Tây phương là lịch sử tôn giáo"?. Thế còn sự xuất hiện đạo Tin lành?

- "Dù cho có thành công như ở Hòa Lan, giáo dân có thể giữ đạo, chỉ cần cộng với đa nguyên". "Đạo Tin Lành đã đem lại phồn vinh (không ai có thể chối cãi là các dân tộc theo đạo Tin Lành tiến bộ hơn hẳn các dân tộc theo tôn giáo khác) vì nó chuyên chở văn hóa và đối thoại. Nhưng chúng ta cũng có thể đạt tới một văn hóa tự do, dân chủ và đa nguyên làm những giá trị căn bản, mà không cần cổ xe Tin Lành."(tr.411, 412) [chúng tôi nhấn mạnh].

Đa nguyên đối với Kiểng, không là đa nguyên trong sinh hoạt chính đảng : Kiểng cực lực lên án chủ nghĩa Cộng sản!. Đó là đa nguyên Vatican. "Đạo Tin Lành chỉ là ngón tay mà thôi [...]". (tr.411). mặt trăng của Kiểng ở đâu, không cần nói, ai cũng biết rồi.

Hết thảy dẫn chứng TQAN là để minh định công lao của chế độ Bảo hộ, biết ơn truyền giáo, và sự chậm hiểu của các dân tộc được khai hóa. Tác giả chứng minh lòng vòng bằng nhiều cách :

+ Ở Nhật, không phải cải cách của Minh trị, mà do Tây phương đã xuất hiện trước đó 3 thế kỷ. Ở Hòa Lan, do vì dân Hòa Lan biết buôn bán sớm nên thịnh vượng. (Chứ không phải do công lao của các trí thức chạy tứ tán trốn ách độc tài tôn giáo. Catô đến xứ này, như Rene Descartes từ Pháp, John Locke từ Anh, Spinoza - gốc Do Thái -từ Bồ Đào Nha... cùng với cách mạng công nghiệp lúc bấy giờ mà thành).

+ Còn các nước được khai hóa từ ánh sáng Tây phương, như Phi luật tân bấy lâu, sao vẫn chưa ổn định, chứ chưa nói đến thịnh vượng? Kiểng bảo là vì Marcos bịp bợm, không chịu thi hành dân chủ, hoặc dân Phi chưa thấm nhuần dân chủ đã bị Mỹ trả độc lập.

+ Thế còn các nước Nam Mỹ? -Ở Chilê, thì vì Allende theo Cộng sản. Thế còn các nước Phi châu? -Kiểng bảo vì dân Phi châu không hề biết ý niệm quốc gia. Họ cũng chỉ biết đến bộ lạc mình và liên hệ huyết thống, khó phát triển vì thế.

Hết tất cả những nước thiếu phát triển, từ da đen, da nâu, da vàng, da đỏ đều là vì thiếu tinh thần dân chủ Tây phương của da trắng.

Nhưng với những nước mắt do lịch sử truyền giáo tạo nên, Kiểng nói rất phớt qua. Về quân đội chiếm đóng đã gây đổ máu bấy lâu? -Sở dĩ nên nỗi, vì cấm đạo hoạc ngăn trở sự buôn bán. Chính sách chiếm đóng, thì "Hoa Kỳ chỉ muốn lập đầu cầu thương mại" (tr.425).

Đối với những tán dương, Kiểng không quên liệt kê sự dũng cảm của Hoa Kỳ. Đối với quan tâm đến một cái nước là nước Việt Nam; Kiểng không quên liệt kê sự quan tâm chống Cộng của một người Pháp: Chỉ vì người Việt không chịu tự mình chống Cộng, người bạn Pháp kia (Michel Tauriac, tr.577) cũng phải thở dài, và làm Kiểng cũng ngượng ngập trước tấm thịnh tình của một công dân mẫu quốc: "Ý chí tranh đấu của chúng ta còn kém cả các dân tộc châu Phi, chưa nói châu Mỹ La tinh. Ở bất cứ một nước nào khác, chắc chắn chế độ như chế độ Cộng sản Việt Nam không thể yên ổn như thế". (tr.578)

Trước sự trách móc của một ông Tây lo lắng cho dân Việt, Kiểng không biết trả lời sao, nhưng, để trả lời dùm tác giả, chúng ta những người thích thảo luận, những độc giả có thể trình bày : "Chúng tôi đã được quý quốc giúp đỡ trong công cuộc ở Điện Biên Phủ, sau rồi với Hoa Kỳ ở trận Ia Drang. Rất cám ơn. Nhưng chúng tôi quá khổ trong việc Bảo hộ rồi".

"Tổ Quốc Ăn Năn" có nhắc tới các nước phát triển, cả ở Mỹ châu La tinh. Theo tác giả, vì chưa đủ dân chủ. Dân chủ là thịnh vượng, đã bao lần cuốn sách nhắc nhở. Nhưng nguời ta tự hỏi, nguyên nhân nào, không có cộng sản, các nước Mỹ châu La tinh sao không có phát triển? Tất nhiên câu trả lời như sau mới đúng lịch sử: Vì họ hay nổi dậy. Sự bướng bỉnh như sau: các cuộc nổi dậy, Peru' 59, Paraguay' 60, Bolivia' 65, Columbia' 67, Ecuador' 67, Panama' 69, Argentina' 65,66, Nicaragua' 66, Mexico' 94-2000, Puerto Rico' 2001 (đảo Vieques)... Zapatistat ở Chiapas, Mexico đang lúc này.

Các cuộc nổi dậy không phải lúc nào cũng thành công (dĩ nhiên lỗi của bọn Cộng sản tồi kém) hẳn phải được dẹp loạn bằng lực lượng chính phủ. Chúng ta hãy nghe Noam Chomsky, người Mỹ theo thuyết xã hội, chống Cộng, từng lên án Lênin có tội nhất với chủ nghĩa xã hội, thuật :

"Hoa Kỳ không thành công tối đa, nghĩa là, ta đã không thành công làm cho Việt Nam hạnh phúc như Haiti hay Cộng hòa Dominic. Nhưng cũng thành công trong mục đích chính.

"Đối với các mục đích chính yếu, chiến tranh Mỹ là một chiến thắng quét sạch. Một mặt, là một cuộc tàn sát vĩ đại. Lối đánh trước, Pháp đánh, chừng nửa triệu xác. Từ 1954 đến 1965, ta thành công trong việc giết được chừng 160 hay 170 ngàn dân Nam VN, phần lớn là nông dân. Đánh nhau từ 1965 đến 1975, tính chung các phụ cận, ta giết thêm được khoảng 3 triệu nữa. Cũng có thể kể thêm khoảng 1 triệu tại Căm Bốt và Lào. Gom chung, khoản tới 4 tới 5 triệu xác, một thành quả đáng nể trong việc ngăn chận bất cứ sự cải cách xã hội và phát triển nào. Thêm nữa, được khoảng 10 triệu dân chạy loạn vì bom Mỹ, các oanh kích tàn sát ngoại hạng trên không, chưa kể các cuộc hành quân tàn sát trên bộ.

"Mặt đất san bằng. Dân không cày cấy được nữa vì đất bị tàn phá trộn các đạn dược chưa nổ còn cài lại. Và thế là thắng lợi tất. Việt Nam hết còn là một mẫu phát tiển xã hội hay kinh tế cho ai nữa. Thực ra, sống sót là hên lắm." ( * ) ["The Chomsky reader", Pantheon books,NY. 1987, p.324]

Thế còn sự can thiệp ở Cuba hay Phi luật tân? Có những bắt nguồn từ rất xa, để cùng nhau nhìn về dũng cảm của Hoa Kỳ.

Năm 1898, Tây ban nha kiệt quệ tài chính, binh đội xuống tinh thần, sợ thuộc địa Cuba có thể độc lập, Hoa Kỳ cảnh giác hải quân đế quốc Đức đang lảng vảng biển Carribean, bèn đưa chiến hạm Maine vào cảng Havana.

Sau ba tuần lễ neo, ngày 15 tháng Hai, tàu phát nổ, 266 lính hải quân Mỹ chết, dù cho thuỷ thủ Tây ban nha đã vớt dùm được một số nạn nhân rớt xuống biển. Chưa đầy hai ngày sau, tờ New york Journal của William Randolph Hearst, số 17, tháng Hai 1898, loan tin chiến hạm Maine bị "đánh tan làm đôi vì quân thù xâm nhập", gây một làn sóng đòi chiến tranh trong quần chúng.

"Hãy nhớ tàu Maine! Tụi khốn Tây ban nha! (Remember the Maine! To hell with Spain!). Tháng sau, ban điều tra hải quân kết luận tàu phát nổ vì bị đánh mìn ngầm. (Nhưng tái Phúc trình, năm 1975, của Đề đốc Hyman Rickover kết luận tai nạn vì kỹ thuật đóng tàu, đã để hầm than cạnh kho giấy có thuốc nổ chứa trong vỉ đồng).

Tháng Tư, Tổng thống Mac Kinley yêu cầu Quốc hội cho quyền điều động quân đội. Hai ngày sau, Hoa Kỳ phong tỏa Cuba. Tiểu chiến thắng huy hoàng (Splendid little war!) như lời tuyên bố của Ngoại trưởng John Hay, dài 113 ngày. Sau đó, các doanh nhân Mỹ kiểm soát toàn bộ đường sắt, quặng mỏ, xưởng làm đường mía. Trong 3 năm dưới quyền kiểm soát của Hoa Kỳ, dân Cuba nghèo hơn 80 năm về trước. (56 năm sau, du kích Cuba mới đuổi được nhà cầm quyền tham nhũng Batista do Mỹ đở đầu, ra khỏi xứ).

Ít ngày sau khi tuyên chiến với Tây ban nha đã bị bại, vậy mà 70,000 quân Mỹ dưới quyền Mac Arthur phải mất 3 năm mới quét sạch lực lượng yêu nước của Phi dưới sự chỉ huy của Emilio Aguinaldo. Mỉa mai thay, nhà lãnh tụ Aguinaldo lại được Hoa kỳ chở từ Hồng Kông về Phi trên chiến hạm năm 1898... để lãnh đạo cuộc chiến đấu chống Tây ban nha.

Nửa triệu người Phi bị giết từ 1898 đến 1902, khi họ chống chế độ Bảo hộ. Tướng Mỹ Jacob Smith ra lệnh cho quân sĩ, "Ta không muốn tù binh, chỉ muốn các anh giết rồi đốt hết. Càng giết càng đốt nhiều chừng nào, các anh càng làm ta hài lòng chừng ấy" ("I want no prisoners. I wish you to kill and burn. The more you kill and burn the better you will please me"). Người Mỹ cũng đem người lớn, phụ nữ, trẻ con vào trong các reconcentrado (trại tập trung) y như người Tây ban nha đã làm cho người Phi trước đó. Các kỹ thuật tra tấn có hệ thống áp dụng bởi lực lượng Mỹ lúc ấy, cũng đã được tái áp dụng về sau, của các Sát thủ do Washington cung cấp cho các chính quyền quân phiệt Nam Mỹ. Sát thủ được huấn luyện từ ngôi trường nổi tiếng Fort Benning, bang Georgia để về nước giết đồng chủng.

Trong việc sát nhập quần đảo Phi vào ảnh hưởng Hoa Kỳ vì là ngưỡng cửa nhòm vào thị trường Trung quốc, Mac Kinley giảng giải, "Tôi quỳ cầu nguyện Thiên chúa ban cho ánh sáng dẫn dắt tôi hành động", cho đến khi được thấy rằng, "không còn việc gì cho chúng ta nữa ngoài việc phải chiếm tất cả và giáo dục dân Phi, nâng cao trình độ cho họ văn minh hóa họ và Kitô hóa họ" (Civilize and Christianize them).

Đây là nguồn cảm hứng cho thi hào Rudyard Kipling viết thành câu nổi tiếng "Gánh nặng của người da trắng" (White man' s burden)

Khi dưới ánh sáng khai hóa của Hoa Kỳ, không biết đến thế nào, mà đến nỗi quân Nhật tiến vào, dân Phi mừng đón họ. Nhưng sự tàn ác của người Nhật làm lực lượng Cộng sản Stalinít Phi là Hukbalahap phải nổi dậy. Sau Thế chiến II, dân Phi đón lực lượng Mỹ trở lại, kết hợp lính Mỹ đánh Nhật. Khi Nhật bại, mỉa mai thay, quân Huk bị lính Mỹ càn quét. Ngày 4 tháng bảy, 1946, người Mỹ trả độc lập cho Phi, cùng lúc với các đòi hỏi của lính Mỹ tha hương quá lâu, đòi về nhà.

Sau khi được mẫu quốc trả độc lập, chính quyền Phi sau đó vẫn chống Cộng, Marcos không bịp bợm nhu NGK nghĩ, khi Marcos không chia ruộng đất cho dân nghèo theo những đòi hỏi của quân Huk, mà Marcos coi những nông dân là quân Cộng sản. Marcos chính là người chống Cộng, Cả Aquino, cả Estrada, Arroyo cũng thế. Có chính quyền nào được ánh sáng dân chủ Tây phương khai hóa mà không chống Cộng?

Thái độ vì khinh miệt người da đen mà "khai hoá" cả châu Phi (Ý, Đức, Bồ, Anh, Pháp... ) tưởng đã chết ở thế kỷ trước, chế độ xuất vốn buôn nô lệ, tưởng ai cũng biết chế độ nào bỏ vốn 1 triệu Ducat vàng, giờ này còn một cuốn sách tiếng Việt bảo rằng người da đen châu Phi không có tính nhân bản, chỉ biết tinh thần bộ lạc và liên hệ huyết thống! Thái độ kỳ thị màu da như thế, cộng thêm với khái niệm Sáng Thế ký, giai đoạn đầu tiên của con người "như là một bóng đêm mênh mông và dày đặc, con người sờ soạn tiến tới có khi rơi vào vực thẳm, có khi đụng đầu vào đá, nhiều khi đi giật lùi. Phải sau ba triệu năm người bộ hành mỏng manh nhưng ngoan cố đó mới may mắn tìm được vùng có ánh sáng. Nhưng đó là một nhiệm mầu không giải thích nổi. Nếu bảo đó là mầu nhiệm của tạo hóa thì cũng không phải không có lý do. Giai đoạn đầu tiên này thực ra kéo dài quá 99% lịch sử loài người." (tr.380)... thật quả không phải không có căn nguyên !

Trên đây, nếu là một bài giảng của bất cứ cha xứ nào, đấy là quyền của người giảng, người nghe, độc giả hẳn không có ý kiến. Nhưng vì của một kỹ sư, du học dân chủ Tây phuơng từ năm 19 tuổi, làm người đọc liên tưởng một hôm trong nhà kỹ sư tắt điện, vợ đi vắng, sờ soạng trong bóng tối, có khi đi giật lùi, rồi sống sót được vì ánh sáng trong tủ lạnh chứa thực phẩm. Còn lịch sử tiến hóa, thì con người, dù có là khỉ hóa thành đi nữa, cũng không sống nổi mấy triệu năm không mặt trời. Không mặt trời, làm gì có thảo mộc. Điều mà trẻ em lớp 5 nào cũng biết! Trong "bóng đêm dầy đặc" mấy triệu năm, diệp lục tố ở đâu? Không cây cỏ làm gì có hoa trái? Hay là khỉ ăn chuối... cất sẵn trong tủ lạnh?

Niềm tin tôn giáo của NGK không ai bàn luận, nhưng dẫn chứng lịch sử thì khác. Chương bàn về chính trị Chilê, NGK đổ cho Allende là Cộng sản. Thực ra ông này thuộc đảng Bình Dân Thống Nhất (Popular Unity), tác giả căn cứ theo tài liệu của CIA công bố trên báo chí tư bản, rồi cứ thế mà nói theo.

Trong một số sử sách, có viết là Allende là Mác xít. "Soy Marxist!", ("Tôi là Mác xít!"), là khẩu hiệu của các linh mục Nam Mỹ nói với người nghèo, tuy nhiên, các linh mục này không là đảng viên Cộng sản. Họ thuộc Vatican. Đây là điều khó hiểu đối với Kiểng, cho nên Kiểng đã viết bừa bãi.

Riêng về sự dũng cảm của Hoa Kỳ, NGK không sai hoàn toàn. Bởi vì, Hoa Kỳ dũng cảm không ở những người chiếm đất, mà ở những người chống kỳ thị, chống chế độ thuộc địa. Không ở Custer, Curtis Lemay, Nixon, Johnson, William Calley, Bob Kerrey... mà ở Tom Paine, Clarence Darrow, Malcom X, Angela Davis, Mumia Abdul _ Jamal.

Thịnh vượng không ở Bill Gates, không ở Kinh tế Thị trường, - mà thịnh vượng ở khắp các người lao động không bị bóc lột trên thế giới. Đa nguyên không ở những người cộng đa nguyên vào Vatican. Ăn năn không ở những người chống chế độ Bảo hộ. Lịch sử tiến hóa ngày nay, con người nếu muốn cùng tiến quả thât cũng cần ít nhiều ăn năn. Những ai muốn ăn năn cần thực tâm tìm hiểu quá khứ.

Không biết quá khứ, thì dù cho lúc chế độ Bảo hộ bành trướng nhất, những người cộng tác, được huấn luyện, ngưỡng mộ nhất, biết ơn chế độ ấy nhất... thì khi ăn, cũng không được ngồi chung bàn. Cho dù có du học được cùng bằng cấp... thì khi làm, cũng không được cùng một địa vị. Tác đại sự, bất tác đại quan, cộng tác với chế độ Bảo hộ thì được đặc quyền, làm quan lớn... Có khi làm Tổng thống nữa. Nhưng phải đi lính cho họ, cùng đạo với họ.

Đấy là điều lịch sử cân đại Việt Nam đã ghi.

Vũ Huy Quang

Tháng Năm 2001

 

Cước chú ( * ):

"The United States did not achieve its maximal aims, that is, we did not succeed in bringing Vietnam to the happy State of Haiti or the Dominic Republic. But we did succeed in the major aims.

As far as the major aims were concerned, the American war was a smashing success. For one thing, there was a huge massacre. The first phase of the war, the French war, probably left about half a million dead. From 1954 to 1965, we succeeded in killing maybe another 160,000 to 170,000 South Vietnamese, mostly peasants. The war, from 1965 to 1975, left a death toll of maybe in the neibhorhood of 3 million. There were also perhaps a million dead in Cambodia and Laos. So altogether about 4 to 5 million people were killed, which is a respectable achievement when you're trying to prevent any succeedful social and economic development. Furthermore, there were well over 10 million refugees created by the American bombardment, which was quite extraordinararily savage, not to mention the murderous ground operations.

The land was devastated, People can't farm because of the destruction and unexploded ordinance. And this is all a success. Vietnam is not going to be a model of a social and economic development for anyone else. In fact, it will be lucky to survive." Noam Chomsky

 

Cùng tác giả:

Sự sụp đổ các Đông Âu: Sự hình thành và biến dạng (Vũ Huy Quang)
Sự sụp đổ Đông Âu: Lòng ái quốc và chủ nghĩa Cộng sản (Vũ Huy Quang)
Tưởng nhớ ông Hoàng Khoa Khôi (Vũ Huy Quang)
Tưởng niệm một nhà cách mạng Trung quốc (Hoàng Phàn-Tây /Vũ Huy Quang dịch)
Tưởng Niệm Đinh- Bài Thơ Không Hi Vọng Được Công Bố (Vũ Huy Quang)
Vài góp ý về “Nội chiến” (Vũ Huy Quang)
Văn Nghệ và Chính Quyền (Vũ Huy Quang)
Vũ khí thay đổi nếp sống xã hội & lịch sử tại Nhật (Vũ Huy Quang)
Đọc "Tổ quốc ăn năn" của Nguyễn Gia Kiểng

 

Trang Văn Học