|
bản in |
¿ trở ra mục lục
|
HỒI GIÁO TẠI TRUNG ĐÔNG
Về phương diện địa lý, Trung
Đông còn được gọi là Cận Đông
(Near East/Middle East) bao gồm
một giải đất chạy dài từ phần Á
Châu của Thổ Nhĩ Kỳ đến các nước
Bắc Phi và Ai Cập.
Về chủng tộc,
Trung Đông gồm có những giống
dân Do Thái, Ả Rập, Ba Tư, Thổ
Nhĩ Kỳ, Kurds, Armenians và
Berbers.ers.
Về tôn giáo, Hồi
Giáo chiếm 90% dân số Trung
Đông, tức khoảng 300 triệu tín
đồ hoặc 1/4 tổng số tín đồ Hồi
Giáo trên toàn thế giới. Số còn
lại là tín đồ Do Thái Giáo và Ki
Tô Giáo.
Từ đầu thế kỷ 19
đến đầu thế kỷ 20, nhiều nước
Trung Đông bị Anh và Pháp cai
trị bóc lột. Hoa Kỳ không có
một thuôc địa nào tại Trung Đông
nhưng đã có mặt tại Saudi Arabia
từ đầu thế kỷ 20 để khai thác
dầu lửa. Thiên nhiên đã đem đến
cho Saudi Arabia một món quà
tặng khổng lồ, đó là trữ lượng
dầu mỏ lớn bằng 1/4 trữ lượng
dầu của toàn thế giới.
Sự có mặt của Hoa
Kỳ tại Saudi Arabia không phải
là quân đội mà là các công ty
khoan dầu trên căn bản hợp tác
hai bên cùng có lợi. Tuy nhiên,
người Hồi Giáo Ả Rập đã nhìn
người Mỹ qua lăng kính khắt khe
của Hồi Giáo. Lối sống tự do
phóng túng của người Mỹ đã làm
cho những người Hồi Giáo bảo thủ
khó chịu vì nó đi ngược lại với
lối sống khép kín của xã hội đạo
Hồi. Không cần phải làm điều gì
xâm hại đến xã hội Hồi Giáo,
chỉ riêng sự có mặt của những tư
nhân Mỹ tại Saudi Arabia cũng đủ
là "Sự gieo rắc chất độc văn hóa
Tây Phương" (Westoxification) có
tác dụng phá hoại nền tảng luân
lý xã hội và gia đình Hồi Giáo.
Xét về phương
diện địa thế, Trung Đông được
chia ra làm 3 khu vực rõ rệt:
1. Khu vực Bắc
Phi: Các nước ở phía bắc của
Châu Phi Da Đen (Black Africa)
gồm có Maroc, Tunisia, Algeria,
Lybia và Ai Cập. Đại đa số các
dân tộc sống ở vùng này đều là
những người da trắng gốc Địa
Trung Hải.
2. Khu vực Cao
Nguyên: Các nước ở vùng này được
gọi chung là "Các nước ở vùng
cao" (Levantine Countries) gồm
có Syria, Palestine, Israel,
Jordan và Iraq.
3. Các nước Vùng
Vịnh (Gulf Countries) là các
nước ở sát Vịnh Ba Tư, gồm có Ba
Tư (Iran) Kuweit, Quatar, Saudi
Arabia, Yemen, Oman, United Arab
Emerald và Baharain.
Về phương diện
văn minh và văn hóa, toàn vùng
Trung Đông đã đạt tới đỉnh cao
của sự phát triển từ thế kỷ 8
đến thế kỷ 13. Lịch sử thế giới
đã gọi những thế kỷ này là Thời
Đại Hoàng Kim (The Golden Age)
của những người Hồi Giáo Trung
Đông. Vào thời đó, những người Ả
Rập rất ham chuộng nền văn hóa
Hy Lạp và chú trọng đến việc
nghiên cứu toán học, thiên văn
và khoa học thực nghiệm. Họ đã
thực hành lời dạy của Muhammad
trong kinh Koran:
"Ai bỏ
nhà đi tìm sự hiểu biết là đi
đúng con đường của Chúa. Lạy
Chúa! Xin ngài hãy ban thêm sự
hiểu biết cho con".
(He Who leaves
the home in search of Knowledge
is walking in the Way of God. Oh
my Lord! increase me knowledge -
Koran 20: 114)
Đầu thế kỷ 8,
Baghdad thủ đô Iraq xây dựng
trường Đại Học đầu tiên trên thế
giới. Họ gọi là "Căn nhà của sự
khôn ngoan" (House of Wisdom).
Baghdad trở thành một trung tâm
văn hóa lớn nhất thế giới.
Năm 800, các tác
phẩm của Aristote và Plato đều
đã được dịch sang tiếng Arabic
và được phổ biến trong toàn vùng
Trung Đông.
Đến giữa thế kỷ
9, các sách y khoa của Hy Lạp
được dịch sang tiếng Arabic.
Cuối thế kỷ 9, rất nhiều sách
dịch về khoa thiên văn và địa lý
được phổ biến tại Trung Đông.
Do các kiến thức
học hỏi được từ Hy Lạp, người Ả
Rập Hồi Giáo đã phát minh ra máy
Astrolable dùng để đo độ cao của
các thiên thể. Họ biến chế máy
Astrolable thành một thứ địa bàn
để các tín đồ Hồi Giáo dù ở bất
cứ nơi nào trên thế giới cũng
tìm được hướng Mecca để quay mặt
về thánh địa khi cầu nguyện. Tại
thánh địa Mecca có đền thờ
Káaba, tiếng Ả Rập có nghĩa là
"Nhà Của Chúa" (House of God).
Người Ả Rập tin rằng ngôi nhà
của Chúa đã được xây dựng lần
đầu tiên bởi tổ phụ Abraham.
Năm 1166, nhà địa
dư học Ả Rập Al-Idrisi là người
đầu tiên trên thế giới vẽ bản đồ
trái đất hình cầu rất chính xác.
Cũng trong khoảng thời gian này,
người Ả Rập chế ra đồng hồ quả
lắc để coi giờ.
Trường Đại Học
lâu đời nhất và hoạt động liên
tục trên 10 thế kỷ là Đại Học
Al-Azhar ở thủ đô Cairo của Ai
Cập (thành lập năm 970).
Một ngôi sao sáng
ngời trong thế giới toán học là
nhà toán học Hồi Giáo Ba Tư
Muhammad Ibu Musa. Ông đã phát
minh ra một môn toán học nhằm
mục đích "Phục Hồi Những Phần Đã
Bị Tách Rời" (to restore the
broken parts), tiếng Ả Rập gọi
là Al-Jabr. Danh từ này được
người Hy Lạp phiên âm thành
Algebra tức là môn Đại-Số-Học.
Môn toán học này được Musa phát
minh năm 850.
Đầu thế kỷ 11, một ngôi sao
lớn về quang học xuất hiện tại
Ai Cập. Đó là nhà khoa học Hồi
Giáo Alhazen. Ông chuyên tâm
nghiên cứu các sách Hy Lạp về
khúc xạ và phản chiếu ánh sáng.
Ông là người đầu tiên trên thế
giới giải thích hiện tượng cầu
vồng và quang phổ. Thế giới khoa
học ngày nay tôn vinh ông là ông
tổ sáng lập ngành quang học hiện
đại.
Nhờ có những sách
y khoa dịch từ tiếng Hy Lạp sang
tiếng Arabic trong hai thế kỷ 8
và 9, đến thế kỷ 10, người Hồi
Giáo Ả Rập đã phát minh và đóng
góp cho nhân loại rất nhiều tiến
bộ về y khoa trên nhiều lãnh
vực:
1. Sử dụng
Anesthasia trong giải phẩu.
2. Sát trùng vết
thương.
3. Phát giác việc
lây bệnh do sự tiếp cận với
người có bệnh và qua đường hô
hấp.
4. Tách rời dược
khoa và y khoa thành hai ngành
riêng
5. Do sa mạc
thường có bão cát gây đau mắt
nên người Ả Rập lập ra ngành
nhãn khoa riêng.
6. Năm 925, nhà
khoa học Abu Razi cho in bộ sách
"Bách Khoa Tự Điển Y Khoa" đầu
tiên trên thế giới. Mãi tới hơn
5 thế kỷ sau tức vào năm 1486,
bộ sách này mới được dịch sang
tiếng La Tinh để phổ biến tại Âu
Châu.
Về văn chương, bộ
chuyện vĩ đại được in thành
nhiều chục tập (volumes) nổi
tiếng khắp thế giới và đã được
dịch ra đủ các thứ ngôn ngữ, đó
là chuyện "Ngàn Lẻ Một Đêm". Đây
là một tổng hợp đủ các chuyện
thần thoại thời Babylon cổ xưa,
các chuyện dân gian Ả Rập (Arab
Legends) và pha trộn với những
chuyện thần tiên của Ấn Độ
(Indian fairy tales).
Về kiến trúc,
người Ả Rập Hồi Giáo là những
người phát minh ra cách xây
những chiếc vòm nhọn đầu
(pointed arch) từ thế kỷ 8 để
kiến tạo những chiếc cầu bắc qua
sông. Người Âu Châu sau này bắt
chước để lập ra lối kiến trúc
Gothic.
Thái độ ham
chuộng học hỏi và tôn trọng khoa
học của người Hồi Giáo rất đáng
được mọi người khâm phục. Thái
độ đó hoàn toàn trái ngược với
những tội ác tày trời của giáo
hội Công Giáo nhằm mục đích tiêu
diệt hoàn toàn nền văn minh Hy
Lạp.
Công Giáo La Mã
do hoàng đế Constantine lập nên
năm 325. Từ đó, giáo hội Công
Giáo và đế quốc La Mã ra sức
thâu góp các sách của nền văn
minh Hy Lạp để thiêu hủy. Toàn
bộ các sách của giáo phái Ki Tô
lớn nhất thời đó là Gnostic bị
đốt, 27.000 cuộn giấy (paprus
rolls) có liên quan đến những
sách Phúc Âm thật đều bị hủy
diệt. Đến cuối thế kỷ 5 hầu như
tất cả các sách khoa học, triết
học của Hy Lạp đều không còn
trên lãnh thổ của đế quốc La Mã
và giáo hội Công Giáo. Tội ác
của Công Giáo La Mã đã làm cho
nền văn minh của nhân loại thụt
lùi 15 thế kỷ.
Người có công sưu
tầm và duy trì những cuốn sách
quí giá của nền văn minh Hy Lạp
để lưu lại cho thế giới chúng ta
ngày nay chính là một ông vua
Hồi Giáo Ả Rập: Caliph Al-Mamun.
Ông lên ngôi tại Baghdad năm
813. Việc đầu tiên là thành lập
"Nhà của sự khôn ngoan" (House
of Widom). Ông cho người đi khắp
nơi tìm kiếm các sách cổ của Hy
Lạp mang về Baghdad rồi thuê
người Hy Lạp biết tiếng Ả Rập
dịch tất cả các sách đó. Trong
suốt 20 năm cai trị, vua Al.
Mamun đã dồn hết tâm huyết vào
công trình văn hóa độc đáo này.
Các nhà trí thức Hồi Giáo ở
Trung Đông thời đó nhiệt liệt
hoan nghênh sáng kiến của nhà
vua và họ đã tiếp tay để biến
các thủ đô Hồi Giáo thành những
trung tâm văn hóa nổi tiếng như:
Alexandria (Ai Cập) Antioch
Edessa (Thổ Nhĩ Kỳ) Condova (Tây
Ban Nha, lúc này là thuộc địa
của đế quốc Hồi Giáo).
Phong trào ham
chuộng kiến thức khoa học của
toàn vùng Trung Đông Hồi Giáo
kéo dài trong 5 thế kỷ, từ thế
kỷ 8 đến thế kỷ 12, đã biến vùng
Trung Đông thành một khu vực văn
minh nhất thế giới. Trong khi
đó, do chủ trương tiêu diệt mọi
nguồn văn hóa đi ngược lại giáo
lý Ki Tô Giáo, giáo hội Công
Giáo La Mã đã đưa Âu Châu đi vào
thời đại bóng tối (The Dark Age)
từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 11. Từ
thế kỷ 14 đến thế kỷ 16, giới
trí thức Âu Châu bừng tỉnh và
tìm cách làm sống dậy những giá
trị của nền văn minh Hy Lạp
trong mọi ngành khoa học, triết
học, kiến trúc và nghệ thuật...
đã bị giáo hội Công Giáo tiêu
diệt trước đây.
Người ta gọi giai
đoạn lịch sử này là Thời Phục
Hưng (The Renaissance). Danh từ
này bắt nguồn từ tiếng Pháp có
nghĩa là "sự tái sinh" của một
nền văn hóa đã bị bức tử.
Trong thế kỷ 15,
trí thức Âu Châu mới khám phá
ra là kho tàng sách quí của văn
hóa Hy Lạp đã được tồn trữ trong
các trung tâm văn hóa Hồi Giáo
tại Trung Đông. Lúc đó họ mới vỡ
lẽ ra rằng: những người Hồi Giáo
Ả Rập đã làm những công việc cần
thiết để phục hồi nền văn hóa Hy
Lạp trước họ tới 7 thế kỷ!
Nhà danh họa Raphael của Ý
thuộc thế kỷ 15 đã phải thốt lên
những lời biết ơn đối với các
học giả Hồi Giáo Ả Rập vì tiền
nhân của ông là những người La
Mã cuồng tín và thiển cận đã hủy
diệt cả một nền văn minh của Cổ
Hy Lạp để gây ra một tổn thất vô
cùng lớn lao cho nhân loại.
Nhưng may mắn thay, vẫn có nhiều
tác phẩm quí giá của Hy Lạp còn
sót lại được bảo tồn do công lao
của các học giả Ả Rập. Ông nói:
"Các học giả Ả Rập đã cứu những
tác phẩm đó cho chúng ta" (Arab
scholars saved those works for
us) - (A Muslim Primer, by Ira
G. Zepp. University of Kansaa
Press 1992, Page 139-165).
Như trên đã trình
bày, Trung Đông Hồi Giáo sống
trong thời Hoàng Kim của nền văn
minh (The Golden Ages) từ cuối
thế kỷ 8 đến đầu thế kỷ 11. Rồi
từ đầu thế kỷ 11, những đoàn
Thập Tự Quân của Công Giáo La Mã
tràn sang tàn phá Trung Đông,
với 7 cuộc thánh chiến đẫm máu,
khiến cho toàn vùng lâm vào tình
trạng suy thoái mọi mặt.
Cuộc Thập Tự
Chinh thứ nhất (1096-1099) tiêu
diệt 30.000 người Ả Rập Hồi Giáo
và lập nên một vương quốc rộng
lớn bao gồm các nước Palestine,
Liban, Syria và phía nam Thổ Nhĩ
Kỳ. Tất cả được đặt dưới quyền
cai trị của một ông vua do
Vatican bổ nhiệm. Vương quốc Hồi
Giáo bị người Công Giáo cai trị
trong 88 năm. Sáu cuộc Thập Tự
Chinh kế tiếp diễn ra trong gần
2 thế kỷ tàn phá hầu hết các
nước Trung Đông với 3 triệu sinh
mạng bị sát hại (1096-1291).
Tiếp theo đại họa
Thập Tự Quân là đại họa Mông Cổ.
Từ thế kỷ 14, vùng Trung Đông bị
quân Mông Cổ tràn tới tàn phá
các thành phố và hủy diệt con
người. Baghdad, Damacus... chỉ
còn là những đống gạch vụn với
những xác chết la liệt trên các
nẻo đường.
Cuối thế kỷ 15,
quân Mông Cổ lại tràn tới Trung
Đông một lần nữa. Điều mỉa mai
là ông vua Mông Cổ lại là một
tín đồ Hồi Giáo thuôc giáo phái
Sunni. Ông tới để tiêu diệt
những người thuộc giáo phái
Shiite tại Iran và Iraq. Vì lòng
hận thù hẹp hòi giữa các chi
phái Hồi Giáo với nhau, quân
Mông Cổ Sunni đã giết những
người Shiite vô số kể.
Từ năm 1467 đến 1520, đế quốc
Hồi Giáo Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ
xua quân đánh phá Syria, Ai Cập,
bán đảo Ả Rập và các nước Bắc
Phi để mở rộng thế lực của giáo
phái Sunni, rất nhiều tín đồ
Shiite bị giết. Đế quốc Ottoman
khống chế Trung Đông từ đó đến
đầu thế kỷ 19. Từ thế kỷ 19 đến
đầu thế kỷ 20, nhiều nước Hồi
Giáo Trung Đông lần lượt rơi vào
vòng nô lệ của thực dân Anh và
Pháp. Tuyệt đại đa số dân chúng
Trung Đông mù chữ và toàn xã hội
Ả Rập suy thoái về mọi mặt.
Qua bao nhiêu thế kỷ, Ai Cập
vẫn được coi là "linh hồn trí
thức của thế giới Ả Rập" với dân
số 60 triệu người mà mỗi năm chỉ
xuất bản vỏn vẹn 375 cuốn sách,
bởi vì đại đa số dân mù chữ nên
không có ai tiêu thụ món hàng
văn hóa này. Trong khi đó Israel
chỉ có 6 triệu dân nhưng hầu như
cả nước ham đọc sách nên mỗi năm
Israel xuất bản ít nhất 4000 đầu
sách đề cập đến đủ mọi vấn đề
của kiến thức. (Theo Newsweek
15-10-2001, P.26)
Phải chăng một xã hội thất
bại đã phát sinh chủ nghĩa khủng
bố?
Dưới cái nhìn của
Tây Phương, thế giới Hồi Giáo Ả
Rập ở Trung Đông là một xã hội
thất bại mà nguyên nhân chính là
sự cuồng tín tôn giáo. Trong khi
đó, những người Ả Rập Hồi Giáo
lại qui hết mọi nguyên nhân thất
bại của họ cho Tây Phương. Do đó
họ nung nấu lòng thù hận và tổ
chức khủng bố để rửa hận. Tất cả
mọi hành vi sát nhân tàn bạo của
họ, kể cả việc sát hại những
người vô tội trong những cuộc
khủng bố, đều được biện minh
bằng những lời Chúa trong Thiên
Kinh Koran. Họ càng căm thù bao
nhiêu lại càng trở thành cuồng
tín trong niềm tin tôn giáo bấy
nhiêu.
Cuối cùng, xã hội
Ả Rập Hồi Giáo Trung Đông đi vào
một cái vòng luẩn quẩn không có
lối thoát. Sự cuồng tín của giới
lãnh đạo và quần chúng làm cho
xã hội Ả Rập càng ngày càng khép
kín đối với thế giới bên ngoài,
đời sống kinh tế suy sụp trở
thành lạc hậu. Những người cuồng
tín qui trách nhiệm cho Tây
Phương là thủ phạm đã gây ra tất
cả những thất bại và suy thoái
của thế giới Hồi Giáo để họ có
lý do gia tăng các hoạt động
khủng bố. Nhưng càng gia tăng
khủng bố bao nhiêu họ càng bị
mất thiện cảm và sự giúp đỡ của
thế giới bấy nhiêu. Các xã hội
Hồi Giáo cực đoan đều trở thành
những khu vực bị cô lập và là
đối tượng của một cuộc chiến
tranh hủy diệt.
Ngày nay, trên
khắp thế giới hầu như ở đâu cũng
có những hoạt động khủng bố,
nhưng chỉ tại Trung Đông người
ta mới thấy rõ cái sắc thái
cuồng tín hung bạo ghê gớm của
người Hồi Giáo Ả Rập. Chỉ ở
Trung Đông mới là nơi tập trung
đông đảo nhất của những Mullahs
(học sĩ Hồi Giáo) hung dữ. Trung
Đông là nơi có nhiều nhất những
vụ biểu tình bạo động, đốt cờ,
đốt xe, đốt hình nộm và đặc biệt
là những vụ ôm bom tự sát
(suicide - bombings).
Ngoài ra, từ 1980
đến nay, hầu như các vụ đặt bom
khủng bố tại các nơi trên thế
giới cũng đều có nguồn gốc tại
Trung Đông. Tất cả đều do phe
Hồi Giáo cực đoan tại Trung Đông
(Islamic Fundamentalists) chủ
mưu . Do đó, mục tiêu của cuộc
chiến tranh tiêu diệt khủng bố
mà phe Tây Phương đang theo đuổi
không phải là Afganistan hay
Philippines... mà chính là toàn
vùng Trung Đông Hồi Giáo!
Làm
thế nào để giải thoát sự bế tắc
của một xã hội thất bại tại
Trung Đông?
Nguyên nhân
chính đưa đến sự bế tắc của các
quốc gia Hồi Giáo Trung Đông là
không có sự phân cách giữa tôn
giáo với chính quyền. Thông
thường trong những quốc gia sùng
đạo, các Mullahs (học sĩ Hồi
Giáo) là những nhà lãnh đạo
chính trị. Họ nhân danh tôn giáo
để hô hào thánh chiến, thực chất
là đề cao những hành vi chém
giết thô bạo.
Trong các nước
Hồi Giáo sùng tín, người ta
không thể phân biệt được ranh
giới giáo quyền với chính quyền,
cũng không thể phân biệt được
đâu là giáo luật và đâu là luật
pháp quốc gia.gia.
Trong thế kỷ 19,
nhiều trí thức Hồi Giáo đã nhìn
thấy điều đó và họ đã viết sách
để lên tiếng đòi cải cách xã hội
Hồi Giáo. Một trong những người
đó là triết gia Ai Cập Fouad
Zakariya. Theo ông, điều tiên
quyết để cứu các nước Hồi Giáo Ả
Rập là phải "tách rời đền thờ ra
khỏi quốc gia" (Seperation of
Mosque from State). Người ta gọi
chủ thuyết này là Chủ Nghĩa Thế
Tục Hóa Xã Hội (Secularism).
Zakariya ca ngợi Phong Trào Khai
Sáng (Enlightenment) ở Âu Châu
thế kỷ 18 đã giải cứu xã hội
thoát ra khỏi sự kìm kẹp của
giáo hội La Mã bằng chủ thuyết
thế tục hóa để đi tới sự phân
lập rõ rệt giữa chính quyền và
giáo hội. Chính nhờ đó Âu Châu
đã trở nên hùng mạnh và đó là
chìa khóa đưa đến một xã hội
tiến bộ dân chủ. Mọi chủ trương
bảo thủ đều có hậu quả biến Hồi
Giáo thành công cụ tạo lập nên
những chế độ của các bạo chúa.
Zakariya dám đưa
ra những nhận định táo bạo: Thế
giới Ả Rập không thể nào xây d
ựng được một xã hội văn minh
tiến bộ nếu cứ khư khư giữ lấy
những tư tưởng lạc hậu của thời
kỳ bộ lạc ở sa mạc vào thế kỷ
thứ 7 (thời của giáo chủ
Muhammad lập đạo)!
Ông cũng nêu rõ:
dù bất cứ là tôn giáo nào thì
luôn luôn tôn giáo cũng chỉ là
một sự sùng bái có tính riêng tư
của các cá nhân mà thôi. Không
ai có quyền đem cái sự sùng bái
riêng tư đó áp đặt lên cả quốc
gia để buộc mọi người cũng phải
sùng bái như họ.
Cái điều vô lý đó
hiện đang xảy ra phổ biến tại
các nước Ả Rập. Ông kêu gọi mọi
người đứng lên đập tan các chế
độ Hồi Giáo bảo thủ để giải
phóng xã hội Hồi Giáo lạc hậu.
Những lời kêu gọi
của Fouad Zakariya đã được nhiều
chính trị gia hưởng ứng tại Thổ
Nhĩ Kỳ, Ai Cập và Iran:
1.
MUSTAPHA KEMAL - Ông sinh năm 1881 tại
Thổ Nhĩ Kỳ, làm tổng thống đầu
tiên của Thổ Nhĩ Kỳ từ 1923 đến
1938. Ông là người đã thực hiện
thành công cuộc cách mạng thế
tục hóa xã hội Hồi Giáo, chấm
dứt đế quốc Ottoman sau gần 5
thế kỷ thống trị. Hoàng đế và
toàn bộ triều đình Ottoman đều
bị bắt và bị đưa đi đày chung
thân. Toàn bộ luật pháp của Hồi
Giáo bị xé bỏ. Các trung tâm Hồi
Giáo bị đóng cửa. Âm Lịch Hồi
Giáo bị thay thế bằng Dương Lịch
để hòa đồng cùng thế giới. Năm
1930, quốc hội Thổ Nhĩ Kỳ chính
thức chấm dứt chế độ đa thê, hủy
bỏ mọi hình thức áp chế phụ nữ
như tục lệ đeo mạng che mặt hoặc
áo choàng phủ kín toàn thân. Nam
giới bị cấm đội mũ Fez theo kiểu
Ả Rập Hồi Giáo. Chữ viết theo
kiểu Arabic bị thay thế bằng mẫu
tự la tinh. Hiện nay không còn
ai biết đọc kinh Hồi Giáo viết
theo chữ Arabic nữa. Nữ tổng
thống đầu tiên của Thổ Nhĩ Kỳ là
bà Tanser Ciller trong nhiệm kỳ
1993-1996. Trong thực tế, Thổ
Nhĩ Kỳ không còn được coi là một
quốc gia Hồi Giáo nữa. Cuộc cách
mạng thành công của Mustapha đã
giải thoát Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi
thế giới đóng kín và thất bại
của chủ nghĩa bảo thủ cực đoan
Hồi Giáo. Thổ Nhĩ Kỳ hiện là một
nước Cộng Hòa tự do dân chủ thật
sự và đang phát triển mọi mặt.
2.
JASMAL
NASSER - Ông sinh năm 1918, làm
thủ tướng Ai Cập từ 1954 đến
1956. Sau đó, Ai Cập biến thành
một nước Cộng Hòa với danh xưng
là "Cộng Hòa Ả Rập Thống Nhất".
Nasser được bầu làm tổng thống
từ 1958 đến 1970. Ông chủ trương
thực hiện chủ nghĩa thế tục hóa
(Secularism) bằng cách loại trừ
mọi ảnh hưởng của Hồi Giáo ra
khỏi chính trị.
Tuy nhiên, từ đầu
thế kỷ 20, tại Ai cập đã có một
phong trào Hồi Giáo cực đoan
mệnh danh là "Huynh Đệ Hồi Giáo"
(Muslim Brotherhood). Phong trào
này do Sayid Quitb (1906-1966)
sáng lập, chủ trương dùng các
thủ đoạn khủng bố để ngăn cản và
vô hiệu hóa mọi nỗ lực cải cách
xã hội Hồi Giáo. Phong trào xác
định các lãnh tụ chính trị theo
đuổi chủ trương thế tục hóa là
những kẻ tuyên chiến với đức tin
Hồi Giáo và vì vậy họ phải chết.hết.
Năm 1956, Nasser
ra lệnh bố ráp bắt hết các đảng
viên Muslim Brotherhood. Nhiều
đảng viên bị xử tử hình, số còn
lại đều lãnh án tù. Tuy nhiên,
Nasser đã bị dư đảng của đảng
này ám sát chết năm 1990.
3.
HOÀNG
ĐẾ BA TƯ REZA PAHLAVI -
Ông là một nhân vật đặc biệt vì
sinh ra và lớn lên trong gia
đình sùng đạo nhưng đã trở thành
một người rất căm ghét đạo Hồi
và muốn hủy diệt đạo này. Ông
sinh năm 1878, lên ngôi vua năm
1921, cai trị Ba Tư trong 20
năm. Ngay khi vừa lên ngôi, vua
Pahlavi đã ra lệnh giải tán
Ulama tức "Hội Đồng Các Học Sĩ
Hồi Giáo", một cơ quan cao nhất
về tôn giáo tại Ba Tư. Luật Hồi
Giáo Sharia bị thay thế bằng
luật pháp quốc gia do quốc hội
biểu quyết. Các ngày lễ tôn giáo
đều bị hủy bỏ. Việc tổ chức đi
hành hương thánh địa Mecca bị
cấm chỉ. Các phụ nữ không được
đeo mạng. Cảnh sát được lệnh
phải tháo gỡ mạng của phụ nữ
trên đường phố...ố...
Năm 1935, những
người Hồi Giáo cuồng tín đã xúi
giục phụ nữ biểu tình chống chủ
trương thế tục hóa của nhà vua.
Cảnh sát được lệnh dùng vũ lực
giải tán đám biểu tình. Sau
nhiều lần cảnh cáo nhưng đám phụ
nữ biểu tình vẫn không chịu giải
tán, cảnh sát đã nổ súng bắn
chết hàng trăm phụ nữ. Trong dịp
này, vị giáo chủ cao cấp nhất
của Hồi Giáo Ba Tư là Aytollah
Muddaris cũng bị ám sát chết.
Năm 1941, vua
Pahlavi truyền ngôi cho con là
Muhammad Reza Pahlavi. Ngay khi
tân vương lên ngôi, các học viên
thuộc các trường Hồi Giáo (tương
tự như các học viên Taliban ở
Afganistan) đã biểu tình chống
nhà vua. Cảnh sát được lệnh xả
súng bắn chết hàng trăm học viên
Hồi Giáo trên đường phố. Sau đó,
tất cả các trường đào tạo các
học sĩ Hồi Giáo trên toàn quốc
bị đóng cửa và tất cả các Ulama
(the learned men in Islam) đều
bị bắt, đa số bị giết, số còn
lại đều bị tù. Tân vương Pahlavi
cho thành lập một tổ chức mật vụ
chuyên việc truy lùng những kẻ
muốn khôi phục đạo Hồi tại Ba
Tư. Lính mật vụ có quyền tiền
trảm hậu tấu, không cần một án
lệnh nào của tòa án. Các biện
pháp trị an của vua Pahlavi quá
mạnh tay nên đã gây quá nhiều
bất mãn trong quần chúng.
Năm 1979, học sĩ
Khomeini lưu vong tại Pháp lãnh
đạo cuộc khởi nghĩa lật đổ vua
Pahlavi thành công. Nhà vua phải
bỏ nước chạy trốn ra nước ngoài.
Khomeini trở thành tổng thống
của một nước Cộng Hòa Hồi Giáo
(Islamic Republic). Khomeini là
một học sĩ của giáo phái Shiite
rất cực đoan và độc tài. Chẳng
bao lâu sau, Khomeini mất hết
mọi nhiệt tình ủng hộ của quần
chúng lúc ban đầu. Dân Iran chợt
nhận ra là sống dưới chế độ quân
chủ của dòng Pahlavi còn được tự
do hạnh phúc hơn nhiều.
Dưới chế độ "Cộng
Hòa Hồi Giáo", toàn dân bị dồn
vào thế bị kìm kẹp bởi các thứ
luật lệ của tôn giáo vừa hủ lậu
vừa dã man: Bị cáo về một tội
trộm thường cũng bị chặt chân,
chặt tay. Mọi sinh hoạt ca nhạc
hay chiếu phim đều bị cấm. Phụ
nữ bị buộc phải mặc áo choàng
đen phủ kín từ đầu đến mắt cá
chân... Điều nguy hiểm là
Khomeini gây hận thù với giáo
phái đa số Sunni và đưa cả nước
vào một cuộc chiến tranh vô
nghĩa. Khomeini chết năm 1989.
Sự cuồng tín của người Hồi Giáo
Ả Rập
Như chúng ta đã thấy, chủ
nghĩa Thế-Tục-Hóa Xã Hội
(Secularism) là một phương thức
chính trị đã đem lại sự thịnh
vượng cho cả Âu Châu lẫn Hoa Kỳ.
Đó cũng là cái chìa khóa bảo đảm
nền tự do dân chủ cho toàn dân.
Mustapha Kemal thực hiện thành
công cuộc cách mạng thế tục hóa
xã hội Thổ Nhĩ Kỳ đã biến nước
này thành một nước tự do dân chủ
và văn minh nhất trong thế giới
Hồi Giáo. Trong khi đó, cuộc
cách mạng của Nasser tại Ai Cập
và những nỗ lực thế tục hóa của
hai cha con vua Pahlavi tại Iran
đều đã bị thất bại.p>
Toàn khối Ả Rập
Hồi Giáo với 300 triệu người
tiếp tục sống trong vũng lầy lạc
hậu và nghèo đói. Tình trạng bất
ổn tại Trung Đông có thể gây tổn
hại cho nền hòa bình thế giới.
Vì thế, nhiều chuyên gia của
Liên Hiệp Quốc đã kêu gọi cộng
đồng thế giới giúp cho toàn khối
Ả Rập Hồi Giáo một số chương
trình như sau để cải thiện đời
sống quần chúng:
1. Đô thị hóa xã
hội Ả Rập để xóa bỏ hẳn lối sống
lang thang trong sa mạc đã có từ
nhiều ngàn năm qua.
2. Đầu tư đại
qui mô vào công cuộc giáo dục
giới trẻ nhằm đào tạo những thế
hệ Ả Rập mới có khả năng đưa
toàn xã hội Ả Rập hòa nhập vào
thời đại mới trong cộng đồng
nhân loại.
Chỉ có sự hiểu
biết của những thế hệ trẻ mới có
khả năng mở rộng tầm nhìn của
quần chúng để cứu họ thoát khỏi
sự mê hoặc của tôn giáo và sự
lừa mị của giới lãnh đạo độc
tài.
Theo thống kê năm
2000, các nước Hồi Giáo Ả Rập ở
Trung Đông có một tỷ lệ những
người trẻ (dưới 15 tuổi) rất
cao:
- Saudi
Arabia: 43%
-
Iraq:
42%
-
Palestine:
45%
Nếu những lớp
người trẻ đó hấp thụ được một
nền giáo dục khai phóng, họ sẽ
làm thay đổi nếp sống và nếp
nghĩ của người Ả Rập.
Chủ nghĩa tôn
sùng bạo lực và chủ nghĩa khủng
bố phát sinh chủ yếu do tinh
thần cuồng tín tôn giáo. Giáo
dục là phương tiện hữu hiệu nhất
diệt trừ nạn cuồng tín tôn giáo
và do đó sẽ diệt trừ tận gốc nạn
khủng bố như hiện nay đang diễn
ra khắp nơi trên thế giới. Chỉ
có sự giáo dục mới giải thoát
tập thể tín đồ thoát ra khỏi
vùng bóng tối tâm linh.
Các nước Hồi Giáo
bảo thủ hiện nay đều là những xã
hội khép kín, trong đó giới học
sĩ ulamas hoàn toàn thao túng
đời sống tinh thần của các tín
đồ. Cái gọi là sự học vấn của
các trường tôn giáo hoặc sự uyên
bác của các học sĩ Ulamas thực
chất chỉ là một môn học "tán
hươu tán vượn" về những điều
huyền hoặc của thần học
(theology). Thần học của Hồi
Giáo cũng tương tự như thần học
của Do Thái Giáo hoặc Ki Tô
Giáo. Thần học là một môn học
đầy tính chất hoang tưởng viển
vông nhảm nhí. Càng đi sâu vào
thần học, con người càng lún sâu
vào "ốc đảo tâm linh" xa rời
thực tế và đầy đặc những định
kiến sai lầm. Những mảnh bằng
"Tiến Sĩ Thần Học" là những giấy
chứng chỉ công nhận sự ngu xuẩn
của kẻ được cấp. Chỉ đến khi có
cơ duyên tỉnh ngộ, kẻ đó mới cảm
thấy xấu hổ là đã được cấp những
mảnh bằng về thần học mà thôi.
Thế giới Hồi Giáo
Ả Rập ngày nay vì tự ti mặc cảm
đã co cụm lại thành những xã hội
khép kín. Giới lãnh đạo không
muốn dân chúng biết sự thật của
thế giới bên ngoài cho nên họ
rất căm ghét tất cả mọi phương
tiện truyền thông quốc tế. Nhiều
nước Hồi Giáo ban hành luật cấm
TV, Video, phim ảnh và các sách
báo ngoại văn. Trong cuộc họp
của Tổ Chức Các Quốc Gia Hồi
Giáo OIC (Organization of
Islamic Countries) gồm các đại
biểu của 56 quốc gia thành viên
họp tại thủ đô Mã Lai Kualua
Lumpur ngày 27.2.2000, nhiều đại
biểu đã hô hào các nước Hồi Giáo
đoàn kết để chống lại kỹ thuật
tin học Internet vì nó có thể
"tiêu diệt các giá trị Hồi
Giáo".
Nền kinh tế của
khối Ả Rập Trung Đông hiện nay
không có gì để hãnh diện, ngoại
trừ kho dầu mỏ thiên nhiên ở mấy
nước vùng vịnh với trữ lượng
bằng 1/4 khối lượng dầu của thế
giới. Nhưng họ không có kỹ thuật
thăm dò mỏ dầu, kỹ thuật khoan
mỏ dầu, chuyên chở và lọc dầu
v.v... Họ cũng không có độc
quyền tăng giá dầu vì các việc
tiêu thụ, phân phối và sản xuất
không nằm trong tay họ. Năm
1982, giá dầu thô 40 đô la/1
barrel, đến năm 1998, giá dầu
tụt xuống chỉ còn 10 đô
la/1barrel! Những mỏ dầu thô đã
tạo cho chính quyền các nước
Trung Đông một ảo tưởng về quyền
lực. Thật sự họ không thể dùng
nó để tạo nên một áp lực nào đối
với thế giới bên ngoài. Những
khoản lợi tức khổng lồ của những
mỏ dầu không đem lại lợi ích nào
cho quần chúng vì nó đã chui hết
vào túi của giới lãnh đạo bất
tài và tham nhũng. Chẳng những
thế, giới lãnh đạo còn nhân danh
Allah và tiên tri Muhammad để
tước đoạt những quyền tự do
chính đáng của người dân. Tại
các nước Bahrain, Jordan,
Maroc... và thậm chí ở hai nước
nổi tiếng giầu có vì dầu hỏa là
Koweit và Saudi Arabia... phụ nữ
không có quyền đi bầu. Đại đa số
dân Ả Rập đều đang kéo lê cuộc
sống du mục lạc hậu như thời
Muhammad lập đạo tại sa mạc
Syro-Arabia vào thế kỷ 7 hoặc
như tổ phụ Abraham ở vùng đất
hứa Canaan cách đây 4000 năm
vậy!
Thiên Chúa luôn
luôn được các phe động viên
trong cuộc thánh chiến hiện nay
giữa Do Thái và các nước Ả Rập.
Thánh kinh Cựu
Ước được mọi tôn giáo như Do
Thái, Ki Tô và Hồi Giáo công
nhận. Một trong những chuyện nổi
tiếng trong Cựu Ước là chuyện
Đại Hồng Thủy. Kinh Thánh kể
rằng: Sau cơn đại hồng thủy tiêu
diệt hết mọi sinh vật trên trái
đất, loài người vỏn vẹn chỉ còn
lại gia đình của ông Nô-e mà
thôi. Người con út của ông Nô-e
tên Shem sau này trở thành tổ
tiên của các dân tộc Do Thái-Ả
Rập. Do đó, mọi người Do Thái và
Ả Rập đều có một cái tên chung
là chủng tộc Semites. Danh từ
này có nghĩa là "con cháu của
ông tổ Shem" (Semites =
descendants of Shem).
Mới đây, các nhà
nhân chủng học đã làm nhiều cuộc
thử nghiệm DNA tại các nước
Trung Đông. Kết quả xác nhận các
người Ả Rập, Do Thái, Ba Tư,
Iraq, Syria, Liban v.v... đều
cùng chung một chủng tộc. Như
vậy, truyền thuyết về các dân
tộc Ả Rập Do Thái cùng chung một
ông tổ Shem như chuyện kể trong
kinh Thánh đã tỏ ra là đúng với
thực tế.
Họ quả thật là
"anh em" với nhau. Cũng như
người Do Thái thường gọi nhau là
"Ben-Adam" có nghĩa là "anh em"
cùng một ông tổ Adam mà ra.
Nhưng khi Adam và Eva mới sinh
ra được hai thằng con trai là
Cain và Abel, lúc đó toàn thể
dân số nhân loại chỉ có 4 người,
thì Cain đã ra tay giết chết
thằng em vì một chuyện cãi nhau
vớ vẩn. Chuyện Cain giết Abel đã
trở thành câu chuyện mang tính
chất biểu tượng cho sự chém giết
nhau giữa những người anh em
cùng chủng tộc hoặc những anh em
cùng thờ Chúa.
Những người Do
Thái và Ả Rập đã chém giết nhau
rất nhiều phen kể từ khi Israel
trở thành vương quốc, với vị vua
đầu tiên là Saul, vào năm 1025
trước công nguyên. Vương quốc
Israel tồn tại đến năm 70 sau
Công Nguyên thì bị quân La Mã
kéo đến san bằng và tàn sát
người Do Thái vô số kể. Do đó,
người Do Thái phải bỏ nước ra đi
lang thang khắp nơi trên thế
giới. Từ thế kỷ 4 đến đầu thế kỷ
20, người Do Thái tại các nước
Công Giáo ở Âu Châu đã bị kỳ thị
và bị sát hại rất nhiều, nhất là
trong thời Trung Cổ. Trong Thế
Chiến thứ hai, Do Thái bị Đức
Quốc Xã sát hại 6 triệu người.
Do đó, sau Thế Chiến II, Liên
Hiệp Quốc đã thực hiện kế hoạch
cho những người Do Thái trên
khắp thế giới trở về "cố hương"
để tái lập quốc gia.
Năm 1948, quốc
gia Do Thái được thành lập trên
phần đất của người Palestine
đang sinh sống. Sự lập quốc Do
Thái đã khiến cho hàng triệu
người Palestine trở thành những
người vô gia cư (homeless). Sự
bất mãn của những người Ả Rập
Hồi Giáo bắt đầu từ đó.
Theo lệnh của
Liên Hiệp Quốc thì Do Thái không
được chiếm thành phố Jerusalem
vì thành phố này là thánh địa
chung của cả 3 tôn giáo: Do
Thái, Ki Tô và Hồi. Nhưng vào
năm 1967, Israel đã xua quân
chiếm thành phố Jerusalem làm
thủ đô của riêng mình. Vụ này đã
làm cho toàn thế giới Hồi Giáo
phẫn nộ. Từ năm 1970 trở đi, thế
giới Hồi Giáo tổ chức Hội nghị
hàng năm để kêu gọi toàn thể các
tín đồ Hồi Giáo đoàn kết chống
lại Israel để giải phóng thánh
địa Jerusalem.
Israel đã vin vào
Thánh Kinh Cựu Ước, công khai
tuyên bố không bao giờ chịu rút
khỏi Jerusalem vì đó là "một sứ
mạng tôn giáo" (a religious
mission). Nước Israel là bất khả
xâm phạm vì đó là "Israel của
Thánh Kinh" (Biblical Israel).
Lịch sử của Do Thái là lịch sử
của Thánh Kinh Cựu Ước. Do đó,
đối với người Do Thái, quốc gia
và tôn giáo là một. Chết vì nước
cũng là chết vì Chúa của đạo Do
Thái. Người Do Thái sống trong
hiện tại với những chứng tích
của lịch sử. Tâm linh của người
Do Thái trong hiện tại luôn luôn
gắn bó với tâm linh dân tộc
trong lịch sử. Đó là lý do khiến
người Do Thái đoàn kết và kiên
cường trong chiến đấu.
Cuộc chiến tranh
hiện nay giữa Do Thái và những
người Ả Rập Hồi Giáo là một cuộc
chiến tranh vì lịch sử và vì tôn
giáo. Chúng ta hãy nghe lời lập
luận của một thường dân
Palestine ở ngoại ô thành phố
Jerusalem. Anh Ibrahim Hussein,
48 tuổi, trả lời ký giả Mỹ trong
một cuộc phỏng vấn tháng 3/2002
như sau: "Nếu ông đào xới bất cứ
chỗ nào ở vùng này ông cũng tìm
thấy những dấu tích của lịch sử.
Và nếu ông là một người Do Thái
thì bất cứ lúc nào ông cũng có
thể vin vào những dấu tích đó để
nói rằng đây là đất thuộc về
lịch sử của Do Thái. Nhưng người
Do Thái chỉ có thể vin vào lịch
sử 3000 năm của họ. Còn chúng
tôi, con cháu của những người
Canaanites, đã định cư ở đây
trước người Do Thái 4000 năm,
nghĩa là tổ tiên của người Ả Rập
đã có 7000 năm lịch sử tại nơi
này!" (Houston Chronicle March
31.2002)
Ý kiến chung của
những người Ả Rập luôn luôn kết
tội Israel là kẻ gây chiến vì
Israel đã đến chiếm đất của
người Palestine và dùng bạo lực
đuổi họ ra khỏi nơi cư trú hợp
pháp lâu đời của họ. Trong khi
đó, người Do Thái luôn luôn đem
Thánh Kinh và Thiên Chúa ra làm
chứng cho quyền sở hữu của mình.
Họ nói vùng Tây Ngạn sông
Jordan(West Bank) hiện có 3
triệu dân Palestine cư trú,
chính là hai tỉnh Judea và
Samaria của Do Thái trong Thánh
Kinh Cựu Ước.
Người Do Thái
chiếm thành phố Hebron ở phía
nam Jerusalem, viện cớ Hebron là
nơi có mộ của tổ phụ Abraham,
mặc dầu không một ai có thể xác
định mộ của ông ta nằm ở chỗ
nào!
Người Do Thái
cũng chiếm luôn thung lũng
Kindron ở ngoại ô Jerusalem
(Kindron Valley) vì thung lũng
này hết sức quan trọng. Cả ba
đạo thờ Chúa là Do Thái, Ki Tô
và Hồi Giáo đều tin rằng: đến
Ngày Phán Xét Cuối Cùng, tất cả
mọi người sống và người chết
(sống lại) đều tập trung tại
thung lũng Kindron để được Thiên
Chúa xét xử lần cuối cùng. Kẻ
lành lên Thiên Đàng đời đời, còn
kẻ dữ (là kẻ chẳng có đạo) sẽ bị
đày xuống hỏa ngục muôn đời muôn
kiếp.
Đọc tin tức báo
chí đến đây tôi liên tưởng đến
sự ước tính của Giáo Sư Trần
Chung Ngọc trong sách "Chúa
Giê-xu là ai? Giảng dạy những
gì?" Giao Điểm xuất bản, Xuân
2002, trang 167-169: Ngày Phán
Xét Cuối Cùng là ngày Chúa xét
xử cả người sống lẫn các người
đã chết từ xưa tới nay. Những
người sống hiện nay là 6 tỷ. Nếu
Chúa cho tất cả mọi người chết
sống lại thì ước tính độ 44 tỷ
người. Tổng cộng tất cả mọi
người được Chúa xét xử sẽ là 50
tỷ. Nếu Chúa xét xử theo phương
pháp siêu tốc mỗi người một giây
thì thời gian cần thiết phải có
là 1500 năm mới xử xong 50 tỷ
người! Đó là về thời gian xét
xử, còn về nơi xét xử là thung
lũng Kindron không biết rộng
bằng nào. Nhưng cho dù thung
lũng Kindon lớn rộng bằng cả
nước Việt Nam chăng nữa cũng
không thể nào chứa được 50 tỷ
người trong phiên xử vĩ đại của
Chúa!
Kinh Thánh Do
Thái nói rất nhiều đến ngày Phán
Xét Cuối Cùng của Chúa tại thung
lũng Kindron. Nhưng nếu đọc các
sách Phúc Âm sẽ thấy Gioan
Baotixita và Jesus còn nói về
ngày Phán xét nhiều hơn nữa.
Trong niềm tin của những người
Ki Tô Giáo (Công Giáo, Chính
Thống, Anh Giáo và Tin Lành) thì
ngày Phán Xét Cuối Cùng chính là
ngày Chúa Jesus Tái Lâm (Cơ Đốc
Phục Lâm) và cũng là Ngày Tận
Thế, Ngày Nước Chúa Trị Đến vĩnh
viễn trên thế gian... Như vậy,
vị chánh án của phiên xử cuối
cùng vĩ đại này không ai khác
hơn là chính Chúa Jesus.
Hơn một tỷ tín đồ
Hồi Giáo cũng có niềm tin xác
tín về ngày Phán Xét Cuối Cùng
tại thung lũng Kindron như niềm
tin của những người Do Thái và
Ki Tô. Nhưng vị chủ tọa phiên xử
là Thiên Chúa Allah. Ngay
chương mở đầu của kinh Koran đã
xác định điều đó: "Nhân danh
Thiên Chúa Allah, Đấng chủ tọa
của ngày Phán Xét Cuối Cùng" (In
the name of Allah, Master of The
Day of Last Judgement - Koran
1:4)
Người Do Thái
càng vin vào Thánh Kinh là sách
ghi Lời Chúa để biện giải cho
các hành vi chiến tranh của mình
bao nhiêu thì người Ả Rập Hồi
Giáo cũng vin vào kinh Koran để
cổ vũ người Palestine và toàn
khối Ả Rập phải quyết tâm tận
diệt Do Thái bấy nhiêu.
Ngay từ khi Đạo
Hồi được thành lập vào đầu thế
kỷ 7, Muhammad đã kêu gọi tín đồ
tẩy chay những người Do Thái và
Ki Tô:
"Hỡi
các tín đồ! Đừng bao giờ làm bạn
với bọn Do Thái và Ki Tô. Bất cứ
ai làm bạn với chúng, sẽ trở
thành một kẻ bất chính trong bọn
chúng. Thiên Chúa không bao giờ
dẫn đường chỉ lối cho những kẻ
bất chính"
(Oh you who
believe! Do not take the Jews
and the Christians for friends
and who amongst you take them
for a friend then he is one of
them. Allah does not guide the
unjust people - Koran 5: 51)
Ngày 21-7-2001,
chính quyền Palestine của
Arafat phổ biến trên các phương
tiện truyền thông một bản thông
cáo chính trị nhưng được mệnh
danh là "Giáo lệnh số 4"
(Religious teaching No.4):
"Thiên Chúa cấm chỉ thừa nhận sự
hiện hữu một quốc gia Israel và
ngài ra lệnh phải tiêu diệt nó."
Để cụ thể hóa
mệnh lệnh này, chính quyền
Palestine đã đưa ra 8 điều sau
đây:
1. Xác nhận Do Thái là kẻ
thù của Thiên Chúa.
2. Toàn thể Hồi Giáo phát
động thánh chiến để chống lại Do
Thái.
3. Tiêu diệt Do Thái là một
nghĩa vụ tôn giáo.
4. Palestine chiến đấu tại
tiền tuyến, thế giới Hồi Giáo là
hậu phương yểm trợ tiền tuyến.
5. Toàn thể lãnh thổ Israel
phải thuộc về Palestine. Bất cứ
ai cắt đất của Palestine cho Do
Thái đều phải sa hỏa ngục đời
đời kiếp kiếp.
6. Mọi thỏa ước ký kết với
Do Thái đều chỉ có giá trị chiến
thuật tạm thời.
7. Bất cứ ai trốn tránh
nghĩa vụ thánh chiến chống Do
Thái sẽ bị Chúa trừng phạt.
8. Sự tiêu diệt hoàn toàn
Israel là một sự bảo đảm tuyệt
đối nhân danh Thiên Chúa Allah".
Trong công báo chính thức của
chính quyền Palestine
(Al-Jadila) ngày 18-5-2001 có
đăng một bản Huấn thị của chính
phủ, trong đó có câu: "Ngày của
mọi người chết sống lại để dự
phiên xử cuối cùng sẽ không xảy
ra cho đến khi nào người Hồi
Giáo gây chiến tranh chống Do
Thái và tiêu diệt chúng" (The
Day of the Resurrection will not
arrive until the Muslims make
war against the Jews and kill
them).
Một viên chức cao cấp của Bộ
Tư Pháp Palestine xuất hiện trên
màn ảnh truyền hình ngày
13-10-2001 kêu gọi nhân dân
Palestine: "Do Thái là
kẻ nói láo và khủng bố. Cho nên
điều cần thiết là phải giết
chúng theo lời Chúa. Cấm không
ai được thương xót chúng. Đừng
thương xót, hãy giết chúng ở
khắp mọi nơi" (The Jews are the
liars and terrorists. Therefore
it is necessary to slaughter
them according to the Words of
God. It is forbidden to have
mercy in your hearts for the
Jews. Have no mercy on them and
murder them every where) - (Fast
Facts on Islam, by John Weldon
and John Ankerberg. Harvest
House Pub. 2001, P. 135-137).
Charlie Nguyễn
Các chương khác
trong sách:
Các Mô Hình Sinh Hoạt trong Thế Giới Hồi Giáo Cái Nôi của Đạo Hồi Hồi Giáo Tại Trung Đông Hồi Giáo Tại Á Châu Hồi Giáo Tại Âu Châu và Mỹ Châu Hồi Giáo và Chủ Nghĩa Khủng Bố Năm Nghĩa Vụ Tín Đồ Hồi Giáo Sáu Trụ Cột của Đức Tin Hồi Giáo Sự Bành Trướng của Đạo hồi Sự Bành Trướng của Đạo hồi Sự Nghiệp Muhammad tại Medina Thân Phận Phụ Nữ Hồi Giáo Thân Thế Muhammad tại Mecca Tìm Hiểu Kinh Koran Tệ Nạn Phân Hóa Trong Nội Bộ Hồi Giáo
|