|
13 tháng 3, 2011 |
Năm mới, nhân đọc một bài viết cũ
của tác giả Nguyễn Hữu Liêm vừa mới được đăng lại trên báo điện tử
Phật Giáo Việt Nam, Xuân Tân Mão 2011, nhan đề là: “Tính Không và Thượng
Đế: Từ thoái trào Phật giáo đến cao trào Tin lành ở Việt nam”
[1] đồng thời, có tiếng nói
tương tự của một tác giả nước ngoài, Allen Carr, qua bài điểm sách với
nhan đề khá... hấp dẫn: “Lên Kế Hoạch Ngày Tàn của Phật Giáo”
[2], kẻ viết bài nầy xin
được góp đôi lời.
Có chăng đạo Phật đang
thoái trào và sẽ có một ngày tàn của Phật giáo. Ngày đó còn bao xa và sẽ
như thế nào?
Đem chuyện ký ức của hàng
trăm thế kỷ để nói chuyện cường điệu biển trời qua vài trang giấy thì
cũng chỉ là một cuộc chơi đuổi bắt phù dung. Hay có khá hơn chăng thì
cũng chỉ là “phù thế giáo một vài câu thanh nghị” theo tinh thần kẻ sĩ
Nguyễn Công Trứ giữa đời. Ước mong, qua hình thức đối thoại hay độc
thoại nho nhỏ nầy sẽ mang lại chút tinh thần hào sảng và thống khoái nhẹ
nhàng như gặp bạn hiền chia sẻ một “chung trà tâm sự” đầu năm.
* * *
Bài viết của cả hai tác
giả, Allen Carr và Nguyễn Hữu Liêm đều có chủ đích nói lên thực trạng
đáng quan ngại về Phật giáo trước sự vận động truyền đạo và cải đạo quy
mô và năng động của các tôn giáo viễn chinh thế giới. Dẫu đồng ý hay
không, ý kiến của họ cần được lắng nghe, nhưng đồng thời cũng cần được
góp ý.
Lên Kế hoạch cho Ngày Tàn của Phật giáo (Planning the Demise of
Buddhism)
là nhan đề một bài điểm sách của Allen Carr. Đây là bài viết nhận định
về cuốn sách
“Những Nhóm Dân Tộc trong Thế
Giới Phật giáo: Cẩm Nang của Tín Đồ Tin Lành” (Peoples in the Buddhist
World: A Christian Prayer Guide)
của Paul Hattaway.[3]
Theo Allen Carr, cuốn sách “Những
nhóm dân tộc trong thế giới Phật giáo: Cẩm nang của tín đồ Tin Lành”
của Hattaway, tuy là một cuốn sách viết về đạo Phật nhưng chẳng nói gì
về lý thuyết nhà Phật cả. Suốt 453 trang của cuốn sách, tác giả
Hattaway chủ yếu nói về nỗ lực và các phương thức vận động, lôi kéo và
chinh phục mới – quyết liệt và năng động nhất – để truyền đạo và tìm
cách cải qua đạo Tin Lành đối với thế giới đạo Phật tại châu Á. Đối
tượng được liệt kê và điều nghiên cụ thể là 316 nhóm dân tộc trải dài và
vòng quanh từ Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa, Mông Cổ, Đại Hàn, Nhật Bản,
Việt Nam, Lào, Thái Lan, Cam Bốt, Miến Điện, Tích Lan và các vùng xa,
vùng sâu nằm giữa biên giới núi rừng của các nước châu Á.
Hattaway nhấn mạnh và đưa ra nhiều dẫn chứng cụ thể trong tác phẩm rằng,
với cấu trúc lỏng lẻo của một hệ thống tôn giáo quá tự do, các tu sĩ và
tín đồ Phật giáo là những đối tượng rất dễ chinh phục cho những nổ lực
vận động cải đạo. Nếu cộng thêm vào đó, tăng già không hòa hợp gây trở
ngại cho tứ chúng đồng tu thì kiến trúc của tổ chức Phật giáo rất dễ
chao đảo và nghiêng đổ trước những cơn gió quét của thời đại. Allen Carr
tỏ ra quan ngại về khả năng lụi tàn của Phật giáo. Theo ông, nếu không
có một sự chấn hưng bắt kịp thời đại thì trước sự tấn công cải đạo, Phật
giáo sẽ rất khó vững vàng truyền thừa hành đạo trong một tương lai trước
mắt.
Nguyễn Hữu Liêm (NHL) là
một luật sư, một giáo sư triết học đang hành nghề tại Hoa Kỳ. Ông cũng
là một cây bút về nhiều đề tài rất tế nhị và nhạy cảm thuộc thể loại
chính luận. Do có nhiều dịp tiếp cận với thực tế sinh hoạt chính trị,
xã hội, giáo dục và tôn giáo Việt Nam trong và ngoài nước, nên bài viết
của ông vừa có dạng nghiên cứu, vừa mang tính quan sát, bình luận và
hiện thực phê phán.
Với Nguyễn Hữu Liêm, quan
điểm triết học đóng vai trò chủ đạo trong bài viết về đạo Phật. Mở đầu
bài viết, NHL xác định hiện tượng “thoái trào” – mạt pháp (?!) – của đạo
Phật đang xẩy ra như sau:
“1. Trí thức Phật
tử Việt ở hải ngoại bỏ chùa để theo tu học các giáo phái khác.
2. Quần chúng ở
trong nước, ở các vùng thôn quê vốn có ảnh hưởng Phật giáo, nay đi theo
đạo Tin lành ngày càng đông.”
Tiếp theo, NHL nêu lên động lực làm cho đạo Phật Việt
Nam thoái trào là vì giáo lý nhà Phật xa vời, khó hiểu như một hiện
tượng biểu dương chữ nghĩa, không đáp ứng được khát vọng tri thức và nhu
cầu tâm linh của những con người trong thời đại mới. Ông viết:
“Có nhiều lý do cho sự thoái trào này. Trong bài này tôi chỉ nêu lên hai
vế của một vấn đề khái niệm và ngôn ngữ: cái gọi là “Tính Không” và
“Thượng Đế”. Khi giáo lý nhà Phật - vốn được hiểu bởi quần chúng - phủ
nhận “Thượng Đế” và “linh hồn”, thì đối với tâm thức khát khao niềm tin
của con người thời đại, Phật giáo không còn hấp dẫn đối với họ. Trên
phương diện học thuật, khi “Tính Không” trở thành một đối thể tri thức
cho trí thức Phật giáo, khi trò chơi ngôn ngữ nay đã trở thành một “bình
ruồi” (nói theo Wittgenstein) mà kẻ tham dự không thoát ra được, Phật
giáo chỉ còn là một hoài niệm hay là một tự ái bản sắc cá nhân.”
Mở đầu xây dựng luận
điểm, NHL đã dùng quan điểm triết học ứng dụng (applied philosophy)
của trường phái chữ nghĩa thực dụng Wittgenstein, Heidegger, Dewey và
Marx
[4]vào thời kỳ những năm
1930 để làm phương tiện nhận định và phân tích về khái niệm thuộc phạm
trù tri thức luận như Tánh Không của đạo Phật. Qua lăng
kính “ứng dụng”, NHL đã thấy lý Tánh Không của đạo Phật cũng tương tự
như cái bình ruồi của Wittgenstein(!). Với Wittgenstein, biểu
tượng bình ruồi là hình ảnh những con ruồi nằm trong bình thủy tinh,
thấy cảnh vật xung quanh nhưng không bao giờ đụng tới được. Đây là một
cách hình tượng hóa về tính chất phù phiếm; về trò chơi chữ nghĩa xa
vời, viễn mơ mà chẳng thực hiện được điều gì cụ thể trong thực tế của hệ
thống triết học cổ điển. Ludwig Wittgenstein cho đó là một hình thái
ngôn ngữ bị lâm nguy giữa hai cực đoan ù lì và thánh hóa (idle and
idol). Wittgenstein và những triết gia cùng khuynh hướng đã ra sức cổ
xúy cho một nền triết học ứng dụng, đem tư tưởng và chữ nghĩa vào đời
sống hiện thực để góp phần xây dựng và cải tạo xã hội. Chính bản thân
triết gia Wittgenstein cũng đã có lúc xông xáo “áp dụng” tư tưởng triết
học thực dụng của ông bằng cách ra khỏi tháp ngà sách vở, bắt tay vào
cuộc sống hiện thực, dạy học cho trẻ con ở những vùng quê xa xôi, phụ
làm vườn... và những công việc tay chân.
Về mặt kinh điển và
nguyên lý, Tánh Không là tư tưởng chủ đạo, là trái tim của toàn bộ hệ
thống triết lý Phật giáo. Cả ba pháp thế gian (phàm nhân), pháp quán
niệm thế gian (hành giả) và pháp xuất thế gian (bậc chứng ngộ) đều lấy
Tánh Không làm cửa ngõ đi vào Tánh Phật. Giới Phật tử xuất gia cũng như
tại gia đang tụng niệm, suy niệm và quán niệm trong quá trình tu học và
hành đạo hàng ngày trực chỉ Tánh Không. Đó không phải là “cái gọi là”
làm bánh vẽ trang trí tri thức mà là “nguồn khai phóng” xác tín và độc
sáng của đạo Phật để làm căn bản xây dựng cách nhìn về về vũ trụ và con
người. Trí tuệ bát nhã không phải là một trò chơi chữ cao cấp theo kiểu
triết học thuần lý phương Tây mà là một quá trình nhìn sâu, nhận rõ, nắm
bắt, dùi mài, tu chứng và ứng dụng tuệ giác vào công cuộc xả ly tham
vọng và cứu khổ cho mình và cho đời. Người hiểu Đạo (Phật) không
phải là những con ruồi bị nhốt trong bình thủy tinh “thấy vậy mà không
rớ vào được” kiểu Wittgenstein. Ngược lại, người theo đạo Phật nhờ hiểu
đạo nên đủ sức mạnh để đập vỡ cái bình của vô minh và dục vọng để tìm
cầu giải thoát và an lạc. Tánh Không thực sự là một triết lý sống
(living philosophy) chứ không phải là một sản phẩm hoang tưởng để đi tìm
đất ứng dụng cho bầy ruồi của Wittgenstein như theo lối suy diễn của tác
giả NHL.
Để góp ý một cách cởi mở
và thoải mái với Nguyễn Hữu Liêm, Allen Carr và luôn cả với Paul
Hattaway (nội dung tương tự bài này cũng được viết lại bằng tiếng Anh và
sẽ gởi đến hai tác giả liên hệ), xin được chia bài viết nầy thành 4 phần
nhỏ để tiện theo dõi:
1. Đi tìm Thượng Đế
2. Thượng Đế, Tánh Không.
3. Ngày tàn của đạo Phật (?!)
4. Tánh Phật giữa đời thường.
Phật giáo Việt Nam
đang lụi tàn hay khởi sắc
Phần 1: Đi Tìm
Thượng Đế
Thượng Đế là ai?
Cho đến bây giờ và có
lẽ là mãi mãi, Thượng Đế không thể là một thực thể hay đối tượng nào
khác hơn:
- Là Chân Lý là Sự
Thật.
Nhưng lại không có cái
thước đo tuyệt đối của chân lý. Chẳng hạn như với nhị nguyên luận của
Pascal thì những gì phía bên này dãy Pyrenees cho là chân lý thì bên kia
là sai lầm. Thay đổi những định kiến tư tưởng còn khó hơn là dời chỗ dãy
Pyrenees.
Khi giả dối, độc ác, áp
bức, hoang tưởng... và vô số cái vọng động và vọng tưởng xấu xa, tiêu
cực, đen tối mất đi thì ánh sáng trong ngần xuất hiện: Sự Thật hiển lộ.
Sự Thật là Sự Thật. Không có một khái niệm hay một định nghĩa nào hay
hơn, khác hơn ngoài Sự Thật chính là Sự Thật. Đó là chân lý tuyệt đối mà
ai muốn hình dung hay gọi bằng một danh xưng nào tùy nghi phương tiện
thì cứ việc tự do nhưng đừng bắt buộc người nầy phải nói nhại theo người
nọ mới tìm được chân lý đích thực.
Xin được gọi Sự Thật
là Thượng Đế như một quy ước ngôn ngữ tạm thời.
Hệ thống tôn giáo tin vào
Thượng Đế được xem như cổ xưa nhất của loài người là Ấn Độ giáo
(Hinduism). Ấn Độ giáo tin Brahman là Thượng Đế đã căn cứ vào Vệ Đà và
Áo Nghĩa Thư (Upanishad là kinh văn có cả mười nghìn năm trước) đã dùng
phương pháp Phủ Định Luận (Negative theology hay Apophatic theology)
[5] để nói vế khái niệm
Thượng Đế. Trong Áo Nghĩa Thư, ngôn từ chính để nói về Thương Đế là
“Neti Neti”. Nghĩa là “Không phải cái nầy mà cũng Chẳng phải cái
khác”. Ngôn ngữ, quy ước và sự hiểu biết nhỏ bé, cạn cợt của con
người về Thượng Đế không đủ khả năng diễn đạt về hình tượng và yếu tính
của một Sự Thật Uyên Nguyên nên phải tạm gọi bằng ngôn ngữ dân gian là
Thượng Đế. Đức Phật đã thuyết về Sự Thật tuyệt đối đó là Tánh Không.
Tương tự như thế, Lão Tử đã gọi Thượng Đế là “Đạo”: Đạo mà hiểu theo
khái niệm của đời thường thì chẳng phải là Đạo (Đạo khả đạo phi
thường Đạo).
Về căn bản, Phủ Định Luận
về Thượng Đế không dám xác định bất cứ điều gì về Thượng Đế nhưng chỉ
chối bỏ những gì là tiêu cực theo cái hiểu của thế nhân nơi Ngài (như
Thượng Đế không độc ác, không ích kỷ, không tham lam, không nhỏ nhen,
không dối trá...). Phủ Định Luận được sử dụng nghiêm cẩn trong các tôn
giáo thuộc đạo Chúa đưa ra lý giải rằng:
- Chẳng có khái niệm hiện
hữu hay không hiện hữu nào của loài người áp dụng được khi nói về Thượng
Đế. Thượng Đế ở ngoài mọi khái niệm hiện hữu và không hiện hữu của nhân
loại.
- Thượng Đế không xấu,
không tốt, không phàm, không thánh, không nhận thức được, không hình
dung được... theo tri thức của con người.
Như thế thì Tánh Không là
Sự Thật Uyên Nguyên, là Thượng Đế vì đó là một Tri Thức không có một tự
tánh thường hằng bất biến mà tri thức giới hạn của con người có thể hiểu
được. Quá trình sáng tạo ra vũ trụ và thế giới là một hợp duyên do
duyên khởi mà thành.
Thế giới phương Tây bị tha
hóa hay trở thành xa lạ với phương Đông vì truyền thống thâm căn cố đế
khư khư giữ độc quyền về khái niệm Thượng Đế trong chiếc nôi văn hóa
châu Âu. Trong khi Thượng Đế vừa là một Đáp Số mà cũng vừa là một Ẩn Số
hay nói đúng hơn là “một đáp số của một ẩn số không thể trả lời mà
chỉ có tin hay không tin vô điều kiện” đối với thế giới loài người.
Đáp số: Vì ngỡ như là đã nắm được Sự Thật. Ẩn số: Vì vẫn còn hướng vọng
về Sự Thật bằng cái Tâm thường xuyên dao động và cái Ý thường xuyên thay
đổi.
Từ khi có bóng người xuất
hiện, đối diện với những hiện tượng và năng lực thiên nhiên như nắng
mưa, sấm sét, bão tố, lũ lụt… thì vô hình chung, khái niệm và hình tượng
của một nguyên nhân gây ra hiện tượng và năng lực đó được nghĩ đến, được
hình thành. Người cổ sơ đã biết tìm về sức mạnh suối nguồn uyên nguyên
đó qua các biểu tượng trung gian như thờ lạy một ngọn núi, một tảng đá,
một ao hồ, một con sông, một ông hay bà thần sấm sét mưa nắng… tưởng
tượng. Đấy là những nhà “tiên tri” đầu tiên của một hình thức tôn giáo
phiếm thần hay bái vật giáo mà lịch sử tiến hóa của nhân loại còn ghi
khắc cụ thể.
Xã hội và tri thức con
người càng tiến bộ thì đời sống tâm linh cũng trở nên vi tế và phức tạp
hơn, Nhiều giáo chủ và hệ thống tôn giáo ra đời dưới hình thức sử thi
truyền khẩu, sấm ký, bùa chú, thánh thư, kinh điển. Tuy hình thức có
khác, nhưng bản chất tâm linh vẫn là Chung Nhất (Oneness) khi tri thức
con người phải dừng lại ở một giới hạn quá tầm năng lực tưởng tượng; như
khi nói về độ lớn của không gian vô cùng và chiều dài của thời gian vô
tận chẳng hạn. Ngay cả khoa học ngày nay cũng phải bó tay khi đụng đến
câu hỏi là còn có gì bên kia khoảng cách vũ trụ xa hàng tỷ tỷ tỷ… năm
ánh sáng. Giới hạn tri thức trở thành một vấn nạn đòi hỏi phải có đáp
án. Đáp án đó là một Khái Niệm Mới. Khái Niệm Mới lại trở thành một Ẩn
Số. Có thể gọi đó là một “Ẩn-Số-Đáp-Số-Tín-Ngưỡng” mà không sợ sai vì
chẳng ai có chứng lý nào ngoài niềm tin thuần túy của chính mình để làm
tiêu chuẩn đưa ra phản bác hay thừa nhận cả. Mọi khái niệm trong dạng
“Ẩn-Số-Đáp-Số-Tín Ngưỡng” đều có giá trị ngang nhau: Lớn, bé, cao,
thấp, đen, trắng, mạnh yếu… đều giống nhau vì không thể hình dung hay so
sánh được. Con người từ cổ sơ cho đến ngày nay đều có quyền tha hồ gọi
Ẩn-Số-Đáp-Số đó là Uyên Nguyên, là Suối Nguồn Vũ Trụ, là Đạo, là Điện
Quang, là Ánh Sáng, là Vua Trời, là Phạm Thiên, là Thượng Đế, là Ông
Trời… là bất cứ một danh xưng tôn quý, vĩ đại, cao cả đến mức nào đều
đúng với lòng tôn kính cao viễn tuyệt đối của từng người, từng nhóm,
từng phái trong tập thể loài người.
Mỗi dân tộc,
mỗi giống người, mỗi thời đại, mỗi hệ thống tôn giáo, mỗi cá nhân tin
vào Thượng Đế đều có một khái niệm riêng về Thượng Đế của mình. Thượng
Đế của đạo Ấn, đạo Hồi, đạo Do Thái, đạo Chúa, … hay ông Trời của dân
gian Việt Nam, thần Thái Dương của Nhật, ông Bụt trong cổ tích là những
đấng Thượng Đế khác nhau. Ai cũng tự cho rằng, Thượng Đế mà mình tin
tưởng mới chính là Thượng Đế “thật” làm chủ tể càn khôn và bao trùm tất
cả. Còn “Thượng Đế” trong các hệ thống đức tin tôn giáo khác chỉ là
những nhân vật phiếm thần thấp kém hơn Thượng Đế trong tôn giáo của
mình.
Trong tác phẩm Khoa Học Lý Thú (The Joyful
Science)[6]
, Friedrich Nietzsche, triết gia thời danh của thế kỷ 19, đã kể câu
chuyện rằng, có một gã điên điên, khùng khùng vào một buổi sáng nọ chạy
vào chợ la khóc và gào lên: “Tôi đang đi tìm Thượng Đế đây nè!”Đám
đông hỏi lại gã rằng, thế gã thực sự không biết Thượng Đế đã đi đâu hay
sao, gã nín khóc và đờ mặt ra ngơ ngác hỏi lại: “Thượng Đế đâu rồi
nhỉ?” Đám đông trả lời: “Chúng ta, gồm cả tôi và anh nữa, đã giết
chết Thượng Đế rồi, còn đâu!” Qua câu chuyện, phải chăng Nietzsche
ngụ ý nói rằng Thượng Đế hiểu như một nhân vật nào đó trong đầu óc nhỏ
bé của con người không hiện hữu, nên muốn kêu gọi con người phải tự mình
giải thoát cho mình ra khỏi sự trói buộc hà khắc của thần quyền muốn
nhốt cả bầu trời lồng lộng trong chiếc lồng nhỏ hẹp của tư duy giới hạn,
một chiều.
Cho đến nay, chỉ có đạo Thiên Chúa La Mã là
hình tượng hóa Thượng Đế qua hình ảnh con người. Đó là chân dung của
Thượng Đế qua hình ảnh một ông lão phương phi, da trắng được thiên tài
điêu khắc và hội họa Michelangelo minh họa trên trần nhà thờ Sistine ở
tòa thánh La Mã. Những tôn giáo tin thờ Thượng Đế khác thì cho rằng
Thượng Đế là một đấng vô hình vô ảnh không thể hình dung hay luận bàn
được mà chỉ có tin kính và thờ phụng.
Một số những nhân vật nổi tiếng
trong thế giới phương Tây như Charles Darwin, Arthur Schopenhauer, Karl
Marx, Sigmund Freud, Fryodor Dostoievsky, Jean-Paul Sartre, Albert
Camus… cũng trực tiếp phủ nhận hay quay lưng hoặc có cái nhìn xa lạ với
một hình tượng Thượng Đế đặt định theo nhãn quan của thế lực thần quyền
kinh viện châu Âu.
Tóm lại, ai thấy được Thượng Đế
trong tâm thức của mình thì phúc cho họ vì tin điều mình tin.
Ai không thấy được Thượng Đế trong tâm thức của họ thì cũng phúc cho
họ luôn vì họ tin điều mình không tin. Cả hai “týp” người thành
thật với chính mình – tin điều mình tin hay tin điều mình không
tin – đều đáng được trân trọng chúc phúc. Chỉ sợ những kẻ dối gạt
chính mình và dối trá luôn với Thượng Đế mới đáng nghi ngại mà thôi.
Mỗi niềm tin, mỗi tôn giáo đều có
khuynh hướng gọi tên, định nghĩa và giải thích một Ngọn Nguồn và cũng là
Nguồn Cội mà con người từ đó khởi đầu và sau khi chết trở về lại là ở
đâu, là cái gì, là ai, là làm sao, là khi nào… Trong sự im lặng của thế
giới khách quan, dường như có một Suối Nguồn Vũ Trụ. Suối Nguồn đó chỉ
có thể cảm nhận bằng năng lực tâm linh, bằng đầu óc tưởng tượng, bằng
niềm tín cẩn thiêng liêng bên ngoài lý tính. Đấy chính là Tâm Lý Tôn
Giáo có ngay từ khi con người mới ra đời và phải đối diện với những hiện
tượng thiên nhiên và siêu nhiên. Khi sự kế thừa của tri thức đạt đến
một mức độ tinh vi và có tổ chức thì niềm tin tâm linh cổ sơ biến thành
tôn giáo. Đối diện với thiên nhiên khi khoan hòa, khi bão liệt với muôn
vàn hình thức biểu hiện lập đi lập lại và kéo dài đến vô cùng, con người
bỗng cảm thấy run sợ và yếu đuối khi nhìn lại từng cuộc đời giới hạn và
ngắn ngủi của mình. Con người dựa vào nhau, nương tựa đời sống tâm linh
với nhau để tìm về Suối Nguồn Vũ Trụ qua hình thức tôn giáo.
Việc bàn đến sự liên quan của thần
thánh và con người đã xảy ra từ 9.000 năm trước trong kinh Vệ Đà của Ấn
giáo và trong các thần thoại cổ Hy lạp và La Mã. Nhưng hình ảnh một
Thượng Đế mang hình ảnh con người hay con người mang hình ảnh Thượng Đế
xuất hiện trong tín lý của đạo Hồi, đạo Do Thái và đạo Thiên Chúa.
Bàn về Thượng Đế, sự đồng nhất hóa
Danh và Đạo – mà theo Lão Tử thì hễ có cái nầy thì không có cái kia –
hay tách bạch rạch ròi hai khái niệm nầy rất dễ đưa tới cực đoan. NHL
viết:
Cái khuyết điểm lớn cho khái niệm “Thượng Đế” hay “Chúa Trời”
trong các tôn giáo có nguồn gốc từ Do Thái giáo là sự nhân cách hóa và
khách thể hóa tính thể này - một ý nghĩa về một tên gọi và biểu tượng
thiếu sót và sai lạc vì nó bỏ quên “chiều sâu thượng đế” bên trong mỗi
cá nhân. Hãy nhớ rằng trong Tân Ước, Chúa Jesus đã tuyên bố, “Một điều
đã được viết rõ ràng trong luật đạo (Psalm của Do thái giáo) mà ta muốn
nói, ‘Các ngươi đều là thượng đế (gods)’” (John 10). Lịch sử của Thiên
Chúa giáo là một quá trình lẫm lẫn về ý nghĩa của Thượng Đế. Hãy đọc các
bản dịch Tân Ước bằng Việt ngữ thì sẽ thấy được sự nhầm
lẫn cơ bản này. Chúng ta không thể lấy cái sai lầm để đo lường chân lý
được.
Ở đây không có thước đo sai lầm hay chân lý trong ý niệm thuần túy mà
cần xác định thế đứng danh hay đạo (Lão); tướng hay tánh của pháp thế
gian và pháp xuất thế gian (Phật) để nhìn về khái niệm Thượng Đế.
Khi nhận định như thế, Nguyễn Hữu Liêm đã đứng trên khía cạnh triết học
duy lý hơn là nhìn về tính mặc khải (không thể nghĩ bàn) trong ý hướng
xác lập một sự tương tác giữa con người và đức tin Thượng Đế trong các
tôn giáo vừa nói. Cả 3 tôn giáo Hồi, Do Thái và Thiên Chúa đều xác định
sự hiện hữu của Thượng Đế bằng sự xác lập mối tương quan giữa đấng cứu
rỗi (Thượng Đế) và kẻ được cứu rỗi (con người). Một ý trong Tân Ước mà
NHL trích dẫn về lời Chúa Jesus “các ngươi đều là Thượng Đế” đã được nhà
thần học Irenaeus xứ Lyon, sống vào
thế kỷ thứ 2, minh giải
rằng: "Cha là Thiên Chúa, Con cũng là Thiên Chúa, vì
bất cứ ai sinh ra từ Thiên Chúa là Thiên Chúa". Hay như
Justin Martyr so sánh: "Cũng
gần giống như lúc chúng ta quan sát một ngọn lửa
mới được lấy ra từ một ngọn lửa đang cháy đỏ, ngọn lửa
mới tự tồn tại bên cạnh ngọn lửa gốc chẳng hề bị hao hụt hay mất
đi một mảy may vì chia lửa. Cũng vậy, Thiên Chúa được
sinh từ Cha là cha của muôn loài". Sự xác
định nầy có nghĩa là con người do Thượng Đế sinh ra nên mang bản thể của
Thượng Đế chứ không thể nào con người là Thượng Đế. Cũng tương tự như
thế, khe suối mang bản chất “nước” của đại dương chứ không thể nào là
đại dương.
Ý niệm mà NHL gọi là “chiều sâu
Thượng Đế” bên trong mỗi cá nhân cũng không khác Phật tánh trong mỗi
sinh vật. Và nếu có chăng hiện tượng hay khái niệm “nhân cách hóa –
khách thể hóa” Thượng Đế thì cũng chỉ là phương tiện hay “pháp môn” để
khai mở tánh Thượng Đế, tánh Phật, tánh Tâm linh, tánh Thường tại có sẵn
trong mỗi con người.
Phật giáo Việt Nam đang lụi tàn hay khởi sắc
Phần 2: Thượng Đế, Tánh Không
Mỗi thực thể vật lý hay
mỗi hệ thống tín lý có lịch sử tồn tại lâu dài, ít nhất cũng chứng tỏ
được sức mạnh có thật qua thử thách của thời gian. Sức mạnh nội tại của
một thực thể là một thực lực không đứng yên một chỗ để chống chọi với sự
tàn phá từ bên trong lẫn bên ngoài mà phải quyền biến linh hoạt. Khả
năng trường tồn không chỉ đơn phương chống lại sự phá hủy mà còn là khả
năng tái tạo, xây dựng lại sau khi bị phá hủy.
Đạo Phật đã ra đời và tồn tại hơn 2
nghìn 500 năm; cũng đã trải qua bao biến đổi tồn vong, hưng phế dưới
nhiều hình thái và hoàn cảnh khác nhau. Sự có mặt của đạo Phật thường
được xem hay bị xem như một "biệt lệ" trong hệ thống tôn giáo nhân
loại: Trong khi tất cả các tôn giáo khác đều dồn hết mọi phương tiện
thế gian và sức mạnh tâm linh để tiến đến cái Hiện Hữu được kinh sách
của họ xác quyết một cách rõ ràng, sừng sững như một cứu cánh sau cùng
thì ngược lại, đạo Phật tiến đến cái Rỗng Lặng (Tính Không) như một
chân lý giải thoát cùng tột. Các tôn giáo khác động thì Phật giáo tĩnh.
Bên động hô hào tấn công chiếm lĩnh thì Phật giáo chủ trương an nhiên tự
tại, nhìn rõ bản thể rỗng lặng của chính mình và đối vật để buông xả
không dính mắc. Sự tĩnh mặc quán chiếu đầy tích cực bên trong nầy thường
bị những đầu óc chật chội, đầy ắp những nguyên lý luận lý học phương Tây
suy diễn một cách sai lầm và hời hợt là “tiêu cực”, là “phủ định” ý
nghĩa sinh động của đời sống đang trôi chảy.
Trước khi đi vào trọng tâm của vấn đề,
tưởng cũng cần nêu dẫn những giới hạn tất nhiên mà trong một hoàn cảnh
cụ thể nào đó, khó tránh khỏi:
Phương tiện tương đối đang được sử dụng
để bàn về những chân tính tuyệt đối như Thượng Đế và Tánh Không là ngôn
ngữ. Trong khi đối với tinh thần truyền thừa của Phật giáo, ngôn ngữ
được xem là phương tiện “hữu lậu” (lỏng lẻo, rơi vãi, không mô tả hết
được bản chất đích thực) dễ gây ra nhiều hiểu lầm và biên kiến nhất.
Một nghệ sĩ vận dụng ngôn ngữ thi ca tài hoa của dân tộc, đồng thời cũng
là một thiền giả như cụ Nguyễn Du đã phải thú nhận sự bất lực của ngôn
ngữ khi đọc kinh Kim Cương luận về Tánh Không:
Ngã độc Kim Cương
thiên biến linh
Kỳ trung áo chỉ đa bất minh
Cập đáo Phân Kinh Thạch Đài hạ
Chung tri: vô tự thị chân kinh.
Kim Cương đọc đến ngàn lần
Mông lung ảo diệu như gần như xa
Thạch Đài đến đó hiểu ra:
Không lời không chữ mới là chân kinh (TKĐ)
Hai cột mốc ghi dấu ấn đậm nhất trong lịch
sử thiền tông Phật giáo Trung Quốc mà Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng
sâu đậm hơn cả là sự xuất hiện của Sơ Tổ Đạt Ma và Lục Tổ Huệ Năng thì
cả hai đều khẳng định sự bất lực của ngôn ngữ: “Không dùng kinh văn.
Ở ngoài chữ nghĩa. Thẳng tới chân tâm. Thấy tánh thành Phật.”
Trong khi đó, tất cả các
hệ thống tôn giáo khác đều cần một đấng thần linh cao cả nhất như Thượng
Đế, Vua Trời, đấng Toàn Năng, thần Tối Cao… cùng với một pho Thánh Kinh,
một nhà Tiên Tri và thường khi có thêm phép lạ. Đạo Phật phủ nhận một
nguyên nhân đầu tiên sáng tạo ra muôn vật và hệ luận tất nhiên là không
hề có một đấng thần linh uyên nguyên và chủ tể nào đứng ra sáng tạo muôn
vật, muôn loài như thế.
Bởi vậy, trong sinh hoạt
tín ngưỡng, tâm linh, Đạo Phật không hướng lên trên, không vọng ra ngoài
cầu xin ơn cứu rỗi của một tha lực đầy quyền năng hay tối thượng nào cả
mà chủ trương quay vào bên trong để tìm tòi, soi rọi, nhận ra và tiếp
cận với "đấng" cao cả nhất nằm trong chính mình: Đó là chân tâm, là
Phật tánh, là bản lai diện mục, là tự tánh thường hằng, là thật tánh
tuyệt đối…hay nói cho đơn giản hơn là sự hiểu biết rạch ròi về Sự Thật.
Đó chính là cái Thật Tuyệt Đối của mỗi con người mà mọi cá
thể chúng sinh và vạn vật nói chung đều có sẵn từ cội nguồn của sự hiện
hữu trong dòng sống trôi chảy triền miên từ điểm không-có-khởi-đầu đến
điểm không-có-kết-thúc. Đấy không phải là một sự phủ định theo cái
hiểu máy móc đời thường mà là một sự minh định, một sự xác tín từ trạng
thái “ngỡ như là” của giả tướng để tìm đến bản thể “thực là”của thật
tánh nơi mọi loài và mọi vật.
Và, đây cũng chính là điểm
then chốt cho những người muốn xây dựng luận cứ cho rằng, đạo Phật không
phải là một tôn giáo mà là một hệ thống triết lý vì 4 lý do:
(1) đức
Phật không phải là một đấng thần linh và đạo Phật không tin vào một
Thượng Đế;
(2) đạo Phật giúp con người giác ngộ (enlightment) chứ không
phải là cứu rỗi (salvation);
(3) đạo Phật chủ trương vô ngã (nonself) và
phủ nhận sự hiện hữu của linh hồn bất biến, thường tại;
(4) đạo Phật
không chinh phục và thuyết phục người theo bằng bùa chú, tín điều hay
phép lạ.[7]
Nơi đây, cũng nên dừng lại
một chút để nhìn về đạo Phật như một tôn giáo.
Trong chánh niệm tánh
không và duyên khởi, lý nhà Phật tin vào nguồn năng lượng vô biên của
hợp duyên. Đó là nguồn năng lượng do sự kết tập qua nhiều đời nhiều
kiếp mà thành. Đó chính là “nhiên liệu” kích hoạt động cơ của mọi hành
động tạo nghiệp, hành nghiệp hay giải nghiệp. Với những bậc đã tu chứng
từ vô thủy thì nguồn năng lượng lành không đong đếm nổi. Đó là cái
“suối nguồn nhiên liệu tâm linh” cảm ứng khắp mọi thời, mọi nơi và mọi
hoàn cảnh. Chư Phật và chư Bồ tát là hiện thân của kho năng lượng
lành. Khi có người thành tâm cầu xin, tức là “giải mã” để mở khóa cho
nguồn năng lượng lành tuôn vào nơi đang cạn kiệt. Ví như lửa, điện,
nước, sóng từ trường... có sẵn thường trực khắp nơi nhưng chỉ xuất hiện
thành mây, mưa, sấm, chớp, hút, đẩy... khi có một điều kiện hợp duyên
nào đó đưa tới. Đức Phật thường nhắc đến hằng hà sa số chư Phật và chư
Bồ tát trong ba nghìn thế giới. Do vậy, đạo Phật là một tôn giáo “hơn
cả tôn giáo” với kho năng lượng lành phong phú không thể nghĩ, bàn theo
tính cách đời thường. Sự giao hưởng tâm linh giữa người thường và đối
thể ẩn chứa năng lượng lành (thường hiểu như thánh thần) hoàn toàn không
vắng bóng trong đạo Phật.
Trong sinh hoạt văn hóa
toàn cầu, cho đến đầu thế kỷ 20, các hệ thống thần học phương Tây vẫn
có khuynh hướng chủ động và chủ quan làm “phán quan” trong việc định
nghĩa những khái niệm nhân văn theo những tiêu chuẩn và hệ thống giá trị
truyền thống của chính họ. Đặc biệt là khái niệm về Thượng Đế và tôn
giáo. Những ý niệm nào không vừa vặn với định nghĩa theo thước, tấc,
phân, ly của họ đều bị coi là… dị giáo, là ngoại đạo cần phải bị loại
trừ.
Nếu khái niệm về Thượng Đế
mang ý nghĩa như là sự trả lời cho một câu hỏi đã có từ khi loài người
sinh ra trên trái đất nầy, rằng: “Ai/nguyên nhân/năng lực/vị thế...
Đầu Tiên sinh ra vũ trụ và vạn vật, con người; và, con người sẽ biến mất
như cát bụi hay còn tồn tại dưới một dạng thức nào khác sau khi chết,
thân xác tan rã, thời gian trôi qua...?” thì Phật giáo cũng có một “
Thượng Đế” riêng. Đó là vạn vật đều không có một tự tánh riêng thường
hằng bất biến (Không Tánh). Nhưng khi những vật không có tự tánh đó gặp
nhau và hợp lại với nhau trong những điều kiện nào đó thì sẽ tạo ra một
hợp thể mới (Duyên Khởi). Tất cả đều quay theo vòng sinh diệt của quá
trình thành, trụ, hoại, không từ vô thủy đến vô chung. Con người cũng
như mọi loài có sinh có chết đều tồn tại dưới một dạng năng lượng “chủng
tử” và biến hiện không ngừng trong dòng sinh diệt đó. Như thế, Thượng
Đế của đạo Phật (nếu cần phải gọi theo ngôn ngữ quy ước của lý tính
phương Tây) chính là Duyên Khởi. Vũ trụ, vạn vật được tạo nên hay hủy
diệt là do duyên khởi và duyên hợp hay duyên tan qua vô số hình tướng
hợp thể giả tạm, tuyệt đối không có tự tánh thường hằng bất biến.
Mahatma Gandhi, người tin vào Thượng Đế Ấn Độ giáo từng nhận định rằng:
“Đạo Phật không phủ nhận Thượng Đế nhưng định nghĩa Thượng Đế theo
cách riêng của mình.” Nhà vật lý lừng lẫy nhất thời hiện đại, giáo
sư Stephen Hawking, qua tác phẩm hàn lâm khoa học Sự Tạo Tác Vĩ Đại
(The Grand Design) vừa xuất bản đã làm chấn động “tư tưởng sáng thế”
toàn cầu khi xác định rằng, không có một đấng uyên nguyên nào đứng ra
sáng tạo vũ trụ cả. Toàn thể vũ trụ được sáng tạo ra từ những thành tố
không mang tính chất tiền định. Vô hình chung, Hawking và đạo Phật gặp
nhau vừa vặn trong cuộc hành trình của tư tưởng khoa học nhân loại dài
hơn 25 thế kỷ!
Phật giáo Việt Nam đang lụi tàn hay khởi
sắc
Phần 3: Ngày Tàn của đạo Phật (?!)
Theo NHL thì giới trí thức Phật giáo đang bỏ dần đạo Phật vì thất
vọng trước một hệ thống giáo lý không còn hấp dẫn và đáp ứng được nhu
cầu tâm linh thời đại(!). Chẳng rõ khi nêu lên nhận định mang tính
quyết đoán nầy, NHL có căn cứ trên những dữ kiện khả tín nào không hay
cũng chỉ là một lối phỏng định theo cảm tính thuần triết học của hình
ảnh Heraclite ở truồng cố tắm trên dòng sông... “đương niệm hiện tiền”.
Nhưng nếu chỉ xét về khía cạnh “chính danh” mà thôi thì đã thấy có điều
không ổn về nhóm chữ “trí thức Phật giáo”. Theo NHL thì “trí thức Phật
giáo” là ai? Là những người có bằng cấp đại học, có học hàm, học vị cao
theo đạo Phật nhưng chẳng hiểu gì về đạo Phật? Hay là những người có
trình độ học vấn cao, đồng thời cũng hiểu giáo lý nhà Phật? Hoặc là
những cư sĩ, thiện tri thức đã biết và thực hành pháp môn tu học đạo
Phật? Hay là những người nghiên cứu đạo Phật sâu rộng nhưng chỉ cỡi
ngựa xem hoa chứ chưa bao giờ hành hoạt tu trì? Thế nhưng dẫu họ là ai
thì điểm then chốt ở đây vẫn là nhu cầu tâm linh. Và nhu cầu tâm linh
thực sự của họ trong thời đại ngày nay mang ý hướng và nội dung như thế
nào?
Hãy khoan đi vào những ngõ ngách tâm lý, luận lý và triết lý nhiêu khê
trong rừng thiền bạt ngàn của Phật giáo và xin tạm hình dung ra một trí
thức Phật giáo theo nghĩa bình thường. Đó là một người có tầm hiểu biết
tương đối rộng, có cách nhìn và nhận xét vấn đề phải chăng và có đủ khả
năng nhận thức được những khái niệm cơ bản giáo lý nhà Phật. Người ấy
đến với đạo Phật như tìm về một suối nguồn tâm linh và tư tưởng bằng
tinh thần tìm cầu tu học chứ không phải dựa vào đạo Phật để mưu cầu lợi
ích kinh tế hay tìm sự hỗ trợ chính trị cho bản thân, cho nhóm phái ồn
ào lửa rơm cơm cháy nhất thời. Người đó sẽ tìm gì từ tôn giáo? Sự che
chở, hứa hẹn, phép lạ, cứu rỗi... chăng? Nếu chỉ có thế thì chỉ là tín
đồ, con chiên ngoan đạo chứ đâu cần phải vận dụng vai trò người trí
thức. Người đi tìm kho kiến thức phong phú, tìm cách lý giải nguyên lý
cuộc đời và nguyên tắc sống chăng? Nếu thế thì làm học giả chứ đâu cần
tới cái gọi là “trí thức Phật giáo”!
Và nếu nhìn tổng quan lý thuyết Phật giáo như một trò chơi chữ viễn mơ
thì đó một trí thức Phật giáo chưa thành!
Hiện tượng “trí thức Phật giáo từ bỏ đạo Phật...” như nhận định
của NHL không thực sự xảy ra trên thực tế trong cũng như ngoài nước; kể
cả Phật giáo Việt Nam và Phật giáo thế giới. Nếu có chăng một
mớ hiện tượng “thoái trào” của giới trí thức thuộc nhiều tôn giáo nhưng
Phật giáo chiếm đa số là hiện tượng “phiêu lưu thám hiểm” tôn giáo đã
xẩy ra vào những năm 1980 tại hải ngoại. Đấy là hiện tượng một số người
Việt, tương đối còn trẻ, có học vị cao về “Tây học” nhưng thiếu sự hòa
điệu và tiếp cận với ngọn nguồn và gốc rễ văn hóa Việt Nam vì được du
học hay di cư ra nước ngoài ở lứa tuổi còn non. Một vài nhóm trí thức
trẻ nầy dấy lên phong trào theo học các pháp môn “chế biến Thượng Đế”
của một số hiện tượng nhất thời như pháp môn Quán âm, Vô vi, Nhân điện,
Linh quang, Thiền cách tân gồm nhiều tên gọi và nhánh phái. Sự xôn xao
thời 1980 nhạt dần trong thập niên 1990 và gần như vắng bóng trong thập
niên 2000.
Tuy nhiên, vẫn có hiện tượng nhiều trí thức Phật giáo ngày nay chọn sinh
hoạt Phật sự ở nhà thay vì đến chùa như thường lệ. Thái độ không
đến chùa sinh hoạt thường xuyên và trực tiếp với “tăng bảo” hoàn toàn
không đồng nghĩa với hành động bỏ đạo hay cải đạo. Điều nầy xuất
phát từ 5 lý do chính:
Một là, do phương tiện truyền thông hiện đại quá phong phú. Người
ở nhà cũng có thể tham gia đàm luận, tu tập, nghe pháp, thăm viếng chùa
viện qua hệ thống vi tính.
Hai là, do hệ thống tổ chức của giáo quyền tan rã và bất lực. Mỗi
chùa có một vị trú trì và một đạo tràng riêng, độc lập về mọi mặt tổ
chức, kinh tế, tài chánh, lễ nghi, tu học mà nếu cần, có thể tự đặt tên,
xưng danh và sinh hoạt như một “giáo hội” riêng biệt hoàn toàn hợp pháp
trong bối cảnh xã hội phương Tây.
Ba là, hiện trạng tăng già chống báng nhau làm Phật tử mất niềm
tin và nản lòng trước những lời nói pháp hay ho nhưng không được hành
hoạt gắn liền với thực tế.
Bốn là, truyền thống lễ nghi và lễ nhạc Phật giáo Việt Nam đang bị
“phát huy” một cách tùy tiện, tự phát và mang nặng tính trình diễn hời
hợt do hàng tăng ni cao niên và tuổi trẻ thiếu sự hợp tác cần thiết
trong vai trò chủ động lễ nghi tôn giáo. Trong lúc nhu cầu thiết yếu
trong sinh hoạt và tu học đang cần đến là: Dụng phương tiện nghi thức,
lễ nhạc hài hòa, thống nhất và đồng bộ Hoằng dương Phật pháp.
Năm là, sự bế tắc về một khả năng hóa giải những dị biệt trong
cộng đồng Tăng lữ vì mặc cảm (tự tôn là chính) và định kiến (khuynh
hướng chính trị; viễn kiến bảo thủ và cấp tiến). Thời đại mới nhưng bản
chất cũ: Không chấp nhận và thỏa hiệp với sự khác biệt để hóa giải,
khăng khăng bảo thủ cái riêng của mình là đúng.
Một trí thức Phật giáo, cư sĩ Minh Tâm viết: “Chưa bao giờ giới trí
thức Phật tử Việt Nam thuộc thế hệ cao niên lại đón nhận suối nguồn tư
tưởng và các pháp môn tu học, di dưỡng tinh thần của Phật giáo nhiệt
tình và đông đảo như trong thời đại ngày nay. Triết lý nhà Phật làm
thỏa mãn những nhu cầu tri thức của giới học thuật thời đại vì bản chất
tự do, phóng khoáng trong cả Kinh và Luận. Từ mức độ thực tiễn đời
thường đến nhu cầu “vô thượng thậm thâm” của tri thức, kinh điển nhà
Phật đều đáp ứng linh hoạt và sinh động.
Tuy nhiên, không ít những trí thức Phật giáo Việt Nam hiện nay càng
có cái Tâm quy ngưỡng đạo Phật mạnh mẽ chừng nào, lại càng tìm cách quay
lưng với việc ‘Phật sự’ ở các chùa chiền người Việt chừng ấy. Thậm chí
họ xa lánh chư Tăng, Ni và bạn đạo bởi họ không còn chịu đựng nỗi cảnh
chùa chiền bị biến thành những trung tâm quyên tiền, gây quỹ còn thô
phàm hơn là cảnh thương mãi ngoài đời. Nhiều trí thức Phật giáo khác
thất vọng và giảm lòng quy phục các ‘trưởng tử Như Lai’ lại không nương
theo đường hướng của đấng cha lành. Giới tăng lữ Phật giáo Việt Nam làm
công cụ cho phàm nhân hay tệ hơn nữa là biến tướng thanh phàm nhân chia
phe, kết phái nói xấu nhau, bêu riếu nhau trên đài, trên báo, biến cảnh
thiền môn thanh tịnh thành cảnh chợ trời hỗn loạn. Tuy nhiên, trong cảnh
chợ chiều náo loạn đó, may thay, vẫn còn nhiều đài sen vô nhiễm. Xin quy
kính đảnh lễ quý chùa chiền tu viện và chư Tôn đức Tăng Ni vẫn còn giữ
được thiền môn thanh tịnh, giới luật nghiêm minh, tâm bồ đề kiên cố...”[8]
Một trí thức Ki Tô giáo ở nước ngoài cũng nhận định:
“Tới
mấy thế kỷ vừa qua và hiện nay, Thiền đi tiếp con đường linh hướng của
nó trên khắp thế gian, khi bắt gặp những tâm hồn đồng điệu ở chốn trời
tây. Thiền chinh phục các vùng đất xa xôi và thâm nhập sâu rộng hơn vào
sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của người phương tây. Thiền
không còn chỉ là cốt lõi của văn hóa á đông mà đang trở thành duyên hội
ngộ, chốn đồng cảm trên khắp năm châu thế giới. Cái thanh tĩnh, vô ngã
và như nhất trong Thiền nay lan tỏa và góp phần qui nguyên loài người
trở về đại đồng huynh đệ.”
[9]
Giới
trí thức Phật giáo vẫn còn đó với tín tâm vào Đạo Pháp không hề thối
chuyển; nếu không muốn nói là càng phát huy mạnh mẽ hơn do sự chín chắn
của tuổi tác và mức độ trải nghiệm với thực tế. Không chấp nhận
những hình thái thế quyền và giáo quyền phi Phật giáo hoàn toàn không
đồng nghĩa với sự phủ nhận Phật giáo. Chối bỏ những dòng sông vẩn đục
không có nghĩa là từ bỏ đại dương trong xanh.
Theo nhận định của Allen
Carr trong bài điểm sách nói trên thì các nhà truyền giáo Tin Lành đang
gặp phải những bức tường bảo vệ kiên cố của đạo Hồi ở Trung Đông và châu
Phi, “vòng đai thánh kinh” đã có sẵn ở châu Mỹ, chiếc nôi đạo Chúa ở
châu Âu nên hướng tiến còn lại của những binh đoàn truyền giáo lắm của
nhiều người là châu Á. Nơi mà đa số người dân theo đạo Phật với đời sống
tâm linh từ bi, hiếu hòa, bất bạo động. Dụng công tiếp cận với bất cứ
nhóm dân tộc theo Phật giáo nào, Hattaway cũng tìm thấy khả năng đầy
triển vọng cho việc vận động quần chúng tập thể bỏ đạo Phật để cải sang
đạo Chúa. Công cuộc vận động truyền đạo để cải đạo được áp dụng và ứng
xử liên tục, quyết đoán đã khai diễn. Các phương tiện khả thi đều được
áp dụng triệt để từ việc liên kết với các nhóm kinh tế, từ thiện đến khả
năng tranh thủ sự hỗ trợ từ phía chính quyền các cấp...
Đạo Phật sẽ có một ngày
tàn hay không?
Tất nhiên là có. Đó là
một chân lý khách quan đã được khẳng định trong tiến trình tất yếu của
“Thành, Trụ, Hoại, Diệt”. Thế lực tâm linh hay phàm tục nào đi
ngược lại tiến trình khách quan nầy là tự đánh lừa, bị
đánh lừa hay chủ tâm đánh lừa một đối tượng khác vì bị vô minh che lấp
hay vì thiếu lương thiện. Diệt... trong khái niệm về tiến trình
duyên khởi của đạo Phật là một sự biến tướng sinh khởi trùng trùng bất
tận chứ chẳng có gì còn mà cũng chẳng có gì là mất tương tự như nguyên
lý Bảo Toàn Năng Lượng trong khoa học hiện đại. Như nước, hơi, mây, mù,
mưa, sông, suối, biển cũng chỉ là biến tướng của duyên hợp, duyên tan,
duyên tàn, duyên tận, duyên khởi, duyên sinh… đời đời như thế. Ngày nào
tiến trình sinh diệt này chấm dứt bằng sự giác ngộ viên mãn, ngày đó đạo
Phật không còn cần thiết nữa và tự... “tan hàng” chứ chẳng cần có sự cải
thể hay giải thể nào cả. Đó là ngày vô minh đã được khai sáng, ngày sự
đau khổ không còn hiện hữu và ngày mà tất cả chúng sanh đều đã tới được
bến bờ giác ngộ… Paramita!
Tốc độ của dòng chảy thành, trụ, hoại,
diệt nầy nhanh chậm như thế nào và khi nào mới thật sự diễn ra?
Chỉ một chớp mắt là đã có vô vàn sự
sinh diệt diễn ra ở mức độ một tế bào, một vật thể, một sinh thể, một
thế giới, một vũ trụ hay cả tam thiên đại thiên thế giới. Dòng luân lưu
của những sát na sinh diệt tiếp diễn từ vô thủy đến vô chung. Mai kia –
một nháy mắt sau, tuần tới hay vô số tỷ tỷ năm sau – ví thử trái đất nầy
bị một biến động vũ trụ làm tan tành ra tro bụi, cho dù cõi Ta Bà nầy có
tan thành mây khói thì tam thiên đại thiên thế giới vẫn trường tồn,
thường tại luân lưu. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một tia sáng trong
biển hào quang của hằng hà sa số chư Phật. Khái niệm “tàn” và “tận” của
pháp thế gian là cái nhìn đom đóm dưới ánh mặt trời.
Cho nên, với đạo Phật thì hiện tượng
mất, còn chỉ là giả tạm. Cái nghiệp – thiện ác đáo đầu chung hữu báo –
mới đeo đẳng người ta như bóng với hình. Đeo mãi cho đến ngày… đoạn
nghiệp. Nghiệp, không phải là nụ hôn hay cái tát; không phải là ân đền
oán trả từ đâu tới vu vạ, nằm đó mà chờ . Nghiệp là hợp lực, cộng mạng
ở ngay chính trong ta từ thời vô thủy của thân mạng nầy nên không ai có
thể trốn nghiệp hay thoát nghiệp cả.
Giải phóng trong đạo Phật không phải là
biến tướng, đổi màu mà là giải nghiệp. Mèo đen, mèo trắng, mèo vàng…
thì cũng chỉ là giống mèo biến tướng. Nô lệ da đen, nô lệ da trắng, nô
lệ da vàng… thì cũng chỉ là kiếp nô lệ thay màu. Sự giải phóng của đạo
Phật là giải thoát, thoát kiếp tử sinh, chấm dứt dòng luân hồi đòi đoạn
chứ không phải biến cảnh tôi đòi trần gian ra cảnh tôi đòi… viễn mộng!
Tuy vạn pháp sinh diệt không ngừng,
nhưng chuẩn đích vẫn là thấy được và tìm cách tới được bến bờ giác ngộ.
Pháp thế gian nhìn thấy cảnh núi là núi sông là sông qua đôi mắt trần
phàm tục. Pháp quán thế gian nhìn thấy bản chất của núi và sông qua tu
học và quán niệm. Pháp xuất thế gian nắm bắt được thật tánh của núi và
sông qua chứng đạo. Khi đã chứng đạo giác ngộ giải thoát rồi thì đạo
Phật không còn cần thiết nữa. Tam tạng kinh điển cũng trở thành chiếc
bè qua sông cần vất bỏ đi. Với trí tuệ bát nhã thì “trong Không là sự
rỗng lặng tuyệt đối: Không sinh, không diệt, không sạch, không dơ, không
tăng, không giảm”. Như thế, nói rằng đạo Phật còn, đạo Phật mất hay đạo
Phật lụi tàn cũng chỉ là huyễn hóa như nhau! Bản thể của đạo Phật không
bị dính mắc vào những phương tiện của một thời, một cõi nào đó; dẫu cho
cõi đó là Phật, Pháp, Tăng... mà tất cả là Tánh Rỗng Lặng.
Sự lăn xả vào nỗ lực tấn
công Phật giáo để tranh thủ kiếm người cải đạo giữa các thế lực tôn giáo
đông người lắm của hiện nay trên các vùng đất nóng bỏng của thế giới là
một cuộc mua bán và đổi chác linh hồn đầy lẩn quẩn của nhiều thế kỷ
trước. Viễn ảnh “cao trào” hay “thoái trào” có thể thấy rõ qua lăng kính
“nhân quả đồng thời”. Trong nhân đã có quả. Bạo phát thì bạo tàn.
Trong từ bi đã có mầm có giải thoát. Trong áp đặt, mua chuộc đã có mầm
nô lệ, phản tỉnh. Muôn triệu sinh linh bị níu kéo dính chùm trong khu
vườn tâm linh tập thể sao bằng những cánh chim hạnh phúc đang tung bay
trong bầu trời tự do, an lạc.
Phật giáo Việt Nam
đang lụi tàn hay khởi sắc
Phần 4: Tánh Phật
giữa đời thường
Lịch sử văn minh của loài
người, từ Thượng cổ đến thời kỳ vệ tinh, nguyên tử, vi tính hôm nay là
một cuộc chiến đấu vươn lên không ngừng. Hết thảy mọi biến cố lớn nhỏ
đều xuất hiện quanh hai thế giới song hành: Thế giới vật lý giữa đời
thường và thế giới tâm linh tôn giáo. Tôn giáo là một tập đại thành
những tinh hoa và tính hướng thượng của đời sống tinh thần. Tự bản chất,
tôn giáo nào cũng nhằm hướng con người đến Chân và Thiện. Nhưng động
lực xoay chuyển bước đi của tôn giáo lại là con người. Con người lại là
con vật chiến tranh. Sự tương tranh, giành giật địa bàn và quần chúng
cho mục đích tôn giáo là cả một quá trình đầy máu lệ vì người ta đã nhân
danh Chân mà làm điều dối gạt và nhân danh Thiện mà làm điều ác xẩy ra
khắp nơi trên mặt địa cầu nầy. Vì thế, chiến tranh tôn giáo có khi còn
gây ra nhiều tang thương và dai dẳng hơn cả chiến tranh dành quyền lực
thống trị đời thường. Từ những cuộc chiến “Tô-Tem” giữa các bộ lạc cổ sơ
đến những cuộc Thập Tự Chinh thời Trung Cổ và muôn vàn hình thức Thánh
Chiến tử đạo, triệt đạo, truyền đạo và cải đạo ngày nay có vẻ như mỗi
ngày một leo thang gay gắt hơn xưa. Với cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật hiện đại, càng ngày sự giao lưu càng dễ thì địa cầu càng nhỏ lại.
Đất sống càng nhỏ thì sự cạnh tranh “thị trường bành trướng tâm linh”
càng trở nên quyết liệt và bất chấp hơn...
Giữa những cơn sóng gió
trầm luân ấy, đạo Phật từ khi xuất hiện cho đến thời điểm nầy, vẫn còn
đứng ngoài mọi hình thức tranh chấp tôn giáo và thế cuộc. Trong lịch sử
lâu dài của Phật giáo Đông Tây, điểm son sáng chói nhất của đạo Phật là
sự nhất quán về tinh thần từ bi, hỷ xã, phá chấp, vô ngại. Cũng đã có
những thời kỳ mà đạo Phật bị các thế lực thế quyền và thần quyền thù
nghịch bức hại, tàn sát, tiêu diệt: Chùa viện, tượng đài bị phá tán;
kinh điển bị thu hồi và thiêu hủy; tăng lữ, tín đồ bị giết chóc. Thế
nhưng chưa bao giờ lịch sử để lại một trường hợp phản ứng bạo động có
dính dấp tới hận thù, xương máu nào của Phật giáo dưới hình thức chiến
tranh tôn giáo. Phải chăng nhờ bản chất hòa bình và an lạc đó mà Phật
giáo còn tồn tại đến ngày nay và tiếp tục lan rộng đến những vùng đất Âu
Mỹ; trong lúc những tôn giáo khác cùng quê hương phương Đông như Ấn Độ
giáo, Thần đạo Nhật, Khổng giáo, Lão giáo, Mayan... vẫn không tiến ra
khỏi vùng đất phát sinh.
Tôn giáo là một nguồn suối
tâm linh. Tìm đến với đạo Phật là tìm về một suối nguồn an lạc nội
tại: Không so sánh to nhỏ, không tính toán hơn thua, không phân biệt ta
người, yên tâm trong một dòng chảy bình an và tự tại. Đức Phật đã cho
rằng, tất cả các pháp thế gian đều là Phật pháp. “Phật” ở đây chẳng
phải là pháp vị của một đức Phật nào cá biệt trong hằng hà sa số chư
Phật mà đó là “tánh phật” – không viết hoa – là tánh thật tự tại có sẵn
trong mọi loài và mọi người. Thế gian xưa nay lớn nhỏ mới có chừng một
trăm tôn giáo. Mỗi tôn giáo nhìn về vũ trụ, thế giới và con người theo
một phương cách khác nhau. Bằng tuệ giác của tánh thật, đạo Phật không
những nhận ra có tám vạn bốn ngàn mà là vô số pháp môn, vô số cách nhìn
và cách ứng xử khác nhau. Vào cửa Phật mà còn bị chận lại bởi phương
tiện môn là chưa tìm ra khóa để tự mở ngõ mà vào.
Ngày nào mà một tôn giáo
còn biến tướng thành một “cao trào” hay một “thoái trào” như những biến
cố chính trị và thương mãi dấy lên hay xẹp xuống theo thời cơ thì ngày
đó tôn giáo chỉ còn là cái vỏ rùa khô cho con người lợi dụng trang trí.
Nếu nói theo những nhóm từ “thoái trào hay cao trào” kiểu Nguyễn Hữu
Liêm thì đấy chỉ là hiện tượng bề mặt nổi sinh hoạt của một cuộc xuống
đường hành hương ồ ạt – tốc tụ, tốc tán; bạo phát, bạo tàn – của những
người theo một tôn giáo nào đó trong một thời điểm nào đó chứ chưa phải
hình ảnh hay hiện trạng thực sự của tôn giáo đó.
Trên
quan điểm tôn giáo tiến bộ ngày nay, nếu có chăng sự “cạnh tranh” giữa
các tôn giáo là trọng tâm về phẩm chất và phẩm cách chứ không phải về số
lượng và lực lượng. Một tôn giáo bạn như Tin Lành mà NHL đề cập trong
bài viết chẳng hạn, nếu thực sự tạo nên đà phát triển lớn mạnh mà không
làm phương hại tới ai và bằng phương tiện nhân văn, ý hướng nhân bản thì
ít ra, đó cũng là một phương tiện tích cực vì thông thường xưa nay, khi
nhà chùa, nhà thờ, nhà trường mọc lên thì nhà tù, nhà giam, nhà chứa
giảm xuống.
Sau ngày mừng Xuân Tân Mão
2011, bài viết Lên Kế hoạch Ngày Tàn Phật giáo của Allen Carr
được phổ biến rộng rãi trong môi trường truyền thông báo chí Phật giáo
trong và ngoài nuớc. Phản ứng của quần chúng Phật tử khá sôi nổi.
Nhưng nóng bỏng nhất là luồng ý kiến “vận động quốc tế chống cải
đạo”.
Khi nói tới hiện tượng
truyền đạo và cải đạo quyết đoán và xông xáo nhất, người ta nghĩ ngay
đến chiếc nôi của “văn hóa cải đạo” là Hoa Kỳ. Ai sống ở Mỹ lâu năm mà
không quen thuộc với hình ảnh của những nhóm người hoạt động tôn giáo
không bao giờ mõi mệt, đi gõ cửa từng nhà để nói chuyện truyền đạo và
cải đạo. Dẫu cho bạn có ưa hay không thì khó có thể phủ nhận sự kiên
nhẫn và thái độ “tốt bụng” của họ. Thật ra, họ không phải là sản phẩm
của tôn giáo mà là phó sản của hình thái “văn hóa football” và “văn minh
quảng cáo”. Trong môn chơi football, cầu thủ phải chế ngự đối thủ, lăn
xả lên hàng đầu, lấn từng tấc đất để thủ thắng. Trong kỹ thuật quảng
cáo phải rao bán hết mình, hạ thủ các đối tượng cạnh tranh, kết quả lợi
nhuận sẽ biện minh cho phương tiện. Trên đất Mỹ, người ta đã nhẵn mặt
với những sinh hoạt xã hội hằng ngày như thế. Nhưng nếu xuất cảng ra
nước ngoài có khi lại rất “ăn khách” và tạm thời được việc vì sân chơi
còn mới mẻ và giới tiêu thụ chưa có kinh nghiệm.
Những Phật tử cũng như
những người thuộc các tôn giáo khác trên đất Mỹ chẳng có ai bận tâm về
chuyện “thường ngày ở huyện” như truyền đạo, cải đạo. Lý do là tại vì
con người ở Mỹ dư thừa cơm áo và có một trình độ dân trí tương đối cao.
Sự độc lập kinh tế và vững vàng về tri thức khiến việc lựa chọn đời sống
tôn giáo vừa chủ động, vừa tích cực lành mạnh, chẳng có ai bị lôi kéo
hay đủ khả năng lôi kéo “theo đạo”. Trong một xã hội văn minh, tôn giáo
là phương tiện tâm linh của con người chứ không ai áp đặt để biến con
người thành phương tiện của tôn giáo cả.
Phương tiện tự nó chẳng có tội tình gì.
Con dao, tự nó, không có công mà cũng chẳng có tội. Tội hay công là do
người dùng nó để giết người hay cứu người mà thôi. Tôn giáo, phần lớn và
nói chung, là một phương tiện tốt. Nhưng tác dụng xấu hay tốt là do
người hành xử. Cũng tương tự như thế, quá trình truyền đạo và cải đạo là
một phương tiện sinh hoạt bình thường của nhiều tôn giáo. Nhưng nó chỉ
trở thành một hình thái chuyển hóa tâm linh thô bạo và độc đoán khi có
kẻ biến nó thành một loại vũ khí để chặt đứt dòng sống thiện của người
khác đang thành tâm thực hành tôn giáo, hay không tôn giáo của người ta.
Bứng con người ra khỏi gốc lành để kéo họ vào con đường khác bằng ảo
tưởng vọng tín, bằng tiền của vật chất, bằng hứa hẹn hão huyền là một
tội ác tâm linh. Nó có thể hợp pháp, hợp với chuyện cung cầu cơm áo đời
thường, nhưng lại không xứng hợp nhân luân và đạo lý làm người; nhất là
với người có đức tin tôn giáo.
Trước những nguồn thông tin khá sôi nổi
về chuyện truyền đạo, cải đạo ở quê nhà; đặc biệt là những vùng quê,
vùng cao, vùng sâu nghèo khổ... phản ứng của giới Phật tử trong và ngoài
nước tuy rất khác nhau về mức độ, nhưng tựu trung cũng rơi vào một trong
hai tuyến nhân vật, xin tạm quy về hai khuynh hướng cổ điển là bảo thủ
và cấp tiến:
Khuynh hướng bảo thủ: Dè dặt và vô
ngại. Những vị theo khuynh hướng nầy cho rằng, đạo Phật lấy tinh
thần từ bi, hỷ xả làm đầu nên cứ hoan hỷ chấp nhận bất cứ sự việc nào
xảy ra và nên “thương hại” những thế lực nào muốn ra tay đánh phá Phật
giáo. Lời nhận định của cư sĩ Thái Liên Hoa: Từ bi mà thiếu
trí tuệ thường đưa tới thái độ dễ dãi thỏa hiệp bề mặt, nặng tính trình
diễn hơn là phát khởi từ chánh niệm. Chánh niệm không phải là ngồi yên
gỏ mõ tụng khinh, mủ ni che tai mà phải biết dụng công cải tà quy chánh;
dụng chánh đuổi tà.
Khuynh hướng cấp tiến: Xông xáo và
quái ngại. Những vị theo khuynh hướng này cho rằng, cải đạo là vi
phạm quyền tự do tâm linh của con người. Vì vậy họ đề nghị những phương
tiện “phản công” chống cải đạo như phát hành tài liệu sách báo và vận
động dư luận quốc tế chống cải đạo.
Lời nhận định của cư sĩ
Thái Liên Hoa: Cổ thư có dạy, muốn giữ thành cho vững thì phải giữ
vững lòng tin của người trong thành trước đã. Khi tăng già hòa hợp, tứ
chúng đồng tu, thiền môn thanh tịnh thì đạo Phật hưng thịnh. Đạo Phật
hưng thịnh làm sáng niềm tin, khi đó chẳng cần chống ai cả mà những vọng
ngữ và vọng động phi Phật giáo sẽ tự lụi tàn.
Thái quá và bất cập đều dễ đưa tới cực
đoan, vọng động và vọng nghiệp. Con đường phong quang và tinh túy nhất
của đạo Phật là Trung Đạo. Có trí tuệ để nhìn đúng mới biết làm đúng.
Có từ bi để thương yêu mới biết sống cho và sống với. Có hỷ xả để vui
mới giữ được tâm an lành và hạnh phúc. Hoa sen vẫn nở được trong biển
lữa. Hỷ xả được trong mọi hoàn cảnh để giữ tâm bồ đề kiên cố, phát huy
năng lực hoằng pháp độ sanh bất thối chuyển chính là hạnh Dũng tuyệt vời
trong tam pháp hạnh Bi, Trí, Dũng của người Phật tử.
Trước câu hỏi: Phật giáo Việt Nam
đang lụi tàn hay khởi sắc (?!)
Nếu nói chung tình hình đạo Phật
trên toàn thế giới thì câu trả lời quá rõ ràng. Khoa học kỹ thuật càng
tiến bộ, môi trường truyền thông đại chúng càng phát triển, tư tưởng của
con người càng tự do và tâm linh nhân loại càng vươn lên cao hơn sự trói
buộc của thần quyền và mê tín dị đoan thì đạo Phật càng được cả hai thế
giới phương Đông và phương Tây càng đánh giá cao về cả 3 phương diện: tự
do, nhân bản và khoa học. Đặc biệt bản chất từ bi, chánh kiến hòa bình
và tinh thần an lạc của Phật giáo là vốn quý của nhân loại toàn cầu
trong một thế giới dẫy đầy chiến tranh, bạo loạn và xung đột như ngày
nay.
Nếu nói về mặt triết lý thì sự lụi
tàn hay khởi sắc của vạn pháp chỉ là sự biến tướng do nhu cầu hình tướng
bên ngoài. Đó chỉ là ảo ảnh. Mọi sự cố xảy ra đều do duyên khởi. Tánh
Phật là Tánh Không. Không có tự tánh thì lấy gì để còn hay mất, khởi
sắc hay lụi tàn.
Tuy nhiên, hình tướng vẫn phải trải
qua sinh diệt. Dẫu cho một nghìn năm cõi trần chỉ bằng một chớp mắt
trên cung trời Đạo Lợi thì tất cả đều phải trải qua Đương niệm Hiện tiền
(the very existing flash). Trong chớp mắt “đương niệm hiện tiền”này, có
mặt Phật giáo Việt Nam.
Riêng về Phật Giáo Việt Nam hải ngoại,
theo nhà nghiên cứu Phật giáo Thiên Trúc hiện đang làm việc cho phân
viện nghiên cứu tôn giáo thuộc cơ quan PEW, một “think tank” lớn nhất
của Hoa Kỳ về tôn giáo, thì hiện nay có khoảng 345 ngôi chùa, trung tâm
thiền học và viện nghiên cứu Phật giáo của người Việt Nam tại nước
ngoài. Có khoảng 1500 tăng ni người Việt thuộc các bộ phái, pháp môn
khác nhau đang hành đạo ở hải ngoại. Trong số đó có hai phần ba là tu
sĩ trẻ. Nhìn chung, tu sĩ và tín đồ Phật giáo Việt Nam hiện đang có từ
9 đến 13 nhóm phái sinh hoạt tự trị như những hình thức “giáo hội” độc
lập.
Một “giải pháp chưa có giải pháp” để
làm khởi điểm cho một khả năng hóa giải và chấn hưng đạo Phật Việt Nam
trong một tương lai gần trước mắt được đa số Phật tử góp ý qua môi
trường truyền thông đại chúng gồm 2 trọng điểm:
- Trang bị một cách nhìn mới, thích hợp
với thời đại. Đó là tinh thần hóa giải, hòa hợp “đa lưu chi” (nhiều
dòng, nhiều nhánh); tương tự như khuynh hướng “đa nguyên” làm căn bản
xây dựng cho một cấu trúc xã hội tự do và dân chủ thực sự. Có thể nói
đây là một truyền thống ưu việt của đạo Phật. Lịch sử Phật giáo trải
qua nhiều thời kỳ kết tập phân ra trên 20 bộ phái tuy phải nương vào
“khế cơ” để linh động vầ mặt cấu trúc cho hợp với nhu cầu của hoàn cảnh
và thời đại; nhưng vẫn giữ vững “khế lý” để yếu nghĩa tinh hoa lời dạy
của đức Phật không hề suy chuyển.
- Chư tăng ni và quý Phật tử cần thể
hiện “đức” hy sinh. Hy sinh tiền bạc và kể cả thân mạng có khi còn dễ
hơn là hy sinh thói quen, định kiến và cố chấp.
Hệ lụy của quyền lực quân
quyền và phụ quyền trong xã hội Việt Nam truyền thống đã vô hình chung
tạo ra lề thói cố chấp hàng dọc. Đó là kiểu cách phân liệt tuổi đời,
tuổi đạo, hoàn cảnh xuất thân, sở học, địa vị, danh tiếng, tiền bạc,
xưng danh, tôn vị, tâm mãi dính mắc với chùa to tượng lớn... đây chính
là động cơ phân hóa trong sinh hoạt các tăng đoàn và đạo tràng. Người
ta chỉ chăm bẳm nhìn vào hình tướng của nhau nên không nhìn thấy đạo.
Hệ lụy của xã hội phương
Tây quá thực dụng, chuộng vật chất và sùng bái tự do cá nhân chủ nghĩa
đã tạo ra những phản ứng ly khai ra khỏi tập thể trong sinh hoạt Phật
giáo Việt Nam tại hải ngoại. Hậu quả khó tránh khỏi đã thực sự xảy ra.
Điển hình và rất phổ biến là hiện tượng cá nhân tăng ni và Phật tử đơn
phương đứng ra lập chùa, lập hội, chiêu mộ tín đồ, thành lập nhóm phái,
ấn tống kinh điển, lạm dụng pháp khí... đang trên đà tự phát tùy tiện và
nghiêm trọng.
Phật tử đang mong đợi
sự hy sinh cụ thể của chư Tôn đức và Tăng Ni trong thời điểm tranh tối
tranh sáng này. Ước ao quý ngài chí thành đảnh lễ Phật, chân thành đảnh
lễ nhau để ngồi lại với nhau trong ngôi nhà pháp bảo. Đối với tầm nhìn
của hàng Phật tử tại gia nói chung, không có sự vọng động nào phi Phật
pháp và xuống cấp nghiệt ngã hơn là hình ảnh chư Tăng, Ni lên đài, lên
mạng, lên báo để buông lời thế tục; thậm chí đả kích nhau, khích bác
nhau, châm chích nhau, đay nghiến nhau... làm mất hết pháp uy cần phải
có của một trưởng tử Như Lai. Kẻ thế tục không thiếu vọng ngữ; duy chỉ
thiếu ái ngữ mà thôi! Kẻ thế tục lại càng không thiếu các xảo thuật tâm
lý, sách lược xã hội và thủ đoạn chính trị; duy chỉ thiếu lòng từ bi và
hỷ xã!
Không những hàng cư sĩ
Phật tử tại gia mà giới xuất gia cũng có niềm thao thức tương tự. Trong
bài pháp của một tăng sĩ thuộc thế hệ trẻ, thầy Thích Đạo Quảng trú trì
chùa Tam Bảo ở Baton Rouge, Louisiana, Mỹ nhân ngày lễ Thượng nguyên đã
chia sẻ: “Đạo Phật Việt Nam tại hải ngoại đang bỏ phí nguồn năng
lực tiềm tàng và phong phú của mình. Nếu tình trạng này kéo dài, Phật
Giáo Việt Nam sẽ tự biến ba thế mạnh thành ba thế yếu:
(1) Mất ảnh hưởng
tích cực của văn hóa PGVN trên những quốc gia đang định cư;
(2) mất cơ
hội giáo dục và truyền thừa tinh hoa đạo Phật cho thế hệ trẻ sinh ra và
lớn lên ở nước ngoài;
(3) mất đi một sức mạnh tổng hợp quan trọng để làm
chỗ dựa tâm linh cho hàng tu sĩ và đại chúng trên đường tu học và hoằng
dương Phật pháp. Nhu cầu cấp thiết của đạo Phật Việt Nam hôm nay chưa
phải là những gì lý thuyết cao xa ngoài tầm tay với. Đạo Phật là chánh
niệm, là hơi thở của sự sống hàng ngày. Hơi thở đó cần phải trong sáng,
hài hòa, thương yêu, từ ái. Chúng ta đang trải qua một Pháp Nạn Tự
Thân. Đó là sự phân hóa nội bộ đang tạo ra cảnh “trùng sư tử ăn thịt sư
tử” và bắt nguồn cho cảnh dậu đổ bìm leo, ngoại đạo đánh phá. Ngoại đạo
chẳng phải ai khác mà chính là ta; một cái Ta chấp ngã đang làm lu mờ
tánh Phật của chính mình. Người con Phật sẽ rất tán thán công đức của
bất cứ ai – kể cả quý linh mục, mục sư và tín đồ các tôn giáo bạn... –
góp tay giúp hóa giải những xung đột nội bộ đã và đang quá phí phạm
hồng ân chư tổ, phản lại tinh thần lục hòa của chốn thiền môn, làm mỏi
nản lòng tin và coi rẻ công phu xây dựng tu hành của đại chúng.”[10]
Hàng tu sĩ trẻ, chưa dày
tuổi đạo, còn nói lên được lời tâm huyết như thế. Lẽ nào hàng niên
trưởng xuất gia, hàng cư sĩ, thiện tri thức và Phật tử tại gia đang nắm
trong tay quyền lực tài chánh, kinh tế lại nỡ lòng nhắm mắt ngồi yên hay
đang tâm thỏa hiệp với những chướng duyên vọng động?!
Napa - Sacramento, Xuân Tân Mão 2011
Trần Kiêm Đoàn
[1]
http://www.phattuvietnam.net/5/276
[2]
http://www.buddhismtoday.com/viet/diemsach/kehoachchongaytancuaPG.htm
[3]
http://www.bookfinder.com/dir/i/Peoples_Of_The_Buddhist_World-A_Christian_Prayer _Guide/1903689902/
[4]
http://www.philosophypages.com/ph/witt.htm
[5]
http://atheism.about.com/od/theology/a/negative.htm
[6]
http://en.wikipedia.org/wiki/The_Gay_Science
[7] Washburn, Phil
(2000). Philosophical Dilemmas: A Pro and Con Introduction to
the Major Questions, 78, 79 - 80.
[8]
Đặng Minh Tâm: Đạo Phật đang
đi về đâu? Liên Hoa Nguyệt San, Cư sĩ, tháng 4 năm 2010
[9] Nguyễn Ước: Cẩm Nang Sống Thiền. VHTT, Việt Nam 2007.
[10] Thích Đạo
Quảng: Pháp Thoại tại chùa Tam Bảo. Baton Rouge,
Louisiana, Hoa Kỳ. February, 20, 2011
● Các bài về cải đạo:
Yêu Chúa "Hết Trí Khôn" (Một Độc Giả)"Sư cô trụ trì" chùa Quan Âm cải đạo theo Chúa: Bóc trần sự thật (Thích Thanh Thắng)43 Phương Pháp Cải Đạo (Minh Kiến) Cải Đạo (SH) Cải đạo bắt đầu từ trẻ con (Nguyễn Trí Cảm)Cải đạo á châu ? Một ảo tưởng ! (Trần Chung Ngọc) Cải Đạo, Sách Lược Thực Dân Mới Mà Cũ (Thiên Lôi)Cầu Cứu - Bài Góp Ý (Nguyễn Tiến Đạt)Cầu Cứu - Nỗi Ray Rứt (Ngọc Hân - SH) Hôn Nhân và Tôn Giáo (Nguyễn Hữu Ba) Ki tô giáo: Mánh Khóe Mới Nhất Trong Việc Cải Đạo (J. Goonetilleke/Nguyên Tánh dịch)Kitô giáo: Lịch sử truyền đạo (BurningCrossNet/ Minh Kiến dịch)Lửa "Đốt" Dân Tộc Ta (Hồng Ngọc)Lửa đã cháy ở Mỹ Đình, bao giờ lan đến Quán Sứ? (Minh Thạnh)Mắt xích cải đạo tu sĩ trong tiến trình cải đạo tín đồ Phật giáo (Minh Thạnh)Mối Họa Cải Đạo (Trần Chung Ngọc) Một Cố Gắng Cải Đạo Ly Kỳ (Đào Viên)Một Giám Mục Viết Về Vấn Nạn Cải Đạo Của Ki-Tô Giáo (Trần Chung Ngọc)Ngày Tàn của những kẻ Truyền Đạo Cuồng Tín (Minh Kiến)Những Câu Chuyện Cải Đạo (Võ Ngọc Diệp) Phản Hồi "Vấn Đề Hôn Nhân Khác Tôn Giáo" của Minh Ngọc (Ki-Tô Hữu Lưu Tèo)Quí Hồ Tinh Bất Quí Hồ Đa (Lệ Thọ)THƯ NGỎ: Vận Động Thành Lập Tủ Sách “Chấn Hưng Phật Giáo” Thử Tìm Hiểu Người Ki-Tô Giáo Và Vấn Nạn Cải Đạo (Trần Chung Ngọc)Thử Tìm Hiểu Người Ki-Tô Giáo và Vấn Nạn Cải Đạo (Trần Chung Ngọc) Thực Chất Tin Lành Nam Hàn (Trần Chung Ngọc)Tiền và việc cải đạo tín đồ Phật giáo (Minh Thạnh)Trả Lời Thư Bạn Lưu Tèo (Minh Ngọc)Vài Câu Hỏi Cho Người Đi Truyền Đạo Chúa (Một Độc Giả) Vì Chúng Sinh - Chống Cải Đạo (Nguyễn văn Phụng)Vì Chúng Sinh - Ngăn Ngừa Việc Cải Đạo (Nguyễn Văn Phụng)Đôi Lời Chia Sẻ Về Vấn Đề Hôn Nhân Khác Tôn Giáo (Minh Ngọc)“Lập lờ đánh lận”… ông trời! (Minh Thạnh)