|
bản in |
¿ trở ra mục lục
|
TÌM HIỂU KINH KORAN
Đối với đại khối các dân tộc Ả Rập,
nguyên bản bằng ngôn ngữ Arabic của
kinh Koran là một kiệt tác phẩm thi
văn. Kinh Koran không hẳn là một
cuốn thơ trường thiên nhưng là một
tác phẩm văn xuôi có vần có điệu
(poetic rhymed prose) rất thích hợp
với khẩu vị văn chương của những
người du mục ở nơi hoang dã. Chính
vì vậy mà kinh Koran đã mau chóng
được truyền bá qua truyền khẩu rộng
khắp bán đảo Ả Rập (lớn gấp 8 lần
Việt Nam).
Về phương diện tâm linh,
kinh Koran là sự nối kết những dòng
tư tưởng về một tôn giáo độc thần
khởi đầu từ tổ phụ Abraham, qua
Mai-sen (Moses) qua Jesus đến thiên
sứ cuối cùng là Muhammad. Từ 2000
năm trước Công Nguyên, những người Ả
Rập đã biết đến Thiên Chúa của
Abraham mà họ gọi là Allah. Điều đó
có nghĩa là họ đã thờ Allah từ 27
thế kỷ trước khi có Muhammad và đạo
Hồi. Qua nhiều thế kỷ tiếp xúc với
văn hóa Do Thái, người Ả Rập đã rất
quen thuộc với các nhân vật của kinh
Thánh Cựu Ước. Từ thế kỷ 1 đến thế
kỷ 7, người Ả Rập tiếp xúc với những
người Ki Tô Giáo thuộc đế quốc
Byzantine rộng lớn và từ những nước
lân bang như Syria, Ai Cập và
Ethiopia... Mặc dù rất ít người Ả
Rập lúc đó theo Ki Tô Giáo nhưng
cũng không cảm thấy xa lạ với Jesus
và Gioan Baotixita.
Đọc kinh Koran, chúng ta
sẽ thấy những nhân vật quan trọng
của hai đạo Do Thái và Ki Tô được
Muhammad thường xuyên nhắc tới. Kinh
Koran là một tổng hợp những kiến
thức tôn giáo đã tiềm tàng sẵn trong
đại khối các dân tộc Ả Rập. Sự tổng
hợp đó được gọi là Islam, có nghĩa
là sự tuân phục tuyệt đối vào Thiên
Chúa. (Islam means the absolute
submission to God). Người Trung Quốc
phiên âm "Islam" thành "Hui" (Hồi)
và gọi đạo này là "Hui-jao" tức Hồi
Giáo. Kinh Koran trở thành Thánh
Kinh (The Holy Book) hoặc sách Mặc
Khải (Book of Revelation) của Hồi
Giáo.
Đáng lẽ ra đạo Do Thái,
đạo Ki Tô và đạo Hồi đều cùng thờ
chung một Chúa thì phải có chung một
Kinh Thánh duy nhất mới phải. Trong
thực tế, mỗi đạo đều có Thánh Kinh
riêng và đạo nào cũng tự cho Thánh
Kinh của mình mới là chân lý tuyệt
đối. Cả 3 đạo đều tự cho Thánh Kinh
của mình là những "sách Mặc Khải".
-
Kinh Torah
(Cựu Ước) được Thiên Chúa mặc
khải cho Thánh Mai-sen (Moses)
khoảng năm 1250 TCN trên núi Sinai.
-
Các sách
Tân Ước/Phúc Âm là các sách
Thiên Chúa mặc khải cho Thánh Phao
Lô và bốn vị Thánh Sử: Matthew,
Mark, Luke và John trong thế kỷ 1.
-
Kinh Koran
là sách Thiên Chúa mặc khải cho tiên
tri Muhammad qua trung gian của
thiên thần Gabriel trong 22 năm liên
tục (610-632).
Trước khi có kinh Koran,
người Ả Rập có mặc cảm là một chủng
tộc thiếu văn hóa và họ tỏ ra trọng
nể người Do Thái và Ki Tô. Cho nên,
trong ngôn ngữ Ả Rập có danh từ
"Dhimmi" để gọi chung cho Do Thái và
Ki Tô. Danh từ này có nghĩa là
"những người có sách Thánh Kinh"
(People of the Books).
Sự xuất hiện kinh Koran
vào đầu thế kỷ 7 đã đem lại cho các
dân tộc Ả Rập một niềm tự hào vì từ
nay họ có Thánh Kinh viết bằng tiếng
Ả Rập. Họ đón nhận đạo Hồi là đạo
của dân tộc chứ không phải là đạo
ngoại lai. Kinh Koran và đạo Hồi là
hai yếu tố quan trọng đem lại sự
hứng khởi tinh thần và là chất keo
văn hóa nối kết các bộ lạc Ả Rập lại
với nhau và biến đại khối Ả Rập
thành một lực lượng chính trị và
quân sự hùng mạnh trong nhiều thế
kỷ.
I .
Công việc biên soạn Kinh Koran.- Khác với Cựu Ước được
viết theo lối văn lịch sử kinh Koran
được viết theo lối văn kể chuyện
thông thường (oral recitation). Tổng
cộng có 114 chương (suras/chapters)
gồm 6616 câu thơ (verses).
Sự phân phối các câu thơ
trong các chương không đều nhau.
Chương dài nhất có 287 câu thơ,
chương ngắn nhất chỉ có 3 câu mà
thôi. Mỗi câu thơ cũng dài ngắn bất
thường: Câu thơ dài nhất chiếm tới
nửa trang sách, câu ngắn nhất chỉ có
2 chữ! Phần lớn kinh Koran (85
chương) được Muhammad viết tại
Mecca, còn lại 29 chương viết tại
Medina. Muhammad viết Koran trên lá
cọ khô và trên những tấm da súc vật
phơi khô.
Sau khi Muhammad chết
vào năm 632, phần lớn các bản chép
tay nói trên bị thất lạc hoặc phân
tán rải rác nhiều nơi. Mọi người cảm
thấy nguy cơ có thể làm cho cuốn
Thánh Kinh của họ bị tiêu vong nếu
không gấp rút sưu tầm và thu hồi các
nguyên bản của Muhammad. Sau đó, cần
phải có người tài giỏi biên tập tất
cả các nguyên bản thành một cuốn
Thánh Kinh duy nhất.
Để đáp ứng nhu cầu của
các tín đồ Hồi Giáo, người có thẩm
quyền đầu tiên đứng ra lo việc này
là Abu Bakr (632-634). Ông vừa là
cha vợ vừa là người đầu tiên kế vị
Muhammad (the first caliph) và cũng
là vị vua Hồi Giáo đầu tiên thống
nhất bán đảo Ả Rập để biến nơi này
thành điểm xuất phát bành trướng Hồi
Giáo ra khắp thế giới. Abu Bakr giao
cho một thanh niên 22 tuổi tên Zayd
đi sưu tầm và gom góp các thủ bản
của kinh Koran do Muhammad viết tập
trung tại Medina.
Công việc đang được tiến
hành tốt đẹp thì Abu Bakr qua đời.
Các tài liệu do Zayd thu thập đều
được chuyển giao cho vị vua Hồi Giáo
kế nhiệm là Umar Khattab. Vị vua này
là một nhà quân sự đại tài, chỉ
trong 10 năm (634-644) đã mở rộng
lãnh thổ của Hồi Giáo ra toàn vùng
Trung Đông và Bắc Phi. Vì quá mải mê
lo việc quân sự nên vị vua này đã bỏ
quên công việc biên tập kinh Koran.
Hậu quả nghiêm trọng là ở những địa
phương khác nhau người ta truyền
miệng những câu thơ của Kinh Koran
khác nhau và sự tranh cãi về tính
trung thực của kinh Koran càng ngày
càng trở nên gay gắt và hổn loạn.
Các cuộc tranh cãi này đã dẫn đến
cuộc "thánh chiến" giữa hai phe Hồi
Giáo tại Nehavand, gây cảnh thịt rơi
máu đổ trong 7 năm (650-657).
Vị vua kế nghiệp thứ ba
(the third caliph) là Uthman
(644-657) chú tâm đến việc phục hồi
kinh Koran. Năm 652, Uthman giao cho
Zayd và 3 người phụ tá nhiệm vụ biên
tập các bản thảo của Muhammad thu
hồi được thành một cuốn sách duy
nhất. Sau 5 năm, nhóm biên tập của
Zayd hoàn thành nhiệm vụ. Năm 657,
tức 25 năm sau khi Muhammad qua đời,
vua Uthman công bố bản kinh Koran do
Zayd biên tập và gọi nó là "MUSHAF"
có nghĩa là "Kinh Thánh chính thức
của mọi người Hồi Giáo" (The
Official Codex for all Muslims).
Ban biên tập của Zayd
chép cuốn Kinh Thánh này thành 4 bản
giống nhau để lưu trữ tại 4 thành
phố: Medina, Basra và Kufa (Iraq) và
tại Damacus (Syria).
Sau đó, Uthman ra lệnh
tiêu hủy toàn bộ các bản viết tay
của Muhammad trên lá cọ và da thú
vật. Công việc này tương tự như hành
động của Hoàng Đế La Mã Constantine
ra lệnh thiêu hủy toàn bộ các sách
thánh kinh và các di tích thật của
Jesus sau Công Đồng Nicaea năm 325.
Do sự thiêu hủy các bản
viết tay của Muhammad theo lệnh của
vua Uthman đã không được thi hành
triệt để nên ngày nay người ta đã
thu thập được 5 bản chính viết trên
da súc vật:
-2 bản hiện lưu trữ tại thư viện
Taskhent ở Uzebekistan.
-1 bản lưu trữ tại thư viện Tpokabi
Thổ Nhĩ Kỳ.
-1 bản tại bảo tàng viện London.
-1 bản mới tìm thấy tại Yemen năm
1979.
So sánh các bản chính nói trên với
Kinh Koran do Uthman công bố năm
657, người ta đã phát giác có nhiều
sự khác biệt. Các học giả nghiên
cứu về Hồi Giáo xác nhận: Việc
Uthman ra lệnh tiêu hủy các bản viết
tay của Muhammad là một tổn thất hết
sức nặng nề cho Hồi Giáo. Năm bản
viết tay trên da súc vật mà ngành
khảo cổ đã thu thập được cũng đủ xác
minh một sự thật đáng buồn: Zayd và
ban biên tập của ông ta có thể đã
không thu thập đầy đủ các thủ bản
của Muhammad, khi chép lại có thể đã
bỏ sót một số câu thơ của kinh Koran
và cuối cùng không có gì bảo đảm là
Zayd và ban biên tập đã không tự ý
sửa đổi Kinh Koran theo ý riêng của
mình.
Tuy nhiên, hầu hết các
tín đồ Hồi Giáo hiện nay đã không
nêu lên những vấn đề nói trên. Họ
vẫn tin rằng bản kinh Koran bằng
tiếng Arabic do vua Uthman công bố
năm 657 là kinh Koran do Thiên Chúa
Allah mặc khải cho Muhammad.
II .
Sơ lược nội dung Kinh Koran.-
Những chương đầu tiên của Kinh Koran
nói về Thiên Chúa Allah với những
đặc tính siêu việt của Ngài. Vì đạo
Hồi là đạo Thiên Chúa thứ ba, xuất
hiện sau đạo Do Thái và đạo Ki Tô
nên đạo Hồi đã in đậm những dấu ấn
đức tin của hai đạo Thiên Chúa đàn
anh. Tôi đã trình bày đầy đủ vấn đề
này trong bài "Ảnh hưởng thần học
Do Thái -Ki Tô trong đức tin Hồi
Giáo". (Xin đọc "Thực chất đạo Công
Giáo và các đạo Chúa", Giao Điểm
xuất bản - Xuân 2003, trang
201-232). Ngoài Thiên Chúa ra, Kinh
Koran dạy phải tin có các thiên thần
và ma quỉ (Satan), tin các sách Mặc
Khải của đạo Do Thái và Ki Tô cùng
các vị thiên sứ, tin có ngày tận thế
và ngày phán xét cuối cùng, tin mọi
kẻ chết đều được sống lại, tin có
Thiên Đàng Hỏa Ngục, tin mọi việc do
Thiên Chúa Allah tiền định nhưng mọi
người có ý chí tự do.
Tất cả các điều này đã
được trình bày đầy đủ qua 32 trang
sách dẫn chiếu, vậy tôi xin miễn
nhắc lại ở đây.
Khác với Cựu Ước và Tân Ước chỉ đề
cập đến vấn đề thiêng liêng hoặc
lịch sử, Kinh Koran đồng thời cũng
là một bộ luật đầu tiên và cao nhất
của Hồi Giáo. Thí dụ:
- Cấm cho vay nặng lãi (Koran
2:275)
- Cấm ăn thịt heo, thịt đã cúng các
thần khác, cấm ăn máu (tiết canh,
huyết) Koran 5:3.
- Cấm cờ bạc, Koran 5:90
- Cấm săn bắn trong thời gian hành
hương Mecca (Koran 5:93).
- Phải ăn chay trong tháng Ramadan
(Koran 2:182).
- Phải rửa chân tay sạch sẽ trước
khi cầu nguyện (Koran 5:6).
- Cấm giao hợp với đàn bà có tháng
(Koran 2:221).
Trước khi có kinh Koran, phụ nữ Ả
Rập giàu có thường lấy nhiều chồng
và đa số là những người đàn ông trẻ
khỏe. Kinh Koran khẳng định quyền ưu
thắng của đàn ông (Koran 4:34) và
chính thức bãi bỏ tục đa phu
(polyandre).
Bất cứ người đàn bà nào có chồng bị
cáo buộc về tội ngoại tình đều bị
đem ra cho công chúng ném đá đến
chết (Koran 4:15).
Kinh Koran qui định án phạt hết sức
nặng nề chống lại bất cứ ai bị kết
án: "Chống Thiên Chúa Allah" hoặc
"chống Thiên Sứ Muhammad". Người đó
sẽ bị đóng đinh vào thập giá hoặc bị
chặt hết chân tay (Sura 5).
Tội trộm cũng có thể bị phạt rất
nặng. Dù đàn ông hay đàn bà tùy theo
nặng nhẹ nếu bị kết án về tội trộm
sẽ bị chặt một tay hay hai tay
(Koran 5: 3)
III.
Những điều nên biết về HADITH, SUNNA
và SHARIA
Vì lý do kinh Koran không phải là
sách dễ đọc nên trong các xứ Hồi
Giáo, các tín đồ đọc kinh Koran đều
cần có người hướng dẫn. Những người
hướng dẫn không phải là tu sĩ nhưng
là những người học thức chuyên
nghiên cứu về kinh Koran. Những bài
giảng của họ được gọi là HADITH, có
nghĩa là một bài phúc trình
(report). Qua nhiều thế kỷ, số bài
phúc trình giảng giải về Kinh Koran
đạt tới con số rất lớn. Các học sĩ
Hồi Giáo chọn lựa các bài hay tập
trung lại thành một cuốn sách gọi là
SUNNA, có nghĩa là "Tuyển tập các
phúc trình" (Collection of Reports).
Từ đó, sách SUNNA trở thành một cuốn
sách bổ túc cho kinh Koran về mặt
tín lý, giáo điều.
Các chính quyền của các nước Hồi
Giáo chiếu theo tinh thần và luật
pháp nêu trong kinh Koran và sách
SUNNA để làm ra bộ luật gọi là
SHARIA. Danh từ này được dịch sang
Anh Ngữ là "Islamic Holly Law" có
nghĩa là "Thánh Luật Hồi Giáo".
Tất cả các sách Sunna và Sharia đã
được hoàn thành vào cuối thế kỷ 9 và
đã được viết thành nhiều bản khác
nhau tại nhiều nơi khác nhau. Do
vậy, các sách này chứa đựng nhiều
điều mâu thuẫn, nhất là những giai
thoại khác biệt nhau về cuộc đời và
lời nói của giáo chủ Muhammad. Đây
là một trong những nguyên nhân chính
yếu gây ra tệ nạn phân hóa trong đạo
Hồi: Giáo phái Sunni chỉ công nhận
những Hadiths (reports) của
Bukkhari. Giáo phái Shiite công nhận
Hadiths của Kulayni và giáo phái
Khariji chỉ công nhận Ibn Habib.
Giáo phái này kết án giáo phái kia
là xuyên tạc hoặc giả mạo Thánh Kinh
Koran và gọi nhau là những kẻ tà đạo
(mukhtalaq)! Kết quả là những cuộc
thánh chiến đẫm máu giữa các giáo
phái này trong nhiều thế kỷ qua.
IV.
Các bản dịch kinh Koran.-
Do nhu cầu truyền bá đạo Hồi trong
14 thế kỷ qua, đến nay kinh Koran đã
được dịch ra rất nhiều thứ tiếng
trên thế giới. Riêng một mình nhà
xuất bản Takrike Tarsile Qu'ran,
Inc. ở New York đã sưu tập được trên
600 bản dịch khác nhau!
Lịch sử Hồi Giáo ghi nhận bản dịch
kinh Koran đầu tiên trên thế giới là
bản dịch từ tiếng Ả Rập sang tiếng
La Tinh do một người Ý tên là Peter
Venerable thực hiện năm 1143. Điều
đáng chú ý là bản dịch viết tay của
ông hiện vẫn được lưu giữ tại tu
viện Kluny (Ý). Đúng 300 năm sau,
tức vào năm 1543, bản dịch viết tay
duy nhất này được đem in và xuất bản
tại Rome.
Nhờ có bản dịch kinh Koran bằng
tiếng La Tinh này, Âu Châu mới biết
đến cuốn kinh Thánh của đạo Hồi.
- Năm 1616, tại Nuremberg xuất hiện
kinh Koran bằng tiếng Hòa Lan dịch
từ bản La Tinh.
- Năm 1647, kinh Koran bằng tiếng
Pháp được xuất bản tại Paris cũng
dịch từ bản La Tinh.
- Năm 1776, tại Petersburg cuốn kinh
Koran bằng Nga ngữ được xuất bản,
dịch từ tiếng Pháp.
- Đầu thế kỷ 18, một người Anh tên
là A.Ross dịch kinh Koran từ tiếng
Pháp sang tiếng Anh và xuất bản lần
đầu tại Mỹ năm 1737.
Cho tới nay, có nhiều bản dịch khác
nhau bằng tiếng Anh. Mặc dầu lối
hành văn khác nhau nhưng nội dung
vẫn tương tự. Điều đặc biệt là Kinh
Koran được xuất bản nhiều triệu cuốn
một lúc nên giá bán rất rẻ. Phần lớn
các bản kinh Koran được in dưới hình
thức sách bỏ túi (pocket books) có
giá bán thông thường là 5 Mỹ Kim.
Với giá này ai cũng có thể mua về
đọc chơi hoặc để tham khảo. Số trang
trung bình của sách loại này là 500
trang, chữ in cở nhỏ.
V.
Nên đọc sách kinh Koran bằng Anh ngữ
như thế nào? Đối với những ai đã từng
quen đọc Kinh Thánh Cựu Ước và Tân
Ước bằng Anh ngữ thì khi chuyển sang
đọc kinh Koran qua bản dịch Anh ngữ
sẽ cảm thấy không mấy khó khăn. Tuy
nhiên, trong nhiều bản dịch Anh ngữ
lại có rất nhiều những danh từ chung
và danh từ riêng được phiên âm theo
tiếng Ả Rập. Nếu không tìm hiểu ý
nghĩa của những danh từ này trước
khi đọc sách Koran chúng ta sẽ lâm
vào tình trạng lúng túng không thể
hiểu được nội dung của sách và cũng
không biết các nhân vật được nói tới
trong Kinh Koran là ai. Lấy một thí
dụ điển hình: một nhân vật có tên Ả
Rập là ISA được nhắc tới 114 lần
trong kinh Koran và nhân vật Myriam
được nhắc tới trên 50 lần. Thực ra
họ chẳng phải là ai xa lạ: ISA chính
là Jesus và Myriam chính là bà
Maria, mẹ của ngài.
Để giải quyết khó khăn
về các từ ngữ phiên âm theo tiếng
Arabic, tôi đề nghị quí vị hãy tìm
các bảng GLOSSARY OF ARABIC TERMS
thường được in cuối các sách Anh ngữ
nói về Hồi Giáo. Quí vị chọn một số
từ ngữ quí vị cho là quan trọng để
học thuộc lòng trước khi bắt đầu đọc
kinh Koran hay các sách viết về Hồi
Giáo.
Sau đây là bảng danh
sách đối chiếu các tên riêng của
Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước được
nhắc lại trong kinh Koran theo phiên
âm Arabic. Các tên riêng này được
xếp theo nhóm gia đình (chứ không
theo thứ tự Alphabet)
NHÓM |
Phiên âm ARABIC |
Phiên âm ANH NGỮ |
Phiên âm VIỆT NGỮ |
Thiên Chúa |
ALLAH |
Jehovah Elohim/God |
Thiên Chúa |
Tổ tông loài
người
|
ADAM |
ADAM |
Ông A-dong |
|
HAWAA |
EVE
|
bà E-và |
Gia đình
Abraham
|
AZAR |
TERAH |
Cha của Abraham |
|
IBRAHIM |
ABRAHAM |
Ông Áp-ra-ham |
|
SARA |
SARAH |
Vợ của Áp-ra-ham |
|
ISHAAQ |
ISAAC |
Con trai của Abraham và bà Sarah, tổ tiên Do
Thái
|
|
AGAR |
HAJAR |
Vợ bé,
đầy tớ của Abraham |
|
ISMAHIL |
ISMAEL |
Con của
Abraham và Agar, tổ tiên các
giống dân Ả Rập (Ismael là vai anh của
Isaac) |
Gia Đình
Jesus |
ISA |
JESUS |
Chúa
Giê-xu |
|
MYRIAM |
MARY |
Đức bà
Maria |
|
Yusuf |
Joseph |
Thánh
Giuse |
|
Zakariya |
Zakariah |
Thánh Gio-a-Kim, cha của Gioan Baotixita |
|
Yahya |
John
Baptist |
Thánh
Gioan Baotixita (cậu họ của
Giê-xu) |
Các tiên tri Do Thái
cũng là các thiên sứ
trong đạo Hồi
|
Al-Yasa
|
Elisha |
Tiên tri
Ê-li-sa |
|
Dawood |
David |
Vua Thánh
Đavit |
|
Dhulkiit |
Ezekiel |
|
|
Haroon |
Aaron |
Anh của
Mai-sen |
|
Musa |
Moses |
Thánh
Mai-sen |
|
Idriis |
Enoch |
|
|
Luut |
Lot |
Ông Lot
(cháu gọi Abraham bằng bác
ruột) |
|
Nuh |
NOAH |
Ông No-e |
|
Sulayman |
Solomon |
Vua
Slomon (con David) |
|
Yaquub |
Jacob |
Cha của
12 con trai, tổ tiên 12 bộ
lạc Do Thái |
|
Yunus |
Jonah |
|
|
Ayyoub |
Job |
|
Thánh
Kinh |
Tawrah |
Torah/Old |
Kinh
Thánh của đạoDo Thái |
|
Taurat |
Testament |
Cựu Ước
của đạo Ki Tô |
|
Injil |
Gospel/New |
Phúc
âm/Thánh Kinh Tân Ước |
|
Al-injil |
Testament |
|
|
Qur'an |
Koran |
Thánh
Kinh Hồi Giáo |
Thiên thần,
ma quỉ Jibril |
Jibreel |
Gabriel |
Thiên thần
truyền tin |
|
Meekaeel |
Micheal |
Tổng lãnh
thiên thần Mi-ca-e |
|
Buraq |
Buraq |
Con ngựa đầu
người có cánh đưa Mohammad
về trời tại Jerusalem |
|
Shaitan / Iblis |
Satan |
Quỉ Sa tăng |
Ngoài ra, xin
chú ý đến một số chi tiết sau đây:
1. Một số đại danh từ
trong các sách Thánh Kinh thường
được viết theo cổ ngữ của tiếng Anh.
Thí dụ:
You được viết thành Thou
Your được viết thành
Thy...
2. Các quá khứ phân từ,
thay vì viết là ED lại được viết
thành TH. Thí dụ
- He
opened
He openeth
- He
called
He calleth
- You
will
Thou shalt
- You
have
Thou hast
3. Các kinh Koran Anh
ngữ thường đánh số các chương
(sura/chapter) bằng số La Mã ở góc
trái trên đầu trang sách. Thí dụ:
Sura XXXVII: chương 37, Sura CVIII
chương 108, LXXIX: chương 79 v.v...
Khi tra cứu một câu
trong kinh Koran, thí dụ:
"Muhammad is not the
father of any of your men but he is
the Apostle of Allah and the last of
the prophets. Koran 33:40". Xin nhớ
số ghi trước là số chương
(sura/chapter) số ghi sau là câu thơ
(verse). Vậy trước hết xin hãy tìm
chương 33 sau đó tìm câu thơ số 40
trong chương này, quí vị sẽ gặp đúng
câu thơ được trích dẫn.
Khi đọc các sách về đạo
Hồi, chúng ta thường gặp những câu
trích dẫn từ kinh Koran, nếu có sẵn
một cuốn Koran trong tay để kiểm
chứng tính chính xác của sự trích
dẫn và sự trung thực của người dịch,
thiết tưởng cũng là một điều thích
thú.
Để kết thúc bài viết
này, tôi xin mượn lời giới thiệu của
nhà xuất bản Tahrike Tarsile Qur'.
Ind. New York nói về kinh Koran:
"Kinh Koran có khả năng đem lại cho
những người ngoại giáo những điều bổ
ích và mang lại tất cả mọi thứ cho
các tín đồ Hồi Giáo". (The Qur'an
offers at least something to
non-believers and everything to
believers).
Charlie Nguyễn
Các chương khác trong sách:
Các Mô Hình Sinh Hoạt trong Thế Giới Hồi Giáo Cái Nôi của Đạo Hồi Hồi Giáo Tại Trung Đông Hồi Giáo Tại Á Châu Hồi Giáo Tại Âu Châu và Mỹ Châu Hồi Giáo và Chủ Nghĩa Khủng Bố Năm Nghĩa Vụ Tín Đồ Hồi Giáo Sáu Trụ Cột của Đức Tin Hồi Giáo Sự Bành Trướng của Đạo hồi Sự Bành Trướng của Đạo hồi Sự Nghiệp Muhammad tại Medina Thân Phận Phụ Nữ Hồi Giáo Thân Thế Muhammad tại Mecca Tìm Hiểu Kinh Koran Tệ Nạn Phân Hóa Trong Nội Bộ Hồi Giáo
|