 |
01 tháng 9, 2010 |
Trịnh Siêu-Lân,
nhà cách mạng kỳ cựu của Đảng Cộng sản Trung quốc (ĐCSTQ) và của phong trào
Trotskít Trung quốc, đã qua đời ngày 1 tháng Tám tại Thựợng Hải. Ông cống hiến
cả cuộc đời mình trong việc giải phóng công nhân và nông dân Trung quốc, nhưng
sự nghiệp của ông không chỉ giới hạn ở đó.
Trịnh là
người cực kỳ uyên bác. Tài năng ông phong phú và đa diện. Cùng lúc, ông là nhà
văn, nhà thơ, ngữ học gia, sử gia, và dịch gỉa. Những hoàn tất của ông, không
những đã vô số mà còn đã thành điển hình. Trong mọi khía cạnh đời sống, luôn
luôn ông tránh những tiếp cận hời hợt, chỉ ưa đào sâu cốt lõi sự việc, chuyên
chú trau dồi khả năng cùng kiến thức.
Tất nhiên,
ông trước tiên là nhà cách mạng bền bỉ, không khoan nhượng. Nỗ lực cùng những
hoàn tất của ông trong nhiều lãnh vực khác nhau, vẫn là những mấu chốt trong
sinh hoạt tư tưởng cách mạng của ông, đều ngấm tính cách mạng. Vì thế, tôi sẽ
giới hạn trong bài điếu văn này, chỉ viết tóm tắt về đời ông, trên bình diện
cuộc đời một nhà cách mạng.

Từ trái: Hoàng Phàn Tây, Frank Glass
Tận cùng phải: Trần Kỳ Chung (bị Vương Minh,
Khang Sinh Vu là ăn tiền, làm gián điệp cho Nhật, về sau bị Nhật bắt được, giết
bằng lưỡi lê) Chụp 1936 tại Thượng Hải. Cuốn Hồi Ký của Hoàng Phàn Tây đã dược
in ra Anh ngữ, Nhật ngữ, Pháp ngữ, Tây Ban Nha và Đức ngữ.
|
Trịnh Siêu-Lân ra đời tại Thăng Bình, tỉnh Phúc Kiến năm 1901, từ nhỏ thụ huấn nền
giáo dục truyền thống của Trung hoa. Đến 1919, ông sang Pháp, tham gia chương
trình Cần-công kiệm-học (tức là vừa đi học, vừa phải đi làm trong các cơ
xưởng kỹ nghệ ở Pháp để mưu sinh), rồi chịu ảnh hưởng tư tưởng Tây phương - đặc
biệt từ cách mạng Nga.
Kết qủa, dần
dần ông từ bỏ những vướng mắc về triết học Khổng, Mạnh, cả Lão, Trang…để tiếp
nhận tư tưởng cách tân của Trần Độc-Tú cùng những người đồng tâm, theo đường lối
của dân chủ và khoa học. Ngay sau đó, ông hấp thụ Mácxít. Rồi ngay sau, tư tưởng
ông biến thành hành động.
Tháng Sáu
1922, một số thanh niên Trung quốc tại Âu châu mở cuộc họp tại Paris để thành
lập “Thanh niên cộng sản đảng”, Trịnh Siêu-Lân trở thành một trong 18 đại biểu
đầu tiên, cùng với Chu Ân-Lai, Triệu Thế-Viên, Di Khoan. Năm 1923, ông được chọn
sang Nga, thụ huấn tại Mátcơva, trường Đại học Lao động Phương Đông.
Tháng Bảy
1924, khi ĐCSTQ cấp bách đòi được cung cấp thêm cán bộ vì nhu cầu tình thế cách
mạng Trung quốc đang mở rộng, ông được gửi về nước, cùng nhóm với Trần
Diên-Niên. Trịnh làm việc trong Ban Tuyên huấn Trung Ương, trông coi biên tập
những báo chí của Đảng, soạn thảo các tài liệu huấn luyện nội bộ, viết nhiều bài
tuyên truyền chủ trương đường lối Đảng cho quần chúng, dịch cuốn ABC về chủ
nghĩa Cộng sản của Bukharin, đồng thời dạy tại trường Đảng, tức là - Đại học
Thượng Hải.
Từ 1925-27,
khi cách mạng Trung quốc trở thành lớn rộng, ông tham gia phong trào Ngũ Tạp
(ngày 30 tháng Năm – ng. d) nổi tiếng, cùng tham gia các cuộc nổi dậy lần Hai,
và Ba của công nhân Thượng Hải. Sau cuộc thảm sát đẫm máu của Tưởng Giới Thạch
ngày 12, tháng Tư, 1927, Trịnh cùng Trung Ương rút về Vụ Hán, nơi ông dự Đại hội
5 của Đảng. Sau Đại hội, ông được chỉ định làm Trưởng Vụ ban Tuyên huấn tỉnh Hồ
Bắc.
Sau khi cách
mạng thất bại, ông dự cuộc họp khoáng đại thứ 7 đầy chấn động, rồi bí mật rời về
Thượng Hải với ban Trung Ương tân lập, phụ trách tờ Bolshevik, giữ chức Tổng
biên tập.
Năm 1928, ông
đi Phúc Kiến để tái tổ chức nội bộ. Năm 1929, ông lập gia đình với Lưu
Nhân-Tịnh, một đồng chí. Không lâu, ông bị QDĐ bắt. May là lý lịch không bị lộ,
nên chỉ sau 40 ngày, ông được thả khỏi tù, do kết qủa là Đảng can thiệp bí mật
cho ông.
Thành
Trotskít.
Giữa 1929 và
1930, ông bắt đầu đọc được những luận định của Leon Trotsky viết về Cách Mạng
Trung quốc. Bị ảnh hưởng sâu sắc, ông hướng về chủ nghĩa Trotsky, cùng lúc với
Trần Độc-Tú và khoảng trên 80 đảng viên trong Đảng.
Tháng Năm
1931, Trịnh, Trần Độc-Tú và 3 đồng chí nữa đứng ra đại diện, thành lập “nhóm Vô
Sản”, trong cuộc họp thống nhất tổ chức cùng 4 nhóm Trotskít khác. Ông được bầu
vào ban Trung Ương, giữ nhiệm vụ Tuyên huấn.
Không lâu
sau, ông lại bị QD Đ bắt, lần này bị án 15 năm tù, nhưng được tự do sau 7 năm,
vì chiến tranh kháng Nhật bùng nổ.
Sau khi ra
tù, ông tĩnh dưỡng ở 1 làng trong tỉnh An Huy cùng vợ, chuyên duyệt bản in, và
dịch phần sót lại cuốn Cuộc Cách Mạng bị Phản Bội của Leon Trotsky (đã
được dịch một phần ba, bởi hai Trotskít khác lúc họ bị tù, tại Nam Kinh).
Năm 1940, ông
về Thượng Hải, cùng làm việc trong ban chủ biên tờ báo chui, TRANH ĐẤU.
Cùng lúc, ông dịch Tập II và III cuốn Lịch Sử Cách Mạng Nga.của Leon
Trotsky.
Khi Thế chiến
II bùng nổ tại Âu châu 1939, nhiều ý kiến đối nghịch ngày càng nhiều trong hàng
ngũ lãnh đạo Trotskít về nguyên tắc chính, là chuyện phải có thái độ thế nào đối
với cuộc kháng chiến chống Nhật, mà biết đâu sẽ có ngày làm người Trung quốc sẽ
phải tham gia vào một cuộc chiến mở rộng ngoài lãnh thổ Trung quốc - tức là cuộc
chiến Thế giới. Cuộc tranh luận kéo dài, như không thỏa hiệp được, đã đưa đến
rạn nứt làm đôi trong ban lãnh đạo, năm 1942.
Siêu-Lân là
lãnh đạo của nhóm mà về sau có tên là Trung quốc Quốc tế Lao động Đảng.
(Nhóm này lý luận: 1/ Tưởng đã tắm máu Cộng sản năm 1927 tại Thượng Hải. 2/
Đường lối Stalin là diệt Trotskít. 3/ Cộng tác Tưởng chống Nhật, chỉ tiếp tay
cho QDĐ trong việc hỗ trợ cho Tưởng sẽ làm tay sai cho đế quốc Mỹ, mà Mỹ đang
chống Nhật, chỉ vì đế quốc gây ra chiến tranh đế quốc. 4/ Ưu tiên phải làm, là
làm cách mạng Vô sản. Nhóm Bành Thuật-Chi lý luận: 1/Tưởng sẽ phải chống Nhật,
trừ phi quân Anh hay quân Mỹ tiến đánh Nhật ngay trên đất Trung hoa. 2/ Nếu
không như thế, trong cuộc chiến kháng Nhật, những người Trốtkít không thể không
tham gia được. Đây là vấn đề cực hệ trọng, sẽ đưa đến vu cáo của Stalin,
Mao…cho Trotskít làm hoà với Nhật, làm tay sai, gián điệp, ăn tiền của Nhật…về
sau này. Có thể đọc thêm China’s Urban Revolutionaries, Gregor Benton,
tr. 39, hay Memoirs của Wang Fanxi, tr. 255 – Cũng có thể đọc thêm Tự
thuật của Trịnh Siêu-Lân, xem phần cuối bài - chú thích Ng.d).
Chiếm đóng và
Chiến tranh
Vào ngày 7
tháng Chạp, 1941 quân Nhật chiếm đóng, kiểm soát chặt chẽ toàn thể Tô giới
Thượng Hải…làm mọi hoạt động cách mạng chống Nhật trở thành cực kỳ khó khăn. Từ
đó cho đến khi Nhật bại trận, tháng Tám 1945, Siêu-Lân chỉ tập trung nỗ lực vào
việc viết. Ngoài chuyện chủ bút tờ “Quốc Tế”, báo chui của nhóm Trotskít, ông
viết hồi ký và Ba du khách, một tập hợp những biện luận chính trị dưới
dạng đối thoại tưởng tượng.
Ông cũng viết
ABC về Cách Mạng Thường Trực và Trần Độc-Tú tiểu sử cốt yếu (dở dang).
Để sinh sống, ông dịch vài tác phẩm văn chương, trong đó có
Fontamara của Ignazio Silone, cùng một cuốn của Andre Gide.
Từ 8-1945 đến
5-1949, từ khi Nhật đầu hàng và nội chiến giữa QDĐ và CS cho đến khi Cộng sản
thắng tại Trung quốc, ông viết nhiều bài trong Tân Biểu Ngữ - tờ Bán
nguyệt-san Trotskít - ra công khai. Sau khi ra được 21 số báo, thì bị QDĐ cấm.
Đêm trước
quân Cộng Sản chiếm Thượng Hải, thì Siêu-Lân, được những người trong nhóm Quốc
tế Công Nhân Đảng (QTCNĐ) trong cuộc họp để tái tổ chức, đã đề cử ông đảm nhiệm
chức vụ lãnh đạo. Thời kỳ ấy, ông sưu tầm những cơ bản của xã hội Trung hoa
truyền thống, đề xuất việc hướng về một Trung quốc mới, và hoàn thành một tiểu
phẩm, Về Chế độ Nhà Nước Tư bản.
Những thập
niên trong nhà tù của Mao
Hai hoặc ba
năm sau khi ĐCSTQ kiểm soát lãnh thổ, QTCNĐ tiếp tục duy trì sinh hoạt Đảng,
theo quy định các Đảng CS và lan truyền ảnh hưởng. Kết qủa, là ngày 22 tháng
Chạp 1952 toàn thể thành viên, cùng các nhóm khác cùng cả những cảm tình viên
thuộc Trốtkít, bị quăng một mẻ lưới lên trên đầu bởi công an chính trị thuộc
chính quyền Mao.
Cuộc phát
động này không phải những người bị bắt không dự liệu. Để đề phòng, các Trotskít
thuộc tổ chức khác, nhóm Bành Thuật-Chi, đã chuyển ban lãnh đạo sang Hong Kong.
Nhóm Trịnh Siêu-Lân cũng đã quyết định đưa người đi sắp đặt, chuẩn bị trạm liên
lạc tại Hong Kong.
Riêng
Siêu-Lân, lại từ chối ra đi, nhất định ở lại Thượng Hải, dù biết chắc mối nguy
hiểm chờ mình. Tinh thần thánh Peter sẵn lòng tuẫn đạo của ông đã không đưa ông
tới nấm mồ, mà đưa ông tới hai-mươi-bảy năm trong tù, cộng thêm sự hành hạ thể
xác lẫn tinh thần.
Tháng Sáu
1979, do kết qủa thay đổi trong ban lãnh đạo ĐCSTQ và với đáp ứng sự kêu gọi của
cả trong và ngoài Trung quốc (năm 1979 ông được công nhận là Tù nhân Lương tâm
của hội Ân Xá Quốc tế), Siêu-Lân và mười một người Trotskít khác được trả tự do.
Tổng cộng,
Siêu-Lân đã trong tù ba-mươi-bốn năm, kết qủa từ QDĐ và ĐCS, tương đương với số
năm ngồi tù của người tù chính trị trong cách mạng Pháp, thế kỷ 19, Louis
Auguste Blanqui.
Trong
mười-chín-năm giữa khi được thả 1979 và khi từ trần năm 1998, Trịnh Siêu-Lân tuy
bị suy nhược sức khỏe vì những năm tháng tù đày, nhưng từ khước không sống cuộc
sống an hưởng như nhiều người về hưu khác, vẫn nỗ lực ghê gớm trong việc phản
ánh hay viết ra những biến chuyển xảy ra trong thế giới quanh ông.
Những năm ấy,
ông hoàn thành ba điều:
- Thứ nhất, ông
giúp các sử gia mọi ngành viết những sự chân thật về cách mạng Trung quốc và
Đảng CS (kể cả về các Trốtskít Trung quốc), chỉnh lại những xoắn vặn lịch sử một
cách ý thức hoặc vô ý thức, do các sử gia chính ngành hay không, đặc biệt là
chống lại những vu cáo, bóp méo bởi Đảng CSTQ đã viết về Trần Độc-Tú.
- Thứ hai, ông
tự phản ảnh lại một cách độc lập và có hệ thống, những câu hỏi cơ bản về Trung
quốc và Cách mạng thế giới, sẵn sàng đưa ra luận cứ qua chữ viết, trong tham
luận Về Cán Bộ chủ nghĩa của ông.
- Thứ ba, ông
nhắc đi nhắc lại những đòi hỏi tới toàn ban chấp hành Đảng Cộng sản rằng, họ hãy
rửa tiếng cho những người Trotskít Trung quốc, hãy công khai tuyên bố những
người Trotskít (ở Trung quốc cũng như toàn thế giới) không hề là những người
phản-cách mạng, hãy thừa nhận việc đàn áp những người Trotskít là sai lầm.
Ông ghi lại
những nỗ lực của mình về chuyện này bằng trên một triệu chữ Trung hoa. Không
may, là công trình ấy chỉ mới được in ra một khoản nhỏ. Ngay khi Siêu-Lân được
hưởng tự do cá nhân sau 1979, và ngay cả được làm thành viên của Ủy ban Tham vấn
chính trị thành phố Thượng Hải, ông vẫn tiếp tục bị khoác nhãn hiệu “Phản-cách
mạng”, và hứng chịu những đối xử kỳ thị.
Những năm gần
đây,
hồi ức của ông được hai lần xuất bản “lưu hành nội bộ” (tức là giới hạn độc
giả), và bản dịch Sự Hồi sinh các Thần Thánh của D. Merezhkovski tuy đã
tái bản, nhưng không một tác phẩm chính nào của ông viết trong chủ đề lý tưởng
hay các vấn đề chính trị - dù viết trong tù, hay sau khi đưọc thả ra - được phép
xuất bản.
Vì Trịnh luôn
kiên quyết duy trì sự chống đối chủ nghĩa Stalin cùng chủ nghĩa Mao, ông vẫn bị
coi là “Phản-cách mạng”. Về tác phẩm chính của ông, chỉ hồi ức của ông là được
in ra sang Anh ngữ, là cuốn An Oppositionist for Life: Memoirs of the Chinese
Revolutionary Zheng Chao-Lin (Kẻ Đối lập suốt đời: Hồi ký của nhà Cách mạng
Trung quốc: Trịnh Siêu-Lân) đã được in ở Mỹ, năm 1996, nhà Humanities Press xuất
bản. (Hồi ký ông cũng được in ra Đức ngữ năm 1991 bởi ISP Verlag Frankfurt, bản
dịch của Rudoff Segall với tựa Siebzig Jahr Rebell: Erinerrungen eines
Chinesischen Revolutionars.)
Qua những
quyển sách trên, mong bạn hữu thế giới có thể biết phần nào, về cuộc đời đáng kể
của một nhà cách mạng Mácxít-Trotskít Trung quốc.
Vợ Siêu-Lân
là Lưu Tịnh-Chân qua đời không đầy nửa năm, sau khi cùng Siêu-Lân được phóng
thích khỏi trại lao cải, tháng Sáu, 1979. Con họ, Frei, sinh năm 1938, chết năm
1945. Những năm cuối đời, Siêu-Lân được cô cháu gái họ, đời thứ ba, trông nom.
Tháng
Một-Chạp 1998.
(Vũ Huy Quang dịch)
– khi truy cập về tác phẩm của Wang Fan-xi, (Hoàng Phàn-Tây) lại tìm được
bài điếu văn này, trên mạng Amazon.
Tự Thuật của người vào tuổi chín mươi
-Trịnh
Siêu-Lân
(An
Oppositionist for Life, Humanities Press, tr. 251-57)
Tên
tôi là Trịnh Siêu-Lân. Tôi sinh năm 1901, theo cách tính tuổi ở Trung quốc, thì
năm nay tôi được 90 tuổi.
Tôi ra đời ở
Thăng Bình, một quận lỵ nhỏ trong vùng núi phía nam tỉnh Phúc Kiến. Gia đình tôi
là một gia đình địa chủ cổ, có đất đai, đã đến lúc suy đồi, nhưng vẫn cố duy trì
nếp sống giáo dục của nền văn hoá cổ. Khi còn bé, có “ngôi trường kiểu ngoại
quốc” đã xuất hiện trong tỉnh, nhưng tôi vẫn theo học chương trình tư thục kiểu
cũ, cho đến khi tôi học xong chương trình căn bản, mới vào trường kiểu mới để
lấy bằng sơ học. Tôi học xong chương trình trung học ở trường cổ, nghĩa là, sau
khi đã hoàn thành chương trình học truyền thống, mất có 4 năm.
Tôi tốt
nghiệp trung học cùng vào năm có Phong Trào Ngũ Tứ phát khởi. Trong cái quận nhỏ
của tôi tuốt trên núi, chúng tôi chỉ biết sinh viên đang hô hào tẩy chay hàng
hoá Nhật, mà chẳng biết gì về “Phong trào Tân văn hoá”.
Mùa xuân năm
đó, khi đang chuẩn bị thi tốt nghiệp, bộ đội Quốc Dân Đảng của Trần Quýnh Minh
từ Quảng Đông tràn vào Phúc Kiến, chiếm mạn bắc của tỉnh, tức là quê tôi. Trần
Quýnh Minh ra lệnh mỗi quận trong quyền ông ta phải lựa nộp 2 sinh viên để đi
Pháp “Cần-Học”. Mỗi sinh viên được 300 đô la học bổng hàng năm do quỹ địa phương
của ông ta cấp. Đó là lý do tại sao tôi đến nước Pháp. Sinh viên học Phúc Kiến
du học ở Pháp trong chương trình “cần công kiệm học” cũng giống như sinh viên
nơi khác, chỉ khác là sinh viên các nơi kia không được học bổng trợ giúp từ quỹ
địa phương, như chúng tôi được mà thôi.
Tôi có kinh
nghiệm với “Phong trào Tân văn hóa” trên cái tàu chở tôi đi Pháp. Lần đầu tôi
đọc “Tân Thanh niên” và biết thế nào là “Tân văn hóa”. Rồi khi vỡ ra được sự
xung đột của văn hóa mới với cái văn hóa cũ mà tôi được học ở quê, nguyên do thế
nào, thì tàu đã ra tới biển.
(…Lược bỏ
những hoạt động trong Đảng, và những lúc bị bắt, đã được Hoàng Phàn-Tây ghi)
Đoạn cuối:
Để cùng dịp
ăn mừng sinh nhật 90 của tôi, tuy đang rất vui vẻ, tưởng chúng ta cũng vẫn nên
nhìn thế giới quanh ta, với bao biến đổi, xem kết quả ai đúng ai sai về cuộc
tranh luận lớn nhất thế kỷ nay. Tôi muốn nói là cuộc tranh luận về thuyết “xã
hội chủ nghĩa trong một xứ”, có thể thực hiện được hay không?
Đầu 1924,
Lênin qua đời. Mùa thu năm ấy, tình huống xung đột nội bộ trong Đảng Cộng Sản
Xô-viết lần lần hiện rõ. Không phải chủ đề tranh luận là về cung cách làm việc,
mà về những ý kiến khác nhau trên lý thuyết căn bản. Stalin đề nghị lý thuyết
là, xã hội chủ nghĩa có thể xây dựng trong một xứ. Lý thuyết này không tương hợp
với thuyết Mác, và chính Stalin cũng đã tự mình viết ra, thừa nhận như thế, vào
đầu năm 1924 trong đề cương, “Về Nền tảng của học thuyết Lênin”. Những Cựu trào
Bolshevik như Zinoviev và Kamenev khi trước về phe Stalin chống Trotsky, dần dần
cũng bỏ Stalin ngả theo Trotsky. Nhóm Đối lập Thống nhất đã giữ vững lập
trường, rằng xã hội chủ nghĩa chỉ có khả năng thể hiện được trong khuôn khổ cách
mạng thế giới, và chống lý thuyết của phái Stalin.
Đã 60 năm
rồi, Stalin và những người Stalinít, trước đã đem thực tế của Liên bang Nga, sau
với thực tế của các “Nhà nước Xã hội” ở Đông Âu cùng các nơi khác, để chứng minh
bằng thực tế, thì “xã hội chủ nghĩa trong một xứ” đã thể hiện được. Nhưng các
biến cố tại các xứ ấy, mới năm ngoái đây và ngay năm nay, chứng tỏ điều gì?
Bảy mươi năm
trước, khi tôi mới 20 tuổi, Đảng Xã Hội hay Đảng Xã Hội Dân chủ tại nhiều nước
khác nhau đã đổi tên thành Đảng Cộng Sản (dĩ nhiên, cũng vẫn còn vài nước đã
không đổi để giữ nguyên tình trạng cũ). Nhưng năm ngoái, và năm nay, chúng ta
thấy tình hình trái ngược: Đảng Cộng Sản nhiều nước lại đổi tên Đảng từ Đảng
Cộng Sản thành Đảng Xã Hội, hoặc Đảng Xã Hội Dân chủ (dĩ nhiên, cũng vẫn còn vài
nước đã không đổi để giữ nguyên tình trạng cũ).
Bảy mươi năm
trước, một diễn trình xuất hiện, nay diễn trình ngược lại, xuất hiện
(*). Chuyện
này có nghĩa gì? Đa phần bảo, đó là sự biểu hiện của sự phá sản thuyết Xã hội
chủ nghĩa. Nhưng nói như thế, là nói sai. Đó, chính là sự phá sản của chủ thuyết
Stalin, thuyết “xã hội chủ nghĩa trong một xứ”. Những người Trotskít chúng tôi
là những người duy nhất đã dám – và cả chứng minh nữa – để có kết luận ấy. Vì
chỉ chúng tôi mới biết chắc rằng xã hội chủ nghĩa không thể thi hành được trong
một xứ, hay vài xứ. Không bao giờ chúng tôi thừa nhận rằng hệ thống của Liên
Bang Xô viết, hay của các “nhà nước xã hội “ nào khác, là thực hiện được Xã hội
chủ nghĩa cả. Xã hội chủ nghĩa không thể xây dựng được trong một xứ.
Cuộc tranh
biện lớn nhất trong lịch sử thế kỷ hai mươi, từng kéo dài gần 70 năm, đã được
phán quyết: Trotsky đúng, Stalin sai.
Rất mừng là
tôi được sống tới tuổi 90 để thấy cuộc tranh luận đã kết thúc. Không biết tôi có
sống lâu đủ để chứng kiến sự bùng ra lần nữa, được thấy một cuộc cách mạng thứ
nhì cũng dâng trào, hay không?
Tháng
Năm, 1990.
-Vũ Huy Quang
dịch, 8-2010.
Cước chú
(ng.d):
Friedrich Engels in 1845 |
(*) Trước thì
bỏ Dân chủ Xã hội, để thành cộng sản. Nay thì bỏ cộng sản, để thành dân chủ xã
hội. Lịch sử có lập lại không? Mới trăm năm trước, ai tiến bộ, phải là cộng sản.
Nay ai là cộng sản, lại là không theo kịp thời đại. Thời Ăng ghen, thì họp cộng
sản, có hết mọi người, chỉ trừ người vô sản. Thời nay, có rất nhiều vô sản,
nhưng không có người cộng sản…!? Ông Trịnh Siêu-Lân viết rất hóm hỉnh về chuyện
Dân chủ Xã hội và cộng sản, mới có 70 năm nay đã thay đổi biết bao. Cũng khoảng
70 năm trước, Lênin nhắc khéo y như thế trong
Lenin on Engels, mà chúng
tôi xin trích đoạn, như sau.
Lênin mô tả
chuyên ông thấy ở Nga, so với ở Đức thời Mác:
”Đời sống
công cộng tại thành phố Đức năm 1844 y như ở Nga vào đầu thế kỷ 20, trước cách
mạng 1905. Ai cũng bàn chính trị, đâu đâu cũng có thái độ nhờm gớm và chống đối
chính quyền. Các ông thày tu la rầy thanh niên vì thái độ vô thần của chúng, còn
trẻ con các gia đình buốc gioa thì cãi lại cha mẹ, vì cha mẹ chúng đã tỏ thái độ
quan cách với đám “gia nhân hay công nhân”. Thái độ chống đối lộ ra rõ nhất
trong tất cả những ai tự nhận mình là cộng sản.
“Ông Cò ở
Barmen là cộng sản,” Ăng ghen viết cho Mác. “Tôi ở Cologne, ở Dusseldorf,
ở Elberfeld – bất cứ đâu – từng bước đi, cũng gặp một người cộng sản!”
Một anh cộng
sản nhiệt tình, một nghệ sĩ, một tay vẽ phóng tên Seel, sắp đi Paris trong hai
tháng nữa. Tôi sẽ giới thiệu với anh. Tôi cho anh ta lời giới thiệu đến anh. Thế
nào cũng hợp nhau. Anh này hăng hái, thích nhạc, sẽ có ích trong việc vẽ hoạt
hình.
Phép lạ đang
xảy ra tại Elberfeld. Hôm qua
(thư đề ngày
22 Tháng Hai, 1845), trong khách phòng lớn, tại tiệm ăn khá nhất tỉnh, chúng
tôi tổ chức được cuộc hội họp cộng sản lần thứ ba. Buổi đầu có 40 người, lần nhì
có 130 người, lần ba có ít nhất 200 người. Toàn thể Elberfeld và Barmen, từ
người có tiền lắm bạc cho đến bọn tiểu tư sản chủ cửa tiệm, đều có mặt, chỉ một
ngoại lệ, là chẳng có người vô sản nào cả.”
Đó là những
lời đích xác của Ăng ghen. Tại Đức, họ đều là cộng sản, chỉ trừ không có vô sản.
Cộng sản là biểu tượng của sự chống đối của hầu hết mọi người, và họ hầu hết –
là buốc gioa”.
( - Lênin,
Kỷ niệm ngày mất Ăng ghen thứ 40. - International Publishers, New York,
1935).
Cùng tác giả:
Sự sụp đổ các Đông Âu: Sự hình thành và biến dạng (Vũ Huy Quang)
Sự sụp đổ Đông Âu: Lòng ái quốc và chủ nghĩa Cộng sản (Vũ Huy Quang)
Tưởng nhớ ông Hoàng Khoa Khôi (Vũ Huy Quang)
Tưởng niệm một nhà cách mạng Trung quốc (Hoàng Phàn-Tây /Vũ Huy Quang dịch)
Tưởng Niệm Đinh- Bài Thơ Không Hi Vọng Được Công Bố (Vũ Huy Quang)
Vài góp ý về “Nội chiến” (Vũ Huy Quang)
Văn Nghệ và Chính Quyền (Vũ Huy Quang)
Vũ khí thay đổi nếp sống xã hội & lịch sử tại Nhật (Vũ Huy Quang)
Đọc "Tổ quốc ăn năn" của Nguyễn Gia Kiểng