 |
12 tháng 8, 2010 |
(Phỏng vấn lãnh tụ Trotskit Trần Kim-Lan (1904-1987) về “Phong Trào Trăm Hoa” và “Cách Mạng Văn Hoá” tại Trung Quốc)
Lời nói đầu
Đây là vấn đề bao la của văn nghệ sĩ và
quyền lực chính trị. Chính trị gia muốn kiểm soát văn nghệ, văn nghệ sĩ chỉ có 2
cách: Tuân phục hoặc bất tuân. Liên hệ giữa 2 giới luôn dính dáng tới thời cuộc,
có nhiều kết quả bi thảm. “Toạ đàm Diên An”, “Mao Thoại”, “Trăm Hoa”, “Cách Mạng
Văn Hoá”…tại Trung Quốc đã chịu ảnh hưởng từ những biến cố bên ngoài (Câu lạc bộ
Petofi ở Hung tạo biến cố chính trị) lẫn bên trong (các nhà văn bất tuân), đưa
đến những thanh trừng ghê gớm. Những thanh trừng ấy cũng đã ảnh hưởng tới Việt
Nam để thành “Nhân Văn-Giai Phẩm” để lại thành những kinh nghiệm đau thương khó
quên.
Bài phỏng vấn Trần Kim-Lan (Ch’en Pi-Lan) do Antonio Farien thực hiện năm
1967, được đăng lại trong The Chinese Communist Party in Power, ấn bản
1980, Patfinder press, từ tr. 417-433, chúng tôi xin tóm lược dưới đây, nói về
lý do sâu xa nào đã đưa đến chuyện này. Xin lưu ý, là những phát biểu này xuất
hiện trong lúc Mao còn sống. Bài phỏng vấn bằng tiếng Pháp, sau đó dịch qua
tiếng Anh, không có chua nguyên ngữ chữ Hán, chỉ phiên âm Wade-Giles cho nhân
danh, địa danh. Chúng tôi cũng đúc kết, tham khảo thêm Trần Độc Tú Nghiên cứu
Văn tập, của Tân Miêu Xuất bản Xã, An Oppositionist for Life,
của Gregor Benton, Literary Dissent in Communist China của Merle Goldman…
trong phần phiên âm nhân danh, địa danh, và các chú thích.
Trần Kim-Lan
là đồng chí, bạn đời của Bành Thuật-Chi - người đã cùng Trần Độc-Tú, Lý
Đại-Chiêu, Lỗ Tấn hoạt động trong phong trào khời thủy cách mạng Văn Hoá. Bành
Thuật-Chi đã cùng bị án tù với Trần Độc-Tú ở Giang Tô, do Quốc Dân Đảng Trung
Quốc bắt giữ, 1932. Sau vì biến cố Lư Cầu Kiều (1937) mà đươc thả.
Người trả lời
phỏng vấn, từng là Tổng Biên tập Phụ nữ Trung quốc Nguyệt san, đã là bạn
học với nhà văn Đinh Linh tại Đại học Thượng Hải, đã là du sinh Trung Quốc tại
Mátcơva, sau đó phụ trách Ủy ban Tranh đấu Nữ quyền Trung Quốc trong thập niên
2-30 tại Vụ Hán, và Thượng Hải. (Trần Kim-Lan ngẫu nhiên rời Thượng Hải vài giờ
trước khi quân Tưởng tràn vào, mở cuộc tàn sát, ngày 12 tháng Tư 1927). Khi Mao
thắng tại Hoa Lục, bà cùng chồng qua Hồng Kông, là thành viên Đệ Tứ Quốc tế.
Cuối đời, bà sống tại Los Angeles vài năm trước khi mất.


Trái: Trần Kim Lan. |
Phải: Cuộc tàn sát của quân Tưởng Giới Thạch năm 1927
|

Cách mạng văn hóa và Hồng Vệ Binh
◄ ● ►
HỎI: Trong
cuộc Cách Mạng Văn Hoá, người ta đã biết phần nào sự đối đầu của phe Mao và phe
“chống Mao”. Giai đoạn đầu, sự tấn công trước hết nhắm vào nghệ sĩ, nhà văn, học
giả và các nhà giáo dục, Trước tiên, tôi muốn được biết thêm ý của bà, phân tích
về quan niệm của 2 phe khác nhau thế nào trên chủ đề văn chương, nghệ thuật,
giáo dục. Họ có khác nhau lắm không?
ĐÁP: Có khác.
Nếu người ta hiểu đươc sự khác biệt, sẽ hiểu sự tranh đấu của ho. Thực tế, thì
khi Mao phát động “cách mạng Văn Hoá”, ông ta bắt đầu bằng sự tấn công vào Ngô
Hán, tác giả vở kịch Hải Thụy Bãi Quan, vào Tần Hán của vở kịch Sử Diêu-Hãn
(1) ,
và vào Đặng Thu, tác giả của Đêm Bàn Chuyện Yên Sơn, của tạp ghi
Chuyện Ba Nhà. Mao chủ trương tấn công vào các cán bộ văn hoá hàng đầu trước
tiên, dĩ nhiên, rồi mới thành ra cuộc Đại Cách mạng Văn Hoá.
Chúng ta đều
đã biết, dưới chế độ Stalin, con người không có tự do chính trị. Cho nên dân
chúng đều bất mãn. Có bất mãn, là có sự biểu tỏ trong văn chương nghệ thuật, vì
văn nghệ sĩ vốn nhạy cảm với chuyện này hơn ai hết. Họ quan sát đời sống thường
nhật dân chúng, cảnh ngộ khốn khổ, niềm hi vọng, cùng sự khát khao thế nào. Bằng
văn chương nghệ thuật, họ phản ánh những gì họ nhìn thấy – cả cái tốt lẫn cái
xấu. Đó là lí do chính sách của Stalin luôn luôn kìm kẹp trên lãnh vực văn học,
không cho cái xấu trong chế độ được phơi bày, kể cả những chuyện nội bộ của giới
quan liêu. Văn chương nghệ thuật không được phép phản ánh những hiện thực, chỉ
để là công cụ tuyên truyền, để tuyên dương các chính sách của giới cầm quyền và
các cá nhân trong giới lãnh đạo. Rõ rệt là việc đó đã được thể hiện trong chế độ
Stalin, và các chính sách văn nghệ mà Zhdanov soạn thảo tỉ mỉ, là các bằng chứng
rõ ràng nhất.
Chính sách
của Mao về chuyện này đã không khác gì, có khi lại còn khắt khe, thô bạo hơn.
Hậu quả là, ở Trung Quốc là đã có những chống đối về đường lối của Mao trên lãnh
vực văn chương bền bỉ. Cuộc thanh trừng hiện giờ (1967 – ng.d) tuy rộng lớn và
ác liệt, không có nghĩa là cuộc thanh trừng trước kia (sau Tọa đàm Diên an, hội
nghị Tuân nghĩa – ng.d) kém ác liệt.
HỎI: Xin bà
cho biết, khi nào thì Mao bắt đầu chiến dịch thanh trừng, và tại sao?
ĐÁP: Chính sách
giới hạn văn chương nghệ thuật của Mao khởi đầu từ tháng Năm 1942, thời kỳ Diên
an. Lúc ấy Mao có thái độ trong bài “Cuộc nói chuyện tại diễn đàn Diên an về Văn
nghệ” (sau in thành tập kỷ yếu Mao Thoại – ng.d), để chuẩn bị cho sự
thanh trừng một nhà văn rất danh tiếng. Trong bài chỉ đạo này, mà Mao có vài lần
trích lời Lênin làm hậu thuẫn cho mình, Mao kết luận rằng, văn nghệ phải phục vụ
Công, Nông, Binh…Cùng là hỗ trợ cho đường lối chính trị của Đảng; và anh ta lên
án mọi phê bình, chống đối hay mỉa mai với đường lối ấy. Chính sách lúc ấy, là
chính sách mới của Mao (Cộng sản Tân dân chủ -ng.d), và nhà văn chỉ có nhiệm vụ
tán dương những anh hùng cách mạng v.v.; Và Mao chỉ ra rằng, trong văn nghệ đang
có nhiều khuyết điểm, cần phải được phát động phong trào sửa sai (Chỉnh Phong).
Thời kỳ ấy,
vài nhà văn viết vài bài về hiện tình thực tế ở Diên an, như nhà văn nữ lừng
danh Đinh Linh, viết Cảm nghĩ về Liên hoan Tam Bát (ngày phụ nữ 8 tháng
Ba -ng.d); nhà thơ nổi danh Ngãi Thanh, viết Nên hiểu và tôn trọng Nghệ sĩ’;
và Hoàng Thạch-Mễ viết một loạt bài dưới nhan đề Những đoá huệ hoang.
Những bài sau là những bài chỉ trích sắc bén nhất về chủ trương Diên an. Ông ta
phê bình, trưng ra bằng chứng, là đang có sự thiếu dân chủ trong Đảng, đang có
tương phản giữa nếp sống đặc quyền của cấp trên với cấp dưới, có phân biệt theo
thứ bậc chức vụ ngay trong Đảng. Loạt bài phê bình tạo được rất nhiều chú ý của
quần chúng, đặc biệt với giới trẻ ngay trong phong trào Cộng sản. Mao không tha
thứ được những chuyện này, lập tức triệu tập buổi họp để biểu quyết về những đề
cương Mao đã nêu ra về văn nghệ. Cuộc họp khoáng đại, không những chuẩn bị cho
cuộc thanh trừng sắp diễn ra, còn đề ra những quy tắc căn bản cho chính sách
Đảng đối với văn nghệ sau này nữa.
Không lâu,
một cuộc họp ngay sau được triệu tập để trừng trị Hoàng Thạch-Mễ. Rất nhiều chức
sắc cao cấp, như lãnh đạo của Ủy ban Tuyên truyền Trung Ương, của Cơ Quan Tổ
chức, Chủ tịch Viện Nghiên Cứu cùng các nhà văn, cán bộ về văn nghệ…cũng về tham
dự buổi họp này. Người ta có thể băn khoăn, sao mà chuyện thành nghiêm trọng đến
thế. Lý do cũng đơn giản thôi. Hoàng gia nhập Đảng từ 1926. Ông ta là cán bộ kỳ
cựu và là thành viên quan trọng của viện Nghiên cứu Trung Ương. Hoàng đã dịch
sang tiếng Trung quốc trên 2 triệu chữ của Mác, Ăng ghen và Lênin. Ông là cây
bút tài năng, được ai nấy kính trọng, đặc biệt đối với thanh niên. Cho nên cuộc
thanh trừng Hoàng Thạch-Mễ là biến cố quan trọng nhất của thời kỳ Diên an.
Cuộc họp kéo
dài 16 ngày, trong đó Hoàng bày tỏ ý kiến, tự biện hộ, chống trả những cáo buộc
của cán bộ lãnh đạo, những quy kết của viên chức các cấp trong Đảng rất xuất
sắc. Nhiều thành viên tham dự đã phải ủng hộ và bày tỏ cảm tình với ông ta.
Nhưng khi có các lãnh đạo tố cáo ông có tội chống Đảng, chống Mácxít, đặc biệt
ông ta là Trotskit, mà lại là từ Trần Bá Đạt – người mà hiện nay trong ban lãnh
đạo cuộc Đại Cách mạng Văn hoá, lúc đó là thư kí riêng của Mao, mới thành những
tố cáo thâm hiểm nhất, làm những ai ủng hộ đành phải rút lui. Tuy nhiên Hoàng
vẫn tự biện hộ, cho rằng ý kiến mình vẫn không có gì sai trái. Phiên họp kết
thúc với kết quả là ông bị tội chống Đảng, chống Mác, và là Trốtkít. Ông ta bị
trục xuất khỏi Đảng, vào tù, bị tra vấn và tra tấn. Kết cục, ông đã nhận mình là
Trốtkít. Và bị giết.
Chúng ta nên
ghi nhận một điều. Cuốn Những đoá huệ hoang đã vô cùng hấp dẫn người đọc,
và ảnh hưởng đến giới trẻ rất nhiều, kể cả cán bộ và cảm tình viên trong Đảng
cũng như thành viên các tổ chức thanh niên ngoài Đảng. Cuốn sách lưu hành rộng
rãi suốt Trung quốc, bằng những bản chép tay, suốt thời này sang thời khác. Bản
tôi mượn đọc được, cũng là bản loại chép tay. Vì sự can đảm và kiên cường của
Hoàng Thạch-Mễ chống lại những cáo giác thâm độc, ông thành cực kỳ nổi tiếng.
Tên ông luôn được nhắc đến trong bất cứ chuyên gì liên quan đến thời kì Diên an.
HỎI: Có vụ
thanh trừng nào khác nữa không?
ĐÁP: Sau khi
Đảng nắm chính quyền năm 1949, Mao áp dụng chính sách kiểm soát văn nghệ nghiêm
ngặt hơn nữa, trên toàn quốc. Người đầu tiên phản đối là Hồ Phong, cây bút phê
bình văn nghệ trứ danh thuộc Tả phái. Ông cho Mao Thoại là máy móc, cho
nên, “Sự máy móc đã kiểm soát nhiều phạm vi văn nghệ, đã mười năm nay…Đường
lối này đã triệt sinh văn chương nghệ thuật…khi con người muốn cất tiếng, phải
áp dụng tư tưởng Mao…Chỉ làm cho việc viết văn thêm khó”.(2)
Ông ta cho
rằng sự thật mới là đỉnh cao nhất của mọi chỉ đạo về nghệ thuật. Ông ta chống
lại chính sách đơn sơ hoá trong văn nghệ, khi bắt văn nghệ phải phục vụ chính
trị, khi giới hạn văn nghệ về đề tài, như Mao xướng xuất. Cho nên, ông ta nhấn
mạnh, là các nhà văn có quyền tự mình được lựa chọn đề tài. Ý kiến của Hồ Phong,
thì tôi, cũng như bất cứ ai khác, phải nhìn nhận là đúng. Nhưng Mao không thấy
như thế, cho Hồ Phong muốn tách ly, nên năm 1955, Mao phát động chiến dịch thanh
trừng tư tưởng Hồ Phong cùng những người tán thành Hồ Phong. Chiến dịch kéo dài
vài tháng, khắp nước.
Không chỉ Hồ
Phong cùng những ai ủng hộ ông ta mới bị phê đấu, mà trong các Đại học, Trung
học, các cơ sở văn học, bất cứ ai tỏ ý tán đồng ý kiến Hồ Phong cũng bị đem ra
làm mục tiêu. Theo tin tức báo chí hồi đó, có trên 130 người “bè lũ Hồ Phong” bị
cho vào tù, hoặc cho đi trại Lao cải. Từ đó đến nay (1967), không có tin tức
chết sống gì về ông ta và những người ấy nữa.
Rồi sau đó,
Mao phát động phong trào “Trăm hoa đua nở, Trăm nhà đua tiếng”. Từ tháng Tư đến
tháng Sáu, thời kỳ mà những nhà văn Tả phái phê bình chính sách của Mao về văn
nghệ, như Đinh Linh, Ngãi Thanh, Phùng Tuyết-Phong là những người nổi danh nhất
về phê bình văn học…đều bị nhắm vào. Cả ba lại đều là người trong giới lãnh đạo
văn nghệ của Đảng, Có người là Chủ tịch, (Đinh Linh) hay là Phó Chủ tịch (Phùng
Tuyết-Phong) của Hội Văn nghệ toàn quốc.
Tháng Sáu,
Mao dẹp phong trào “Trăm Hoa”, và tấn công họ.
Tháng Chín,
một phiên họp đặc biệt tại Bắc Kinh được triệu tập để thanh trừng Đinh Linh.
Khoảng trăm người tham dự, gồm những viên chức cao cấp trong ngành văn nghệ, Bộ
trưởng hay phó Bộ trưởng như Mao Thuẫn (3) và Châu Diên. Cuộc họp tố cáo Đinh
Linh, như đã làm với Hoàng Thạch-Mễ tại Diên an, kéo dài 16 ngày, làm Đinh Linh
kiệt lực vì phải chống đỡ hết tội này đến tội khác, vừa là Hữu khuynh, vừa là
Phản động. Những tội danh được đăng trên Nhân Dân nhật báo cho biết, Đinh Linh
đã cấu kết với Hoàng Thạch-Mễ, kết luận Đinh Linh sẽ phản động y như Hoàng
Thạch-Mễ. Sau phiên họp, Đinh Linh, Ngãi Thanh, Phùng Tuyết-Phong cùng nhiều
người nữa bị cho vào trại cải tạo (reeducation camp – nguyên tác tiếng Anh
-ng.d). Y như Hồ Phong lúc trước, không ai biết số phận họ nữa. (Xin xem phụ chú
–ng.d).
Tôi nói thêm
về Đinh Linh. Trước kia, 1923-24, bà là bạn cùng lớp tôi ở Đại học Thượng Hải,
lại ở cùng nhà. Chúng tôi rất thân nhau. Tôi biết tính bà, con người cương
cường, đầu óc rất thích dân chủ.
Cũng trong
phong trào “Trăm Hoa”, ta nên để ý nhận định của Mao Thuẫn. Tại buổi họp ngày 16
tháng Năm, 1957 của Ban Trung Ương Phối hợp Mặt trận, ông này phát biểu về văn
nghệ như sau: “ Về văn chương nghệ thuật, phải nói đó là lãnh vực đặc biệt.
Nếu chỉ căn cứ theo văn bản của Đảng làm cơ bản, mà không có hiểu biết đặc biệt
về văn nghệ thì không thể có kết quả cụ thể được…Như vậy chúng ta phài làm sao?
Đó chính là con đường ngắn nhất, nối liền chủ nghĩa giáo điều đến chủ nghĩa chỉ
đạo.” Rõ ràng, ông ta chỉ trích guồng máy lãnh đạo của cơ quan văn nghệ. Ông
ta nhận định văn nghệ đang “chung chung”, “nhàm chán”, “lải nhải”. Ông ta giải
thích, sự “bệnh hoạn” của “lập đi lập lại” vì phải viết theo công thức, vì thiếu
đa dạng về đề tài. Ngắn gọn, có sự bệnh hoạn. Vì nhà văn cứ phải thực thi “chính
sách Trăm Hoa”.
HỎI: Nếu Mao
Thuẫn nhận định như thế về đường lối văn nghệ, lại là Bộ trưởng văn hoá, sao ông
ta không bị thanh trừng?
ĐÁP: Để trả lời
câu này, phải trở về lý lịch cá nhân ông ta. Gia nhập Đảng từ 1921 và lúc đó,
ông ta , Shen Yen-Ping (Tấn Nguyên-Bình ? – ng.d) đã có những tác phẩm, và làm
biên tập cho 1 tờ tạp chí lớn, Tiểu Thuyết. Mao Thuẫn là bút danh về sau.
Khi cách mạng thất bại năm 1927 (Tưởng tàn sát Cộng sản tại Thượng Hải –ng.d),
ông ta ra khỏi Đảng. Nhưng ông ta tiếp tục viết, bút danh Mao Thuẫn, và nổi
danh. Đó, là lí do ông ta được làm Bộ trưởng Văn nghệ khi Mao chiếm chính quyền
năm 1949. Giữ chức cho đến 1965, thì xin về hưu. Tại sao ông ta không bị thanh
trừng? Vì chỉ phát biểu trong lúc được khuyến khích đua tiếng, và vì ông ta
không trong Đảng; và nhất là, trong Bộ, người thực quyền, lại là Châu Diên. Cũng
có tin ông ta bị bắt. Nhưng trong cách mạng 1925-27, tôi có dịp tiếp xúc với ông
ta, tôi thấy con người ông rất thận trọng. Và theo tôi, nếu không bị thanh
trừng, bởi ông không dám động chạm gì đến Mao, từ năm 1957.
HỎI: Như bà
nói, Châu Diên mới là thực sự cầm đầu, mà mới đây cũng bị tấn công. Ý kiến ông
ta về văn nghệ có giống Mao Thuẫn không?
ĐÁP: Châu Diên
có quan niệm văn nghệ y như Mao Thuẫn, có khi còn sâu sắc hơn. Nếu chúng ta cùng
xem lại bài của Diêu Văn Nguyên trên tờ Hồng Kỳ, số 1, 1967 “Về bọn phản cách
mạng, hai mang Châu Diên”, viết như sau:
“Châu
Diên, y như Hồ Phong, nhiều lần bào chữa quan điểm tuyên truyền rằng ”Nguyên tắc
cao nhất cho văn nghệ là sự thật”, y đòi chống “sự đơn giản hoá và nhạt nhẽo”,
chống những điều kiện đòi hỏi bắt buộc cho các nhà văn, chống nguyên tắc về văn
chương và tuyên truyền. Châu Diên còn lên án tính “giáo điều’ và tính “phe
nhóm”, cùng sự đối xử thô bạo với văn nghệ sĩ đã chỉ để giới hạn tự do của họ
một cách nghiêm trọng…
Về ”vấn đề
văn nghệ phục vụ chính trị”, y rất hẹp hòi, thiên lệch, hiểu biết thiếu đúng
đắn. Kết quả, y cho là “Không nên giới hạn về đề tài mà chúng ta còn phải cho
người đọc nhìn nhiều mặt của thiên nhiên, những quy luật lịch sử, bản chất đa
dạng của đời sống…Gạt những điều đó, đã phản ánh đúng hậu quả của phẩm chất văn
nghệ ngay thời đại bây giờ.”
Trong bài
khác, Châu Diên bị dẫn chứng để buộc tội, như sau:
“Rất tốt
nếu viết về trí thức, về chuyên gia, về những người khác, qua con mắt vô sản.
Tuy nhiên giới lao động không nên có cái nhìn phe phái; nghĩa là, không nên chỉ
được viết về đề tài công nhân cùng nông dân. Tư tưởng cho rằng văn nghệ vô sản
là chỉ được viết về công nhân và nông dân là không đúng.” (4)
Châu Diên
chống văn nghệ chỉ đẻ phục vụ chính trị, một cách rất đặc biệt. Ông ta từng nói,
”Nhà văn
không nên chỉ viết về đề tài đương thời và không nên chỉ viết theo chính sách hô
hào của ngày nay, để lại viết theo chính sách khác hô hào của ngày mai”. (5)
Bình về
chuyện này trên Vận Hội báo, tờ báo cấp tiến ở Hồng kông, Minh báo, kết
luận:
“Có thể
nói, Châu Diên nhìn nhận là nhà văn nên viết những gì chính họ thấy, và chính họ
cảm, ngay cả cái họ thấy và cảm không tương hợp với ý kiến và chính sách Đảng.
Nhà văn phải trung thành với sự việc, với sự thật, với những điều kiện khách
quan, và viết tự do như họ muốn.”
Như thế, Châu
Diên rõ là ủng hộ sự tự do trong lãnh vực viết văn.
HỎI: Nếu
Châu Diên không đồng ý với Mao, sao còn giữ được chức phó Bộ trưởng Văn Nghệ để
thi hành chính sách văn nghệ của Mao?
ĐÁP: Đây là câu
hỏi quan trọng, rất cần làm sáng tỏ việc này. Dưới sự độc tài cá nhân của Mao,
nhiều cán bộ cấp lãnh đạo trong Đảng có không đồng ý với Mao, cũng vẫn bắt buộc
phải thi hành quyết định của Mao. Châu Diên chỉ là một trong những cán bộ đó
thôi. Ông ta thường gặp cảnh mâu thuẫn như thế, tức là, dù không tán thành, còn
viết, còn tuyên bố nữa…về sự khác ý kiến. Nhưng khi có lệnh, vẫn thi hành lệnh.
Thí dụ, trong cuộc thanh trừng Hồ Phong năm 1955, khi bàn chuyện Hồ Phong, ông
ta nói,”Về chính trị, nói chung thì Hồ Phong vẫn đồng ý kiến với Đảng”. (7) Nói
cách khác, tức là ông ta không muốn chuyện Hồ Phong thành trầm trọng. Khi Mao
muốn thanh toán Hồ Phong, bắt liệt vào tội phản động, thì ông ta vẫn thi hành
lệnh.
Năm 1957, với
Đinh Linh, Phùng Tuyết-Phong, Ngãi Thanh bị đấu, ông ta cũng vào trường hợp mâu
thuẫn như thế. Đó mới làm Diêu Văn Nguyên bảo ông ta là “hai mang”, là “phản
cách mạng hai mặt”. Trên thực tế, nhiều cán bộ bắt buộc thi hành những đường lối
mà chính họ không đồng ý. Hiển nhiên là mâu thuẫn giữa Mao và cán bộ trong Đảng
có lúc lên cao điểm, đưa đến bùng nổ.
HỎI: Tư
tưởng Châu Diên có thể coi là tiêu biểu cho các cán bộ khác về lãnh vực văn hoá
không?
ĐÁP: Có. Tư
tưởng Châu Diên phản ánh đa số nhiều thành phần, đủ các cấp cán bộ. Thí dụ, hai
phó Bộ trưởng văn hoá, Sử Yên và Lâm Mộc-Hàn, cùng ban Bí thư Đảng phụ trách Hội
Liên hiệp Văn nghệ toàn quốc, Dương Hàn-Sơn, cùng tư tưởng với Châu Diên. Dương
Hàn-Sơn còn triệt để hơn là khác. Nên ông ta bị đấu còn nặng hơn rất nhiều
người.
HỎI: Bà có
thể cho biết thêm về ý kiến của ông Dương?
ĐÁP: Được chứ.
Nhưng trước tiên tôi phải nói về cá nhân ông ta. Dương Hàn-Sơn cũng là một bạn
học của tôi tại Thượng Hải năm 1923-24. Lúc đó ông ta đã là thành viên của
Đảng, hoạt động rất tích cực. Sau thất bại 1927, ông ta ở lại Thượng Hải hoạt
động bí mật. Chính lúc đó, tôi thường xuyên liên hệ với ông ta cùng vợ ông. Đến
1928, ông ta hoàn thành được vài tác phẩm, trở nên nổi tiếng, rồi thành một cán
bộ quan trọng trong Đảng.
Vì trung
thành với truyền thống Đảng trong cuộc cách mạng thứ nhì (1927 –ng.d) ông ta
không đồng ý với Mao việc áp đặt lên văn nghệ sĩ, và ông ta đã chỉ trích nặng
chuyện như thế. Thí dụ, 1962, trong cuộc họp các kịch tác gia, diễn viên tại
Quảng Đông, ông ta tuyên bố:
“Chính
sách của Đảng đối với văn nghệ (tức là, chính sách của Mao) tương đương với 10
sợi dây buộc tay buộc chân văn nghệ. 10 sợi dây tỏ lộ trong 5 bắt buộc: 1- Chỉ
được viết về những điều quan trọng. 2- Chỉ được viết về anh hùng hay những nhân
vật ngoại hạng. 3- Phải tham gia công trình sáng tác tập thể. 4- Phải hoàn tất
công tác viết trong thời hạn ấn định. 5- Phải được chấp thuận của lãnh đạo. Lại
thêm 5 nghiêm cấm, không được viết: 1-Về mâu thuẫn trong quần chúng, đặc biệt về
lãnh tụ với quần chúng.2- Về đề tài có tính mỉa mai 3- Về những bi kịch. 4- Về
khiếm khuyết hoặc thất bại của anh hùng. 5- Về nhược điểm của bất cứ lãnh đạo
nào của Đảng.Thế là làm cho nhà văn thành tuyệt vọng, vì rất khó cho sự viết
lách của anh ta, ngay cả khi có viết được gi, cũng chỉ là sự nhái lại.” (8)
Kết luận, ông
ta về phía ủng hộ chủ trương “Bỏ hết những ngăn cấm, bỏ hết những giới hạn cho
nhà văn. Phải tôn trọng luật sáng tác, thức là, phải có tự do cho nhà văn.”
Dương Hàn-Sơn
bị phê bình dữ dội từ phe Mao vì quan điểm trên, cùng nhiều chuyện khác nữa. Năm
1957, Dương cùng Tần Hán sang Nga dự kỷ niệm Cách mạng tháng 10. Lúc ở đó, họ
được xem nhiều vở kịch, trong đó có các vở kịch “Viễn cảnh Vô tận” và “Thanh
Điểu”. Hai vở này phơi ra tệ trạng của sùng bái cá nhân Stalin cùng sự thanh
trừng các đối thủ của Stalin. Kịch miêu tả sự cai trị của Stalin “không khác
dưới thời Sa Hoàng,” và chủ điểm là “Nga không còn phải sống trong sự khủng bố
nữa.” Khi Dương cùng Tần Hán về Trung quốc, Dương nhận định là các diễn viên Nga
đã “rất táo bạo”, còn chúng ta thì “rất nhút nhát”. “Chúng ta phải cải cách, nỗ
lực tối đa, để thành táo bạo, thành có sáng tạo”. (9)Thế là ông ta bị phe Mao
khép tội là “Xét lại - phản cách mạng”; trong khi ông ta chỉ bày tỏ ý kiến
chuyện giải hoặc Stalin đang diễn ra tại kịch nghệ bên Nga thế nào, mà
thôi. Chỉ có thế mà Mao không tha thứ.
HỎI: Còn
những lãnh đạo nào trong lãnh vực văn hoá, như Châu Diên, có chống lại đường lối
Mao không?
ĐÁP: Hầu hết
những ai không đồng ý về chính sách Văn nghệ đều không đồng ý với Mao trên nhiều
mặt khác nữa. Khi mà các lãnh đạo và cán bộ cùng sinh hoạt trên lãnh vực văn
nghệ đều thường xuyên tiếp xúc với nhà văn và nghệ sĩ là những người trực tiếp
liên hệ với dân chúng. Họ đều học được từ thực tế những cảm xúc, những nỗi khát
khao của dân. Thí dụ, trong cuộc họp ở Thái Nhơn năm 1962, gồm toàn thể nhà văn
cả nước, đại đa số đều bày tỏ sự bất mãn, phê bình thành quả của “Đại Nhảy vọt”,
đặc biệt về “Nhân Dân Công Xã” cũng như chính sách của Mao về văn nghệ. Họ cho
rằng “Cuộc sống dân chúng đang thê thảm” và “Tâm lý quần chúng rất xôn xao” và
“Đại Nhảy Vọt là liều thuốc kích thích”, và “Nhân Dân Công Xã là Chủ nghĩa phiêu
lưu”. Chính Châu Diên tuyên bố, “Đại Nhảy Vọt chứng tỏ sự duy ý chí”. Và,”Nhân
Dân công xã thi hành quá sớm”. Ông ta còn bảo,” Đẻ dân chúng sở hữu đất mới là
điều tốt”, còn bênh vực việc nên lập thị trường tự do tại thôn quê. (10)
Việc chỉ
trích Đại Nhảy Vọt và Nhân Dân Công Xã mà Châu Diên cùng các nhà
văn cất tiếng chỉ là tiếng dội cho những điều Bành Đức-Hoài đã nêu lên từ 1959.
Thế mà trong phiên họp khoáng đại các nhà văn toàn quốc năm 1964, Mao tuyên bố:
“Trong
mười lăm năm qua, những hiệp hội cùng những in ấn của họ (có một số cũng tốt) đã
tỏ ra thất bại…trong việc gánh vác chính sách của Đảng…cùng đã thất bại việc
phản ánh cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng xã hội chủ nghĩa. Những năm gần
đây, bọn họ còn ngả về chủ nghĩa xét lại. Nếu bọn ấy không nghiêm chỉnh sửa chữa
bản thân, sớm muộn gì, chúng cũng sẽ trở thành những tổ chức kiểu câu lạc bộ
Petofi bên Hung.” (11)
Theo lời Mao
nói, rõ là Mao sợ trí thức trong lãnh vực văn hoá, cũng dễ hiểu rằng tại sao Mao
phải làm cách mạng văn hoá và phải có cuộc thanh trừng những người đã chống Mao.
Mao sợ chuyện đã xảy ra 1956 ở Hung sẽ xảy ra ở Trung quốc, khởi đầu từ
những nhóm văn nghệ sĩ tương tự. Và đó là lí do có cuộc thanh trừng ngay trong
hàng ngũ cán bộ văn hoá trước nhất.
HỎI: Tại sao
có rất nhiều nhà giáo dục danh tiếng, như Lữ Bằng, khoa trưởng Đại học Bắc Kinh,
Lý Dật Đại học Vụ Hán, Khổng Gia-Minh Đại học Nam Kinh vân vân…cũng bị thanh
trừng? Họ có ý kiến bất đồng, hay có từ chối nhiệm vụ Mao đòi hỏi đâu?
ĐÁP: Những nhà
giáo này đã chống chính sách giáo dục của Mao. Đây là câu hỏi phức tạp và khó.
Để tôi trình bày những nét chính về thái độ của Mao đối với giáo dục.
Ngay khi Đảng
nắm quyền năm 1949, Mao đặt chính sách giáo dục theo nguyên tắc “giáo dục phục
vụ chính trị”. Thường xuyên Mao nhấn mạnh ý tưởng “sinh viên giáo viên phải tự
chỉnh tư tưởng”. Mao đòi hỏi sinh viên phải dự sinh hoạt chính trị, tham gia lao
động. Nói cách khác, Mao muốn sinh viên phải có tính Cộng sản, tức là làm cho họ
luôn phải chấp nhận và ủng hộ đường lối Đảng, còn những chuyện khác Mao không
coi là quan trọng; hay, chỉ coi là chuyện quan trọng hạng nhì. Vì chủ trương như
thế, giáo dục bị xuống cấp rất nhiều.
Trong Đại
Nhảy Vọt 1958, Mao đẩy mạnh tư tưởng “cách mạng giáo dục”. Ông ta chủ trương,
“giáo dục phải kèm theo công tác sản xuất”. Theo khẩu hiệu này, các giáo sư cũng
như sinh viên phải về nông thôn tham gia lao động tại các Nhân Dân Công Xã, một
số phải vào các xưởng sản xuất, và vẫn phải sinh hoạt, học tập chính trị. Trong
những điều kiện như thế, việc học của sinh viên ngưng trệ. Đó là hoàn cảnh những
năm 58-59.
Chính sách
Mao như thế, gây ra nhiều bất bình trong giáo giới, trong sinh viên. Thí dụ, Lý
Dật nói:
“Cách mạng
giáo dục đã triệt hủy tiến bộ học tập Những lớp học cơ bản đã bị hủy hoàn toàn.
Phẩm chất giáo dục đã sa sút, các phương pháp học tập thành ra vô tổ chức. Tất
cả các trường do Đảng kiểm soát đã thành vô chính phủ. Tương quan giữa thày trò,
giữa già trẻ, giữa quần chúng và Đảng đã ỏ mức độ tồi tệ nhất.”
(12)
Ông ta còn
nói: “Cách mạng Giáo dục năm 1958 gây ra tình trạng rất tai hại. Nó phá hủy mọi
sinh hoạt trí thức, hủy cả lòng tự trọng của con người’.
Khủng hoảng
mà Lý Dật đưa ra, là cảm nghĩ chung của đa số giáo chức, giáo sư, giáo viên,
sinh viên. Lý Dật là một trong những thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Trung
quốc, một trong 12 người đầu tiên dự Trung ương Đảng họp năm 1921. Ông được bầu
làm trưởng ban Tuyên huấn Trung ương. Sau đó ông từ chức, vì không đồng ý việc
hợp tác Quốc dân đảng, dù ông vẫn là người Mácxít. Ông đã dịch rất nhiều sách
Mácxít, phổ biến tư tưởng Mácxít trong rất nhiều bài viết. Rõ là ông giúp phổ
biến chủ thuyết Mác còn nhiều hơn, khi ông đã ra ngoài Đảng.
Khi thành
giáo sư, có cơ hội nghiên cứu giáo dục qua nhãn quan Mácxít, kể cả hệ thống giáo
dục tại Nga, ông trở thành nổi danh là nhà giáo dục Mácxít. Đó là lí do, khi nắm
quyền, Đảng CSTQ bổ nhiệm ông vào chức vụ Khoa trưởng Đại học Vụ Hán. Vì có hiểu
biết sâu sắc về giáo dục, mà ông nhận thức được sự nguy hiểm của chính sách giáo
dục Mao đề xuất và đã phê bình nghiêm khắc.
Sự phá sản
của Cách mạng Giáo dục cùng thất bại của Nhảy Vọt làm Mao không duy trì được
chính sách của mình, phải tạm thời rút vào hậu trường, để cho Lưu Thiếu-Kỳ, Đặng
Tiểu-Bình lãnh trách nhiệm đối phó với tình huống. Chính sách giáo dục, do vậy
phải sửa đổi và điều chỉnh. Trước tiên, Bộ giáo dục Trung Ương ấn hành tài liệu
“Sáu điểm Cải cách cho nền giáo dục cao cấp”. Điểm chính, là “khuyến khích
sinh viên hoàn tất bộ môn đặc biệt đã lựa, để họ có thời gian hoàn tất việc học.
Sinh viên vẫn được khuyến khích tham gia sinh hoạt lao động tập thể lẫn sinh
hoạt chính trị, tuy nhiên các sinh hoạt này không nên làm trở ngại việc học. Một
hệ thống giảng dạy cùng học hỏi được thành lập, cũng như các biện pháp thi hành
kỷ luật học đường giữa thày trò sẽ ban hành. Để nâng cấp giáo dục, việc thi cử
được tái lập. Sinh viên được khuyến khích theo các bộ môn khoa học cũng như ngôn
ngữ ngoại quốc. Trường không can thiệp chuyện tình cảm của sinh viên, không tạo
áp lực không thích nghi cho sinh viên. Chỉ quan tâm tới sức khoẻ cùng an sinh
của sinh viên”.
Đô trưởng Bắc
kinh, Bành Chân, rất hứng khởi với tân cải cách, đưa ra nhũng đề nghị cụ thể:
“Sinh viên
cùng thày giáo không nên đòi hỏi được học tập chính trị gấp gáp, cũng như không
nên xao nhãng việc học bằng cách tham gia sinh hoạt chính trị. Thày phải hiểu và
dạy môn của mình, cũng như trò phải biết học bài. Dùng tư tưởng chính trị trừu
tượng, giảng huấn mơ hồ, cùng các bản báo cáo chính trị trong lớp là điều phải
tránh.”
Khoa trưởng
Đại học Bắc Kinh, Lữ Nghị, từ 1961, đã bỏ hoàn toàn chính sách cách mạng giáo
dục, và áp dụng đường lối cải cách. Ông ta cắt giảm thời giờ sinh viên tham
gia sinh hoạt chính trị, vào công tác lao động để sinh viên có thì giờ học. Cho
nên sinh viên Bắc kinh trong 1961-62 đã khá hơn hẳn.
Lữ Nghị còn
đi xa hơn, dùng khẩu hiệu “Học Nga Xô”, có nghĩa Trung quốc còn có thể học thêm
các nước Tây phương về chính sách giáo dục, ông ta còn chủ trương mời các giáo
sư cũ đã bị trục xuất, trở về trong ban giảng huấn. Lý Dật, Khổng Gia-Minh cùng
nhiều nhà giáo dục khác cũng áp dụng đường lối cải cách như thế. Với Mao, như
thế là đi ngược chính sách “Giáo dục phục vụ chính trị” và “Giáo dục phải đồng
hành với sản xuất” của mình, cho nên coi sự cải cách là ”giáo dục xét lại” hoặc
“duy trì chính sách giáo dục buốc-gioa “. Nên phải thanh trừng bất cứ ai
chủ trương cải tổ giáo dục.
Ngày 13 tháng Sáu 1966, Mao ấn hành bản tin dưới danh nghĩa Trung ương Đảng và
Hôị đồng Nhà nước. Tài liệu này là bằng chứng cụ thể về vụ thanh trừng “xuyên
suốt của Cách mạng Giáo dục” tài các trường Đại và Trung học, nội dung có 2 điều
chính:
1. Toàn thể
Đại học và trung học phải đóng cửa 6 tháng để thi hành cách mạng văn hóa. Thực
ra, là đẻ thanh trừng ngay trong trường. Ngay sau ấn bản này, là cuộc đấu tố dữ
dội, mọi đối thủ của Mao đều bị thanh trừng.
2. Hầu hết
các đối thủ đều bị sinh viên thi hành lệnh từ Mao, kết quả là Lữ Bình, Lý Dật,
Khổng Gia-Minh, Bành Khang Khoa trưởng Đại học Thông tin Tây an, Hồ Lữ-Tịnh,
Viện trưởng Viện Âm nhạc Thượng Hải, Tưởng Nam-Tân Khoa trưởng Đại học Thanh
Hoa Bắc kinh đều bị. Nếu đếm cả các giáo sư, thật khó có con số đầy đủ. Nhưng có
thể nói là lên tới hàng ngàn.
Nhân Dân nhật
báo nêu câu hỏi, là để xem với sự bất khả sai lầm, “có thể đẩy tư tưởng Mao
Trạch Đông chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác” được không. Thật là giống như
tinh thần thờ phụng của tôn giáo đối với với kinh Thánh, mà việc Mao làm thanh
trừng trong cách mạng văn hóa không khác gì giáo hội Catô thanh trừng ngoại đạo
thời Trung cổ.
HỎI:Theo bà,
hậu quả việc này thế nào? Bà nghĩ gì về ảnh hưởng cách mạng văn hóa ẩnh hưởng
thế nào đối với văn hoá Trung quốc?
ĐÁP: Cuộc thanh
trừng của Mao bao gồm những cán bộ trong Ban Tuyên huấn Trung Ương, Bộ Văn hóa
Trung Ương, Toàn quốc Văn nghệ hội, Nghiệp hội Diễn viên toàn quốc, Hội Điện ảnh
toàn quốc, Liên Hội Công nhân thông tin Trung quốc…cũng như nhà văn, nhạc sĩ,
họa sĩ, giáo dục, giảng huấn vân vân. Thanh trừng họ, có nghĩa là thanh trừng
văn hoá Trung quốc. Tôi chỉ xin dẫn chứng hai việc để chứng minh Mao làm cách
mạng văn hoá, là để hủy diệt văn hoá Trung quốc:
1.
“Trong cách
mạng văn hoá” tháng Năm, năm 1966 đa số nhà văn không ai dám viết gì nữa. Xuất
bản sách ngưng, tác phẩm điện ảnh ngưng, xuất bản và tái bản sách ngoại quốc kể
cả tác gỉa Trung quốc cũng ngưng. Rất nhiều rạp hát, trình diễn văn nghệ cũng
đóng cửa. Nói cách khác, không cón sinh hoạt văn hoá nữa.
2. Sau khi các
trường học đóng cửa tháng Sáu 1966, chỉ lác đác vài trường mở lại, như ở Bắc
Kinh và Thiên Tân. Ngay trước cách mạng văn hóa, Trung quốc đã thiếu giáo sư
trầm trọng, nay còn thiếu hơn. Tệ hơn hết, là từ Mẫu giáo tới Trung học, không
có sách cho học sinh, khi mà mọi giấy in đều dành để in sách Mao mà thôi. Thí
dụ, nửa năm rồi, 15 triệu ấn bản Mao Tuyển được xuất bản, mỗi ấn bản gồm
4 quyển sách khổ lớn, lại có 80 triệu ấn bản khác đã dự định sẽ xuất bản trong
năm nay. Các sách khác, kể cả sách của Mác, Ăng-ghen và Lênin đã ngưng in hoàn
toàn. Cho nên tôi xin nói, là chả phải chỉ sinh hoạt văn hóa Trung quốc đã ngưng
đọng từ khi Mao làm cách mạng văn hóa, mà còn hủy hoại nó nữa.
Sau
hết, tôi muốn nói rằng Cách mạng văn hóa vô sản, trên lí thuyết, là phi
lí. Khi vô sản chiếm chính quyền trong một xứ, việc lớn nhất là lật đổ tàn dư tư
bản trên thế giới và hoàn tất cách mạng xã hội. Trước khi giai cấp tư bản thế
giới hủy diệt, thì không thể xây dựng đươc nền văn hóa vô sản chân chính. Tuy
nhiên, chỉ sau cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa toàn thế giới hoàn thành, vô sản
cũng tiêu biến; có nghĩa, là các giai cấp và, dĩ nhiên, cả giai cấp đối đầu cũng
bắt đầu tiêu biến. Thì rồi từ đó, thì, văn hóa xã hội chủ nghĩa mới bắt đầu tự
hình thành. Cho nên không thể thực hiện ngay được nền văn hóa vô sản.
Mao phát
động Cách Mạng văn hóa không chỉ phi lí trong lí thuyết, mà còn ngu xuẩn
trên thực tế. Kinh tế xã hội của Trung quốc rất hậu tiến, nhiều nơi vẫn còn
trong tình trạng sản xuất sơ khai. Về văn hóa, đa số nông dân còn mù chữ, bằng
gần nửa tổng số công nhân. Nếu với điều kiện như thế, mà phát động “cách mạng
văn hóa vô sản” để thành “4 hiện đại hoá, 4 mới” – văn hóa mới, tư tưởng mới,
thói quen mới, phong tục mới – thì không những chỉ trình ra sự ngu xuẩn, mà còn
phơi ra toàn những ảo tưởng của “Ngu xuẩn chủ nghĩa”.
Nếu
Mao thực lòng muốn nâng cấp văn hóa công nhân và nông dân, anh ta chỉ cần làm
giảm trình độ mù chữ của quần chúng. Để làm chuyện này, thì, trước tiên, cần
phải nâng mức sinh hoạt của quần chúng, có nghĩa, là tăng thu nhập, giảm giờ lao
động. Phải để quần chúng có thì giờ và năng lực học hỏi, rồi hẵng tham gia sinh
hoạt văn hóa. Mao thì ngược lại, đòi công nhân nông dân làm việc tăng giờ, mà
không hề lo chuyện cải thiện đời sống họ. Phong trào mới đây của Mao, là chống
bọn “kinh tế chủ nghĩa” để tỏ không nhượng bước giới lao động, đã tỏ rõ thái độ
Mao về chuyện này. Thế thì giai cấp lao động chỉ là công cụ sản xuất, phục vụ
quyền lợi cho giai cấp quan liêu.
Trên thực tế
có thể nói Mao dùng nhãn hiệu “vô sản” chỉ để hợp lý hóa sự tấn công cùng thanh
tẩy đối lập, vu họ là theo “con đường tư bản”. Tuy nhiên, chúng ta đều thấy là
Mao không hề tấn công con đường tư bản, cùng các thành phần tư bản vẫn di sót ở
Trung quốc. Nội điều đó, đủ chứng tỏ “Đại cách mạng văn hoá Vô sản” không gì
khác hơn, chỉ để duy trì guồng máy cai trị quan liêu và nạn sùng bái cá nhân.

Cước chú:
(1)
Hsieh
Yao-huan (Sử Diệp-hoa ?): Tên nữ nhân vầt đời Đường, triều Võ Tắc Thiên, bị oan.
Đặng Thu ? : T’eng T’o.
(2)
Bài viết ký
tên Diêu Văn-Nguyên, đăng trên Hồng Kỳ, số 1, 1967.
(3)
Shen
Yao-Ping, (Tấn Yên-Bình ?. Có bút hiệu là Mao Thuẫn).
(4)
Bài viết ký
tên Lý Thế-Khải, đăng trên Vận Hội báo, 31 tháng 7, 1966.
(5)
Như trên.
(6)
“Tái thẩm
định về Châu Diên”, Minh báo Nguyệt san, 8-1966.
(7)
Nhận diện con
người hai mặt”, Diêu Văn-Nguyên, Hồng Kỳ, 1966
(8)
Trích bài
chống Dương Hàn-Sơn, Nhân Dân, 29 tháng Chạp 1966.
(9)
Trích Lao
động nhật báo (Bắc Kinh), 27 tháng Hai, 1967.
(10) Vận Hội
báo, Thượng Hải, 31 tháng 7. 1967.
(11) Hồng Kỳ,
số 1, 1967.
(12) Minh
Báo, số 12, 1966.
PHỤ CHÚ
I.
Hoàng Thạch-Mễ. (ch.1947) – Gia nhập Đảng CS 1926, dịch gỉa nhiều sách
Mácxít. Cảm tình viên nhóm Trotskit TQ từ khi họ lập Nhóm, 1929, dịch vài văn
bản Trotskit sang Hoa ngữ, thư từ với Trần Độc Tú cho đến 1936. Đầu ’30, sang
học ở Nga. Đến Diên an cuối ’30. Năm 1942 viết “Những đóa Huệ hoang”, phê bình
hệ thống thứ bậc trong đảng, cũng kêu gọi nhà văn phải có tính độc lập với quyền
lực. “Tọa Đàm Diên an” của Mao lên án Hoàng Thạch-Mễ, Đinh Linh, Ngãi Thanh là
phi-Mácxít, không phục vụ văn học vô sản. Công thức của Mao: “Chính trị-Cách
mạng, Văn nghệ-Buốcgioa”. Sau Hoàng Thạch-Mễ bị phê, bị đấu, và bị tra tấn trong
tù. Cho đến mùa Thu 1947, quân Quốc Dân Đảng chiếm Diên an. Ông bị quân CS bắn
chết trong tù, trước khi quân CS rút khỏi thành phố.
II.
Đinh Linh. (1904 - ) – Nhà văn nữ hàng đầu Trung quốc, sinh quán Hồ Nam,
học ở Thượng Hải và Bắc Kinh. Nhập ĐCSTQ 1930, được giải Stalin qua truyện “Mặt
trời trên sông Tín Khang”. Vì tội hỗ trợ Phùng Tuyết-Phong, bị Châu Diên phê đấu
1954, (mất chức Tổng biên tập báo Văn Nghệ) nhưng kỷ luật chỉ giới hạn nội bộ.
Cho đến 1957, trong chiến dịch Trăm Hoa, bà thành mục tiêu cho cuộc thanh trừng,
bị nêu đích danh trên báo chí toàn quốc. Không chịu đầu hàng, Đinh Linh đào tị
12 năm, sống tại một làng hẻo lánh Đông-bắc Trung quốc, sát biên giới Nga. Bị
Hồng Vệ Binh bắt được trong Cách mạng Văn hoá, bị hành hạ, rồi bị biệt giam 5
năm, từ 1971-75. Được thả vì sức khoẻ quá suy sụp, phải cho vào Viện điều dưỡng
mới sống sót. Lại đào tị lần nữa, sống ẩn náu trong một làng nghèo xác xơ thuộc
Thiểm Tây. Cho đến tháng Sáu 1979, được rửa tiếng. Sau sống ở Bắc Kinh. Thành
viên của Trung quốc Tham vấn Chính trị Viện.
III.
Phùng Tuyết-Phong. (ch.1976) – Sinh khoảng đầu thế kỷ tại Triết Giang,
bạn học cùng lớp với Hồ Phong, Hoàng Phàn-Tây (lãnh tụ Trotskit) tại ĐH Bắc
Kinh. Nhà thơ, và là cây bút phê bình sắc bén. Gia nhập ĐCS 1927, thân cận nhiều
với Lỗ Tấn, cho đến năm Lỗ Tấn qua đời (1936). Tham gia cuộc Trường Chinh, có
khuynh hướng chống nhóm nhà văn ngả theo Stalin. Bị đấu năm 1954, cùng Đinh Linh
bị thanh trừng một lượt. Được rửa tiếng, 1979.
IV.
Hồ Phong. (1903 - ) - Cây bút nổi danh về phê bình, về tiểu luận, trở
thành mục tiêu bị phê bình dữ dội 1955. Từng là thành viên hội Thanh niên CS,
tham gia cách mạng 1925-27, nhưng chưa là cán bộ Đảng. Sang Nhật 1928-33, thân
cận với Lỗ Tấn, chống đối Châu Diên kịch liệt, chống phong trào chỉnh phong của
ĐCSTQ, tác giả các bài viết tạo ảnh hưởng rất lớn ở các tỉnh miền nam TQ. Tháng
6/1955, bị bắt. Đến 1979, được rửa tiếng.
V.
Ngãi Thanh. (1910 - ) – Một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất Trung
quốc. Trong nhóm những cây bút trong phong trào Tân Thanh Niên, Tân Văn Hoá của
Trần Độc-Tú. Sát cùng Lỗ Tấn trong thập niên ’30. Bị Pháp bắt bỏ tù 1932-35 tại
Tô giới Thượng Hải. Sau đó đến Diên an 1941. Được bầu vào ban Chấp hành Văn Nghệ
toàn quốc. Bị tố Hữu khuynh 1958, năm sau bị trục xuất khỏi Đảng, rồi vào trại
Lao cải ở Tín Khang, lao động 16 năm. Được rửa tiếng, 1978. Tác phẩm được xuất
bản trở lại.
VI. Châu
Diên.
(1908 - ) –
Học Văn ở Thượng Hải và Nhật cuối ’20, đầu ’30. Nhập ĐCSTQ thập niên 30, thành
một trong những khuôn mặt tiêu biểu cho nhóm văn nghệ Thượng Hải hồi bấy giờ.
Thành Bí thư của nhóm văn phái Tả, 1931-36. Châu, được hỗ trợ bởi Tần Hán và Sử
Yên, tìm cách đem văn chương vào với cách mạng, sau lại thành xung đột với các
nhà văn Tả khác, như Lỗ Tấn, và Hồ Phong. 1937, Châu đến Diên an, làm Trưởng ban
Tuyên Huấn của Đảng. Chỉ đạo chiến dịch chống các nhà văn bất tuân, tách ly
(quyền uy của Đảng) ở Diên an, đặc biệt với Hoàng Thạch-Mễ. Thành công, Châu trở
thành phó giám đốc Tuyên huấn trong Đảng 1951-66, thành khuôn mặt lớn về văn
hóa. Chỉ đạo vụ thanh trừng Đinh Linh và Hồ Phong. Rồi lại bị phe Mao tấn công,
(Tứ Nhân Bang) khi không ủng hộ triệt để trong sự sùng bái Mao, cùng tích cực
trong việc bài trừ trí thức, 1964. Bị thanh trừng, hè 1966, tội cáo là “phản
cách mạng”. Bản án được lật ngược sau khi Mao chết. Châu Diên được trở lại sinh
hoạt đầu năm 1979. Sau là một trong những khuôn mặt nổi bật nhất về văn nghệ
trong ĐCSTQ.
Cùng tác giả:
Sự sụp đổ các Đông Âu: Sự hình thành và biến dạng (Vũ Huy Quang)
Sự sụp đổ Đông Âu: Lòng ái quốc và chủ nghĩa Cộng sản (Vũ Huy Quang)
Tưởng nhớ ông Hoàng Khoa Khôi (Vũ Huy Quang)
Tưởng niệm một nhà cách mạng Trung quốc (Hoàng Phàn-Tây /Vũ Huy Quang dịch)
Tưởng Niệm Đinh- Bài Thơ Không Hi Vọng Được Công Bố (Vũ Huy Quang)
Vài góp ý về “Nội chiến” (Vũ Huy Quang)
Văn Nghệ và Chính Quyền (Vũ Huy Quang)
Vũ khí thay đổi nếp sống xã hội & lịch sử tại Nhật (Vũ Huy Quang)
Đọc "Tổ quốc ăn năn" của Nguyễn Gia Kiểng