|
bản in |
¿ trở ra mục lục
|
SỰ BÀNH TRƯỚNG ĐẠO HỒI
Trong lịch sử thế giới,
chưa từng có một tôn giáo
nào bành trướng một cách
mạnh mẽ và nhanh chóng cho
bằng đạo Hồi. Từ một nhóm
người du mục sống trong một
ốc đảo heo hút giữa sa mạc
Syro-Arabia đã mau chóng
biến thành những con người
đầy quyền lực tung hoành từ
Cận Đông đến Âu Châu và từ
Bắc Phi đến tận các nước
Châu Á:
- Chỉ trong
vòng 10 năm kể từ ngày giáo
chủ Muhammad qua đời
(632-642) quân Hồi Giáo Ả
Rập đã chiếm trọn bán đảo
Arabia (rộng gấp 8 lần Việt
Nam), chiếm Iraq, Syria,
Palestine, Ai Cập và phía
Tây nước Iran.
- Trong 2 năm
(648-649), quân Hồi chiếm
Carthage, Tunisia.
Một điều làm
cho cả thế giới kinh ngạc là
lần đầu tiên người Ả Rập
chiếm một nước Âu Châu, đó
là Hy Lạp.
- Thừa thắng
xông lên, người Hồi Giáo Ả
Rập mở cuộc chiến tranh đánh
Tây Ban Nha. Sau 5 năm,
người Hồi chiến thắng đã
chiếm trọn nước Âu Châu rộng
lớn và nổi tiếng sùng đạo
Công Giáo nhất thời bấy giờ.
- Năm 712,
quân Hồi Giáo chiếm trọn
Iran (Ba Tư) và dùng nước
này làm bàn đạp tiến quân
đánh chiếm các nước Trung Á
ở phía nam nước Nga, chiếm
vùng Bắc Ấn rộng lớn (nay là
Pakistan và Afganistan) và
xâm nhập phía Tây Trung Quốc
- Quân Hồi bị quân nhà Đường
chận lại tại sông Talas nên
phải rút về Trung Á.
Sự xuất hiện
và bành trướng của đạo Hồi
trong thế kỷ 7 hung bạo dữ
dội như cơn gió xoáy
(tornado) khiến cho cả thế
giới phải kinh hoàng.
Chúng ta thử
tìm hiểu những nguyên nhân
nào đã khiến cho đạo Hồi có
thể bành trướng với tốc độ
vũ bão như vậy. Các sử gia
đã phân tích 3 nguyên nhân
sau đây:
Nguyên nhân 1:
Qua nhiều ngàn năm sống trên
các cánh đồng cỏ ở sa mạc
Syro-Arabia, kiếp sống lang
thang của những người Ả Rập
càng ngày càng trở nên khó
khăn vì đất đai ngày càng
trở nên khô cằn. Từ thế kỷ
6, bộ lạc Quraysh (tổ tiên
của Muhammad) có sáng kiến
bỏ nghề du mục để chuyển hẳn
sang nghề thương mại. Họ tổ
chức các cuộc đi buôn đường
xa với những đoàn lữ hành
(caravans) gồm hàng trăm
người và rất nhiều ngựa, lạc
đà để chở hàng hóa lương
thực, lều vải, vũ khí...
Dần dần, thị trường ngày
càng được mở rộng, nhu cầu
thương mại gia tăng, những
đoàn lữ hành có thể gia tăng
lên tới nhiều ngàn người.
Do nhu cầu tự
vệ, mọi người trong đoàn lữ
hành đều phải học cưỡi ngựa,
cưỡi lạc đà, luyện tập sử
dụng các thứ vũ khí như gươm
giáo cung tên, kể cả võ
thuật và chiến thuật quân
sự. Ngoài ra, họ học nói
nhiều ngoại ngữ, học cả địa
lý và phong tục tập quán của
các nước lân cận để gia tăng
khả năng giao dịch thương
mại. Trải qua nhiều thập
niên, những thương gia
(traders) Ả Rập trở thành
những người đa tài, đa năng
và đa hiệu. Họ chẳng những
là những thương gia rành
nghề mà còn là những quân
nhân thiện chiến, kỹ luật và
còn là những người lãnh đạo
quần chúng.
Vào đầu thế
kỷ 7, Mecca là thủ phủ của
những người Quraysh đã trở
nên một trung tâm thương mại
lớn nhất tại Trung Đông.
Những người Quraysh không
còn có dáng dấp quê mùa
nghèo khổ của thế kỷ trước
nữa trái lại họ đã trở thành
những người văn minh giàu
có. Điều đó làm cho nhiều bộ
lạc Ả Rập khác phải thèm
muốn và cố gắng noi theo.
Một trong những bộ lạc nổi
tiếng hung dữ là bộ lạc
Bedouins bắt chước bộ lạc
Quraysh đã bỏ nghề du mục và
tham gia vào các đoàn
caravans của Mecca.
Vào giữa thế
kỷ 7, gặp cơ hội đạo Hồi
phát triển, các bộ lạc Ả
Rập, nhất là Quraysh và
Bedouin, đã nô nức nhập cuộc
dùng tôn giáo làm phương
tiện bành trướng lãnh thổ để
thay đổi môi trường sống tại
bán đảo Ả Rập quá cằn cỗi.
Nguyên nhân 2:
Từ thế kỷ 4 đến thế
kỷ 7, toàn vùng Trung Đông
và Bắc Phi bị hai đế quốc
Byzantine và Sassanian thay
phiên nhau thống trị. Đế
quốc Byzantine là hậu thân
của đế quốc La Mã, được Đại
Đế Constantine thành lập năm
330, đặt thủ phủ tại hải
cảng Byzantine của Hy Lạp.
Từ đời Constantine (thế kỷ
4) đến đời hoàng đế cuối
cùng của đế quốc Byzantine
vào giữa thế kỷ 15, tất cả
đều là những hoàng đế theo
Ki Tô Giáo Đông Phương
(Eastern Christian Church)
sau này trở thành Chính
Thống Giáo. Đế Quốc
Sassanian là đế quốc Ba Tư,
tồn tại 427 năm (từ năm 224
đến 651). Các hoàng đế của
đế quốc Sassanian đều theo
đạo Hỏa Giáo
(Zoroastrianism). Cả hai đế
quốc nói trên đánh nhau liên
miên suốt 4 thế kỷ, đến đầu
thế kỷ 7 thì cả hai đế quốc
này đều bị kiệt quệ tạo nên
một khoảng trống quyền lực
(a power vacuum) tại Trung
Đông và Bắc Phi. Do đó,
những đoàn kỵ binh của Hồi
Giáo Ả Rập đã tiến vào lãnh
thổ của cả hai đế quốc này
như tiến vào chỗ không
người.
Nguyên nhân 3:
Giáo lý đạo Hồi là
sản phẩm của người Ả Rập nên
được người Ả Rập đón nhận
một cách dễ dàng và tự
nhiên. Từ thời xa xưa, người
Ả Rập đã chấp nhận niềm tin
của Abraham, nghĩa là tin có
Thiên Chúa (tiếng Ả Rập gọi
là Allah) tin có Thiên đàng,
Hỏa ngục, tin có các thiên
thần v.v... Cho nên người Ả
Rập không coi Hồi Giáo như
một đạo ngoại lai mà là đạo
cổ truyền của dân tộc. Văn
thơ trong kinh Koran đối với
người Ả Rập là những áng thơ
văn tuyệt tác. Mỗi khi họ
đọc kinh Koran là một dịp họ
ngâm thơ, họ cảm thấy những
vần thơ đó rất hấp dẫn vì
rất hợp với khiếu thẩm mỹ
văn chương của họ. Ý niệm
thánh chiến (Jihad) và ý
niệm tử đạo (martyrdom) hoàn
toàn phù hợp với tâm lý vốn
hung bạo của người Ả Rập vì
họ rất quen thuộc với cuộc
sống đầy bất trắc tại sa
mạc. Kinh Koran mô tả thiên
đàng rất hấp dẫn đối với các
chiến binh trẻ tuổi: Sau khi
chết trận, được coi như tử
đạo, sẽ được Chúa cho lên
thiên đàng để hưởng đủ lạc
thú cho đến muôn đời. Lạc
thú độc đáo nhất mà chỉ đạo
Hồi mới có, đó là những
người chết trận hoặc tử đạo
đều được những cô gái trinh
tuyệt đẹp đón tiếp và phục
vụ lạc thú tình dục cho đến
muôn đời vì mọi người ở
thiên đàng đều trẻ mãi không
già! Niềm tin đặc biệt này
đã là một yếu tố tâm lý quan
trọng khiến cho những người
lính Hồi Giáo trở thành
những chiến sĩ rất dũng cảm
trong các cuộc thánh chiến.
Chỉ vì cuồng tín, những đoàn
quân Hồi Giáo đã lập nên
những chiến công oanh liệt
như những kỳ tích vượt xa sự
dự tưởng của mọi người.
Những cuộc
chiến tranh mở rộng nước
Chúa của Hồi Giáo (Kingdom
of Allah) từ ngày lập đạo
tới nay có thể được chia ra
làm hai thời kỳ:
- Thời kỳ I - từ
thế kỷ 7 đến thế kỷ 13: Đạo
Hồi bành trướng và phát
triển tạo thành một số quốc
gia theo đạo Hồi, đứng đầu
cộng đồng Hồi Giáo là một vị
vua được gọi là Caliph, có
nghĩa là "người kế vị giáo
chủ Muhammad về phương diện
thế quyền ". Xin ghi thêm ở
đây là đạo Hồi tin giáo chủ
Muhammad là thiên sứ cuối
cùng của Allah cho nên không
một ai có quyền tự xưng là
kẻ thừa kế của Ngài về
phương diện thần quyền.
-
Thời kỳ II - từ
thế kỷ 13 đến thế kỷ 20: Do
những biến cố đặc biệt của
thế giới đã đưa đến sự hình
thành ba đế quốc Hồi Giáo.
Trước hết là sự xâm lăng của
quân Mông Cổ chiếm các nước
Trung Đông và sau đó chiếm
các nước Bắc Ấn và nhiều
nước Á Châu khác tạo thành
một đế quốc Mông Cổ rộng
lớn. Từ cuối thế kỷ 13,
nhiều hoàng đế Mông Cổ theo
đạo Hồi đã tạo nên đế quốc
Hồi Giáo Mughul (do chữ
Mongol mà ra). Trong thế kỷ
15, tại Âu Châu, người Thổ
Nhĩ Kỳ Hồi Giáo chế ra thuốc
súng và lập ra binh chủng
pháo binh đầu tiên trên thế
giới. Dựa vào sức mạnh quân
sự, người Thổ Hồi Giáo xua
quân đánh chiếm nhiều nước
trên cả 3 lục địa Âu, Á, Phi
và lập nên đế quốc Ottoman.
Cuối cùng, dân tộc
Azerbaizan ở tây nam biển
Caspian bỗng nhiên trở nên
hùng mạnh vào đầu thế kỷ 16,
cất quân đánh chiếm nhiều
nước Âu Châu và Trung Đông
tạo thành đế quốc Safavids
theo giáo phái Shiite.
I. THỜI KỲ
CAI TRỊ CỦA CÁC CALIPHS
(The
Caliphate Rulers)
*Bốn
người kế vị đầu tiên của
Muhammad (632-661):
Danh từ Hồi
Giáo Ả Rập gọi chung cả bốn
vị thừa kế đầu tiên của giáo
chủ Muhammad là RASHIDUN -
Họ được coi là 4 trụ cột của
Hồi Giáo trong thời kỳ sơ
khai. Họ đã lần lượt thay
thế nhau trong 29 năm kể từ
khi Muhammad qua đời, nhưng
những việc làm của họ đã có
những ảnh hưởng hết sức lớn
lao cho sự tồn vong của đạo
Hồi. Bốn vị đó là : Abu
Bakr, Umar Khattab, Uthman
Affan và Ali Talib.
1.
Abu Bakr (632-634).
Sau khi Muhammad qua đời,
cộng đồng Hồi Giáo non trẻ
lâm vào tình trạng hỗn loạn
vì không có lãnh đạo. Không
một ai được đa số tín đồ Hồi
Giáo tín nhiệm bầu lên làm
nguời kế vị Muhammad. Trước
tình thế bế tắc đó, Abu Bakr
tự động đứng lên dành quyền
lãnh đạo. Ông là một thương
gia giàu có và có uy tín bậc
nhất ở Mecca. Ông đã nghiêm
khắc ra 2 lệnh cấm khẩn cấp
để bảo vệ đạo Hồi và cộng
đồng Hồi Giáo:
- Tuyệt đối
cấm không một tín đồ nào
được rời bỏ cộng đồng Hồi
Giáo (Islamic confederacy)
- Không một
ai được tự xưng là tiên tri
vì Muhammad là vị tiên tri
cuối cùng của Thiên Chúa
trên thế gian này.
Abu Bakr đã
mau chóng phá tan các âm mưu
chia rẽ cộng đồng Hồi Giáo
và chỉ sau 2 năm, toàn bán
đảo Ả Rập đã theo đạo Hồi.
Bán đảo Ả Rập rất rộng lớn,
(gấp 8 lần diện tích Việt
Nam) hiện được chia thành
nhiều quốc gia độc lập:
Saudi Arabia, Yemen, Quatar,
Omar và Emerite.
2. Umar Khattab (634-644).
Sau khi Abu Bakr qua đời,
Umar được bầu làm người kế
vị (Caliph) cai quản cả một
cộng đồng Hồi Giáo rộng lớn
trên toàn bán đảo Ả Rập.
Umar là một
thiên tài quân sự kiệt xuất
trong lịch sử Hồi Giáo. Ông
đã ban hành trên toàn lãnh
thổ Ả Rập những biện pháp
sau đây:
- Để bảo toàn
lực lượng Hồi Giáo, các bộ
lạc trong Cộng đồng đạo Hồi
tuyệt đối không được đánh
nhau.
- Mọi người
nam giới trong các bộ lạc
trên lãnh thổ bán đảo Ả Rập
đều là các binh sĩ, tất cả
đều được huấn luyện quân sự
và được sắp xếp thành các
đơn vị quân đội. Umar tự
xưng là "Tư lệnh của các tín
đồ" (The commander of the
faithful). Sau hai năm huấn
luyện các binh sĩ và trang
bị vũ khí đầy đủ, Umar bắt
đầu mở mang nước Chúa bằng
sức mạnh quân sự:
* Năm 636,
Umar đích thân chỉ huy quân
Hồi Giáo chiếm Iraq và
Syria.
* Năm 637,
Umar chiếm toàn lãnh thổ của
đế quốc Sassanian (Ba Tư)
và chiếm thành phố lớn nhất
của đế quốc Byzantine là
Anatolia.
* Năm 638,
Umar xua quân chiếm
Palestine và thánh địa
Jerusalem.
* Năm 641,
Umar chiếm toàn bộ các nước
Bắc Phi gồm Ai Cập, Algeria,
Tunisa và Maroc.
Một điều đáng
chú ý là những đoàn quân Hồi
Giáo đã tiến chiếm những
vùng đất xa xôi thuộc nhiều
hướng khác nhau nhưng vị chỉ
huy tối cao là Umar vẫn đặt
bản doanh ở Medina, một ốc
đảo trong sa mạc Syro -
Arabia. Ông chỉ huy các đoàn
quân Hồi Giáo trên những sa
bàn và những bản đồ tại văn
phòng của ông. Dưới sự lãnh
đạo kiệt xuất của Umar trong
10 năm, Hồi Giáo từ một giáo
phái nhỏ ở sa mạc đã biến
thành một đế quốc rộng lớn.
Các tín đồ Hồi Giáo cho đó
là một phép lạ của Allah,
trong khi Âu Châu bắt đầu
cảm thấy e ngại trước sự lớn
mạnh của một tôn giáo mới.
Họ gọi đạo
Hồi là "đức tin của bạo lực"
(A violent faith) hoặc là
một "tôn giáo quân phiệt" (a
militaristic religion). Vào
một ngày định mệnh trong
tháng 11 năm 644, trong khi
Umar đang cầu nguyện trong
đền thờ tại Medina thì bị
một tù binh người Ba Tư đâm
chết.
3. Uthman (644-656).
Uthman là cánh tay mặt và
phục vụ dưới trướng của Umar
10 năm. Uthman đã học hỏi
được nhiều kinh nghiệm về
tài thao lược quân sự của
người tiền nhiệm. Vào lúc
nầy, Hồi Giáo là một quyền
lực quân sự lớn ở trong vùng
vì họ đã tịch thu được rất
nhiều chiến lợi phẩm quân sự
và tích lũy được rất nhiều
tài nguyên kinh tế dự trữ
tại các vùng chiếm đóng.
Dưới sự lãnh đạo tài ba của
Uthman trong 12 năm, quân
Hồi đã lập nên nhiều kỳ tích
chưa từng thấy:
- Trước hết, quân Hồi
chiếm Hy Lạp và nhiều nước
phía đông Địa Trung Hải.
- Mấy năm
sau, một cánh quân tiến về
phía Tây chiếm Libya.
- Một cánh
quân khác tiến về phía đông
chiếm nước Âu Châu Armenia,
tiến vào miền Caucase của
Nga. Trong khi đó một cánh
quân khác tràn xuống phía
nam đánh chiếm Bắc Ấn Độ
(tức Afganistan và Pakistan
ngày nay).
Tới lúc này,
Hồi Giáo đã thành một đế
quốc mênh mông kéo dài từ Âu
sang Á tới Bắc Phi. Những
quân lính Ả Rập Hồi Giáo hầu
hết đều đã xa nhà trên 10
năm, phần đông đều cảm thấy
chán nản. Nhiều tướng lãnh
Hồi Giáo xa chủ tướng đã quá
lâu nên cũng mất đi tình
thân ban đầu.
Năm 656, một
nhóm tướng và binh sĩ bất
mãn đã bất thần trở về
Medina vây bắt và giết chết
Uthman tại chỗ. Nhóm này đưa
Ali Talib lên làm vị Caliph
thứ tư của Hồi Giáo.
4. Ali Talib (656-662).
Vụ sát hại Uthman để đưa Ali
lên thay là một biến cố vô
cùng tai hại cho Hồi Giáo
trong suốt nhiều thế kỷ qua
và có thể còn kéo dài mãi
mãi về sau. Ali là em họ và
đồng thời là con rễ của
Muhammad. Khi vừa được bầu
lên làm Caliph, Ali đã gặp
phải sự chống đối của
Muawiyah là người nhà của
Uthman. Muawiyah lúc đó là
quan toàn quyền Hồi Giáo cai
trị Syria lên tiếng chỉ
trích Ali đã không trừng
phạt kẻ sát hại Uthman. Ali
mang quân đến đánh Muawiyah
nhưng hai bên đánh nhau khá
lâu không phân thắng bại nên
phải ngưng chiến. Năm 662,
Ali bị ám sát chết. Muawiyah
tự cho mình là người đang
nắm quyền lực quân sự mạnh
nhất nên tự xưng là Caliph
lãnh đạo cộng đồng Hồi Giáo.
Y tự ý dời thủ đô Hồi Giáo
từ Medina về Damacus lúc đó
là thủ đô của Syria.
Muawiyah mở đầu cho một
triều đại Hồi Giáo kéo dài
tới 6 thế kỷ. Đó là triều
đại Umayyad (Umayyad
Dynasty) gồm những vị vua
cai trị các nước Hồi Giáo,
tất cả đều tự xưng là Caliph
(661-1250). Do đó, tất cả
các vua Hồi Giáo thuộc triều
đại Umayyad đều được gọi
chung là "Caliphate Rulers",
có nghĩa là các nhà lãnh đạo
cộng đồng với tư cách là
người kế vị Muhammad.
Riêng cá nhân
Muawiyah cai trị toàn bộ
cộng đồng Hồi Giáo rộng lớn
trong 19 năm. Ông biến những
người theo ông thành một
giai cấp quí tộc mới, nói
đúng hơn là một giai cấp
thống trị (a ruling class).
Chủ thuyết của Muawiyah là
cai trị dân bằng sức mạnh
quân sự (military
aristocracy). Muawiyah chết
vì bệnh năm 680.
Trong thời
gian đó, những người Hồi
Giáo thân Ali đã lập ra một
giáo phái mới là giáo phái
Shiite. Số tín đồ Hồi Giáo
còn lại được gọi chung là
Sunni, có nghĩa là Đa số.
Năm 680, vua Yazid (con của
Muawiyah) đến Medina chặn
bắt con trai của Ali là
Husayn và giết nhiều người
thuộc giáo phái Shiite. Năm
sau (681), Yazid mang quân
trở lại Medina (nơi ở cuối
cùng của Muhammad) tàn phá
và dìm thành phố thánh địa
này trong biển máu. Để trả
thù, giáo phái Shiite mang
quân chiếm thánh địa Mecca
và tàn phá nặng nề thành phố
này. Từ đó đến nay, trải qua
trên 13 thế kỷ, hai giáo
phái Sunni và Shiite thường
xuyên xung đột nhau nhiều
trận đẫm máu. Số người tử
trận cả hai bên có thể lên
tới nhiều chục triệu người.
Đây là một thảm họa lớn nhất
trong lịch sử thế giới Hồi
Giáo.
II. THỜI KỲ
CỦA NHỮNG ĐẾ QUỐC HỒI GIÁO -
TỪ THẾ KỶ 13 ĐẾN THẾ KỶ 20.
1.
Đế Quốc Mughul
- Mughul là tiếng phiên âm Ả
Rập để gọi người Mông Cổ
(Mongol). Người sáng lập đế
quốc Mông Cổ là Thành Cát Tư
Hãn (Genghis Khan
1162-1227). Thoạt đầu ông
thống nhất các bộ lạc du mục
Mông Cổ vốn có tài cưỡi ngựa
và bắn cung. Sau đó ông huấn
luyện và tổ chức họ thành
quân ngũ và biến họ thành
những đoàn kỵ binh bách
chiến bách thắng. Với đoàn
quân hùng mạnh này, Thành
Cát Tư Hãn đã lần lượt đánh
chiếm nhiều nước từ Á sang
Âu tới tận Trung Đông và Phi
Châu. Luật tác chiến rất nổi
tiếng của Thành Cát Tư Hãn
là : Hễ tới nơi nào ngoan
ngoãn đầu hàng thì tha, bất
cứ một thành phố hay làng
mạc nào chống cự đều bị phá
bình địa và tất cả mọi người
dân không kể già trẻ lớn bé
đều phải chết!
- Năm 1219, quân Mông Cổ
của Thành Cát Tư Hãn đánh
chiếm Thổ Nhĩ Kỳ. Vua Thổ
cùng đoàn tùy tùng bỏ chạy
bị quân Mông Cổ truy kích
qua Iran tới tận Azerbaizan
thì bị bắt. Quân Mông Cổ tới
đâu đều để lại phía sau sự
đổ nát hoang tàn.
- Năm 1231, hàng loạt các
thành phố nổi tiếng của Hồi
Giáo như Baghdad, Bukhara,
Damacus... đều bị đốt phá
bình địa với những xác chết
la liệt trên đường phố. Dân
chúng sợ hãi lũ lượt kéo
nhau chạy qua các nước lân
cận.
- Năm 1255, Mông Cổ hoàn
thành một đế quốc rộng lớn
bao la bao gồm Trung Quốc,
Cao Ly, Ngoại Mông, hàng
chục nước Trung Á và Bắc Ấn
Độ, Syria, Palestine, Thổ
Nhĩ Kỳ.
Nhưng một biến cố quan
trọng đã xảy ra cho cả Hồi
Giáo lẫn Mông Cổ, đó là vào
năm 1295, hoàng đế Mông Cổ
Ghazan Khan theo đạo Hồi
thuộc giáo phái Sunni. Từ đó
về sau, các hoàng đế Mông Cổ
đều theo đạo Hồi. Càng về
sau, các quan và cả triều
đình Mông Cổ trong đế quốc
đều thành những tín đồ Hồi
Giáo thành tín. Các học sĩ
Hồi Giáo Ả Rập (Ulama) được
trọng dụng, nhất là trong
việc soạn thảo các bộ luật
hình sự và dân sự phỏng theo
luật Hồi Giáo Sharia.
Hoàng đế Mông Cổ Timur
Lenk đóng đô tại Thổ Nhĩ Kỳ
xua quân đánh chiếm Iran năm
1387, chiếm hải cảng Golden
Horde của Nga năm 1395,
chiếm Ấn Độ năm 1398, tàn
phá thủ đô New Delhi và giết
hàng chục ngàn tù binh Hindu
tại đây. Năm 1400,Timur
chiếm hai nước Iran và Iraq.
Tại đây, Timur ra lệnh tàn
sát hàng triệu người thuộc
giáo phái Shiite. Vì quá say
máu chiến thắng, năm 1404,
Timur kéo quân ngược về phía
Trung Á rồi vượt biên giới
tiến đánh vào phía Tây Trung
Quốc. Cuộc chiến kéo dài qua
năm sau, Trung Quốc phản
công giết quân Mông Cổ rất
nhiều và bản thân Timur cũng
bị tử trận trong năm 1405.
Những hoàng đế Mông Cổ kế
tiếp chú trọng việc mở rộng
đế quốc ở Châu Á:
- Năm 1478, đế quốc
Mughul chiếm Indonesia và
biến nước này thành nước Hồi
Giáo. Ngày nay, Indonesia là
một nước đông dân nhất của
thế giới đạo Hồi với trên
200 triệu dân.
- Từ 1520 đến 1837, đế
quốc Mughul cai trị toàn Ấn
Độ. (Ấn Độ mang tên Mughul
Empire of India). Hoàng đế
Mông Cổ đóng đô tại New
Delhi. Năm 1643, hoàng đế
Mông Cổ cho xây ngôi mộ của
hoàng hậu ở ngoại ô New
Delhi rất nổi tiếng, đó là
ngôi mộ Taj Mahal..
- Năm 1747, đế quốc
Mughul chiếm Afganistan và
cai trị nước này 100 năm.
Năm 1831, người Anh chiếm
Ấn Độ và chấm dứt đế quốc
Mughul trên lục địa Châu Á.
2. Đế quốc Ottoman
(1289-1924)
Danh từ Ottoman xuất phát
từ tên của một bộ lạc du mục
là OSMAN ở phía tây Thổ Nhĩ
Kỳ. Bộ lạc này bắt đầu khởi
binh từ năm 1280. Chỉ trong
9 năm, họ chiếm một vùng
lãnh thổ rộng lớn gồm có Tây
Nam Á Châu, Đông Nam Âu Châu
và Đông Bắc Phi Châu. Họ gọi
đế quốc của họ là OTTOMAN.
Những người lãnh đạo đế quốc
này đều theo đạo Hồi thuộc
giáo phái Sunni. Họ chẳng
những nổi tiếng về tài năng
thao lược quân sự mà còn nổi
tiếng về khả năng chính trị
rất khéo léo của họ. Nhờ
vậy, đế quốc Ottoman đã tồn
tại qua 7 thế kỷ.
- Năm 1389, quân Ottoman
chiếm Albania và Kosovo,
biến vùng này thành những
nước theo Hồi Giáo.
- Năm 1444, quân Ottoman
đánh tan Thập Tự Quân của
giáo hoàng La Mã tại
Bulgaria.
- Tháng 4.1453, quân Hồi
Giáo Ottoman xóa sổ đế quốc
Byzantine, tức đế quốc Ki Tô
Giáo Đông Phương và chiếm
thủ đô của đế quốc này là
thành phố Constantinople.
Điểm son của Ottoman là sau
khi chiếm Constantinople và
nhiều lãnh thổ của
Byzantine, Ottoman công bố
chính sách khoan dung tôn
giáo đối với Do Thái Giáo và
Ki Tô Giáo. Nhờ vậy, trong
nhiều thế kỷ sau, Ottoman đã
mở rộng thương mại với các
nước Âu Châu Ki Tô Giáo và
trong lãnh thổ đế quốc không
có một cuộc nổi loạn nào.
Tuy nhiên, đối với giáo phái
Shiite, Ottoman có một chính
sách quyết liệt không khoan
nhượng.
- Năm 1467, Ottoman công
bố thánh chiến với giáo phái
Shiite, các tín đồ Shiite
trong đế quốc bị lùng giết.
- Từ 1467 đến 1520, quân
Ottoman tiến chiếm Syria, Ai
Cập, Bắc Phi và toàn bán đảo
Arabia.
- Từ 1520 đến 1534, quân
Ottoman chiếm Nam Tư và một
phần Âu Châu tới thủ đô
Vienne của Áo.
- Năm 1606, Ottoman chiếm
Romania, Hungaria, Ba Lan và
Tiệp Khắc. Tới lúc này, đế
quốc Ottoman trở thành siêu
cường quốc tế (World Power).
Từ đầu thế kỷ 19, các
cường quốc Âu Châu (Anh,
Pháp, Đức) bắt đầu xâm chiếm
các phần đất của Ottoman và
dồn đế quốc này vào chỗ suy
tàn.
3.
Đế quốc Safavids của giáo
phái Shiite (1501-1779)
Thoạt đầu Safavids là một
nhánh của giáo phái Shiite
xuất phát tại nước
Azerbaizan ở tây nam biển
Caspian.
Năm 1501, lãnh tụ của
giáo phái Safavids là Esmail
khởi binh chiếm luôn cả nước
Azerbaizan. Esmail tự xưng
là "Vua Hồi Giáo"
(Sha/Sultan) và ra lệnh cho
toàn dân phải theo đạo Hồi
(giáo phái Shiite). Ít lâu
sau, Esmail xua quân đánh
chiếm các nước lân cận theo
Chính Thống Giáo là Armenia,
Georgia và vùng núi Caucase
của Nga. Trong thời gian
chiếm đóng, quân Hồi
Safavids đã giết hại rất
nhiều người Chính Thống
Giáo. Riêng tại Armenia, số
tín đồ Chính Thống Giáo bị
giết lên tới một triệu
người. Sau đó quân Safavids
chuyển qua phía đông tấn
công thành phố Anatolia để
dằn mặt đế quốc Ottoman theo
giáo phái Sunni. Trong khi
đó, một nhóm khác thuộc giáo
phái Shiite ở Ba Tư nỗi lên
cướp chính quyền của giáo
phái Sunni. Nhóm nổi loạn ra
lệnh cho cả nước Ba Tư phải
theo Shiite, ai bất tuân
lệnh đều bị giết. Tất cả các
học sĩ (Ulamas) lãnh đạo
giáo phái Sunni đều bị chém
đầu, không sót một ai. Kể từ
đó, nước Ba Tư (Iran) trở
thành một quốc gia toàn tòng
theo giáo phái Shiite. Các
vua Hồi Giáo Ba Tư được gọi
là SHA, vừa là vua vừa là
giáo chủ, phần đông đều cực
đoan và hung dữ.
Phần đông các học sĩ Hồi
Giáo Ba Tư đều theo môn phái
triết học thần bí (mystical
philosophy) tóm tắt như sau:
"Chính trị và tôn giáo là
một, không thể tách rời. Mọi
cải cách xã hội không thể
vượt quá tư tưởng tôn giáo".
Với bản chất cuồng tín
cực đoan cố hữu của giáo
phái Shiite, nay lại có thêm
chủ thuyết thần bí của các
Mullahs (học sĩ) giáo phái
Shiite càng ngày càng trở
nên cực đoan nguy hiểm. Họ
luôn luôn có thái độ bất
khoan dung với các tôn giáo
khác, nhất là đối với giáo
phái Hồi Giáo Sunni, chiếm
80% dân số đạo Hồi.
*
* *
Như đã trình
bày trên đây, từ thế kỷ 13
đến thế kỷ 20, trong thế
giới Hồi Giáo đã xuất hiện
ba đế quốc riêng biệt và
luôn tranh chấp với nhau. Cả
ba đế quốc Hồi Giáo đã được
thành lập và suy tàn vào
những thời điểm khác nhau:
- Đế quốc
Mughul thành lập đầu thế kỷ
13, suy tàn cuối thế kỷ 19.
- Đế quốc
Ottoman thành lập cuối thế
kỷ 13, suy tàn đầu thế kỷ
20.
- Đế quốc
Safavids thành lập đầu thế
kỷ 16, suy tàn trong thế kỷ
18.
Như vậy, hai
đế quốc Hồi Giáo lớn mạnh
nhất là Ottoman và Mughul đã
cùng tồn tại song hành và
chia nhau thống trị thế giới
Hồi Giáo bao la trong 7 thế
kỷ. Ít nhất là trong 200
năm, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ
18, cả ba đế quốc Mughul,
Ottoman và Safavids cùng tồn
tại trong thế giới đạo Hồi
(The Islamic World).
Từ thế kỷ 18
trở đi, các nước Âu Châu trở
nên hùng cường mọi mặt đã
đẩy lùi các đế quốc Hồi Giáo
đến chỗ suy tàn. Khởi đầu là
nước Nga đánh tan quân
Ottoman ở vùng Biển Đen năm
1774, chiếm lại Armenia và
vùng núi Caucase. Năm 1792,
Nga chiếm Georgia và Romania
từ tay Ottoman.
Đầu thế kỷ
19, Nga chiếm toàn bộ miền
Trung Á gồm nhiều nước theo
đạo Hồi thuộc đế quốc
Mughul.
(Sau Cuộc
Cách Mạng Tháng Mười Nga năm
1917, các nước Hồi Giáo
Trung Á đều biến thành các
tiểu bang thuộc Liên Bang Xô
Viết).
- Cũng trong
đầu thế kỷ 19, Hòa Lan chiếm
Indonesia và Mã Lai. Anh
chiếm Ấn Độ bao gồm cả một
tiểu lục địa (sau 1947, Ấn
Độ bị chia thành nhiều nước:
Pakistan, Bangladesh, Tích
Lan và Ấn Độ).
- Cuối thế kỷ
19, Anh chiếm Ai Cập và
Sudan. Pháp chiếm Algeria,
Tunisia và Maroc.
- Đầu thế kỷ
20, Ý chiếm Lybia. Anh và
Pháp chiếm Palestine,
Jordan, Iraq, Syria và
Liban.
Tóm lại, từ
đầu thế kỷ 20, chỉ ngoại trừ
một nước duy nhất là Thổ Nhĩ
Kỳ, còn lại toàn bộ thế giới
Hồi Giáo đều trở thành những
thuộc địa của chủ nghĩa thực
dân Âu Châu.
Lịch sử bành
trướng và phát triển của đạo
Hồi luôn luôn gắn liền với
chiến tranh và bạo lực. Vì
thế đạo Hồi nổi tiếng là
"tôn giáo của lưỡi gươm"
(Religion of Sword) hoặc
"tôn giáo quân phiệt"
(Militaristic Religion).
Kinh Thánh Koran của Hồi
Giáo được gọi là "Cuốn sách
của tử thần" (The Book of
Death) và đức tin Hồi Giáo
là: "đức tin hung bạo" (a
violent faith). Trong hơn
một thế kỷ qua, thế giới Hồi
Giáo đã bị Tây Phuơng dồn
vào thế suy kiệt mọi mặt. Họ
không còn con đường nào khác
hơn là thực hiện chủ nghĩa
khủng bố. Về hình thức thì
ngày nay chiến tranh có khác
với ngày xưa, nhưng về thực
chất thì chủ nghĩa khủng bố
cũng là một hình thái của
chiến tranh và bạo lực. Chỉ
khác một điều: chủ nghĩa
khủng bố là hình thái chiến
tranh của những kẻ đã bị dồn
vào thế yếu nhưng buộc phải
chiến đấu với kẻ thù lớn
mạnh hơn mình để tồn tại.
Nhìn về tương
lai, chúng ta khó đoán được
cuộc chiến tranh khủng bố sẽ
đưa nhân loại đi về đâu,
nhưng nhìn về quá khứ chúng
ta phải công nhận sức mạnh
của Hồi Giáo đã tạo nên
nhiều thành tích quan trọng:
- Trong thế
kỷ 7, Hồi Giáo Ả Rập tiêu
diệt đế quốc Sassanian đã
từng làm mưa làm gió ở Trung
Đông trong 10 thế kỷ trước
đó.
- Trong thế
kỷ 15, Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ
tiêu diệt đế quốc Ki Tô Giáo
Byzantine (hậu thân của đế
quốc La Mã) chặn đứng sự
bành trướng của Ki Tô Giáo
xuống bán đảo Ả Rập và Trung
Đông.
- Nói chung,
sự xuất hiện và phát triển
lớn mạnh của đạo Hồi đã tạo
nên một đối trọng ngang ngửa
với Ki Tô Giáo và tựu trung
Hồi Giáo đã phá tan tham
vọng bá chủ toàn cầu của đế
quốc Vatican.
Charlie
Nguyễn
Các chương khác
trong sách:
Các Mô Hình Sinh Hoạt trong Thế Giới Hồi Giáo Cái Nôi của Đạo Hồi Hồi Giáo Tại Trung Đông Hồi Giáo Tại Á Châu Hồi Giáo Tại Âu Châu và Mỹ Châu Hồi Giáo và Chủ Nghĩa Khủng Bố Năm Nghĩa Vụ Tín Đồ Hồi Giáo Sáu Trụ Cột của Đức Tin Hồi Giáo Sự Bành Trướng của Đạo hồi Sự Bành Trướng của Đạo hồi Sự Nghiệp Muhammad tại Medina Thân Phận Phụ Nữ Hồi Giáo Thân Thế Muhammad tại Mecca Tìm Hiểu Kinh Koran Tệ Nạn Phân Hóa Trong Nội Bộ Hồi Giáo
|