Tưởng niệm một nhà cách mạng Trung quốc:

Trịnh Siêu-Lân, 1901-1998

-Hoàng Phàn-Tây

01 tháng 9, 2010

 

Trịnh Siêu-Lân, nhà cách mạng kỳ cựu của Đảng Cộng sản Trung quốc (ĐCSTQ) và của phong trào Trotskít Trung quốc, đã qua đời ngày 1 tháng Tám tại Thựợng Hải. Ông cống hiến cả cuộc đời mình trong việc giải phóng công nhân và nông dân Trung quốc, nhưng sự nghiệp của ông không chỉ giới hạn ở đó.

Trịnh là người cực kỳ uyên bác. Tài năng ông phong phú và đa diện. Cùng lúc, ông là nhà văn, nhà thơ, ngữ học gia, sử gia, và dịch gỉa. Những hoàn tất của ông, không những đã vô số mà còn đã thành điển hình. Trong mọi khía cạnh đời sống, luôn luôn ông tránh những tiếp cận hời hợt, chỉ ưa đào sâu cốt lõi sự việc, chuyên chú trau dồi khả năng cùng kiến thức.

Tất nhiên, ông trước tiên là nhà cách mạng bền bỉ, không khoan nhượng. Nỗ lực cùng những hoàn tất của ông trong nhiều lãnh vực khác nhau, vẫn là những mấu chốt trong sinh hoạt tư tưởng cách mạng của ông, đều ngấm tính cách mạng. Vì thế, tôi sẽ giới hạn trong bài điếu văn này, chỉ viết tóm tắt về đời ông, trên bình diện cuộc đời một nhà cách mạng.

 

 

 

 

Từ trái: Hoàng Phàn Tây, Frank Glass

Tận cùng phải: Trần Kỳ Chung (bị Vương Minh, Khang Sinh Vu là ăn tiền, làm gián điệp cho Nhật, về sau bị Nhật bắt được, giết bằng lưỡi lê) Chụp 1936 tại Thượng Hải. Cuốn Hồi Ký của Hoàng Phàn Tây đã dược in ra Anh ngữ, Nhật ngữ, Pháp ngữ, Tây Ban Nha và Đức ngữ.

Trịnh Siêu-Lân ra đời tại Thăng Bình, tỉnh Phúc Kiến năm 1901, từ nhỏ thụ huấn nền giáo dục truyền thống của Trung hoa. Đến 1919, ông sang Pháp, tham gia chương trình Cần-công kiệm-học (tức là vừa đi học, vừa phải đi làm trong các cơ xưởng kỹ nghệ ở Pháp để mưu sinh), rồi chịu ảnh hưởng tư tưởng Tây phương - đặc biệt từ cách mạng Nga.

Kết qủa, dần dần ông từ bỏ những vướng mắc về triết học Khổng, Mạnh, cả Lão, Trang…để tiếp nhận tư tưởng cách tân của Trần Độc-Tú cùng những người đồng tâm, theo đường lối của dân chủ và khoa học. Ngay sau đó, ông hấp thụ Mácxít. Rồi ngay sau, tư tưởng ông biến thành hành động.

Tháng Sáu 1922, một số thanh niên Trung quốc tại Âu châu mở cuộc họp tại Paris để thành lập “Thanh niên cộng sản đảng”, Trịnh Siêu-Lân trở thành một trong 18 đại biểu đầu tiên, cùng với Chu Ân-Lai, Triệu Thế-Viên, Di Khoan. Năm 1923, ông được chọn sang Nga, thụ huấn tại Mátcơva, trường Đại học Lao động Phương Đông.

Tháng Bảy 1924, khi ĐCSTQ cấp bách đòi được cung cấp thêm cán bộ vì nhu cầu tình thế cách mạng Trung quốc đang mở rộng, ông được gửi về nước, cùng nhóm với Trần Diên-Niên. Trịnh làm việc trong Ban Tuyên huấn Trung Ương, trông coi biên tập những báo chí của Đảng, soạn thảo các tài liệu huấn luyện nội bộ, viết nhiều bài tuyên truyền chủ trương đường lối Đảng cho quần chúng, dịch cuốn ABC về chủ nghĩa Cộng sản của Bukharin, đồng thời dạy tại trường Đảng, tức là - Đại học Thượng Hải.

Từ 1925-27, khi cách mạng Trung quốc trở thành lớn rộng, ông tham gia phong trào Ngũ Tạp (ngày 30 tháng Năm – ng. d) nổi tiếng, cùng tham gia các cuộc nổi dậy lần Hai, và Ba của công nhân Thượng Hải. Sau cuộc thảm sát đẫm máu của Tưởng Giới Thạch ngày 12, tháng Tư, 1927, Trịnh cùng Trung Ương rút về Vụ Hán, nơi ông dự Đại hội 5 của Đảng. Sau Đại hội, ông được chỉ định làm Trưởng Vụ ban Tuyên huấn tỉnh Hồ Bắc.

Sau khi cách mạng thất bại, ông dự cuộc họp khoáng đại thứ 7 đầy chấn động, rồi bí mật rời về Thượng Hải với ban Trung Ương tân lập, phụ trách tờ Bolshevik, giữ chức Tổng biên tập.

Năm 1928, ông đi Phúc Kiến để tái tổ chức nội bộ. Năm 1929, ông lập gia đình với Lưu Nhân-Tịnh, một đồng chí. Không lâu, ông bị QDĐ bắt. May là lý lịch không bị lộ, nên chỉ sau 40 ngày, ông được thả khỏi tù, do kết qủa là Đảng can thiệp bí mật cho ông.

Thành Trotskít.

Giữa 1929 và 1930, ông bắt đầu đọc được những luận định của Leon Trotsky viết về Cách Mạng Trung quốc. Bị ảnh hưởng sâu sắc, ông hướng về chủ nghĩa Trotsky, cùng lúc với Trần Độc-Tú và khoảng trên 80 đảng viên trong Đảng.

Tháng Năm 1931, Trịnh, Trần Độc-Tú và 3 đồng chí nữa đứng ra đại diện, thành lập “nhóm Vô Sản”, trong cuộc họp thống nhất tổ chức cùng 4 nhóm Trotskít khác. Ông được bầu vào ban Trung Ương, giữ nhiệm vụ Tuyên huấn.

Không lâu sau, ông lại bị QD Đ bắt, lần này bị án 15 năm tù, nhưng được tự do sau 7 năm, vì chiến tranh kháng Nhật bùng nổ.

Sau khi ra tù, ông tĩnh dưỡng ở 1 làng trong tỉnh An Huy cùng vợ, chuyên duyệt bản in, và dịch phần sót lại cuốn Cuộc Cách Mạng bị Phản Bội của Leon Trotsky (đã được dịch một phần ba, bởi hai Trotskít khác lúc họ bị tù, tại Nam Kinh).

Năm 1940, ông về Thượng Hải, cùng làm việc trong ban chủ biên tờ báo chui, TRANH ĐẤU. Cùng lúc, ông dịch Tập II và III cuốn Lịch Sử Cách Mạng Nga.của Leon Trotsky.

Khi Thế chiến II bùng nổ tại Âu châu 1939, nhiều ý kiến đối nghịch ngày càng nhiều trong hàng ngũ lãnh đạo Trotskít về nguyên tắc chính, là chuyện phải có thái độ thế nào đối với cuộc kháng chiến chống Nhật, mà biết đâu sẽ có ngày làm người Trung quốc sẽ phải tham gia vào một cuộc chiến mở rộng ngoài lãnh thổ Trung quốc - tức là cuộc chiến Thế giới. Cuộc tranh luận kéo dài, như không thỏa hiệp được, đã đưa đến rạn nứt làm đôi trong ban lãnh đạo, năm 1942.

Siêu-Lân là lãnh đạo của nhóm mà về sau có tên là Trung quốc Quốc tế Lao động Đảng. (Nhóm này lý luận: 1/ Tưởng đã tắm máu Cộng sản năm 1927 tại Thượng Hải. 2/ Đường lối Stalin là diệt Trotskít. 3/ Cộng tác Tưởng chống Nhật, chỉ tiếp tay cho QDĐ trong việc hỗ trợ cho Tưởng sẽ làm tay sai cho đế quốc Mỹ, mà Mỹ đang chống Nhật, chỉ vì đế quốc gây ra chiến tranh đế quốc. 4/ Ưu tiên phải làm, là làm cách mạng Vô sản. Nhóm Bành Thuật-Chi lý luận: 1/Tưởng sẽ phải chống Nhật, trừ phi quân Anh hay quân Mỹ tiến đánh Nhật ngay trên đất Trung hoa. 2/ Nếu không như thế, trong cuộc chiến kháng Nhật, những người Trốtkít không thể không tham gia được. Đây là vấn đề cực hệ trọng, sẽ đưa đến vu cáo của Stalin, Mao…cho Trotskít làm hoà với Nhật, làm tay sai, gián điệp, ăn tiền của Nhật…về sau này. Có thể đọc thêm China’s Urban Revolutionaries, Gregor Benton, tr. 39, hay Memoirs của Wang Fanxi, tr. 255 – Cũng có thể đọc thêm Tự thuật của Trịnh Siêu-Lân, xem phần cuối bài - chú thích Ng.d).

Chiếm đóng và Chiến tranh

Vào ngày 7 tháng Chạp, 1941 quân Nhật chiếm đóng, kiểm soát chặt chẽ toàn thể Tô giới Thượng Hải…làm mọi hoạt động cách mạng chống Nhật trở thành cực kỳ khó khăn. Từ đó cho đến khi Nhật bại trận, tháng Tám 1945, Siêu-Lân chỉ tập trung nỗ lực vào việc viết. Ngoài chuyện chủ bút tờ “Quốc Tế”, báo chui của nhóm Trotskít, ông viết hồi ký và Ba du khách, một tập hợp những biện luận chính trị dưới dạng đối thoại tưởng tượng.

Ông cũng viết ABC về Cách Mạng Thường Trực và Trần Độc-Tú tiểu sử cốt yếu (dở dang). Để sinh sống, ông dịch vài tác phẩm văn chương, trong đó có Fontamara của Ignazio Silone, cùng một cuốn của Andre Gide.

Từ 8-1945 đến 5-1949, từ khi Nhật đầu hàng và nội chiến giữa QDĐ và CS cho đến khi Cộng sản thắng tại Trung quốc, ông viết nhiều bài trong Tân Biểu Ngữ - tờ Bán nguyệt-san Trotskít - ra công khai. Sau khi ra được 21 số báo, thì bị QDĐ cấm.

Đêm trước quân Cộng Sản chiếm Thượng Hải, thì Siêu-Lân, được những người trong nhóm Quốc tế Công Nhân Đảng (QTCNĐ) trong cuộc họp để tái tổ chức, đã đề cử ông đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo. Thời kỳ ấy, ông sưu tầm những cơ bản của xã hội Trung hoa truyền thống, đề xuất việc hướng về một Trung quốc mới, và hoàn thành một tiểu phẩm, Về Chế độ Nhà Nước Tư bản.

Những thập niên trong nhà tù của Mao

Hai hoặc ba năm sau khi ĐCSTQ kiểm soát lãnh thổ, QTCNĐ tiếp tục duy trì sinh hoạt Đảng, theo quy định các Đảng CS và lan truyền ảnh hưởng. Kết qủa, là ngày 22 tháng Chạp 1952 toàn thể thành viên, cùng các nhóm khác cùng cả những cảm tình viên thuộc Trốtkít, bị quăng một mẻ lưới lên trên đầu bởi công an chính trị thuộc chính quyền Mao.

Cuộc phát động này không phải những người bị bắt không dự liệu. Để đề phòng, các Trotskít thuộc tổ chức khác, nhóm Bành Thuật-Chi, đã chuyển ban lãnh đạo sang Hong Kong. Nhóm Trịnh Siêu-Lân cũng đã quyết định đưa người đi sắp đặt, chuẩn bị trạm liên lạc tại Hong Kong.

Riêng Siêu-Lân, lại từ chối ra đi, nhất định ở lại Thượng Hải, dù biết chắc mối nguy hiểm chờ mình. Tinh thần thánh Peter sẵn lòng tuẫn đạo của ông đã không đưa ông tới nấm mồ, mà đưa ông tới hai-mươi-bảy năm trong tù, cộng thêm sự hành hạ thể xác lẫn tinh thần.

Tháng Sáu 1979, do kết qủa thay đổi trong ban lãnh đạo ĐCSTQ và với đáp ứng sự kêu gọi của cả trong và ngoài Trung quốc (năm 1979 ông được công nhận là Tù nhân Lương tâm của hội Ân Xá Quốc tế), Siêu-Lân và mười một người Trotskít khác được trả tự do.

Tổng cộng, Siêu-Lân đã trong tù ba-mươi-bốn năm, kết qủa từ QDĐ và ĐCS, tương đương với số năm ngồi tù của người tù chính trị trong cách mạng Pháp, thế kỷ 19, Louis Auguste Blanqui.

Trong mười-chín-năm giữa khi được thả 1979 và khi từ trần năm 1998, Trịnh Siêu-Lân tuy bị suy nhược sức khỏe vì những năm tháng tù đày, nhưng từ khước không sống cuộc sống an hưởng như nhiều người về hưu khác, vẫn nỗ lực ghê gớm trong việc phản ánh hay viết ra những biến chuyển xảy ra trong thế giới quanh ông.

Những năm ấy, ông hoàn thành ba điều:

- Thứ nhất, ông giúp các sử gia mọi ngành viết những sự chân thật về cách mạng Trung quốc và Đảng CS (kể cả về các Trốtskít Trung quốc), chỉnh lại những xoắn vặn lịch sử một cách ý thức hoặc vô ý thức, do các sử gia chính ngành hay không, đặc biệt là chống lại những vu cáo, bóp méo bởi Đảng CSTQ đã viết về Trần Độc-Tú.

- Thứ hai, ông tự phản ảnh lại một cách độc lập và có hệ thống, những câu hỏi cơ bản về Trung quốc và Cách mạng thế giới, sẵn sàng đưa ra luận cứ qua chữ viết, trong tham luận Về Cán Bộ chủ nghĩa của ông.

- Thứ ba, ông nhắc đi nhắc lại những đòi hỏi tới toàn ban chấp hành Đảng Cộng sản rằng, họ hãy rửa tiếng cho những người Trotskít Trung quốc, hãy công khai tuyên bố những người Trotskít (ở Trung quốc cũng như toàn thế giới) không hề là những người phản-cách mạng, hãy thừa nhận việc đàn áp những người Trotskít là sai lầm.

Ông ghi lại những nỗ lực của mình về chuyện này bằng trên một triệu chữ Trung hoa. Không may, là công trình ấy chỉ mới được in ra một khoản nhỏ. Ngay khi Siêu-Lân được hưởng tự do cá nhân sau 1979, và ngay cả được làm thành viên của Ủy ban Tham vấn chính trị thành phố Thượng Hải, ông vẫn tiếp tục bị khoác nhãn hiệu “Phản-cách mạng”, và hứng chịu những đối xử kỳ thị.

Những năm gần đây, hồi ức của ông được hai lần xuất bản “lưu hành nội bộ” (tức là giới hạn độc giả), và bản dịch Sự Hồi sinh các Thần Thánh của D. Merezhkovski tuy đã tái bản, nhưng không một tác phẩm chính nào của ông viết trong chủ đề lý tưởng hay các vấn đề chính trị - dù viết trong tù, hay sau khi đưọc thả ra - được phép xuất bản.

Vì Trịnh luôn kiên quyết duy trì sự chống đối chủ nghĩa Stalin cùng chủ nghĩa Mao, ông vẫn bị coi là “Phản-cách mạng”. Về tác phẩm chính của ông, chỉ hồi ức của ông là được in ra sang Anh ngữ, là cuốn An Oppositionist for Life: Memoirs of the Chinese Revolutionary Zheng Chao-Lin (Kẻ Đối lập suốt đời: Hồi ký của nhà Cách mạng Trung quốc: Trịnh Siêu-Lân) đã được in ở Mỹ, năm 1996, nhà Humanities Press xuất bản. (Hồi ký ông cũng được in ra Đức ngữ năm 1991 bởi ISP Verlag Frankfurt, bản dịch của Rudoff Segall với tựa Siebzig Jahr Rebell: Erinerrungen eines Chinesischen Revolutionars.)

Qua những quyển sách trên, mong bạn hữu thế giới có thể biết phần nào, về cuộc đời đáng kể của một nhà cách mạng Mácxít-Trotskít Trung quốc.

Vợ Siêu-Lân là Lưu Tịnh-Chân qua đời không đầy nửa năm, sau khi cùng Siêu-Lân được phóng thích khỏi trại lao cải, tháng Sáu, 1979. Con họ, Frei, sinh năm 1938, chết năm 1945. Những năm cuối đời, Siêu-Lân được cô cháu gái họ, đời thứ ba, trông nom.

Tháng Một-Chạp 1998.

(Vũ Huy Quang dịch)

– khi truy cập về tác phẩm của Wang Fan-xi, (Hoàng Phàn-Tây) lại tìm được bài điếu văn này, trên mạng Amazon.

 

Tự Thuật của người vào tuổi chín mươi

-Trịnh Siêu-Lân

(An Oppositionist for Life, Humanities Press, tr. 251-57)

 

Tên tôi là Trịnh Siêu-Lân. Tôi sinh năm 1901, theo cách tính tuổi ở Trung quốc, thì năm nay tôi được 90 tuổi.

Tôi ra đời ở Thăng Bình, một quận lỵ nhỏ trong vùng núi phía nam tỉnh Phúc Kiến. Gia đình tôi là một gia đình địa chủ cổ, có đất đai, đã đến lúc suy đồi, nhưng vẫn cố duy trì nếp sống giáo dục của nền văn hoá cổ. Khi còn bé, có “ngôi trường kiểu ngoại quốc” đã xuất hiện trong tỉnh, nhưng tôi vẫn theo học chương trình tư thục kiểu cũ, cho đến khi tôi học xong chương trình căn bản, mới vào trường kiểu mới để lấy bằng sơ học. Tôi học xong chương trình trung học ở trường cổ, nghĩa là, sau khi đã hoàn thành chương trình học truyền thống, mất có 4 năm.

Tôi tốt nghiệp trung học cùng vào năm có Phong Trào Ngũ Tứ phát khởi. Trong cái quận nhỏ của tôi tuốt trên núi, chúng tôi chỉ biết sinh viên đang hô hào tẩy chay hàng hoá Nhật, mà chẳng biết gì về “Phong trào Tân văn hoá”.

Mùa xuân năm đó, khi đang chuẩn bị thi tốt nghiệp, bộ đội Quốc Dân Đảng của Trần Quýnh Minh từ Quảng Đông tràn vào Phúc Kiến, chiếm mạn bắc của tỉnh, tức là quê tôi. Trần Quýnh Minh ra lệnh mỗi quận trong quyền ông ta phải lựa nộp 2 sinh viên để đi Pháp “Cần-Học”. Mỗi sinh viên được 300 đô la học bổng hàng năm do quỹ địa phương của ông ta cấp. Đó là lý do tại sao tôi đến nước Pháp. Sinh viên học Phúc Kiến du học ở Pháp trong chương trình “cần công kiệm học” cũng giống như sinh viên nơi khác, chỉ khác là sinh viên các nơi kia không được học bổng trợ giúp từ quỹ địa phương, như chúng tôi được mà thôi.

Tôi có kinh nghiệm với “Phong trào Tân văn hóa” trên cái tàu chở tôi đi Pháp. Lần đầu tôi đọc “Tân Thanh niên” và biết thế nào là “Tân văn hóa”. Rồi khi vỡ ra được sự xung đột của văn hóa mới với cái văn hóa cũ mà tôi được học ở quê, nguyên do thế nào, thì tàu đã ra tới biển.

(…Lược bỏ những hoạt động trong Đảng, và những lúc bị bắt, đã được Hoàng Phàn-Tây ghi)

Đoạn cuối:

Để cùng dịp ăn mừng sinh nhật 90 của tôi, tuy đang rất vui vẻ, tưởng chúng ta cũng vẫn nên nhìn thế giới quanh ta, với bao biến đổi, xem kết quả ai đúng ai sai về cuộc tranh luận lớn nhất thế kỷ nay. Tôi muốn nói là cuộc tranh luận về thuyết “xã hội chủ nghĩa trong một xứ”, có thể thực hiện được hay không?

Đầu 1924, Lênin qua đời. Mùa thu năm ấy, tình huống xung đột nội bộ trong Đảng Cộng Sản Xô-viết lần lần hiện rõ. Không phải chủ đề tranh luận là về cung cách làm việc, mà về những ý kiến khác nhau trên lý thuyết căn bản. Stalin đề nghị lý thuyết là, xã hội chủ nghĩa có thể xây dựng trong một xứ. Lý thuyết này không tương hợp với thuyết Mác, và chính Stalin cũng đã tự mình viết ra, thừa nhận như thế, vào đầu năm 1924 trong đề cương, “Về Nền tảng của học thuyết Lênin”. Những Cựu trào Bolshevik như Zinoviev và Kamenev khi trước về phe Stalin chống Trotsky, dần dần cũng bỏ Stalin ngả theo Trotsky. Nhóm Đối lập Thống nhất đã giữ vững lập trường, rằng xã hội chủ nghĩa chỉ có khả năng thể hiện được trong khuôn khổ cách mạng thế giới, và chống lý thuyết của phái Stalin.

Đã 60 năm rồi, Stalin và những người Stalinít, trước đã đem thực tế của Liên bang Nga, sau với thực tế của các “Nhà nước Xã hội” ở Đông Âu cùng các nơi khác, để chứng minh bằng thực tế, thì “xã hội chủ nghĩa trong một xứ” đã thể hiện được. Nhưng các biến cố tại các xứ ấy, mới năm ngoái đây và ngay năm nay, chứng tỏ điều gì?

Bảy mươi năm trước, khi tôi mới 20 tuổi, Đảng Xã Hội hay Đảng Xã Hội Dân chủ tại nhiều nước khác nhau đã đổi tên thành Đảng Cộng Sản (dĩ nhiên, cũng vẫn còn vài nước đã không đổi để giữ nguyên tình trạng cũ). Nhưng năm ngoái, và năm nay, chúng ta thấy tình hình trái ngược: Đảng Cộng Sản nhiều nước lại đổi tên Đảng từ Đảng Cộng Sản thành Đảng Xã Hội, hoặc Đảng Xã Hội Dân chủ (dĩ nhiên, cũng vẫn còn vài nước đã không đổi để giữ nguyên tình trạng cũ).

Bảy mươi năm trước, một diễn trình xuất hiện, nay diễn trình ngược lại, xuất hiện (*). Chuyện này có nghĩa gì? Đa phần bảo, đó là sự biểu hiện của sự phá sản thuyết Xã hội chủ nghĩa. Nhưng nói như thế, là nói sai. Đó, chính là sự phá sản của chủ thuyết Stalin, thuyết “xã hội chủ nghĩa trong một xứ”. Những người Trotskít chúng tôi là những người duy nhất đã dám – và cả chứng minh nữa – để có kết luận ấy. Vì chỉ chúng tôi mới biết chắc rằng xã hội chủ nghĩa không thể thi hành được trong một xứ, hay vài xứ. Không bao giờ chúng tôi thừa nhận rằng hệ thống của Liên Bang Xô viết, hay của các “nhà nước xã hội “ nào khác, là thực hiện được Xã hội chủ nghĩa cả. Xã hội chủ nghĩa không thể xây dựng được trong một xứ.

Cuộc tranh biện lớn nhất trong lịch sử thế kỷ hai mươi, từng kéo dài gần 70 năm, đã được phán quyết: Trotsky đúng, Stalin sai.

Rất mừng là tôi được sống tới tuổi 90 để thấy cuộc tranh luận đã kết thúc. Không biết tôi có sống lâu đủ để chứng kiến sự bùng ra lần nữa, được thấy một cuộc cách mạng thứ nhì cũng dâng trào, hay không?

Tháng Năm, 1990.

-Vũ Huy Quang dịch, 8-2010.

 

Cước chú (ng.d):

Friedrich Engels in 1845

(*) Trước thì bỏ Dân chủ Xã hội, để thành cộng sản. Nay thì bỏ cộng sản, để thành dân chủ xã hội. Lịch sử có lập lại không? Mới trăm năm trước, ai tiến bộ, phải là cộng sản. Nay ai là cộng sản, lại là không theo kịp thời đại. Thời Ăng ghen, thì họp cộng sản, có hết mọi người, chỉ trừ người vô sản. Thời nay, có rất nhiều vô sản, nhưng không có người cộng sản…!? Ông Trịnh Siêu-Lân viết rất hóm hỉnh về chuyện Dân chủ Xã hội và cộng sản, mới có 70 năm nay đã thay đổi biết bao. Cũng khoảng 70 năm trước, Lênin nhắc khéo y như thế trong Lenin on Engels, mà chúng tôi xin trích đoạn, như sau.

Lênin mô tả chuyên ông thấy ở Nga, so với ở Đức thời Mác:

Đời sống công cộng tại thành phố Đức năm 1844 y như ở Nga vào đầu thế kỷ 20, trước cách mạng 1905. Ai cũng bàn chính trị, đâu đâu cũng có thái độ nhờm gớm và chống đối chính quyền. Các ông thày tu la rầy thanh niên vì thái độ vô thần của chúng, còn trẻ con các gia đình buốc gioa thì cãi lại cha mẹ, vì cha mẹ chúng đã tỏ thái độ quan cách với đám “gia nhân hay công nhân”. Thái độ chống đối lộ ra rõ nhất trong tất cả những ai tự nhận mình là cộng sản.

“Ông Cò ở Barmen là cộng sản,” Ăng ghen viết cho Mác. “Tôi ở Cologne, ở Dusseldorf, ở Elberfeld – bất cứ đâu – từng bước đi, cũng gặp một người cộng sản!”

Một anh cộng sản nhiệt tình, một nghệ sĩ, một tay vẽ phóng tên Seel, sắp đi Paris trong hai tháng nữa. Tôi sẽ giới thiệu với anh. Tôi cho anh ta lời giới thiệu đến anh. Thế nào cũng hợp nhau. Anh này hăng hái, thích nhạc, sẽ có ích trong việc vẽ hoạt hình.

Phép lạ đang xảy ra tại Elberfeld. Hôm qua (thư đề ngày 22 Tháng Hai, 1845), trong khách phòng lớn, tại tiệm ăn khá nhất tỉnh, chúng tôi tổ chức được cuộc hội họp cộng sản lần thứ ba. Buổi đầu có 40 người, lần nhì có 130 người, lần ba có ít nhất 200 người. Toàn thể Elberfeld và Barmen, từ người có tiền lắm bạc cho đến bọn tiểu tư sản chủ cửa tiệm, đều có mặt, chỉ một ngoại lệ, là chẳng có người vô sản nào cả.”

Đó là những lời đích xác của Ăng ghen. Tại Đức, họ đều là cộng sản, chỉ trừ không có vô sản. Cộng sản là biểu tượng của sự chống đối của hầu hết mọi người, và họ hầu hết – là buốc gioa”.

( - Lênin, Kỷ niệm ngày mất Ăng ghen thứ 40. - International Publishers, New York, 1935).

 


Cùng tác giả:


Sự sụp đổ các Đông Âu: Sự hình thành và biến dạng (Vũ Huy Quang)
Sự sụp đổ Đông Âu: Lòng ái quốc và chủ nghĩa Cộng sản (Vũ Huy Quang)
Tưởng nhớ ông Hoàng Khoa Khôi (Vũ Huy Quang)
Tưởng niệm một nhà cách mạng Trung quốc (Hoàng Phàn-Tây /Vũ Huy Quang dịch)
Tưởng Niệm Đinh- Bài Thơ Không Hi Vọng Được Công Bố (Vũ Huy Quang)
Vài góp ý về “Nội chiến” (Vũ Huy Quang)
Văn Nghệ và Chính Quyền (Vũ Huy Quang)
Vũ khí thay đổi nếp sống xã hội & lịch sử tại Nhật (Vũ Huy Quang)
Đọc "Tổ quốc ăn năn" của Nguyễn Gia Kiểng


Trang Thời Sự - Chính Trị