 |
20 tháng 7, 2010 |
1 2
II.-Lòng ái quốc và
chủ nghĩa Cộng sản
Có
hai nước đặc biệt trong Đông Âu: Nam Tư và Đông Đức.
Nam Tư (Yugoslavia) thì sau Thế chiến, với khối dân nhất trí chống Phát
xít, xây dựng cách mạng xã hội, có tính ít lệ thuộc Nga, được tự
trị...nhiều hơn Đông Đức. Nhiều năm sau, với chính sách đi dây giữa
Washington và Moscow của Tito, thì sau khi Nam Tư tách ly khỏi Moscow,
khuynh hướng chính trị nội bộ lại ít đặt nặng chuyện bài-Nga, mà đề cao
tính yêu nước. Tình yêu nước này, để đối phó với sự dễ có nguy cơ bị
phân hóa bởi tính đa sắc tộc trong một quốc gia tập hợp nhiều chủng dân
bấy lâu nay. (Yugo là miền Nam, Slovakia có từ nguyên Slav, gốc có nghĩa
là nô lệ. Dân vùng này, xưa kia từng bị Đế quốc Rome bắt làm nô lệ. Họ
bị chia ra thành các nhóm, các vùng với các tôn giáo, ngôn ngữ, chữ
viết, sinh hoạt, phong tục...khác nhau).
Dân Serbia, Croatia, Slovenia,
Kosovo…có sinh hoạt truyền thống về chính trị, kinh tế phân biệt hẳn
nhau. (Lý thuyết Anarchist - Vô chính phủ - xuất phát từ vùng Slavic
này: Họ chủ trương, bất cứ chính thể nào cũng chỉ để xiềng xích con
người). Khi khuynh hướng tư sản nhấp nháy trở lại Nam Tư, dân miền
nam-Slav (1) và dân Albania trở thành gay gắt hơn với nhau, sẵn sàng đổ
máu.
Nếu Nam Tư có giàn hành chính Quan liêu có tính tự quyết được với Nga,
thì giới Quan liêu Đông Đức không được như vậy. Quan liêu ở đó lại mang
tính phi-quốc gia là khác. Đất nước này chỉ là tuyến quân sự để đối đầu
với Đế quốc Tây phương. Điện Kremlin kềm kẹp đảng Cộng hòa Dân chủ Đức
chặt chẽ về chính trị - hơn bất cứ đảng Cộng sản Đông Âu nào. Thêm áp
lực liên tục từ Tây Bá Linh, Đông Đức thành bất ly cục kịch, không hề có
dịp để trở thành một nước “Cộng sản-Quốc gia-tiến bộ” như các nước Đông
Âu khác. Dưới Ulbricht và Honnecker, Đông Đức thành cứng nhắc trong việc
duy trì nguyên trạng, status quo, của chiến tranh Lạnh - còn hơn
cả trùm sò ở điện Kremlin nữa.
Các chế độ cộng sản kiểu Stalin (Staliniêng, vừa cộng sản vừa yêu nước –
tức là, xây dựng “xã hội chủ nghĩa trong một xứ”) tại Đông Âu được dựng
dậy...từ đống đổ nát của Đệ Tam Reich (Hitler) một thời...đã thuận ý
dân, lại được sự ủng hộ của giai cấp vô sản…suốt từ Ba Lan, Hung cho tới
Tiệp. Nhưng chính quyền các xứ này thiếu tính quốc gia chính thống để
cai trị - điều mà chỉ giới cầm quyền Nga lại có - xuất phát từ công lao
đánh thắng Nazi Đức. Cho nên trong xã hội, vị trí và uy tín chính trị
các đảng Dân chủ Nhân dân có tính bấp bênh, trong lúc sự bất mãn chống
đối ngấm ngầm trong giới lao động đối với sự cai trị Cộng sản kiểu
Stalin ngày càng tăng, cộng với sự hồi phục tinh thần ái quốc tăng
trưởng, tùy cách tùy kiểu ở từng địa phương.
Tình yêu nước quay về quốc gia chủ nghĩa thể hiện rõ nét, lại ở một nước
tương đối ổn định nhất, Bulgeria. Trong lịch sử lập quốc, thì kẻ thù
chính của họ, là Thổ. Mà theo truyền thống, thì Nga lại là nước đàn anh
có công bảo vệ Bulgeria trước đe dọa của Đế quốc Thổ. (Đảng Cộng sản
Bulgeria không bao giờ hạ tượng Đại đế Alexander II được dựng tại trung
tâm Sofia, thủ đô Bulgeria). Các chính trị gia Bulgaria, cho đến nay,
không bao giờ bỏ qua dịp xác nhận là tinh thần dân chủ xã hội phải được
khởi từ lòng ái quốc, là từ tinh thần chống Thổ, phò Nga…mà thành. Về
mặt kinh tế, kế hoạch tập trung sản xuất kỹ nghệ, cộng với chính sách tiêu thụ tự-lực-cánh-sinh…làm mức
sống xã hội xứ này thêm kham khổ, chỉ làm tăng sự bất mãn trong dân đối
với chế độ mà người ta gọi là Cộng sản (Staliniêng).
Đối diện với sự ác cảm trong xã hội, giới quan liêu Đông Đức tách ra làm
hai. Nhóm thân Moscow, và nhóm “Cộng sản-quốc gia-Tiến bộ”. Nhóm sau,
lại được cảm tình của số đông dân chúng. Thấy thế, sợ lại có sự ly khai
như Nam Tư, Stalin triệt ngay bất cứ mầm mống nào. Lãnh tụ Ba Lan
Wladyslaw Gomulka bị bắt, rồi quản thúc tại gia; Rajk ở Hung và Slánsky
ở Tiệp bị đưa ra tòa, và bị xử tử. Sự thanh trừng khủng bố…phân vụn, làm
bủn rủn giới quan liêu Đông Âu, đồng thời lại tăng gia sự ủng hộ của dân
đối với các nạn nhân có tinh thần “Quốc gia-Cộng sản” trong giới quan
liêu. Khi Lászlo Rajk được rửa tiếng năm 1956, một phần ba dân Bulgaria
– một triệu người – xuống đường hoan nghênh.
Vào thời “Giải hoặc Stalin” (53-56, sau bản “Báo cáo Mật về Stalin” nổi
tiếng của Krushchev), giới cầm quyền Đông Âu được bảo đảm địa vị chỉ do
từ thế lực quân sự Nga Xô hỗ trợ. Tại Ba Lan, 1956, cuộc nổi dậy chính
trị phôi thai của thợ thuyền, bắt nguồn từ nổi dậy Poznan, bị dẹp ngay
vì Gomulka còn vững quyền lực. Tại Hung, giới quan liêu bị dẹp bởi các
Ủy ban công nhân đồng loạt giành lấy quyền tại Budapest và các tỉnh. Đại
biểu cho tinh thần “Cộng sản-Quốc gia-Tiến bộ” là Imre Nagy dự tính lập
liên minh đa thành phần để lập chính phủ. Nhưng chính thể Cộng sản kiểu
Stalinin vẫn được duy trì, vì quân đội Nga kéo vào trấn đóng thủ đô.
Sự duy trì chính thể Staliniêng ở Ba Lan và ở Hung sau 1956 mang tính
chất khác nhau. Gomulka thì liền đó, nhượng thả quyền lực cho các nhóm
chính trị - Ủy ban công nhân, trí thức cánh Tả, nhóm Ca tô truyền thống,
nhóm Nông dân hiệp hội. Khi cơn khủng hoảng lắng, ông ta giải tán luôn
các Ủy ban công nhân, giải tán các nhóm trí thức hoạt động. Sau “Mùa
xuân Prague” 1968, (xe tăng Nga tràn vào thủ đô Tiệp) sự đàn áp ở Ba Lan
còn gia tăng, nhất là nếu nhóm chống đối có liên hệ với nhóm “Tổ quốc Ba
Lan”, hoặc nhóm Bài-Do. Duy có tổ chức Giáo hội Ca tô ở Ba Lan, ảnh
hưởng bắt rễ trong xã hội lâu nhất trong các nước Đông Âu, lại được nới
thả về sinh hoạt chính trị, hơn bất cứ nhóm nào khác, nhất là trong cơn
khủng hoảng (giá thực phẩm tăng vọt), năm 1970.
Tại Hung, thời hậu 1956, sự đàn áp rất mạnh. Sau cuộc nổi dậy bị đè bẹp
bởi quân đội Nga, 2,000 người bị giết, 20,000 bị bắt, và hàng ngàn, ngàn
người Hung bị tống sang nhà tù bên Nga. Cho đến đầu những năm ’60, chế
độ Kadar mới áp dụng chính sách Kinh tế điều hành để tăng sự tiêu dùng
trong xã hội, cùng lúc nới thả cho giới trí thức, nêu khẩu hiệu,”Không
phản đối, là về phe Chính phủ”.
 |
Alexander Dubcek ở Prague |
Giới bình dân ở Tiệp đã từng ủng hộ chủ nghĩa Cộng sản hơn cả Ba Lan và
Hung. Trong quá trình lịch sử, Tiệp là một trong số ít quốc gia đã có
đại biểu tham dự từ Đệ Nhị Quốc tế Cộng sản. Đối với Tư bản, người Tiệp
coi mình chính là nạn nhân của sự bị đế quốc bán đứng cho Nazi từ 1938.
Vì chế độ có rễ sâu về chính sách cộng sản, sự giải hoặc Stalin tại Tiệp
cũng trễ hơn mươi năm. Nhưng cũng như Ba Lan và Hung, đại biểu cho
khuynh hướng “Quốc gia Tiến bộ Cộng sản”, là Alexander Dubcek lên thay
khuynh hướng thủ cựu Staliniêng là Sovotny. Lao động Tiệp muốn được nới
thả hơn để có kinh tế thị trường cải cách…Và ngày càng có khuynh hướng
tiến tới cuộc cách mạng chính trị của vô sản. Để chặn ngay cái khuynh
hướng giống như ở Hung, Brezhnev dùng ngay Hiệp Ước (tương trợ) Warsaw,
đưa binh lính Nga tràn vào Tiệp, rồi lật Dubcek. Trong khối Đông Âu,
Tiệp bị đàn áp thô bạo nhất, và trở thành căm ghét Staliniêng hơn hết.
Cũng đúng thôi, trong thập niên ’70, chế độ Brezhnev ở Nga, Gierek ở Ba
Lan, Kadar ở Hung, Husak ở Tiệp…đều muốn trấn an giới lao động bằng cách
cải thiện nếp sinh hoạt. Nhưng giá dầu tăng kéo theo sự suy thoái kinh
tế Liên Bang Nga, lôi theo sự mất thăng bằng cán cân trao đổi kinh tế
giữa Nga với Đông Âu. Để tránh bị giảm sản phẩm tiêu dùng trong nước,
Nga phải xoay qua làm con nợ của Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
Đối phó với nội tình chính trị, Brezchnev đã thành công việc trấn áp sự
chống đối của thiểu số trí thức ra mặt thân Tây phương, mà không làm xáo
trộn xã hội. Nhưng thành công này không xảy ra cho các nước Đông Âu, nơi
tinh thần quốc gia âm ỉ đã lâu. Thêm vào đó, Ba Lan và Hung đã lún sâu
vào nợ nần Ngân Hàng Tây phương, mà điều kiện ép buộc của tư bản Tây
phương là chiêu bài “Nhân quyền”, là sự ngăn trở chính quyền đàn áp
“Nhóm Trí thức muốn ly khai”.
Trước những cuộc xuống đường của công nhân để phản đối giá nhu yếu phẩm
tăng vọt, chế độ Gierek phải lờ việc đàn áp trí thức lẫn công nhân. Điều
đó đã mở đường cho Giáo hội Ca tô thế lực - liên hiệp với giới trí thức
Dân chủ Xã hội (Kuron, Michnik…) – dấn sâu vào sự khuynh loát các tổ
chức Thợ thuyền...trong việc phối trí sản phẩm tiêu dùng.
Để đối phó thế lực phản đối ngày càng lớn, biên pháp quân sự của Tướng
Jaruzelski là biện pháp dự bị quân sự - dĩ nhiên - với hậu thuẫn của sức
mạnh quân đội Nga. Phương thức độc tài quân sự (Bonapartism) cứng
rắn chỉ đưa đến không khí khó thở, thất nhân tâm, rồi thành sự chuyển
quyền qua Phong trào Đoàn kết, 8 năm sau.
Đàn áp công đoàn Solidarnosc cũng không thay đổi được sự trì trệ kinh
tế, thoát nợ nần. Để bớt áp lực nợ Tây phương, chỉ có cách là điều chỉnh
lại chiều hướng phân phối tài nguyên ngay trong khối Nga. Đó là điều mà
không có cuộc cách mạng vô sản, không làm được, vì phải chống với cả
khối Quan liêu Xô viết đồ sộ. Cuối thập niên ’80, chế độ trong khối
Staliniêng Warsaw đành tập trung nỗ lực vào việc trấn áp giai cấp lao
động, đẩy mức sinh hoạt vào tình trạng khắc nghiệt hơn, hầu đáp ứng yêu
cầu trả nợ của các Ngân hàng Tây phương.
Giáo hội Ky tô ở Hung không mạnh bằng bên Ba Lan, sự chống Cộng cũng
không mạnh bằng, thành ra tinh thần quốc gia tự quyết loang dần, thâm
nhập vào guồng máy cai trị, cùng với giới trí thức, sau này gọi là
“Trường phái Budapest”, theo tinh thần George Lukacs. Dưới tấm dù che
của Thỏa Ước Helsingki (2), nhiều nhóm “Dân chủ Tư sản” ra đời, cùng
chống cách mạng Bolshevik. Họ cùng nhau kết luận rằng Cách Mạng tháng
Mười chỉ đưa đến đám Quan liêu ký sinh, Stalin là thừa kế chính thức
Lênin, “Xã hội chủ nghĩa trong một xứ” của Stalin là do Mác đề xuất,
chủ nghĩa Mác lỗi thời.v.v.
Giai cấp lao động ngày càng thụ động trước sự khống chế của tình thế mà
giai cấp tiểu tư sản-buốc gioa thắng thế. Cuộc thăm dò dân ý năm 1976
cho kết qủa, là nếu có bầu cử đa đảng tại Hung, nhóm “Dân chủ-Xã hội” sẽ
chiếm 40% phiếu, nhóm Cơ đốc giáo gần 30%, và đảng Cộng sản chỉ được 5%.
Dân Hung để chính quyền Kádár yên vị, vì tình hình kinh tế tạm ổn cùng
sự hòa nhập của Hung trong khối Xô viết không căng thẳng. Các điều đó
biến mất vào cuối thập niên ’80.
Tại Tiệp, đường lối của Dubcek là thanh lọc quan liêu, chỉnh đốn tinh
thần đảng viên Cộng sản, làm “cách mạng Nhung”…đã đưa đến sự tăng cường
hoạt động công an, đưa đến chuyện trí thức cánh Tả chuyển sang Hữu, ngả
theo tinh thần “Dân chủ-Xã hội” và buốc-gioa. Đó là nguyên ủy của sự ra
đời của nhóm Diễn Đàn công luận và Hiến chương 77.
Nhóm này ngày càng ngả sang Hữu. Giai cấp lao động không có sinh hoạt
nào. Ba chính quyền, Ba Lan, Hung và Tiệp ngày càng thiên Hữu, sự tìm sự
bảo trợ của Tư bản, còn chính quyền Bulgaria, Romania tìm cách luồn lách
sống còn dưới chính sách cải cách nới thả của Nga. Tư hữu hóa tăng, thị
trường cạnh tranh tăng…lại đưa đến lao động thất nghiệp thêm. Tại Hung,
dưới áp lực Ngân hàng, đã tạo thành áp lực để chính thể quan liêu xâu xé
nội tình chính trị, đưa đến việc từ chức bắt buộc của Janos Kadar, người
cầm quyền lâu nhất Đông Âu.
Mùa xuân 1989, Ủy ban Công lý Lịch sử thành lập, mục đích rửa tiếng cho
Imre Nagy, theo cách Hội nghị Bàn tròn như Ba Lan, một tổ chức dưới sự
lãnh đạo của chính quyền Staliniêng cốt thỏa hiệp với khuynh hướng “Dân chủ-Xã hội” của khuynh
hướng Tư sản buốc-gioa.
Không giống như Ba Lan và Hung, vì không hề có áp lực bên ngoài để làm
những “cú giật kinh tế” cho hồi sinh bệnh nhân, thì Tiệp, với chế độ
Havel, có chiều hướng giải quyết cực kỳ cảnh giác hầu tránh đưa đến sự
bất mãn của thợ thuyền, tránh đưa đến rạn nứt trong khối Diễn Đàn Công
Luận.
Tại Romania và Bulgaria, chính quyền Staliniêng có khuynh hướng thân Tây
phương, chuyển qua Dân chủ-Xã hội, lại được ủng hộ của Tây phương, cho
nên lực lượng bảo thủ coi họ như đã theo khuynh hướng phản động, sẽ có
khuynh hướng đưa đến nội chiến (vụ thợ mỏ chống sinh viên khuynh hữu tại
Bucarest), làm tắt khuynh hướng thiên hữu của chế độ.
Trong khi Ba Lan, Hung, Tiệp giai cấp công nhân có khuynh hướng chống
chính quyền chuyển hướng kinh tế, ở Romania và Bulgeria công nhân có
khuynh hướng cưỡng lại chuyển đổi để bảo vệ khuynh hướng “Tả” của chế
độ. Tại Nga, năm 1985, Gorbachev với chính sách cởi mở kinh tế (perestroika)
và cởi mở chính trị (glasnost) đã được ủng hộ của giới trí thức,
nhưng sự xóa bỏ kinh tế trung ương tập quyền đã đưa đến kinh tế thị
trường tư hữu vô chính phủ, làm giá tiêu thụ có nguy cơ lạm phát nặng,
đưa đến sự nổi dậy của khuynh hướng quốc gia, đòi tách khỏi Cộng hòa Xô
viết…ngay tại các nước Cộng Hòa Ban-tích.
Phải đối diện với rạn nứt xã hội, quan liêu Kremlin chia làm đôi. Yegor
Ligachev về phe bảo thủ, muốn bảo vệ guồng máy cũ, chấp nhận rất ít đổi
thay. Boris Yeltsin chộp ngay cơ hội mị dân, đại diện cho phe dân tộc
liên minh với khuynh hướng thân Tây phương để có nhiều cải cách. Yeltsin
lấy danh nghĩa “tự do thị trường”, chỉ trích quan liêu đã chiếm nhiều
đặc quyền. Yeltsin cũng đòi cắt giảm kinh phí quân sự và kinh phí đầu tư
kỹ nghệ.
Đảng Mặt trận Dân chủ (Democratic Platform) một đảng ủng hộ tư bản, tô
lên lớp sơn dân chủ…nổi lên từ trong đảng Cộng sản Nga, đòi tách ra,
thành một đảng độc lập. Đảng Cộng sản bảo thủ Staliniêng xuất phát từ
đảng Cộng sản Nga, lại ngả sang khuynh hướng Ái Quốc (Nga). Khuynh hướng
thân Slavic, bài tây phương đồi trụy..là Valentin Rasputin lên án mãnh
liệt sự cộng tác với tư bản chỉ đem lại những tệ đoan như đồng tính
luyến ái, nhạc Rốc, phim khiêu dâm và lũ Do Thái.
Lãnh tụ phong trào Mặt trận Dân chủ là Gavril Popov, Thị trưởng Moscow,
chủ trương “Tự do thị trường”...cũng thấy sự phân hóa ngay cả trong hàng
ngũ công nhân, lên tiếng cảnh báo những ai đòi gấp rút chuyển sang với
tư bản:
“…giờ thì chúng ta tạo ra một xã hội nhiều mặt, có nhiều hình thức sở
hữu, kể cả tư hữu hóa; như thế sẽ là một xã hội kinh tế bất bình đẳng.
Có những tự mâu thuẫn giữa những chính sách đưa đến sự giải quốc hữu
hóa, đến sự tư hữu hóa, và các sự bất bình đẳng trên một mặt, mặt khác,
tinh thần dân túy lại đẩy mạnh để hoàn tất những điều trên. Quần chúng
thì chỉ muốn sự công bình và công chính trong chính sách kinh tế. Và nếu
sự biến chuyển đưa đến thay đổi càng rõ, thì mức phân cách thực tế càng
lóe sáng, càng sắc nhọn thêm.” - “Những nguy hiểm chết người của Dân
chủ” (3)
 Trên: Nhóm Spartacist biểu tình
Bên phải: Đông Bá Linh, ngày 3 tháng Giêng, 1990- 250,000 (250 nghìn) người tập họp tại Treptow sau khi nhóm Spartakist kêu gọi phản đối việc hạ tượng đài kỷ niệm Hồng Quân chết trong cuộc giải phóng Đức. |
 |
 |
Ngày 3 tháng Giêng 1990: phát ngôn viên Renate Dahihaus (góc phải ở dưới) tuyên bố trước 250 ngàn biểu tình ở Công viên Treptow, Đông Đức, chống việc hạ tượng đài kỷ niệm Hồng Quân giải phóng Đức. Bà thuộc nhóm Spartakist. |
Xem ra, những mâu thuẫn, những rắc rối không chỉ ở những kế sách. Ngày 3
tháng Giêng 1990, trong biến cố Treptow, 250,000 người xuống đường tại
công viên cùng tên, phản đối sự đòi triệt hủy tượng đài kỷ niệm binh sĩ
Hồng quân có công giải phóng Đức…mà lực lượng Ái quốc thượng đẳng chủng
tộc Nazi xướng xuất, đòi dẹp tượng đài.
Những người phản đối tập họp lớn
lao, lại là bởi sự xướng xuất của nhóm Grupen, tổ chức chính trị mang
khuynh hướng Trotsky-Liebknech-Luxemburg, nhóm chính trị Đức SpAD (Spartakist-Arbeiterpartei-Deutschland)
trong nhóm TLD (Trotzkistische Liga Deustchland) mà thành cơn bão
chính trị thế giới. Cuối tháng Hai, Gorbachev loan báo Liên bang Nga đã
chấp thuận sự giải thể đảng DDR, và sáp nhập đảng này - Dân chủ Cộng hòa
Đức (German Democratic Republic – DDR) vào chính đảng bên Tư bản.
Sự loan báo này chấn động như bom nổ trong giới công nhân lẫn trí thức –
những người vẫn ước ao sự tồn tại của tinh thần xã hội chủ nghĩa.
Sau khi hợp nhất hai miền, giới Buốc-gioa Đức tìm cách giải thể các hãng
xưởng sản xuất Đông Đức mà trước đó đã từng được xếp hàng mười về hiệu
năng sản xuất trên thế giới. Sản xuất kỹ nghệ tụt giảm mất 75% từ 1989
trở đi. 5 triệu công nhân mất việc trên tổng số 9.5 triệu. Các nạn nhân
đầu tiên của sự thất nghiệp là phụ nữ. Sự đóng cửa các xưởng kỹ nghệ
không vì sự tính toán lợi nhuận lời lỗ của tư bản. Đó là sự cố tình làm
phân vụn, làm hủy tinh thần truyền thống của vô sản trong xã hội tại
Đông Đức.
Đó là sự trả thù của tư bản Đức đã thua trận trước Hồng quân trong Đệ
Nhị Thế chiến.
-Vũ Huy Quang
(7-2010)
Cước chú:
(1)
Nam
Slav:
Serb, Croat, Slovenes, Bosnia, Bulgaria. (Liệt kê thêm các nước Tây
Slav: Ba Lan, Tiệp, Slovak, Lett, Lithuanian, Moldavian, Ruthenian.
Đông Slav: Nga, Ukraine, Byelorussian).
(2)
Gồm 35 nước Âu châu ký kết tại Helsingki, 1975, có cả Mỹ và Nga,
hứa nhận việc cùng chung hợp tác, cùng chung phát triển.
(3)
“…now we must create a society with a variety of different
forms of ownership, including private property; and this will be a
society of economic inequality. There will be contradictions between the
policies leading to denationalization, privatatization, and inequality
on the one hand and, on the other, the populist character of the forces
that were set in motion in order to achieve those aims. The masses long
for fairness and economic equality. And the further the process of
transformation goes, the more acute and more glaring will be the gap
between those aspirations and economic realities.” – “Dangers for
Democracy,” New York Review of Books, 16/8/1990.
(https://findarticles.com/p/articles/mi_m1132/is_n7_v42/ai_9241870/)
► SH mời bạn đọc thêm: "The Trotskyist Struggle Against Capitalist Counterrevolution" ở link
https://www.spartacist.org/english/spc/163/ddr.html