PHỤ ĐẠO CÁC “THẦY"

Mục Đồng

http://sachhiem.net/DOITHOAI/mucdong.php

23 tháng 11, 2007

LTS: Sách Hiếm nhận được bài viết dưới đây trong hồ sơ mang tên: "Làm Thầy Kẻ Ngu", nhưng tựa bài là "Phụ Đạo Các Thầy". Ngoại trừ một vài đoạn dài được phân chia cho ngắn lại để người đọc dễ theo dõi, sách hiếm xin được đăng nguyên văn để giữ trọn cá tính, phong thái, và cảm giác của người viết. Các bài viết của các tác giả liên hệ được liệt kê như sau:

bài của Trần Chung Ngọc, nhan đề "Vấn Đề Đạo Đức Trong Khoa Học [Nhân Đọc Những Bài Viết Về Khoa Học Gia Dương Nguyệt Ánh]"

bài của Nguyễn Tường Tâm, nhan đề "Một bài viết thiếu tiêu chuẩn khoa học của ông Trần Chung Ngọc" .

bài phản hồi của tác giả Trần Chung Ngọc, nhan đề: "Vài Nhận Xét Về Bài: Một bài viết thiếu tiêu chuẩn khoa học của ông Trần Chung Ngọc- Của Nguyễn Tường Tâm"

bài của Lý Thái Xuân, nhan đề: "Cảm nghĩ sau bài "Một bài viết thiếu tiêu chuẩn ..." của ông Nguyễn Tường Tâm." 

bài ông Trần Vinh, nhan đề:"Bài góp ý về Chính trị và tôn giáo"

bài ông Chu Tấn, nhan đề: "NHẬN ĐỊNH VỀ 2 BÀI: NHỮNG ĐỀ NGHỊ ĐÓNG GÓP SẢN PHẨM TRÍ TUỆ CỦA ÔNG NGUYỄN ANH TUẤN VÀ BÀI GÓP Ý CỦA ÔNG TRẦN VINH"

Sachhiem.net không có bản điện tử của bài "Những Đề Nghị Đóng Góp Sản Phẩm Trí Tuệ Cho Tuyển Tập Số 2" của ông Nguyễn Anh Tuấn, nhưng tất cả tinh thần của bài viết cũng như các chi tiết quan trọng đều được lập lại trong bài của ông Chu Tấn.

(Sách hiếm)


Kính gởi nhà sách SÁCH HIẾM,

Kinh nhờ nhà sách chuyển bài viết này đến các độc giả, đặc biệt tới các vị được Mục Đồng tôi mạn phép nêu tên : Các ông Trần Chung Ngọc, Nguyễn Tường Tâm, Nguyễn Anh Tuấn, Trần Vinh, Chu Tấn, Lý Thái Xuân. Chân thành cảm ơn nhà sách SÁCH HIẾM.

Bài viết gồm các phần như sau:

I. Duyên khởi của bài viết.

II. Tổng bình của Mục Đồng và các cháu học sinh cấp hai (Trung học Đệ nhất cấp)

III. Phân tích não trạng của người Việt Nam tin theo văn hóa Thánh kinh.

IV. Cải tạo não trạng từ logic nhị nguyên qua logic tứ nguyên.

V. Phụ đạo cải tạo não trạng của người Việt Nam tin theo Văn hóa Thánh kinh bằng phương pháp Xây Dựng Kiến Thức (Constructivism).

A. Người được phụ đạo: Ông Nguyễn Tường Tâm.

B. Người được phụ đạo: Ông Nguyễn Anh Tuấn.

C. Bài phụ đạo cuối cùng: Tìm về dân tộc.

(Mục Đồng)


I. DUYÊN KHỞI CỦA BÀI VIẾT :

Mục Đồng tôi đang cùng các cháu học sinh-chăn trâu ngồi hóng mát tại một vùng quê thanh bình của nước Việt Nam, thì cháu A hớt hơ hớt hải chạy ào tới, nói chú Mục Đông và các bạn không nghe gì sao? Chúng tôi đều ngơ ngác thì cháu A nói “chưởng phong” ầm ầm như thế mà không biết không xem thì phí cuộc đời quá. Làm sao xem? Có mắt thần của Tề Thiên đây. Thế là chúng tôi xúm nhau dán mắt vào xem.

Quả thật là ngoạn mục! Nguyên là hảo hán Trần Chung Ngọc ở bên Mỹ dùng chưởng phong đánh ra với ý định tẩy sạch “mùi tâng bốc” mà hảo hán cho là làm ô nhiểm bầu không khí trong lành của văn hóa Việt Nam, do một số người “thả ra” nhân cái việc bà Dương Ánh Nguyệt được các giới chứ Mỹ vinh danh vì đã chế ra bom áp nhiệt giúp cho nước Mỹ thêm hùng cường.

Võ sĩ Nguyễn Tường Tâm ở đâu bên Đức liền nhảy lên võ đài phóng chưởng chống lại hảo hán Trần Chung Ngọc, cốt muốn giữ cái “mùi ấy” lại cho dân Việt Nam hít, chê ông Ngọc dốt, chưa biết múa bài quyền cơ bản là” làm bài luận như thế nào”, chỉ là “cáo mượn oai hùm”. Nhưng võ sĩ Nguyễn Tường Tâm có lòng bác ái mênh mông, cho nên giận thì giân mà thương thì vẫn thương, bèn dạy miễn phí cho hảo hán Ngoc cách múa bài quyền cơ bản ấy, rồi lại tặng cho đệ tử Ngọc hai món quà nữa! Tất nhiên hảo hán Trần Chung Ngọc buộc phải tiếp các chiêu của sư phụ Nguyễn Tường Tâm.

Trong khi đó một đại cao thủ trong phái Thánh chiến là võ sĩ Nguyễn Anh Tuấn trình làng cho giới giang hồ một bài quyền “Sản Phẩm Trí Tuệ” dưới hình thức một “hiệu triệu gởi toàn thể từ sĩ phu cho tới người dân cày Việt Nam ở trong và ngoài nước “ kêu gọi mở cuộc Thánh chiến đánh Cộng sản Việt Nam. Một hảo hán là ông Trần Vinh đang rong chơi, bỗng nhận được “hiêu triêu” liền tung một chưởng , cốt “chỉnh” cái “thần khí” trong bài quyền của cao thủ Nguyễn Anh Tuấn, cho là chớ nên xài cái tên Thanh chiến vì nó xấu xa, và như vậy là “thất nhân tâm”.

Thế là một cao thủ khác, chắc là chiến hữu của đại cao thủ Nguyễn Anh Tuấn là ông Chu Tấn nhảy lên võ đài bênh vực ông Nguyễn AnhTuấn mà đánh ra mấy chường chống lại hảo hán Trần Vinh, và rồi không quên tặng quà cho đối thủ Trần Vinh trước khi nhảy khỏi võ đài.

Rồi một hảo hán khác là ông Lý Thái Xuân đang đi hóng mát, thình lình gặp phải chưởng phong của võ sĩ Nguyễn Tường Tâm đánh hảo hán Trần Chung Ngọc, cho nên nhảy ra nghênh chiến.

Chưởng phong của 6 vị ấy là cơ duyên, chất liệu giúp cho bài viết này được hình thành.

II. TỔNG BÌNH CỦA MỤC ĐỒNG và CÁC CHÁU HỌC SINH CẤP HAI.

Mục Đồng : Chưởng phong của các ông Nguyễn Tường Tâm, Nguyễn Anh Tuấn, Chu Tấn thoạt trông thì thấy rất là bạo liệt, nhưng xem ra thì nôi công chưa thâm hậu, lại có vẻ khinh địch, nóng nảy, háo thắng, chưa biết thực lực của đối thủ mà dám liều mạng đánh phủ đầu, cho nên rất dễ bị hở sườn, hở lưng, hở ngực và đặc biệt là hở cả đầu; trong khi chưởng của các ông Trần Vinh, Lý Thái Xuân thiên về nhu hơn cương, kín đáo, không dám khinh địch, chỉ xuất chiêu khi chắc ăn. Ông Lý Thái Xuân thủ quá kỹ, sau khi đã triển khai hết hệ thống chưởng, đã nhảy khỏi võ đài rồi. lại nhảy lên ân cần dặn dò nhắn nhũ ông Nguyễn Tường Tâm rồi mới tạm biệt. Riêng ông Trần Chung Ngọc thì coi bộ công lưc quá thâm hậu, nên không cần né tránh, địch ra chiêu nào thì cũng không ngán, vừa hóa giải vừa cứ nhè đầu đối thủ mà “chưởng” ! vừa cười ha hả :”no star, no star! Chắc ý ông là làm cho đối phương long óc mà xin quy hàng! Trận thư hùng quá ngoạn mục khiến Mục Đồng tôi và các cháu hoc sinh-chăn trâu được một phen mở rộng tầm mắt, học hỏi được nhiều điều vô cùng bổ ích.

Có nhiều chưởng rất thú vị, chúng tôi vừa xem vừa bàn luận để cả đám được hiểu rõ hơn. Nhưng trình độ của chúng ta rất có hạn nên chăc chắn có nhiều “chưởng” chúng ta chưa hiểu , nên Mục Đồng tôi sẽ viết lại cuộc nói chuyện của chúng ta để nhờ nhà sách SÁCH HIẾM hỏi lại các hảo hán và võ sĩ.

Cháu A: Chú phải hết sức cẩn thận, viết lại cuộc nói chuyện cả chúng ta cần phải đầy đủ cả ba phần :đầu, bụng ,và đ. …đuôi, chứ không thì ông Nguyễn Tường Tâm chê chúng ta là dốt như đã chê ông Trần Chung Ngọc, rồi kêu chúng ta lại mà dạy thì nguy vì chỉ riêng chú rảnh để học, chứ bọn cháu cũng đã học với cô giáo ở trường rồi, mà học thêm với ông Nguyễn Tường Tâm nữa thì hết thì giờ, hơn nữa chúng cháu lại còn cần thì giờ để chăn trâu nữa!

Chăn B : mày chớ nói dại, được “sư phụ” Nguyễn Tường Tâm ở đâu bên nước Đức mà dạy thì tuyệt cú mèo, không tin mày hỏi chú Mục Đồng thì biết ngay!

Mục Đồng : cháu B nói có lý lắm, “qua “ thấy ông Nguyễn Tường Tâm ở bên Đức gọi ông Trần Chung Ngọc ở bên Mỹ ra mà chê ông Ngọc dốt, chưa biết làm luân văn mà dám làm liều đem trình làng. Nhưng vì ông Nguyễn Tường Tâm vốn có sẵn lòng bác ái mênh mông nên chê xong thì bèn thương ông Ngọc, sơ ông Ngọc lạc bầy mà Chúa phạt, nên “lung khởi” dạy từ xa, miễn phí! cho ông Trần Chung Ngọc. Không những dạy miễn phí mà còn tặng quà cho học trò-Trần Chung Ngọc nữa!

Cháu C: hoan hô lòng bác ái của thầy Nguyễn Tường Tâm!

Cháu A : Vậy nhờ chú Mục Đồng mời dùm Ông Nguyễn Tường Tâm về Việt Nam dạy cho cháu với vì vừa được học miễn phí mà vừa được thầy tặng quà nữa.

Cháu B : Thôi mày ơi! Chớ có mời thầy Nguyễn Tường Tâm về đây dạy, vì ông luôn luôn thủ sẵn quả bom áp nhiệt của khoa học gia Dương Ánh Nguyệt, lỡ mày không tinh thông lời thầy dạy theo Kinh thánh thì thầy thả quả bom ấy ra, thì mày chết đã đành, còn tao và bao nhiêu người khác nữa cũng chết theo thì oan quá!

Cháu C : Mầy không mời thầy Nguyễn Tường Tâm cũng về!

Cháu A : Sao mầy biết ?

Cháu C : Chuyện quá rõ ràng mà mày tối dạ không hiểu ! Xem chưởng của ông Nguyễn Anh Tuấn, và ông Chu Tấn mà không học được gì cả! Ông Tuấn đang chuẩn bị mở một cuộc Thánh Chiến để đánh tiêu diệt Cộng Sản Việt Nam, thì chắc chắn là ông Chu Tấn và thầy Nguyễn Tường Tâm sẽ là trong số những vị nguyên soái cầm quân cùng ông Nguyễn Anh Tuấn đổ bộ vào Việt Nam!

Cháu A : Thì ra là thế! tao u mê quá nên không nhận ra được!

Mục Đồng : Thôi thôi, các cháu chớ có “lung khởi”, cần phải tập trung, hạn chế phạm vi đề tài như lời dạy của thầy Nguyễn Tường Tâm. Hãy từ từ các cháu ạ, để chú kể tiếp cái đã, rồi hãy hoan hô, hãy mời sau cũng chưa muộn. Cái lạ trong việc dạy này là ở chỗ, sư phụ-Nguyễn Tường Tâm chỉ mới dạy từ xa độ vài phút vào tháng 10 năm 2007, mà học tro- Trần Chung Ngọc áp dụng lại hoàn thành được luận án Tiến sĩ về Vật lý vào năm 1972 tại một Đại học ở Mỹ! nghĩa là hoàn thành trước được 35 năm!

Cháu A : Trời đất ới ! Có thiệt không? Làm gì có cái chuyện nhờ học sư phụ _ Nguyễn Tường Tâm mà học trò- Trần Chung Ngoc không những hoàn thành xuất sắc luận án mà còn hoàn thành trước khi học 35 năm lận!

Mục Đồng : “qua” có nói sai đâu ! Ông Ngọc đậu Tiến sĩ năm 1972 tại Đại học Wisconsin thì nhà trường có ghi lại đầy đủ thông tin, và qua nói cũng không sai cái chuyện ông Nguyễn Tường Tâm mới dạy ông Trần Chung Ngọc cách làm luân văn trong tháng 10 năm 2007 này mà!

Cháu B: như vậy là ông Nguyễn Tường Tâm quá giỏi! Xin chú Mục Đồng gởi thư hỏi ông Tâm xem thử ông học ở đau ra, đậu bằng cấp gì mà giỏi đến vậy, nói rõ cho mọi người biết để học theo. Với lòng bác ái sẵn có, chắc chắn ông Tâm không dấu đâu!

Mục Đồng : ừ, để qua nhờ SÁCH HIẾM hỏi !

Cháu C: Chắc là ông Nguyễn Tường Tâm có phép lạ!

Cháu A: À, đúng rồi ông Tâm có phép lạ!

Mục Đồng : sao cháu biết chắc như vậy ?

Cháu B: chắc nó nghi ông Tâm học phép lạ trong Thánh kinh của ông! Mới thần tình như thế!

Cháu C: Như vậy chắc là ông Trần Chung Ngọc cám ơn ông Nguyễn Tường Tâm nhiều lắm!

Cháu A : Tất nhiên rồi, Còn phải nói! Được lợi đủ thứ , chưa kể tới quà nữa!

Cháu B : Quà gì vậy chú Mục Đồng ?

Mục Đồng : Nghe nói khi ông Trần Chung Ngọc mở gói quà ra thì thấy hai cái mũ để ông Ngọc đội cho ấm đầu trong mùa đông ở Mỹ !

Cháu C: Chắc hai cái mũ do sư phu- Nguyễn Tường Tâm mà tặng cho học trò- Trần Chung Ngọc yêu quý thì tuyệt đẹp và giá phải cao lắm!

Mục Đồng : Còn phải nói ! việc tặng quà này là nghề của sư phụ- Nguyễn Tường Tâm và các võ sị như ông Chu Tấn! Hai cái mũ nầy ông Nguyễn Tường Tâm lấy mô hình từ thời Trung cổ, chính xác là từ sau năm 1232 là năm mà ngài Giáo hoàng Gregory ra lệnh lập Tòa án dị giáo xử tội tất cả những ai không tin vào những điều đạo Thiên chúa răn dạy. Loại tòa án này kéo dài trong 6 thế kỷ, đã giết hại không biết bao nhiêu người vô tội trong đó có cả những nhà bác học lỗi lạc của nhân loại, điển hình là nhà Thiên văn người Ý tên là Galileo, chỉ vì ông Galileo nhất định bênh vực cái thuyết của ông Copernicus cho là trái đất của chúng ta quay quanh mặt trời, trong khi Giáo hội Thiên Chúa bắt mọi người phải tin theo Giáo gội là quả đất đứng yên, là trung tâm của vũ trụ, mặt trời và tất cả các vì sao đều quay quanh quả đất! Nguyên ông Copernicus làm ra thuyết này vào khoảng năm 1514, nhưng ông không dám công bố vì ông biết chắc chắn nếu ông công bố ra thì Tòa án Dị giáo của Giáo Hội Thiên chúa sẽ xử tử ông bằng cách treo cổ hay thiêu sống. Mãi cho đến năm 1542, với sự khuyến khích và giúp đở của nhà toán học Rhetikus, thì ngày 24 tháng 5 năm 1543 tác phẩm De Revolutionibus trong đó Copernicus trình bày toàn bộ công trình của ông được in xong, ông Rhetikus đem đến và ông Copernicus sung sướng mà chết sau đó vài giờ trong khi tay ông đang cầm tâp sách này. Đó là cái hạnh phúc rất lớn và là cái may cho ông Copernicus do ông chết vì bệnh, nếu không thì sẽ chết thê thảm bởi Giáo hội Thiên chúa giáo. Nhưng ông Galileo thì nhất quyết bênh vưc thuyết trái đất quay quanh mặt trời của ông Copernicus, cho nên ông bị Tòa án dị giáo lôi ra xử. Để khỏi bị tử hình, ông phải miễn cưỡng thừa nhận trước Tòa án dị giáo là trái đất nằm im, nhưng miêng ông vẫn lẩm bâm : “nhưng nó ..nó.. vẫn cứ ..cứ chuyển… động” ! Do đó ông bị Giáo hoàng Urban VIII ra lệnh giam cầm nhưng được miễn tra tấn, và ông bị giam cho đến khi chết vào năm 1642! ,

Cháu A : vô lý, chắc chú Mục Đồng nói xấu Thiên chúa giáo, chứ như bọn cháu mới đang học cấp hai mà cũng đã biết về thái dương hệ, về sự vận hành của mọi hành tinh, nhờ vậy mà các nhà khoa học đã tính toán chính xác quỹ đạo của các phi thuyền không gian, cụ thể là Spunik của Nga đã đáp xuống mặt trăng năm 1959, và và phi thuyền Apolo đã đưa hai phi hành gia của Mỹ đã đổ bộ xuống mặt trăng, lấy mẫu đất đá đem về quả địa cầu chúng ta từ mấy chục năm trước, và hiện nay các phi hành gia vũ trụ của cả Mỹ , Nga và một số nước đang làm việc tên trạm không gian mà! Huống hồ là bên Thiên chúa giáo có rất nhiều trí thức lừng danh, cở “tầm tầm” như ông Nguyễn Tường Tâm mà còn dạy được ông Tiến sĩ Trần Chung Ngọc, nói chi đến cở “siêu “ như ông Nguyễn Anh Tuấn nào đó thì tất nhiên coi ông Marx là chỉ là tên học trò hạng bét ! Vậy họ không biết hơn bọn học trò-chăn trâu cháu hay sao? Rõ ràng là chú nói xấu, vu cáo Thiên chúa giáo!

Mục Đồng : Á, cháu chớ có nóng nảy! Cháu mới xem qua mấy chưởng của ông Nguyễn Tường Tâm và của ông Chu Tấn mà đã thấm nhuần rồi đó! Thiệt là hậu sinh khả úy!

Cháu B : Nó thấm nhuần cái gì hở chú?

Mục Đồng : Để từ từ “qua” nói. Cháu A đã học được cách tặng quà của ông Nguyễn Tường Tâm cho ông Trần Chung Ngọc, và của ông Chu Tấn cho ông Trần Vinh rồi đó! Chẳng là “qua” đã nói món quà thứ nhất mà ông Nguyễn Tường Tâm tặng ông Trần Chung Ngọc là một cái mũ lấy mô hình và chất liệu của Tòa án di giáo thời trung cổ và trên đó ông Nguyễn Tường Tâm có thuê thợ thêu chuyên nghiệp thêu một hàng chữ tuyệt đẹp là : NÓI XẤU THIÊN CHÚA GIÁO.

Cháu C: Té ra là thế! Còn món quà thứ hai thì sao?

Mục Đồng : Cũng là một cái mũ lấy mô hình và chất liệu như cái mũ thứ nhất, nhưng ông Nguyễn Tường Tâm có cải biên đi một chút bằng cách nhờ thợ thêu chuyên nghiệp thêu một hàng chữ bằng vàng : MỘT TÊN CỘNG SẢN. Còn quà của ông Chu Tấn tặng cho ông Trần Vinh thì là thuộc loại hang nhái lại mẫu mã món quà thứ hai của ông Nguyễn Tường Tâm !.

Cháu B: Ôi chu choa! Rứa ông Trần Chung Ngọc có đội hai cái mũ đó để cho ấm đầu trong khung cảnh đầy sương tuyết của xứ Mỹ không ?

Mục Đồng : Tất nhiên là ông Trần Chung Ngọc phải cảm ơn ông Nguyễn Tường Tâm vì lòng bác ái rộng hơn Thái Bình Dương của ông Tâm. Nhưng ông Ngọc có thưa lại với sư phụ- Tâm là sư phụ hơi… hơi thiếu… thiếu tế…tế nhị …nhị của người Á đông! ở chỗ là trước khi tặng quà, cần xem thử quà của mình có phải là cái mà người nhận chưa có hay đã có. Nếu chưa có thì dù quà rất ít giá trị thì cũng rất có ý nghĩa và giá trị, trái lại nếu quà mà nhà người ta đã có hàng đống, bỏ lăng bỏ lóc, thì quà ấy trở nên vô giá trị dù mẫu mã, chất liệu quý hiếm như từ thời trung cổ còn lại! Cho nên ông Trần Chung Ngọc mới cho là ông Nguyễn Tường Tâm “ hơi chậm chân” bởi vì các “đối tác làm ăn” với ông Trần Chung Ngọc đã nhanh chân hơn, họ đã tặng cho ông cả một chồng mũ như thế vì họ cũng thương ông Ngọc, sợ ổng lạnh đầu! Ông Ngọc có muốn đội hai cái mũ của ông Tâm tặng cũng không còn đầu ở đâu mà đội! Nhưng ông Ngọc cũng tỏ ra lịch sự là vui vẻ nhận quà, cứ để đó “không sao”! Nhưng sợ ông Tâm vì ra nước ngoài lâu không rành không hiểu tiếng Việt cho nên ông Ngọc mới dich ra tiếng Anh là “no star” cho ông Tâm dễ hiểu!

Cháu C : Té ra là thế! Nhưng cháu xin “chỉnh” bác Ngoc một chút xíu để các ngài như ông Tâm dễ hiểu hơn. Các ngài ấy ấy dù có quên tiếng Việt, quên nguồn gốc, quên tổ tiên, quên đất nước, quên chi thì quên, nhưng chắc chắn không quên cái câu mà “chị em ta” đã dùng khi người Mỹ còn rất nhiều ở Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh, đó là “no star where”. Bác Ngọc cũng ra nước ngoài lâu quá nên quên mất làm thiếu chữ “where”! khiến cho ông Tâm khó hiểu hơn!

Mục Đồng : quả là hậu sinh khả úy! Nhưng để chú triển khai cho hết các ý của câu nói trên kia của cháu B, chứ không thì ông Tâm nói chúng ta không đi đúng nội dung! Hãy nghe đây các cháu : người có chút chữ nghĩa cở từ các cháu trở lên nên tách rõ giữa sự thật lịch sử và niềm tin, nghĩa là cái gì đã xảy ra trong lịch sử thì phải nhận là sự thật, không vì niềm tin mù quáng mà cho rằng sự kiện ấy là sai, là nói xấu! Nói lên sự thật lịch sử để răn dạy con người đừng tái phạm tôi ác trong quá khứ thì không phải là nói xấu mà đó là làm điều thiện. Có rất nhiều sự thật, qua chỉ kể sơ 3 sự thật lịch sử sau đây :

Giáo hội Thiên chúa giáo đã ra lệnh cho quân lính các nước Âu châu tiến hành 7 cuộc chiến tranh mà họ gọi là Thánh chiến ( Crusade hay Holy War) trong 196 năm từ năm 1095 đến năm 1291 tại các nước Hồi giáo miền Trung đông, giết hại khoảng 3 triệu người vô tôi một cách rất dã man, phá hủy hết mọi di sản văn hóa của các dân tộc mà không theo Thiên chúa giáo.

Riêng ở nước Việt Nam ta thì các cha cố đạo và giáo dân đã từng giúp cho thực dân Pháp đánh chiếm nước ta, bắt dân tộc ta làm nô lệ cho thực dân Pháp trong khoảng 100 năm từ hạ bán thế kỷ 19 đến 1954. Cho tới ngày 2 tháng 3 năm 2000, ở Mỹ đã có 4.392 Linh mục bị truy tố ra tòa vì tôi dâm dục với con chiên, mà tổng số tiền bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân lên tới mấy tỉ đô la và hiện nay một số cơ sở của Giáo hội ở Mỹ như Tu viện hay trường học phải bị bán đi để lấy tiền bồi thường thiệt hai xâm phạm tình dục. Đó là những sự thật lịch sử không thể chối cải được. Nhưng Giáo hội Thiên chúa trong suốt chiều dài lịch sử của mình đã buộc giáo dân phải tin lời phán dạy của chúa trong Thánh kinh, của các cha cố, chứ không được tin vào sự thật, khoa học.

Nhưng cái thú vị là khoa học càng tiến bộ, càng chứng minh được các điều do chúa phán, các cha cố phán là sai thì Giáo hội càng bị lung túng và tất nhiên là họ phải dùng quyền lực để đán áp, chẳng hạn Đại học Paris bị cấm dạy môn triết học về khoa học tự nhiên của Aristotle từ năm 1215, nhà bác học Galileo bị bức hại như các cháu đã biết. Thậm chí cho đến nay (năm 2007) mà thế lực của Thiên chúa giáo và Tin lành ở Mỹ vẫn còn buộc hệ thống giáo dục trong nhiểu bang của nước Mỹ không được giảng daỵ thuyết tiến hóa của Darwin, mà phải dạy thuyết chúa sáng tao thế giới (creation). Nhưng khoa học cứ tiên bộ, và ở Tây phương vẫn luôn có những nhà trí thức dù ở trong truyền thống Thiên chúa giáo, họ vẫn can đảm chấp nhận sự thật, khoa học; cho nên hiện nay tầng lớp trí thức phương Tây đã hầu như mất hết niềm tin vào Kinh thánh, vào lời phán dạy của các bề trên, của cha cố. Hệ quả tất yếu của trào lưu tiến bộ này đã khiến cho Tòa thánh Vatican, vào tháng 10 năm 1992 phải phục hồi danh dự cho nhà bác học Galileo sau 350 năm đã hảm hại ông! Nhưng cái hệ quả mà cả Thiên chúa giáo, và Tin lành sợ nhất là dân chúng Tây phương hiện đang bỏ đạo càng ngày càng nhiều.

Thống kê cho biết, trong khoảng 10 năm từ 1990 đến năm 2000, ở Mỹ, tốc độ bỏ đạo tăng lên 170%. Vì vậy mà chiến lược “đem ánh sáng văn minh của Kinh thánh” để khai phá sự ngu dốt của loài người đã được Thiên chúa giáo và Tin Lành chuyển hướng đến các vùng nghèo đói và thiếu học ở Phi châu, Á châu, Nam Mỹ. Cụ thể ở nước Việt Nam ta là các vùng Cao nguyên.

III. PHÂN TÍCH NÃO TRẠNG CỦA NGUỜI VIỆT NAM TIN THEO VĂN HÓA THÁNH KINH.

Để hiểu rõ hơn tại sao người tín đồ của Thiên chúa Giáo và Tin lành lại cuồng tín và mù quáng khiến cho Thiên chúa Giáo đã không Công bình Bác ái mà trái lại đã tạo ra không biết bao nhiêu điêu linh thống khổ và kìm hảm sư phát triển chân chính của loài như lịch sử đã cho thấy, chúng ta nên phân tích sơ qua não trạng hay tư duy logic của họ.

Họ bắt đầu với logic nhị nguyên rất đơn giản như sau: Nếu A là đúng thì "Không A" là sai. Điều này các cháu sẽ học trong chương trình Toán lớp10. Rồi họ được các cha cố đạo nhồi nhét vào đầu là A ở đây chỉ là Kinh thánh, vậy Không A là những gì ngoài Kinh thánh đều hoàn toàn sai, cần phải hủy diệt. Chẳng hạn họ tin như đinh đóng cột rằng Thiên đường là nơi chỉ dành cho những tín đồ Thiên chúa và Tin lành dù có làm ác bao nhiêu đi nữa, còn địa ngục thì dành cho tất cả nhưng ai không tin vào Chúa của họ dù người đó có tốt bao nhiêu đi nữa.

Họ tin như đinh đóng cột là chỉ có văn hóa Thiên chúa giáo, Tin lành mới là chân chính, mới đáng lưu giữ và phát huy, còn mọi nền văn hóa khác đều cần phải hủy diệt vì có thể khiến người ta không tin vào Chúa của họ. Họ tin như đinh đóng cột là họ có “sứ mang cao cả” là đem “văn minh Kinh thánh” đến “khai phá sự ngu dốt” của mọi người không hay chưa tin vào Chúa của họ. Cho nên đối với họ thì Văn hóa truyền thống hơn 4000 năm của dân tôc Việt Nam ta là đồ bỏ, cần phài hủy diệt để thay thế bằng Văn minh của Cựu ước và Tân ước, v.v….Cho nên chúng ta không lạ gì trong “Hiệu triệu gởi toàn thể sĩ phu Việt Nam, gì gì đó …” để chuẩn bị mở cuộc Thánh chiến đánh Cộng sản Việt Nam của ông Nguyễn Anh Tuấn thì ông có nhấn mạnh đến việc Văn minh của Cựu ước và Tân ước là đỉnh cao trí tuệ của nhân loại sẽ được “lòng bác ái của ông” ban cho dân Viêt Nam sau khi thực hiện thành công cuôc Thánh chiến.

Nhưng như đã nói trên, giới trí thức Tây phương luôn có những người rất sáng suốt, dù được nuôi dưỡng trong cái não trạng nhị nguyên đơn giản nói trên của Văn hóa Thánh kinh, ho vẫn có tư duy độc lập, can đảm bác bỏ những niềm tin u mê phản khoa học. Chẳng hạn, ngay trong thời trung cổ, ông Wilhelm von Ockham (1285-1349), là một nhà thông tháiThiên chúa giáo thuộc dòng tu Fanciscan, đã cho rằng cần phải tách rời thần học khỏi triết học, tôn giáo khỏi khoa học, cái tin khỏi cái biết; không ai có thể chứng minh Thượng đế là có thật. Tất nhiên ông bị Giáo hoàng Johan XII thời bấy giờ đóng đô tại Avignon (miền Nam nước Pháp) kêu về giải trình cái tư trưởng sai lầm của mình, ông bị truc xuất khỏi Giáo hôi, bị xem là kẻ thù của Giáo hội và ông đã phải trốn chạy để khỏi phải mất mạng. Còn thời đại ngày nay thì khỏi nói, có rất nhiều trí thức phương Tây đã nhận ra sai lầm của văn hóa Thánh kinh và đã từ bỏ đạo. Không những thế, mà có những người đã trở thành những nhà Phật học hàng đầu thế giới như Giáo sư Tiến sĩ Edward Conze (1904-1979).

Nhưng giới trí thức Công giáo trong những nước chưa hay đang phát triển như Việt Nam, …thì lại không có những người sáng suốt và can đảm như thế, được như ông Lý Chánh Trung bày tỏ tâm tình trong Tìm Về Dân Tộc là đã quá hiếm rồi. Tại vì sao ? Bởi vì não trạng của người trí thức Công giáo hay Tin Lành Việt Nam không những đã bị đều kiện hóa bởi sự cuồng tín của văn hóa Thánh kinh như đã nói trên, mà còn vì đa số vốn xuất thân từ các đặc quyền, đặc lợi so với tuyệt đại đa số dân Việt Nam do truyền thống có công giúp ngọai bang đánh chiếm và đô hộ nước ta. Với não trạng A là đúng thì Không A là sai. A với họ là “đặc quyền, đặc lợi nhờ thế lưc của ngoại bang”, cho nên với họ tinh thần chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, v.v… là hoàn toàn sai, cần phải tiêu diệt!

Như thế não trạng của giới trí thức Công giao và Tin Lành Viêt Nam đã bị hai cái niềng kim cô kẹp cứng : Cái niềng “văn minh Kinh thánh, thi hành mọi chỉ thị của Giáo hôi” và cái niềng “ đăc quyền, đặc lợi vì có công giúp ngoại bang đô hộ Viêt Nam”, cho nên họ không thể có tư duy độc lập. Không có tư duy độc lập thì làm sao họ nhận ra chân lý, và tất nhiên họ không thể có can đảm, không thể có dũng khí làm được như các trí thức Tây phương.

Về cơ thể học, thần kinh học và tâm lý học thì hai cái niềng kim cô này tạo thành hai bộ lọc chắn ngay trước cửa của 6 cơ quan tiếp thu thông tin của họ, đó là mắt , tai , mũi , lưỡi, thân, và ý. Thông tin nào thỏa điều kiện của hai niềng kim cô ấy thì mới được cho vào, thông tin nào không thỏa thì bị bật ra. Chẳng hạn, mũi của họ chỉ ngữi được những mùi “ đậm hương vị Thánh kinh” hoặc “đậm mùi đặc quyền, đặc lợi do ngoại bang bố thí”. Óc của họ không bao giờ chứa những tư tưởng khác ngoài tư tưởng được qua hai bộ lọc ấy, họ không thể có tư duy độc lập, nói cách khác họ là những người nô lệ từ ngay trong tư tưởng.

Vì vậy, ông Trần Chung Ngọc ơi (và cả ông Lý Thái Xuân nữa), ông không nên buồn, giận, bực mình, khi ông Nguyễn Tường Tâm

- cho rằng việc chế tạo bom áp nhiệt của bà Dương Nguyệt Ánh giúp nước Mỹ thêm phương tiện làm bá chủ hoàn cầu, (nếu cần thì đô hộ Việt Nam) thì cũng "anh hùng" mà dân Việt Nam phải ghi công như ghi công anh hùng của ông Trần Đại Nghĩa đã chế tạo SKZ, nhờ đó dân tôc Việt Nam mới tống cổ được thực dân Pháp ra khỏi đất nước,

- chê ông chưa học qua cách làm bài luận,

- chê ông kém hiểu biết, ông không thấy được tính đúng đắn của buổi lễ vinh danh khoa học gia Dương Nguyệt Ánh vì có mấy người Mỹ quyền cao, chức trong, tai to mặt lớn, tóc bạc.... Với não trạng đã bị niềng bởi hai vòng kim cô của ông Nguyễn Tường Tâm thì chỉ cần sự có mặt của mấy người Mỹ đó là đã tuyệt đối đúng rồi!

- tặng ông hai cái mũ :NÓI XẤU THIÊN CHÚA GIAO, CỘNG SẢN!.

Cũng như ông Trần Vinh không nên giận khi ông đã ôn tồn khuyên răn ông Nguyễn Anh Tuấn là đừng nên dùng cái tên Thánh chiến vì từ này gợi nhớ tới cái tôi ác của 7 cuộc Thánh chiến thời trung cổ và các vụ nổ bom tự sát ngày nay, mà họ không những không biết ơn ông, mà ông Chu Tấn lại còn mạ lỵ ông, và chụp mũ Cộng sãn lên đầu ông. Cũng chính vì não trạng đã bị niềng nên mặc dầu ông Nguyễn Anh Tuấn đã bỏ công dùi mài kinh sử trên 20 năm mà vẫn phán một câu xanh dờn: Ông Marx chỉ là một tên học trò khờ khạo.

Ông Ngọc chân chất thật thà quá, bèn cải lại với những chứng cớ không chối cải được như viện dẫn các cuộc trưng cầu ý kiến của đài BBC về việc đánh giá, xếp hạng tầm tư tưởng của ông Marx như là đỉnh cao trí tuệ của mọi thời đại so với nhiều triết gia khác. Ông Trần Chung Ngọc ơi! Cách làm của ông là cách làm nghiêm túc của giới khoa học, hàn lâm quá cũng như cách khuyên nhủ nhẹ nhàng lịch sư của ông Trần Vinh, ông Lý Thái Xuân thì không cách gì hai bộ lọc đã nói trên cho phép lý lẽ của các ông vào trí não của các ông như Nguyễn Tường Tâm, Nguyễn Anh Tuấn, Chu Tấn được.

Các ông Ngọc, Vinh, Xuân không nên chê trách các ông như Nguyễn Tường Tâm , Nguyễn Anh Tuấn, Chu Tấn mà nên thương họ bởi lẽ họ chỉ là nạn nhân của hai cái niềng kim cô. Các ông đã tìm cách giáo dục, giúp họ, và rất nên tiếp tục giáo dục họ như đức Khổng Tử đã dạy :” Hối nhi bất quyện” để họ có cơ hội thoát khỏi hai cái vòng kim cô ấy, để họ trở thành con người có tư duy độc lập, như thuở xưa , vượn người bắt đầu từ biệt kiếp sống mông muội của loài đi bốn chân mà vươn lên đi hai chân thành người homo-sapiens. Đó là nhiệm vụ vinh quang , cao cả của người trí thức chân chính. Nhưng chúng tôi trách các ông đã chọn chưa đúng “phương pháp giáo dục” khiến không những kém hiệu quả mà còn phản tác dụng di hại thêm! Như tôi sẽ chứng minh dưới đây!

IV. CẢI TẠO NÃO TRẠNG TỪ LOGIC NHỊ NGUYÊN QUA LOGIC TỨ NGUYÊN.

Các người mà ba ông Trần Chung Ngọc, Trần Vinh và Lý Thái Xuân có nhã ý giáo dục, thì như đã trình bày trên, não trạng của họ đã bị niềng bởi hai vòng kim cô, đã chứa đầy mệnh lệnh của bề trên, không còn chỗ để chứa những điều các ông dạy theo phương pháp truyền thống là “truyền thụ kiến thức”, ví như cái ly đã chứa đầy nước cũ rồi, các vị có rốt thêm bao nhiêu nước mới cũng không có nước mới trong ly được. Vậy cần phải dùng phương pháp giáo dục mới, mà hình tượng là trước hết phải đục một cái lỗ dưới đáy ly, để cho nước cũ chảy ra hết cái đã, rồi mới rót nước mới vào. Đục cái lỗ để cho nước cũ chảy ra hết ở đây là giải phóng cho não trạng của họ thoát khỏi cái logic nhi nguyên : A là đúng thì Không A là sai ; hay chỉ có một trong hai trường hợp sau đây xảy ra :

1. A là đúng

2. A là không đúng.

Rót nước mới vào ở đây là dạy cho họ logic tứ nguyên (có thể một trong 4 trường hợp) sau đây:

1. A là đúng

2. A là không đúng

3. A vừa là đúng vừa là không đúng

4. A vừa là không đúng vừa là không không đúng.

Phương pháp giáo dục mới ở đây có thể tạm gọi là Phương Pháp Xây Dựng Kiến Thức (constructivism). Thật ra phương pháp này không mới vì nó đã từng được quan niệm và ứng dụng dưới nhiều hình thức khác nhau từ xa xưa bởi các vị hiền triết : Ông Lão tử đã quan niệm nó khi viết câu mở đầu của Đạo Đức Kinh “ Đạo khả đao phi thường Đao, Danh khả danh phi thường Danh”; ông Phật Thích Ca Mâu Ni đã dùng nó để dạy cho dân bộ tộc Kalama biết cách tiếp thu chân lý : “Các người đừng có tin vào lời nói của người khác nói, dù người đó là người vô cùng nổi tiếng, đừng có tin vào những lời ghi lại trong sách vở dù đó là kinh điển, một khi mà các người chưa tự mình cho là đúng qua qua các kinh nghiệm thực chứng của bản thân…..”; ông Socrates đã dùng nó để dạy môn đồ bằng cách nêu ra các câu hỏi để môn đồ trả lời, dần dần đưa tới chỗ bí trong lập luận của môn đồ, từ đó môn đồ nhận ra chân lý; ông Heraclitus đã nhận thức được nó khi nhìn dòng sông chảy mà nói rằng : “Không ai có thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”. Đến thế kỷ 18 thì nhà triết học Giambattista Visco dùng nó trong quan niệm về cái biết của con người về thực tại và thế giới chung quanh, v.v…. Trong thế kỷ 20 thì hai nhà giáo dục John Dewey và Jean Piaget được xem như những nhà tiền phong cổ xúy việc dùng phương pháp này trong học đường. Hiện nay trên thê giới hầu như chỉ có nước Thụy Điển là đang áp dụng nó trong nền giáo dục từ năm 1994.

Nếu đọc tới đây mà các ông như Nguyễn Tường Tâm, Nguyễn Anh Tuấn, Chu Tấn cho rằng cái thằng cha Mục Đồng quê mùa chỉ là thứ “cáo mượn oai hùm” như ông Nguyễn Tường Tâm đã mắng ông Trần Chung Ngọc, thì cái niềng nhị nguyên vẫn còn niềng cứng não trạng của mấy ông bởi vì các ông cho rằng với tầm cở của các ông đã từng dùi mài kinh sử hơn 20 mươi năm thì phải là cở Full professor họa may mới có thể dạy được các ông, mà tên Mục Đồng này ở miền quê Việt Nam, hàng ngày chỉ chơi với các cháu học trung hoc đệ nhất cấp, thì sức mấy mà làm Full professor, hay Associate professor hay Assistant professor, thâm chí xin làm Teaching Assistant thì chờ hơn một thế kỷ nữa cũng chẳng ai cho! Nhưng thưa các ông, văn hóa Việt Nam ngó vậy mà đã dạy cho con người tư duy theo tứ nguyên chứ không phải nhị nguyên cứng như đá đâu! Này nhé, một ông đồ nho, chẳng đổ đạt gì cả mà dạy học trò ở miền quê thi đỗ Tiến sĩ là chuyện thường xảy ra ở nước ta từ khi nhà Lý mở khoa thi trong thế kỷ 11 cho đến năm 1919 là năm bỏ hoàn toàn thi cử theo Hán văn. Như thế mặc dầu không có bằng cấp gì cả mà ông đồ nho đó vừa là Full professor vừa là Hiệu trường của trường Đại học! Thấy được như thế thì bắt đầu có tư duy tứ nguyên rồi đó!

V. PHỤ ĐẠO CẢI TẠO NÃO TRẠNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM TIN THEO VĂN HÓA THANH! KINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP XÂY DỰNG KIẾN THỨC

Vậy thì các ông Trần Chung Ngọc, Trần Vinh và Lý Thái Xuân có cho phép Mục Đồng tôi mươn các “học trò” của các ông để Mục Đồng tôi giả làm “Teaching Assistant” mà phụ đạo họ trong 10 phút tiếp theo đây không?

Trước khi được phép phụ đạo, Mục Đồng tôi như đã nói trên sẽ chứng tỏ cho các ông thấy cách dạy truyền thụ kiến thức của ông Trần Vinh không những không hiệu quả mà còn bị phản tác dụng. Này nhé, một thầy dạy võ, trước khi nhận học trò, cần phải xem thử người này học võ để làm gì, để có khả năng cứu nhân độ thế thì nhận dạy, còn đề có khả năng để cướp của giết người thì không nhận dạy. Đằng này, theo phương pháp truyền thụ kiến thức truyền thống, ông Trần Vinh chưa tìm hiểu căn cơ, trình độ, ý đồ của ông Nguyễn Anh Tuấn mà ào ào truyền kiến thức vào đầu ông Nguyễn Anh Tuấn, cho nên không những không có kết quả mà con di hại cho chính bản thân ông Vinh và cho thiên hạ nữa. Mục Đồng tôi xin thưa rõ đây. Ông Vinh dạy ông Tuấn là cái tên Thánh Chiến là không tốt, nên đổi thành cái tên khác cho nghe tốt đẹp hơn.

Hậu quả thứ nhất là ông Vinh bị ông Chu Tấn mạ lỵ và chụp mũ Công sản.

Hâu quả thứ hai ở chỗ này: dù sao ông Tuấn cũng đang là người thành thật, bụng nghĩ sao nói vậy, tốt! Ông định bụng mở cuộc Thánh Chiến thì ông dùng đúng từ Thánh Chiến, tốt! Thành thật! Bây giờ ông Vinh dạy ông đổi từ ác ôn Thánh Chiến thành một từ nào đó đẹp đẽ hơn, không có tính ác ôn, như vậy là ông Vinh đã dạy cho ông Tuấn từ một người thành thật trở thành một người gian trá : bụng thì mở Thánh Chiến mà miệng thì hô háo không phải Thánh Chiến .

Hậu quả thứ ba là : Nếu ông Tuấn cứ để cái tên Thánh Chiến thì có kẻ nghe theo, nhưng chắc chắn có nhiều người không theo, như thế số người tham dư trận đánh sẽ ít, thiệt hại đôi bên cũng sẽ ít. Đằng này vì lời dạy của ông Vinh, ông Tuân đổi tên Thánh Chiến thành một tên tốt đẹp nào đó, khiến cho nhiều người bị lừa bịp mà nghe theo ông Tuấn mà tham gia vào trận đánh, quy mô chiến tranh sẽ lớn thì tất nhiên tiệt hại của đôi bên cũng rất nhiều, cho nên ông Vinh có tội là đã gián tiếp tạo ra cái chết cho rất hiều người bất kể phe nào thắng ( Việc phe nào thắng sẽ được bàn tiếp dưới đây).

Bây giờ chắc là Mục Đồng tôi được phép phụ đạo !

Phương pháp Xây Dựng Kiến Thức không phải cứ tuôn ào ào kiến thúc ra và bắt học trò học, chấp nhận như phương pháp truyền thư kiến thức truyền thống đâu. Mà bắt đầu thăm dò căn cơ của người học như thế nào, trình độ tới đâu rồi, tốc độ tiếp thu như thế nào, từ đó dùng các tình huống mà hướng dẫn người học xây dựng ra kiến thức, chứ không áp đặt kiến thức từ bên ngoài vào não họ. Ở đây , chúng ta căn cứ vào bài viết của các ông Nguyễn Tường Tâm và Nguyễn Anh Tuần mà biết được căn cơ, trình độ, cả tính tình của các ông ấy mà khỏi phải cần làm trắc nghiệm.

A. NGƯỜI ĐƯỢC PHỤ ĐẠO : ÔNG NGUYỄN TƯỜNG TÂM.

Quả vậy, ông Nguyễn Tường Tâm đã cho ông Trần Chung Ngọc là “cáo mượn oai hùm” và buộc ông Ngọc tóm tắt quyển sách The Quantum and The Lotus của Matthieu và Trịnh Xuân Thuận thành một câu hay môt nhóm từ. Đó quả là một “chưởng” rất độc, với một đối thủ tầm thường cở như thầy của Mục Đồng tôi mà hứng cái “chưởng” ấy thì cũng tiêu mạng! Nhưng với công lưc thâm hậu thì ông Trần Chung Ngọc cười khà khà vì ông Ngọc trong qua trình luyện chưởng của mình, ông đã xài tới nước cốt của sản phẩm của hai nhà học giả trên từ mấy năm trước rồi mà ông Tâm không hề hay biết! Đấy chính là cái tầm của ông Tâm và cũng biểu lộ cái tính của ông Tâm. Ông Ngọc đã ung dung hóa giải cái chưởng của ông Tâm một cách vừa dễ dàng vừa lich sự.

Bây giờ ông Ngọc nên căn cứ vào cái tầm và cái tâm đó của ông Tâm mà áp dụng phương pháp Xây Dựng Kiến Thức giúp ông Tâm thoát khỏi cái vòng kim cô thứ nhất bằng cách bắt chước ông Socrates như sau: Ông Ngoc chọn trích ra một số đoạn trong Kinh thánh Cựu ước hay Tân ước mà ông cho là “độc đáo nhất” , và một số đoạn “độc đáo nhất” hay toàn văn của Lời Thề Của Dòng Tên (The Jesuite Extreme Oath of Induction) và Những Huấn Thị Mật Của Dòng Tên (The secret Instructions of The Jesuites) càng tốt . Ông là người học rộng biết nhiều thừa sức trích ra những đoạn ấy và tất nhiên cũng quá thông minh để hiểu ba chư “độc đáo nhất” trong ngoặc kép của Mục Đồng tôi.

Tiếp theo là ông học tập ông Socrates cách dạy môn đồ là yêu cầu ông Nguyễn Tường Tâm giải thích rõ nghĩa, đặc biệt là cách thực hành của các đoạn ấy, và căn cứ vào đó mà chứng minh cái tính chất Công Bình, Bác Ái, Nhân Bản, Văn Minh của Kinh thánh, cái đỉnh cao văn hiến của loài người chứa trong Kinh thánh. Như thế là ông đã nhân nhượng và chấp ông Tâm rồi đó, bởi vì tổng số trang ông trích ra chắc chắn ít hơn nhiều so với số trang của cuốn sach The Quantum and The Lotus, đồng thời quyển sách thì chứa rất nhiêu ý tưởng đan xen chằng chịt mà ông phải tóm tắt lai thì rất khó so với viêc tán rộng ra của các đoạn trích có ý tưởng tương đối rời rạc.

Ông Tâm không thể từ chối tiếp đón chưởng này của ông Ngoc vì chính ông Tâm là người ra chiêu trước mà ông Ngọc đã đáp lễ thì theo lẽ công bằng đến phiên ông Ngoc ra chiêu, ông Tâm phải tiếp chiêu! Mục Đồng tôi chắc chắn rằng sau khi ông Tâm tiếp chiêu này thì ông tư xây dựng được “kiến thức mới “ về Thánh kinh và vì ông tự khám phá, tự tìm ra kiến thức ấy, chứ không phải ông Ngoc áp đặt từ ngoài vào bắt ông chấp nhận, cho nên kiến thức ấy trở thành vốn kiến thưc cơ bản của ông Tâm. Từ đó chính ông Tâm dễ dàng tháo cái vòng kim cô thứ nhất ra khỏi não trạng của ông, chứ không cần ông Ngọc hay bất cứ ai tiếp tay nữa.

B. NGƯỜI ĐƯỢC PHỤ ĐẠO : ÔNG NGUYỄN ANH TUẤN.

Cũng có thể mời ông Nguyễn Anh Tuấn cùng làm bài tập phụ đạo ấy với ông Tâm. Nhưng phương pháp Xây Dựng Kiến Thức có đặc điểm là “cá nhân hóa” việc giảng dạy . Dạy riêng cho từng hoc sinh tùy theo căn cơ của họ thì kết quả tốt hơn. Căn cứ trên “ Hiêu triệu gởi sĩ phu…” của ông Tuấn thì chúng ta thấy căn cơ của ông lộ rõ ở 5 nơi, và do đó nên phụ đạo cho ông ấy 5 bài.

Bài thứ nhất là việc đánh giá xếp hạng ông Marx. Ông Tuấn cho rằng: “ ông Marx chỉ là tên học trò khờ khạo”. Tốt! Ông Ngọc đã dùng phương pháp truyền thụ kiến thức truyền thống là viện dẫn ý kiến của các chuyên gia qua cuộc trưng cầu ý kiến cùa Đài BBC : ông Marx được coi là một triết gia vĩ đại bâc nhất của mọi thời đại; để chứng minh ông Tuấn là sai, là ếch ngồi đáy giếng. Như thế là ông Ngọc áp đặt kiến thức từ bên ngoài vào đầu ông Tuấn. Nhưng như Mục Đồng tôi đã thưa ở trên, não trạng của ông Tuấn đã bị niềng kim cô kèm kẹp, việc đánh giá của các chuyên gia theo BBC không được các bộ lọc cho vào óc ông Tuấn đâu. Phải dùng phương pháp Xây Dưng Kiến Thức. Dựa trên tình huống này, ông Ngọc có lẽ nên làm như sau. Hãy mời ông Bao Công tới làm chánh án vì chắc chắn ông Bao Công không ăn hối lộ, không theo lệnh của bất cứ ai trong việc xử án, nên bảo đảm được tính công minh. Sau đây là tiến trình buổi xử án của Bao Công mà Mục Đồng tôi làm khán giả có “trộm ghi lại”.

Bao Công : Ta từ phủ Khai Phong đáp hỏa tiến liên lục địa tới thăng đường tại Tòa thượng thẩm của Hoa Kỳ để xử vụ tranh chấp viêc đánh giá xếp hạng ông Marx giữa hai ông Nguyễn Anh Tuấn và Trần Chung Ngọc. Các ngươi hãy nghe lệnh ta đây. Ta chọn tác phẩm chính của ông Marx gồm hai phần là Bộ Tư Bản Luận và Tuyên Ngôn Đảng Công Sản giao cho ông Trần Chung Ngọc đọc. Tương ứng phần một bên kia là toàn bộ Thánh kinh Cựu và Tân Ước, tương ứng phần hai bên kia là toàn bộ Lời Thề Của Dòng Tên và Những Huấn Thị Mật của Dòng Tên, giao cho ông Nguyễn Anh Tuấn đọc. Các ngươi phải đọc đầy đủ, đúng nguyên văn từ đấu tới cuối, nếu gian dối, chỉ đọc các chỗ ngươi cho là khoe được với thiên hạ mà lơ đi không đọc những chỗ mà ngươi sợ thiên hạ chê cười thì ta “ Cẩu đầu trảm”. Dạ! Ban thư ký nghe cho kỹ mỗi bên đọc và ghi lai tất cả những sự việc theo từng đề mục có chứa trong các tài liệu ấy như dâm dục, loạn luân, chia chiến lợi phảm, giết người, âm mưu ám sát, phỉnh gạt đàn bà góa giàu có để lấy của.v.v…; mỗi đề mục ghi đầy đủ số lần xảy ra. Lấy tổng số lần nhân cho 20 điểm (ta cho điểm theo hệ thống điểm Việt Nam của các ngươi). Rồi cộng tất cả lại thành điểm của mỗi bên. Nếu các người gian dối, cố tinh thiên vị, thêm, bớt thì ta sẽ “ Cẩu đầu trảm” ! Da! Bây giờ ông Nguyễn Anh Tuấn đọc trước! Da!!

Kết quả : Bao Công : Ông Marx được bao nhiêu điểm?

Ban thư ký : Bẩm đại nhơn, ông Marx bị zero điểm!

Bao Công : Ầm! (Ông Bao Công đập cái búa xuống bàn).Các ngươi có thù ghét gì ông ta không mà dấu bớt điểm của ông ta?

Ban thư ký : Bẩm Đại nhơn, chúng con đâu dám, đây là sự thật, chẳng qua là vì ông Marx kém quá mới bị zero!

Bao Công: thật là tội nghiệp! Còn bên ông Nguyễn Anh Tuấn thì điểm là bao nhiêu nhiêu?

Ban thư ky : Bẩm đại nhơn, nhiều quá, chúng con tính không xuể!

Bao Công :Ầm (Ông Bao Công lại đập búa xuống bàn). Gian dối! các ngươi cố tình bênh vực cho nên thêm điểm vô nguyên tắc!

Ban thư ký : Bẩm đại nhơn, chúng con đâu dám! Bẩm đại nhơn, chỉ riêng số người bi giết đã hơn 2 triệu, còn số chiến lợi phẩm từ dê, cừu , bò, tù binh…, các vụ lọan dâm, loạn luân, âm mưu giết người, phỉnh dụ bà góa có của…thì đếm không xuể… cho nên nếu lấy tổng số mà nhân với 20 như lời dạy của Đại nhân thì chí ít cũng trên 100 triệu, cho nên chúng con xin ghi số tròn là 100 triệu, bởi vì ông Marx đã bị zero điểm thì 100 triệu điểm cũng đã hơn quá nhiều rồi!

Bao Công : Ta chấp nhận cao kiến của các ngươi. Vậy ta tuyên án đây: Ông Marx bị zero điểm so với 100 triệu điểm của bên ông Nguyễn Anh Tuấn, cho nên ông Marx chỉ là tên học trò hạng bét, nhưng ông Nguyễn Anh Tuấn là con người “có văn hóa, vì đã dùi mài kinh sử trên 20 năm” nên đã không miệt thị, đã không dùng từ “hạng bét” , đã nương tay mà phê :”Ông Marx chỉ là tên học trò khờ khạo” là rất chính xác và đầy tính bác ái. Như vậy ông Trần Chung Ngọc thua kiện, phải chịu : nộp mọi án phí là 25.000 đô la, bồi thường danh dự cho ông Nguyễn Anh Tuấn là 100 đô la, nộp cho quỹ đạo đức 500.000 đô là do tôi vu không phi đạo đức, và chịu đánh vào mông 10 hèo ! Ngày mai ta trở về phủ Khai Phong, ta vốn ăn ở thanh tịnh, đạm bạc, nhưng thuộc hạ của ta từ Triển Chiêu trở xuống, mấy ngày nay lo làm việc cho vụ án, đặc biệt là theo dõi ghi chép các thông tin “nóng sốt” từ các tài liệu nên đã bị “căng thẳng thần kinh và cơ bắp”, cho nên nhân bên thắng kiện thế nào cũng mở tiệc ăn mừng, ông Nguyễn Anh Tuấn nhớ mời đám thuộc hạ của ta một bửa tối “tươi mát” để họ được ‘giảm căng thăng” , thì sáng mai họ mới có thể theo ta đáp hỏa tiển liên lục địa trực chỉ phủ Khai Phong!

Bên thắng kiện : Bẩm Đại nhân, xin tuân lệnh!

Bao Công : Bải đường!

Bài phụ đạo thứ hai : Trong “ Đỉnh Cao Trí Tuệ”, ông Nguyễn Anh Tuấn có ý so sánh cuộc Thánh Chiến của ông với ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lăng Nguyên Mông của các vua nhà Trần nước ta. Tốt! Theo ông Socrates, thì nên hỏi-đáp với ông Tuấn hỏi như sau :

- Trong các trận kháng chiến của vua nhà Trần, ai xâm lăng ai? Vì sao?

- Quân Nguyên Mông là kẻ xâm lược vì là người nước ngoài đem quân tới đánh quân Việt Nan trên đất Việt Nam!

- Đúng, tốt! Thế thì trong cuộc Thánh chiến của ông, quân của Cộng sản Việt Nam chắc chắn gồm những người có quốc tịch Việt Nam, còn quân của phe mở Thánh chiến gồm các người như ông, tức là toàn những ngưới có quốc tịch hoặc Mỹ, Canada, Pháp, Đức, Úc.v.v…, tức là người nước ngoài đem quân tới đánh người Việt Nam trên đất Việt Nam. Vậy phe nào là kẻ xâm lược? So sánh với nhà Trần và Nguyên Mông thì phe Cộng sản là nhà Trần, còn phe Thanh chiến của ông là quân Nguyên Mông là hoàn toàn chính xác, có phải không?

- Phải, Chính xác!

- Trong hai phe : phe xâm lược và phe chống xâm lược, phe nào có chính nghĩa?

- Tất nhiên phe chống xâm lược có chính nghĩa!

- Đúng,Tốt! Vậy theo lý luận trên thì cuộc Thánh chiến là phi chính nghĩa , có đúng không?

- Đúng, Tốt!

- Đã phi chính nghĩa, thì trước sau gì cũng thất bại, đúng không?

- Đúng, Tốt! Vậy trước sau gì cuộc Thánh chiến cũng thất bại, phải không?

- Phải, Tốt!

Bài phụ đạo thứ ba:

- Trong cuộc Thánh Chiến, ông có ý so sánh tinh thần kháng chiến của vua, quan ,quân ,dân Việt Nam thời nhà Trần với tinh thần của quân Thánh chiến phải không?

- Phải!

- Tốt! Nhưng thời nhà Trần thì ở nước ta chưa có Thánh Kinh, mà chỉ có Nho. Lão , Phật, đặc biệt tinh thần Phật giáo vì Phật giáo là quốc giáo dưới thới nhà Trần, có phải không?

- Phải!

- Tốt! Vậy quân dân nhà Trần dựa trên tinh thần Văn hóa dân tộc, tinh thần Phật giáo mà chóng quân xâm lược Nguyên Mông để bảo tồn văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, trong khi cuộc Thanh Chiến của ông dựa trên tinh thần Thánh kinh mà xâm lăng Việt Nam với ý định xóa văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam để thay bằng Văn hóa Thánh kinh. Như thế việc so sánh của ông là hoàn toàn trật lất! và tỏ ra … ngốc. Có đúng không?

- Đúng!

Bài phụ đạo thứ tư : Ai thắng ai?

- Khi mở cuộc Thánh chiến, ông chắc chắn là ông thắng, có đúng không ?

- Tất nhiến là đúng!

- Trong một cuộc chiến tranh, phe thắng thường là phe có chính nghĩa, vượt trội về quân số, sự tối tân của vũ khí, và chiến lược. Nhưng phe Thánh chiến đã không có chính nghĩa như ở bài học trên. Về quân số phe Thánh chiến cũng thua xa vì nếu ông huy động tối đa được tất cả những người Việt ở nước ngoài theo ông về đánh Việt Nam, thì nhiều lắm được bao nhiêu? Làm sao so nổi với khoảng 80 triệu người Viêt Nam trong nước không theo văn hóa Thánh kinh mà chắc chắn Cộng sản Việt Nam huy động được? Có đúng không? Còn về chiến lược, thì pheThánh chiến có hơn được chiến lược của quân Nguyên Mông, của Thực dân Pháp, của các chiến lược gia và tướng lảnh Mỹ như Westmoreland, Taylor, Mc Namara, Kissinger,… không? Mà tất cả họ đã thua Việt Nam, có đúng không? Còn về vũ khí, ngày xưa, thực dân Pháp nhờ có súng, mà quân dân Việt Nam chưa có súng, nên chỉ cần một ít quân Pháp với sự giúp sức của các cố đạo và giáo dân, như cha cố Trần Lục đã kéo 5000 giáo dân tới triệt hạ chiến khu Ba Đình của anh hùng Đinh Công Tráng.v.v… mà đánh thắng Việt Nam. Chứ từ năm 1945 tới năm 1975, thì hể phe xâm lăng có vũ khí gì, phe Việt Nam cũng sẽ có vũ khí để đối trị, có đúng không? Chắc ông nghĩ rằng các nước theo văn hóa Thánh kinh sẽ viện trợ vũ khí đặc biệt hiện đại như bom áp nhiệt của khoa hoc gia Dương Nguyệt Ánh cho phe Thánh chiến của ông. Nếu tin như đinh đóng cột như thế thì ông có lẽ “học chưa tới” các bài học thực tế đã xảy ra, vốn luôn là chân lý.

Chẳng hạn, ông nghĩ người Mỹ đã viện trợ đầy đủ vũ khí hiện đại cho Việt Nam Cộng Hòa để chống Cộng sản Việt Nam vì họ luôn luôn bảo vệ lý tưởng tự do, thì ông đã “ngây thơ” quá. Cho đến khi trận Mậu thân xảy ra năm 1968, người Mỹ chỉ viện trợ cho quân lính Việt Nam Công Hòa các súng như garant M1, carbine,…, trong khi Việt Cộng đã dùng AK 47,…Có đúng không? Nói đúng ra là giới tư bản chế tạo vũ khí tại Mỹ còn hàng tồn kho từ chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai mới đem bán cho chính phủ Mỹ, để lấy tiền chế tạo vũ khí mới và lấy kho chứa vũ khí mới. Chính phủ Mỹ mới viện trợ vũ khí tồn kho gồm những khẩu garant M1, carbine,… ,cho Việt Nam Công Hòa, chứ không phải viện trợ vũ khí hiện đại đâu! Có đúng không? Như thế chiến trường Việt Nam là nơi tiêu thụ vũ khí thặng dư từ các cuộc thế chiến của tư bản chế tạo vũ khí, chứ không phải là tiền đồn bảo vệ tự do của người Mỹ như ông đã tin đâu. Một bằng chứng hiển nhiên là sau khi đã thỏa thuận về quyền lợi với các nước lớn khác từ năm 1972 thì Mỹ đã “thí” Việt Nam Công Hòa. Ông Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu xin 300 triệu đô la để thay thế vũ khí cũ, mua vũ khí mới, mà Mỹ không những đã không cho mà còn rêu rao cho đối phương biết như “tao đã trói tay nó rồi, bay cứ vào mà làm thịt đi !” .

Có phải không? Mỹ bão vệ tư do cho Miền nam Việt Nam, mà sao năm 1974, Trung Cộng đánh chiếm các đảo thuộcTrường Sa, Hoàng sa của Việt Nam, mà hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ nằm bên canh đó, vẫn không có phản ứng gì, có phải không? Và cuối cùng, Mỹ đã tháo chạy khỏi miền Nam Việt Nam năm 1975, có phải không ? Như thế cái ảo tưởng về Mỹ sẽ giúp vũ khí, quân lính,…, cho cuộc Thánh chiến của ông là sai lầm trong nhiều cái sai lầm mà người trí thức theo văn hóa Kinh thánh mắc phải, chẳng hạn cái sai lầm của Tòa án dị giáo xử tội nhà bác học Galileo vì ông cho rằng quả đất quay quanh mặt trời, là điều trái với niềm tin của Giáo hội La Mã. Nước Mỹ cũng như tất cả các nước khác phải lo quyền lợi cho nước họ chứ không phải lo giúp cuộc Thánh chiến của ông đâu. Ngoài ra phe Công sản cũng dễ dàng có được vũ khí hiện đại ngay cả của Mỹ vì các tư bản chế tạo vũ khí ra cốt để bán cho càng nhiều càng tốt cho bất cứ ai có tiền mua. Cho nên phe Thánh chiến của ông chưa chắc có vũ khí hiện đại hơn phe Công sản Việt Nam đâu.Có phải không?

- Phải!

- Như thế, cuộc Thánh chiến của ông, chắc chắn bị Cộng sản Việt Nam đánh bại, như lần Thánh chiến thứ 7, lần Thánh chiến cuối cùng của Giáo hội La Mã đã thảm bại ở Trung đông thời Trung cổ. Có phải không?

- Phải!

- Tốt!

Bài ohụ đạo thứ năm : Hậu quả của cuộc Thánh chiến

- Cuộc chiến tranh nào cũng gây đau thương, chết chọc cho ca hai phe thắng và bại, và gây nên lòng căm thù, đặc biệt là căm thù phe đã từng gây chiến, từng gây đau khổ sẽ tăng lên đối với phe kháng chiến. Có phải không?

- Phải!

- Cho nên sau khi đánh bại cuộc Thánh chiến của ông, người Cộng sản nói riêng và dân Việt Nam nói chung sẽ càng ghét ông hơn trước. Có đúng không? Họ nghĩ rằng ông mở cuộc Thánh chiến vì ngoài cái chuyện ông làm theo lệnh của bề trên ở nước ngoài, ông còn tin vào các tàn tích của văn hóa Kinh thánh, cũng như các người theo văn hóa Thánh kinh còn lai trong nước Việt Nam sẽ ủng hộ ông, giúp ông thực hiện Thánh chiến như các thế hệ trước của họ đã giúp thực dân Pháp. Điều này là một trong những nguyên nhân gây ra đau thương tang tóc cho dân tộc Việt Nam. Có đúng không?

Dân Việt Nam đã quá khoan hồng, rộng lượng, chứ thật ra, sau khi đánh thắng thực dân Pháp tại Điện Biên phủ, năm 1954 khi đoàn quân chiến thắng trở về Hà Nội, họ có quyền triệt hạ mọi tàn tích của thực dân và tay sai đã gây biết bao đau thương, tang tóc, tổn hại cho dân tộc Việt Nam trong 100 năm đô hộ của thực dân Pháp. Chẳng hạn, họ có quyền phá hủy Nhà Thờ Lớn tại Ha nội để giao cái nền lại cho Phật giáo xây chùa, vì nguyên nơi đây là cái chùa Báo Thiên của Phật giáo mà các vua nhà Lý đã cho xây nên cách đây gần một nghìn năm.

Trái lại, với thủ đoạn xóa bỏ văn hóa truyền thống Việt Nam của Thiên chúa giáo, các cha cố và giáo dân đã dựa thế lực của thực dân Pháp khi thực dân đã cướp được Hà Nôi của tổ quốc ta vào cuối thế kỷ 19, mà cố đạo Puginier đã âm mưu cùng giáo dân triệt phá ngôi chùa Bảo Thiên năm 1884, để xây ngay trên đó Nhà Thờ Lờn Hà Nội, hoàn thành năm 1888. Đó là sự thật lịch sử, có phải không? Đó là một tội ác đối với dân tộc Việt Nam trong âm mưu nô lệ hóa dân tộc ta trong văn minh Kinh thánh để muôn đời làm nô lệ cho ngoại bang.

Thế mà dân ta chưa đòi nợ, chưa đòi lại công bằng, nay ông lại mở Thánh chiến để tiếp tục thực hiện âm mưu ấy. Vậy sau khi đánh bại cuộc Thánh chiến của ông, người Việt Nam hoàn toàn có quyền, một lần lấy kinh nghiệm mà dứt nọc luôn! Bằng cách tống khứ mọi tàn tích, tàn dư của văn hóa Thánh kinh ra khỏi bờ cõi Việt Nam, để mãi mãi chúng không còn gây đau thương tang tóc cho dân tộc Việt Nam nữa! Khi đó cuộc Thanh chiến do ông mở ra, rốt cuộc mật trắng cả chì lẫn chài. Và khi đó, chính bề trên của ông, chứ không phải Cộng sản Việt Nam sẽ “Cẩu đâu trảm ông”. Có đúng thế không?

C. BÀI PHỤ ĐẠO CUỐI CÙNG: CON ĐƯỜNG TÌM VỀ DÂN TỘC.

Đối với mỗi người Việt Nam theo văn hóa thánh kinh, thì sau khi đã giúp ho từ bỏ logic nhị nguyên đơn giản là chỉ cài gì theo Thánh kinh mới là đúng mới là tốt, đễ họ có thễ tiếp thu logic tứ nguyên, nhờ đó giúp họ khai phóng não bộ tra khỏi sự kèm kẹp của hai cái vòng kim cô nói trên, qua một loạt các bài phụ đạo tương tự như đối với các ông Nguyễn Tường Tâm và Nguyễn Anh Tuấn, Chu Tấn trên đây, thì đã là tốt. Tuy nhiên cần phải phụ đạo cho họ một bài nữa để giúp họ dễ tìm ra con đường trở về với dân tộc. Bài phụ đạo này có tác dụng giống như thuốc trừ căn sau khi đã uông các thang thuốc trị bệnh. Bài này gồm một số câu hỏi như sau:

1. Câu hỏi thứ nhất : Anh có hiểu chính xác nghĩa của động từ “ trở lại đạo “ không?

Chúng ta đã biết, Thiên chúa giáo hay Tin Lành đã dùng một động từ rất sai và rất ngạo mạn đối với người Việt Nam, đó là “trở lại đạo”. Họ cho rằng những người không theo Thiên chúa hay Tin Lành là những người đã bỏ cái đạo vốn có của loài người, là những kẻ phản đạo, những kẻ đã phản lai tổ tiên xa xưa, trở thành những kẻ lạc loài! Cho nên, mỗi khi họ cù rủ được ai theo đạo thì họ dùng động từ “trở lại đạo”, nghĩa là “quay về với cái đạo mà ông bà, tổ tiên ngươi đã theo”, ngươi chấm dứt kiếp lac loài, ngươi đã trở lại làm con chiên ngoan trong bầy cừu để phục vụ các cha cố và chúa.

Như thế từ khi vào đạo, họ coi như đã từ bỏ truyền thống văn hóa của tổ tiên mà bao nhiêu đời nay cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã tôn thờ, để phục vụ văn hóa thánh kinh xa lạ. Giả sử rằng, luận điệu của các cha cố, mục sư là đúng, nghĩa là tất cả loài người từ thuở xa xưa đều là theo đạo Thiên chúa, rồi có một số bỏ đạo, trở thành những kẻ lạc loài, ngoại đạo cho nên cần phải trở lai đạo như quan niệm của Thiên chúa giáo và Tin lành.

Nhưng hiên nay trên thế giới số người theo Thiên chúa giáo và Tin lành không phải là đa số, thua xa tổng số người không theo đạo nào và tín đồ các tôn giáo khác cộng lại. Như thế, số người đã bỏ đạo gốc quá nhiều hơn số người còn giữ đạo gốc. Tại sao như thế ? Phải chăng là tại đạo ấy xấu xa, sai lầm, người ta mới chán mà bỏ nhiều đến thế chứ! Vậy các ngài bề trên của Thiên chúa giáo và Tin lành có thấy việc các ngài dùng cái động từ “ngạo mạn ấy” là các ngài đã sai lầm chưa! Bởi đó là “gây ông đập lưng ông”! Vậy theo đạo Thiên chúa hay Tin lành là “theo đạo” chứ không có gì gọi là “trở lai đạo” cả!. Thật ra cái động từ “trở lại đạo” là dùng cho những ai từ bỏ Thiên chúa giáo hay Tin lành để trở về với cái đạo mà cha ông đã tôn thờ trong truyền thống văn hóa dân tộc, mới là chính xác. Có phải không các vị trí thức Thiên chúa giáo, Tin lành?.

2. Câu hỏi thứ hai : Anh theo đạo vì lý do gì ? Anh có thể nói tôi là đạo dòng, nghĩa là ông bà tôi theo, rồi tôi theo. Tốt thôi! Nhưng chắc chắn, ông bà tổ tiên anh không thể theo đao từ thời Hùng Vương, Bà Trưng, Bà triệu, thời Bắc thuộc lần thứ nhất, thời nhà Đinh, Lê , Lý ,Trần, Lê.., sớm nhât là thời các cố đạo Âu châu qua nước ta trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Anh nên biết ông bà anh từ bỏ đạo thờ cúng ông bà, đạo Phật, Nho giáo,… , của văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam để theo đạo vì lý do gì? Thời bấy giờ chỉ có thể là một trong hai lý do sau đây thôi : một là nghèo khó quá, các cố đạo dụ là con hãy theo đạo, cha cho gạo ăn, cho tiền bac mà sống. Trong cơn nghèo túng, ông bà anh đã nghe lời cha cô mà theo đạo, đề có gạo mà ăn. Tốt thôi! Cho nên dân gian Việt Nam mới có câu :”theo đạo có gạo mà ăn”. Như thế, anh thuộc loại “đạo gạo”. Lý do thứ hai là ông bà anh đã làm gì bị quan quân, triều đình truy nả, chạy trốn, gặp cha cố nói :” con hãy theo ta, ta sẽ bao che cho”. Trong lúc nguy khốn, ông bà anh theo đao để được cha cố bao che tránh tù tội. Tốt thôi! Như thế, theo đạo đệ tránh bị tù, cho nên dân gian gọi là “đạo tù”. Tiếp theo, những người theo đạo đầu tiên ấy lấy vơ, lấy chồng, hay đẻ con ra, lấy vợ, lấy chồng thì bị một chiêu rất độc tài của Thiên chúa giáo và Tin lành áp đặt lên các dân tộc nhựợc tiểu (chứ sức mấy mà áp đặt lên dân các nước phát triển phương Tây) là phải theo đạo khi vợ hay chồng đã theo đạo. Đạo này gọi là “đạo vợ”. Rồi dưới thời Pháp thuộc, nhất là thời Ngô tổng thống của đệ nhất Cộng hòa ở Miền nam Việt Nam, thì thực dân Pháp cũng như Ngô tổng thống, vì “anh minh” nên chỉ tin dùng, thăng quan, tiến chức, cho những ai theo Thiên chúa hay Tin Lành, cho nên nhiều người vì chức , vì quyền mà theo đạo. Đây cũng thuộc loại như đao gạo, nhưng ở mức cao hơn, được gọi là “đạo chức quyền”. Điển hình là sĩ quan Nguyễn văn Thiệu đã từ bỏ đạo Phật của ông bà cha me để theo đạo Thiên chúa và sau trở thành Tổng thống của Đệ nhị Cộng Hòa miền Nam Việt Nam. Trong guồng máy của thực dân Pháp và thời Tổng thống Ngô đình Diệm, có nhiều trí thức nhờ vào đạo mà được đi du học trở thành Tiến sĩ, chưa kể là nhiều nữ sinh viên trước khi vào đạo đi du học thì đã được ‘‘cha” “chiếu cố” mất… rồi. Đến giai đọạn sau 30 tháng 4 năm 1975, anh sợ Cộng sản, anh vượt biên, anh nằm ở tại tỵ nạn thì được hoặc cha cố, mục sư, các seour,v.v…, tới thăm, cho thực phẩm, thuộc men,…, và nói rằng nếu con theo đạo thì sẽ được cha,…, giúp sớm đi định cư tại Mỹ, Úc, Canada, v.v…, và qua nơi xứ người sẽ được Giáo hội, nhà thờ,… giúp đở. Trong cơn ngặt nghèo đó, anh đành theo đạo, thì đây cũng là “đạo gạo”.

Ngoài các lý do, “đạo gạo”, “đạo tù “, “ đạo vợ”, “đạo chức quyền” thì người Việt Nam không còn lý do gì nữa để theo đạo. Có đúng không?

Nhân đây, Mục Đồng tôi xin kể lai câu chuyện thật về Tổng giám mục Ngô Đình Thục đã tuyên bố là hơn 90% dân Việt Nam theo đạo Thiên chúa. Vào những ngày cuối tháng 8 năm 1963, sau khi chiến dịch tổng tấn công toàn bộ các chùa trên miền Nam được thực hiện theo lệnh của các ngườ lãnh đạo Thiên chúa giáo ngày 20 thăng năm 1963, Tông giám mục Ngô Đình Thục đến giảng đường C của Viện Đại Học Huế (nguyên là rạp xinê trong khuôn viên của Khách sạn Morin) gọi toàn bộ giáo chức Viện Đại Học Huế đến nghe ông giải thích cái lệnh cấm treo cờ Phật giáo trong lễ Phật đản năm ấy. Trong lời giải thích, Tổng giám mục đã nói rằng dân Việt Nam hiện nay đã có hơn 90% theo đao Thiên chúa, vì sao? Vì hơn 90% dân Việt Nam thờ cúng ông bà, mà ông bà của của ông bà là ai? Truy lên thì chính là Chúa! Vậy theo tam đoạn luận thì hơn 90% dân Việt Nam thờ Chúa, cho nên hơn 90% dân Việt Nam theo đạo Thiên chúa!!! Lý luận theo tam đọan luận của ngài Tổng giám mục Ngô Đình Thục quả là một “phát hiện vĩ đại”. Vì nó chứng tỏ 100% dân Việt Nam theo đạo Thiên chúa từ thời Hùng Vương lận! Có đúng không?

3. Câu hỏi thứ ba : Anh là đạo dòng, tốt thôi! Vậy anh có phải là hậu duệ của một trong 5000 giáo dân đã theo cha cố Trần Lục đi triệt hạ căn cứ chiến khu Ba Đình của anh hùng dân tộc Đinh công Tráng không? Hay đã theo cha cố đạo Tortuyaux đi đánh phá căn cứ của cụ đề Lê Trực, một lãnh tụ Cần vương năm 1886 không? Hay theo cha cố Puginier đến triệt phá chùa Báo Thiên gần một nghìn năm tuổi của vua nhà Lý xây , đề lấy nền xây lên Nhà Thờ Lớn tại Hànôi năm 1884 không? Hay cung cấp thông tin, lương thực , và giúp giám mục Pellerin lén xuống tàu chiến của thực dân Pháp khi chúng tấn công Đà Nãng năm 1856, để hướng dẫn cho chúng tiến quân ra chiếm kinh đô Huế của Việt Nam không? Hay đã từng theo ông Ngô Đình Khả và Nguyễn Thân đi đào mã của anh hùng Phan Đình Phùng, lấy xác cụ lên, đốt ,trộn với thuốc sung để bắn đi , không? v.v…., Chắc thế nào anh cũng tìm được một tình huống tương tự như thế trong gia phả của anh. Có đúng không?

4. Câu hỏi thứ tư: Nếu anh mới theo đạo trong đời anh thôi, cũng tốt thôi!.Từ khi theo đạo đến nay, anh có giúp cho ngoại bang xâm chiếm nước ta, hoặc phá hoại văn hóa truyền thống của dân tộc ta, có chiêu dụ được người khác theo đạo không ? Đặc biêt, anh qua xứ người, anh theo đạo , anh được giúp đở, làm ăn khá lên, anh đem tiền về Việt Nam cho, giúp bà con, tốt thôi! Nhưng anh có lợi dụng việc ấy để khuyên dụ họ theo đạo không ? Trong những người anh, em của anh, có người không chịu nghe anh theo đạo thì anh không cho tiền hay cho ít hơn người nghe anh theo đạo, anh tạo ra gây gỗ với những bà con trong các dịp cúng giổ ông bà, góp tiền của công sức xây mộ ông bà, trùng tu nhà thờ họ, vì anh theo đạo nên anh chống đối các việc ấy,v.v…Có phải không?

5. Câu hỏi thứ năm : Anh có bao giờ tự biết rằng các cố đạo và giáo dân có tội với dân tộc Việt Nam vì đã tiếp tay cho thực dân Pháp đô hộ dân tộc ta trong 100 năm không ?

Đó là 5 câu hỏi cơ bản mà một người Việt Nam theo Thiên chúa hay Tin lành cần phải trả lời. Sau khi trả lời xong, người ấy sẽ thấy rõ được mình đứng ở đâu trong bà con, dòng họ, và dân tộc Việt Nam.

Vị trí đó có thể là :

- Ông bà anh và chính bản thân anh đã có tôi với dân tộc Việt Nam.

- Ông bà anh chưa có tội, nhưng bản thân anh đã có tội với dân tộc Viêt Nam .

- Ông bà anh và cả anh chưa làm gì nên tội với dân tộc Việt Nam, thì anh vẫn phải nhớ rằng các cố đạo và giáo dân đã có tội tiếp tay cho thực dân, đế quốc đô hộ dân tộc Việt Nam, tàn phá văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.

- Ngày nay nếu anh còn có ý đồ đem văn hóa Thánh kinh thay thế văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam thì tội của anh càng lớn với tổ tiên, dòng họ của chính anh và của dân tộc Việt Nam.

Khi đã xác định được vị trí của mình ở đâu, anh mới có thể bắt đầu tìm ra con đường đưa anh trở về với dân tộc Việt Nam, và tự anh biết cần phải làm như thế nào để đi trên con đường ấy, hoặc anh muốn tiếp tục phạm tội như mở cuộc Thánh chiến thì số phận anh sẽ được định đoạt như trong các bài phụ đạo trên đây.

Mục Đồng

Bài liên quan:

Con Đường Chuyển Hóa (Trần Chung Ngọc)


Các bài viết của Mục Đồng

Câu chuyện “vô luân” về cái chết “dại” (Mục Đồng)
Không Thể Không Nói về “Không Thể Không Nói” (Mục Đồng)
Nhà Đại Truyền Giáo Ki tô: Pat Robertson “Bị Chúa Trác” (Mục Đồng)
Những Con Ếch Ngồi Đáy Giếng (Mục Đồng)
Những Kẻ Gian (Mục Đồng)
Pat Robertson “Bị Chúa Trác” (Mục Đồng)
Phụ đạo các thầy (Mục Đồng)
Sao Giáng Sinh - Chúa giáng sinh vào ngày 17/6 (Minh Long) -VietNamNet
Tại Sao Cổ Xúy Cho Côn Đồ ? (Mục Đồng)
Tội Tổ Tông Đích Thực của Người Ki Tô Giáo VN (Mục Đồng)
Xin Đừng Ảo Tưởng! (Mục Đồng)

Trang Đối Thoại