|
bản in |
¿ trở ra mục lục
|
HỒI GIÁO TẠI ÂU CHÂU VÀ MỸ CHÂU
Âu Châu và Mỹ Châu vốn đã
được coi là những vùng đất
của nền văn hóa Do Thái Ki
Tô Giáo (Judeo-Christian
culture). Nhưng ngày nay
điều đó đã đổi khác vì hai
vùng đất này đã tiên phong
tự biến thể thành những quốc
gia đa văn hóa
(multicultural nations). Số
tín đồ Hồi Giáo hiện có mặt
tại Âu Châu với con số đáng
kể là 25 triệu và tại Mỹ
Châu khoảng 10 triệu.
Các cộng đồng
Hồi Giáo tại Âu Châu và Mỹ
Châu đã được hình thành do
những yếu tố hoàn toàn khác
biệt. Do đó, chúng ta sẽ bàn
về các yếu tố hình thành của
các cộng đồng Hồi Giáo trên
hai lục địa này một cách
riêng rẽ:
I. HỒI GIÁO TẠI ÂU CHÂU
Khối lượng 25 triệu tín
đồ Hồi Giáo có mặt tại Âu
Châu hiện nay do hai yếu tố:
1. Đa
số người gốc Đông Âu đã có
tổ tiên theo đạo Hồi từ thời
Trung Cổ. Ngoài ra, vì đế
quốc Hồi Giáo Ottoman của
Thổ Nhĩ Kỳ cai trị nhiều
nước Âu Châu từ thế kỷ 8 đến
đầu thế kỷ 20 nên có rất
nhiều người Ki Tô Giáo đã bỏ
đạo để theo Hồi Giáo. Nhiều
người Bosnia thuở xưa cải
đạo đã được đế quốc Ottoman
cho giữ những chức vụ cao
cấp trong chính quyền. Các
thủy thủ Hy Lạp bỏ đạo Chính
Thống theo đạo Hồi để được
đế quốc Ottoman tuyển dụng
và cho làm việc trên các hạm
đội. Riêng nước Tây Ban Nha
là một nước lớn ở Âu Châu
nổi tiếng sùng đạo Công Giáo
nhưng nước này đã bị người Ả
Rập Hồi Giáo (Moors) cai trị
trên 300 năm, từ thế kỷ 12
đến thế kỷ 15. Ngày nay có
nhiều người Tây Ban Nha bề
ngoài là Công Giáo nhưng bên
trong họ vẫn giữ niềm tin
Hồi Giáo của tổ tiên xa xưa
của họ.
Có nhiều vùng
đất Âu Châu hiện nay theo Ki
Tô Giáo, nhưng cách đây
không lâu lại là những lãnh
địa của Hồi Giáo, đó là đảo
Sicily (Ý), Crete (Hy Lạp)
các nước Hungary, Bulgary,
Albany và Herzegovina. Trong
thế kỷ 19, vua Áo sùng đạo
Công Giáo đem quân tiêu diệt
người Hồi tại Hezegovina.
Trong thế chiến thứ hai,
chính phủ Nam Tư, do giống
người Croatian Công Giáo
lãnh đạo, đã giết hại
200.000 tín đồ Hồi Giáo tại
nước này. Sau thế chiến thứ
hai, chính phủ Nam Tư do
người Serbian theo Chính
Thống Giáo lãnh đạo đã giết
hại hàng trăm ngàn người Hồi
Giáo tại Bosnia!
Hầu hết các
người Hồi Giáo tại Đông Âu
đều có tổ tiên theo đạo này
từ thế kỷ 15. Đại đa số
người Bulgary theo đạo Hồi
là con cháu của một đợt di
cư vĩ đại của trên 1 triệu
người Thổ Nhĩ Kỳ vào Bulgary
năm 1850.
2. Các
cuộc di dân ồ ạt của người
Hồi Giáo vào Tây Âu trong
thập niên 1960.
Trong thập
niên 1960, các nước kỹ nghệ
Tây Âu lâm vào tình trạng
thiếu nhân công rất trầm
trọng. Do đó, các nước Tây
Âu đành phải chấp nhận cho
nhập cư nhiều đợt công nhân
từ các nước Hồi Giáo từ Bắc
Phi và Thổ Nhĩ Kỳ. Sau một
thời gian, số công nhân này
được phép bảo lãnh thân nhân
nhập cư theo để đoàn tụ gia
đình. Cho tới nay tại Tây
Âu, số người Hồi gốc Maroc
là 1 triệu rưỡi, Thổ Nhĩ Kỳ
2 triệu rưỡi. (Riêng ở Đức
có 2 triệu người Thổ,
200.000 ở Bỉ, 200.000 ở Hòa
Lan, trên 100.000 ở Pháp).
Điều đáng chú
ý là sự cải đạo Ki Tô sang
đạo Hồi tại Âu Châu. Riêng ở
Pháp từ 1968 đến nay có trên
100.000 tín đồ Công Giáo
theo đạo Hồi, trong số đó có
nhà thám hiểm hàng hải nổi
tiếng là Jacques Couteau.
Điều đáng chú
ý hơn nữa là từ 1982 đến nay
có rất nhiều người Hồi Giáo
từ các "cựu thuộc địa" xin
nhập cư vào các "cựu mẫu
quốc" với tư cách di dân và
đều được chấp thuận:
- 700.000
người Hồi Giáo từ Ấn Độ và
Pakistan được nhập cư vào
Anh Quốc nâng tổng số Hồi
Giáo tại Anh lên 2 triệu.
- Hàng trăm
ngàn cựu binh sĩ Lê Dương
gốc Hồi Giáo Bắc Phi, Congo,
Sénégal... xin vào Pháp.
- Hàng chục
ngàn người Hồi Giáo Nam
Dương và Surinam xin vào cựu
mẫu quốc Hòa Lan.
Đến nay, hầu
hết các di dân đều đã trở
thành công dân của các nước
cho nhập cư. Nhiều người
trong số con cháu của họ đã
chiếm được những chức vị cao
trong các nước Tây Âu. Tại
Anh Quốc năm 1993, 12 người
Hồi gốc Ấn hoặc Pakistan đã
được bầu vào quốc hội Anh
(12 trên tổng số 117 nghị sĩ
quốc hội).
Nước Đức
không có thuộc địa nhưng
chính sách di dân rất cởi mở
đã tạo cơ hội cho nhiều sinh
viên ngoại quốc xin du học
tại Đức. Trong năm 1971,
riêng số thanh niên Hồi Giáo
xin du học tại Đức là 50.000
người.
Số đền thờ
Hồi Giáo tại Tây Âu là 4.000
đơn vị, riêng tại Đức 2.000.
Sở dĩ tại Đức có nhiều đền
thờ Hồi Giáo vì số tín đồ
Hồi Giáo tại đây thuộc nhiều
giáo phái khác nhau và định
cư rải rác khắp nơi trên
nước Đức. Tại Pháp có 1.000
đơn vị, Anh 600...
3.
Trường hợp đặc biệt của Liên
Xô.
Từ cuối thế
kỷ 7 và trong thế kỷ 8, các
đoàn kỵ binh Hồi Giáo Ả Rập
đã tiến chiếm một vùng lãnh
thổ rộng lớn ở Bắc Ấn và
toàn vùng Trung Á ở sát phía
Nam của nước Nga. Tiếp theo
đó là sự theo đạo Hồi ồ ạt
của dân tộc Bulgars định cư
tại vùng đồng bằng sông
Volga thuộc Nga. Sau này,
dân tộc Bulgars đã tách rời
khỏi Nga để thành lập quốc
gia riêng là Kazakstan.
Trong thế kỷ 13, dân tộc
Tartars theo đạo Hồi, sau đó
họ thành lập một nước độc
lập là Uzbekistan.
Trong năm năm
(1552-1557) Nga hoàng Ivan
IV đem quân tàn phá vùng
Golden Horn thuộc miền Tây
Bắc Thổ Nhĩ Kỳ và các vùng
lân cận tàn sát hàng triệu
người Hồi Giáo và cưỡng bách
những người sống sót phải
theo đạo Ki Tô Chính Thống
(Orthodox Christianity). Năm
1783, nữ hoàng Nga Catherine
II xua quân chiếm vùng
Crimea giết hại 30.000 người
Hồi Giáo.
Trong thế kỷ
18 và 19, các Nga Hoàng có
thái độ khoan dung đối với
đạo Hồi đã cho phép các giáo
sĩ Hồi Giáo được tự do
truyền đạo và hành đạo. Nhờ
đó, đạo Hồi đã mau chóng
phát triển tại Nga. Tới năm
1897, trên khắp nước Nga đã
có 600 trường học và 1555
đền thờ Hồi Giáo. Nga hoàng
cho phép người Hồi Giáo xây
nhà thờ trên tiêu chuẩn 150
nam tín đồ có một nhà thờ
riêng.
Sau Cách Mạng
Tháng Mười Nga 1917, Đảng
Cộng Sản Nga thành lập Liên
Bang Xô Viết gồm có 15 nước
Cộng Hòa, trong đó có 6 nước
Hồi Giáo (1 thuộc Âu Châu và
5 thuộc Trung Á) Liên Xô trở
thành một nước có 65 triệu
công dân theo đạo Hồi. Tuy
nhiên, những người Hồi Giáo
đều là những tín đồ hữu thần
rất sùng tín nên đại đa số
không thể chấp nhận chủ
nghĩa Cộng Sản vô thần. Đứng
trước nguy cơ nổi loạn của
tập thể Hồi Giáo với sự hỗ
trợ của nhiều thế lực đối
nghịch từ bên ngoài, chính
phủ liên bang Xô Viết đã
công khai tuyên chiến với
Hồi Giáo. Trước hết chính
phủ ra lệnh cấm truyền đạo
và hành đạo. Năm 1921,
Staline tạo ra nạn đói giết
chết 2 triệu người Kazakhs
và Kirghis. Năm 1929, chính
phủ Xô Viết ra lệnh tịch thu
hết súc vật của những dân du
mục Hồi Giáo nổi loạn tại
Tây Á khiến cho trên một
triệu người bị chết đói.
Trước khi
đảng Cộng Sản nắm chính
quyền năm 1917, toàn lãnh
thổ Liên Xô có 2600 đền thờ
Hồi Giáo. Sau trên 70 năm
cầm quyền, chính phủ Cộng
Sản đã phá hủy gần hết. Năm
1980, toàn liên bang chỉ còn
450 đền thờ mà thôi.
II. HỒI GIÁO TẠI MỸ CHÂU
Tổng số tín đồ Hồi Giáo
tại Mỹ Châu chỉ có 10 triệu
nhưng sự hiện diện của họ
tại lục đia này do nhiều yếu
tố phức tạp hơn ở Âu Châu
rất nhiều:
1.
Những người Tây Ban Nha Hồi
Giáo mới thực sự là những
người đầu tiên thám hiểm
Châu Mỹ: Ai cũng biết
Christophe Columbus thám
hiểm Châu Mỹ trong thế kỷ
15. Nhưng trước đó 3 thế kỷ,
tức vào thế kỷ 12, những
đoàn thám hiểm Tây Ban Nha
được lãnh đạo bởi các nhà
hàng hải giàu kinh nghiệm
của vùng Andalusia ở phía
Nam Tây Ban Nha theo đạo Hồi
đã đến thám hiểm Châu Mỹ.
Tuy nhiên, vào thời đó ít có
ai chú ý đến những thành quả
của họ.
Từ thế kỷ 15
trở về sau, những người Tây
Ban Nha theo đạo Hồi đã bị
các vua chúa Công Giáo đàn
áp nặng nề nên họ phải ẩn
dấu tôn giáo của họ. Tiếng
Tây Ban Nha có danh từ đặc
biệt để gọi những người này
là MORISCOS (Spanish
Muslims). Trong các đoàn
thủy thủ Tây Ban Nha xâm
chiếm Châu Mỹ có rất nhiều
người Moriscos, trong số đó
có Rodrigo de Lope là phó
tướng của Christophe
Columbus, tướng Estevanico
de Azemor chiếm vùng Arizona
(Mỹ), tướng Estaval the Moor
chiếm New Mexico và Colorado
năm 1540. Chính những người
Moriscos là những tín đồ Hồi
Giáo đầu tiên trên Châu Mỹ.
2. Đa
số nô lệ bị đưa đến Châu Mỹ
trong hai thế kỷ 17-18 là
những tín đồ Hồi Giáo.
Trong thế kỷ
17 và 18, bọn thực dân Âu
Châu phát triển kỹ nghệ buôn
bán nô lệ (the slave trade)
để kiếm lợi. Bọn chúng
thường đem quân đổ bộ lên
vùng ven biển Phi Châu bắt
người da đen đem lên tàu
nhốt trong cũi như súc vật.
Sau đó, bọn chúng đem họ đến
Châu Mỹ bán cho các chủ nông
trại. Hầu hết các chủ nô lệ
đều là những người Ki Tô
Giáo da trắng trong khi phần
lớn những người nô lệ da đen
là những tín đồ Hồi Giáo. Do
bị đối xử tàn bạo và bị ép
buộc phải bỏ đạo Hồi theo
đạo Ki Tô , những người da
đen đã vùng lên nổi loạn tại
Bắc Mỹ năm 1758, nhiều chủ
nô lệ da trắng đã bị phe nổi
loạn trói vào cọc thiêu
sống. Sau đó, báo chí Tây
Phương đã lên tiếng kết án
chế độ nô lệ.
Từ năm 1830,
để thay thế việc buôn nô lệ
da đen, bọn thực dân Anh và
Hòa Lan dụ dỗ những người
nghèo ở Indonesia, Surinam
và Mã Lai dưới hình thức "mộ
phu" và ký với họ những
"giao kèo lao động" rồi đưa
họ đến Mỹ Châu bán cho các
chủ nông trại. Hầu hết những
người này là tín đồ Hồi
Giáo. Họ bị đối xử như nô lệ
nhưng không bị ép buôc phải
bỏ đạo. Họ công khai hành
đạo tại Mỹ Châu. Từ đó, các
tên riêng của Hồi Giáo bắt
đầu xuất hiện rộng rãi khắp
nơi như: Muhammad, Ali, Abu,
Omar, Abdul, Ismael v.v...
Cuốn tiểu thuyết
best-seller "Cội Nguồn"
(Roots) của Alex Harley là
câu chuyện của những người
nô lệ da đen ở Brazil tìm về
cội nguồn của họ là xứ Hồi
Giáo Phi Châu Gambia. Họ bị
thực dân Bồ Đào Nha đem đến
Nam Mỹ năm 1830.
3. Do
nhu cầu phát triển kỹ nghệ,
nước Mỹ mở cửa đón nhận
nhiều đợt nhập cư của các
chuyên gia từ các nước Hồi
Giáo:
a. Đợt đầu
tiên trong thập niên 1870
gồm rất nhiều các nhân viên
kỹ thuật từ các nước Trung
Đông như Syria, Lyban,
Jordan và Palestine.
b. Sau đệ
nhất thế chiến (1914-1918)
nước Mỹ tuyển rất nhiều
chuyên gia từ các nước Hồi
Giáo Đông Âu như Nam Tư,
Albania, Bulgary v.v...
c. Sau đệ nhị
thế chiến, liền trong 15 năm
(1945-1960) nước Mỹ thâu
nhận nhiều trăm ngàn chuyên
gia thông thạo Anh ngữ từ Ấn
Độ, Pakistan, Bangladesh,
Thổ Nhĩ Kỳ và Ai Cập.
Phần lớn
những chuyên gia và nhân
viên kỹ thuật định cư tại
các khu kỹ nghệ như Detroit,
Chicago, Los Angeles và nhất
là New York.
4. Yếu
tố cuối cùng hình thành cộng
đồng Hồi Giáo tại Mỹ là sự
cải đạo theo Hồi Giáo
(Conversion to Islam).
Hầu hết mọi
người da đen tại Mỹ đều ý
thức rằng Hồi Giáo là tôn
giáo truyền thống của tổ
tiên họ tại Phi Châu. Những
cơ quan tuyên truyền của
người da đen cố ý đánh thức
tâm lý quần chúng da đen tìm
về cội nguồn Hồi Giáo của
họ. Những khẩu hiệu vận động
trong cộng đồng người da đen
thường thấy là: "Hồi Giáo là
đạo của người da đen. Ki Tô
Giáo là đạo của người da
trắng". (Islam, the religion
of Blacks. Christianity
religion of Whites)
Những cuộc
vận động đó rất hữu hiệu vì
nó đã làm cho cộng đồng Hồi
Giáo tăng vọt lên trong thập
niên 1950. Theo tuần báo
Time ngày 01-11-2001 thì số
người Hồi Giáo tại Mỹ hiện
nay là 7 triệu, người Mỹ da
đen chiếm 40%, Ả Rập 30% và
Á Châu chiếm 30%.
Ngoài nước Mỹ
ra, Canada có nửa triệu
người Hồi Giáo với 100 đền
thờ, Trung và Nam Mỹ có 2
triệu rưỡi người Hồi Giáo,
đông nhất tại Argentine và
Brazil (mỗi nước có 500.000
tín đồ Hồi Giáo). Năm 1990,
người Hồi Giáo đầu tiên được
bầu làm Tổng thống Argentina
là ông Memem, gốc Syria.
Trước đây
nhiều người cho rằng Hoa Kỳ
là một "lò luyện kim" có thể
nấu chảy mọi thứ dị biệt
trên đất nước này. Nhưng
ngày nay người ta nhận thấy
có một thứ không thể nấu
chảy là tinh thần cuồng tín
cực đoan của người Hồi Giáo.
Do vậy, Hoa Kỳ đã phải xét
lại chính sách di dân và
phải có biện pháp hạn chế
đối với các di dân Hồi Giáo.
Dù sống tại Mỹ, những người
Hồi Giáo cực đoan vẫn thù
ghét lối sống Mỹ và họ rất
sợ "mất linh hồn" trong môi
trường sống của Mỹ. Do đó,
những người Hồi Giáo thu
mình lại như con ốc thu mình
trong cái vỏ khép kín của
nó. Họ tự tách mình khỏi xã
hội Mỹ để tự giam mình trong
một hình thức ghettos.
Tập thể người
Mỹ da đen còn đi xa hơn nữa
là họ vận động tách rời khỏi
nước Mỹ để thành lập một
quốc gia Hồi Giáo riêng
biệt. Phong trào "Quốc Gia
Hồi Giáo" (Nation of Islam)
được phát động rầm rộ từ năm
1930 bởi Wallace Fard. Năm
1934, Fard bị bắt và bị thủ
tiêu bí mật.
Phong trào
được tiếp tục lãnh đạo bởi
Elijah Muhammad, 37 tuổi.
Ông gọi lãnh tụ Fard là
"Chúa Cứu Thế" và gọi dân da
trắng là kẻ dữ (evils). Ông
tiếp tục đòi người da trắng
phải để cho người da đen
tách rời thành một nước
riêng. Elijah qua đời vì
bệnh năm 1975, thọ 78 tuổi.
Người hoạt
động nổi tiếng nhất trong
đầu thập niên 1960 là Malcom
X (1925-1965). Ông kêu gọi
mọi người da đen bỏ đạo Ki
Tô để trở về với đạo gốc của
tổ tiên là đạo Hồi, chỉ có
đạo Hồi mới có khả năng đoàn
kết mọi người da đen thành
một khối mạnh mẽ. Ông gọi
Thiên Chúa của đạo Ki Tô là
Chúa của Da Trắng, Chúa
ngoại lai và Chúa của chủ
nghĩa nô lệ. Ông thành lập
"Hội Truyền Bá Đạo Hồi tại
Hoa Kỳ" (American Muslim
Mission). Malcom X bị một
nhóm da đen Hồi Giáo bất
đồng chính kiến ám sát chết
năm 1965. Charlie Nguyễn
Các chương khác
trong sách:
Các Mô Hình Sinh Hoạt trong Thế Giới Hồi Giáo Cái Nôi của Đạo Hồi Hồi Giáo Tại Trung Đông Hồi Giáo Tại Á Châu Hồi Giáo Tại Âu Châu và Mỹ Châu Hồi Giáo và Chủ Nghĩa Khủng Bố Năm Nghĩa Vụ Tín Đồ Hồi Giáo Sáu Trụ Cột của Đức Tin Hồi Giáo Sự Bành Trướng của Đạo hồi Sự Bành Trướng của Đạo hồi Sự Nghiệp Muhammad tại Medina Thân Phận Phụ Nữ Hồi Giáo Thân Thế Muhammad tại Mecca Tìm Hiểu Kinh Koran Tệ Nạn Phân Hóa Trong Nội Bộ Hồi Giáo
|