|
bản in |
¿ trở ra mục lục
|
SÁU TRỤ CỘT CỦA ĐỨC TIN HỒI GIÁO
Các sách viết về giáo lý Hồi Giáo
đều đồng nhất tóm lược tất cả các
tín-điều căn-bản (fundamental
beliefs) thành 6 điều chính yếu được
gọi là "SÁU TRỤ CỘT CỦA ĐỨC TIN"
(The Six Pillars of Faith):
1. Tin có một Thiên Chúa Duy Nhất
(The Only God).
2. Tin có các Thiên Thần và Ma Quỉ
3. Tin các sách Mặc Khải (Books of
Revelation)
4. Tin các vị Thiên Sứ
(Messengers/Prophets)
5. Tin có ngày tận thế, xác kẻ chết
sống lại, mọi người sẽ được Thiên
Chúa xét xử trong Ngày Phán Xét Cuối
Cùng.
6. Mọi việc do Thiên Chúa tiền định,
nhưng mọi người đều có ý chí tự do.
TÍN ĐIỀU 1: TIN CÓ MỘT THIÊN CHÚA
DUY NHẤT
Điểm đặc biệt trong quan niệm về
Thiên Chúa của đạo Hồi là luôn luôn
nhấn mạnh đến đặc tính duy nhất
tuyệt đối của Thiên Chúa (the
absolute Oneness of God). Đạo Hồi
hoàn toàn phủ nhận các huyền thoại
về "Con của Thiên Chúa" hoặc "Ngôi
Hai Thiên Chúa xuống thế làm người".
Kinh Koran ghi như sau: "Thiên Chúa
không chọn ai làm con và không chọn
một đồng sự nào trong thẩm quyền
tuyệt đối của Ngài".
(God had chosen no son, nor had He
any partner in the absolute
sovereignty - Koran 25: 2).
Căn cứ vào kinh Koran, giáo lý của
giáo phái Sunni đã giảng rộng thêm
như sau: "Thiên Chúa là Một, không
có một ai tương đương với Ngài,
Thiên Chúa không có khởi đầu và
không có kết thúc. Ngài là thường
hằng vĩnh cửu. Ngài vừa là Alpha vừa
là Omega - chữ đầu và chữ cuối trong
mẫu tự Hy Lạp - Ngài vừa ẩn vừa
hiện. Ngài có thật và muôn đời".
(Allah is One, without any like him,
having no equal, having no
beginning, having no end. Ever -
existing. He is both Alpha and
Omega. The Manifest and the Hidden.
He is real and eternal).
Đạo Hồi phủ nhận con người là hình
ảnh của Thiên Chúa vì Thiên Chúa là
đấng vô hình, không có thân thể (God
is not a formed body). Ngài chẳng
bao giờ xuống thế làm người và vì là
vô hình nên chẳng có ai ngồi ở bên
tả hay bên hữu của Ngài.
"Thiên Chúa là đấng chỉ có Một ngôi
duy nhất (không bao giờ có ba ngôi)
Ngài không sinh Chúa Con và cũng
không do ai sinh ra. Chẳng một ai
giống Thiên Chúa cả."
(Allah is One. He begets not, nor is
He begotten. And none is like Him -
Koran 112: 1-4)
Đạo Hồi quan niệm Thiên Chúa là Đấng
Tạo Hóa đã sáng tạo vũ trụ theo đúng
quan niệm của đạo Do Thái và Ki Tô
trong sách Sáng Thế Ký (Genesis).
Kinh Koran nhắc lại những điều đó
như sau:
"Thiên Chúa dựng nên bầu trời và mặt
đất trong sáu ngày và rồi Ngài ngự
trên ngai của Ngài. Ngài kéo màn đêm
phủ lên ban ngày và ngày đêm cứ nối
tiếp nhau không ngừng. Sau đó Ngài
dựng lên mặt trời, mặt trăng và
những vì sao". (Allah created the
heavens and the earth in six days
then He descended his throne - He
throws the veil of night over the
day which it pursues incessantly and
then He created the sun and the moon
and the stars - Koran 7: 54).
Đạo Hồi, cũng như đạo Do Thái và đạo
Ki Tô, đều tin tưởng Thiên Chúa đã
tạo dựng nên tổ tiên của loài người
là Adam và Evà từ một cục đất sét:
"Ta đã dựng nên con người từ
đất sét khô và ta thở vào nó tinh
thần của Ta". (We created man
from dry clay and breathed of My
Spirit into him - Koran 15: 23).
Trong kinh Koran (chương 2 và chương
20) thuật lại chuyện Adam và Evà ăn
trái cấm giống như trong sách Sáng
Thế Ký của đạo Do Thái. Nhưng Hồi
Giáo cũng như Do Thái Giáo đều không
tin hành động ăn trái cấm của Adam -
Evà cấu thành "Tội Tổ Tông" đến nỗi
Con của Chúa Trời phải đầu thai làm
người và chịu chết trên thập giá để
chuộc cái tội đó! Huyền thoại về
Tội Tổ Tông (The Original Sin) là
sản phẩm tưởng tượng của tên đạo
khùng Augustine (354-450) gốc
Algeria. Tên đạo khùng Augustine
được coi là kẻ lập ra đạo Ki Tô đứng
hàng thứ hai sau Phao lô.
Tóm lại, ý niệm về Thiên Chúa của
đạo Hồi hoàn toàn đồng nhất với ý
niệm của đạo Do Thái. Cả hai đạo độc
thần này kịch liệt chống lại ý niệm
Ba Ngôi Thiên Chúa và lề thói tôn
thờ ảnh tượng của đạo Ki Tô (Công
Giáo và Chính Thống).
TÍN ĐIỀU 2: TIN CÓ CÁC
THIÊN THẦN VÀ MA QUỈ
Niềm tin vào các Thiên thần, nhất là
các Thiên thần hộ mạng, là niềm tin
chung của các đạo Thiên Chúa. Theo
các nhà nghiên cứu tôn giáo thì hiện
nay có tới 70% dân Mỹ tin có Thiên
thần. Nói chung, người ta cho rằng
Thiên thần là những sinh vật linh
thiêng (spiritual beings) có nhiệm
vụ làm trung gian giữa Thiên Chúa và
loài người. Vì vậy Thiên thần cũng
được coi là Thiên sứ (messengers of
God).
Ý niệm về Thiên thần đã có từ trên
4000 năm qua. Các nhà khảo cổ đã tìm
thấy tại thành phố UR ở Babylon một
phiến đá có khắc hình nổi một người
đàn ông có hai cánh. Hình này được
xác định thuộc niên đại 2300 năm
TCN. Tuy nhiên, ý niệm về Thiên thần
của Babylon đã không đi vào Kinh
Thánh Do Thái.
Các nhà tôn-giáo-học chuyên nghiên
cứu về Thiên thần cho rằng ý niệm
Thiên thần phát xuất từ Hỏa Giáo Ba
Tư (Zoroastrianism). Hỏa Giáo được
sáng lập bởi một triết gia Ba Tư tên
là Zoroaster vào khoảng thế kỷ 12
TCN. Hỏa giáo trở thành quốc giáo
của đế quốc Ba Tư từ thế kỷ 10 TCN
đến thế kỷ 7 sau Công Nguyên. Vào
năm 579 TCN, đế quốc Ba Tư chiếm
Babylon (tức Iraq ngày nay), đến năm
539, Ba Tư chiếm Do Thái và cai trị
vùng này nhiều thế kỷ. Do đó, đạo Do
Thái đã du nhập các ý niệm về Thiên
thần của Hỏa Giáo từ thời gian này.
Các sách Kinh Thánh Cựu Ước của Do
Thái có trước thời gian này đều
không nói gì đến các Thiên thần.
Ki Tô Giáo du nhập ý niệm Thiên thần
của Hỏa Giáo Ba Tư qua sách Kinh
Thánh Cựu Ước của đạo Do Thái. Tuy
nhiên, Ki Tô Giáo đã khai thác ý
niệm Thiên thần nhiều hơn đạo Do
Thái.
Đối với Ki Tô Giáo, Thiên thần
Gabriel trở thành một Thiên thần
chuyên về việc đi thông báo các mệnh
lệnh của Thiên Chúa. Chẳng hạn
Gabriel báo tin cho bà Maria về việc
bà thụ thai để sinh ra Jesus hoặc
báo tin cho Joseph phải trốn sang Ai
Cập v.v... Thiên thần Micae được
Công Giáo La Mã khắc họa như một tên
lính La Mã tay cầm cái giáo dài đâm
vào đầu một con rắn mà ông ta đạp
dưới chân. Dưới thời Ngô Đình Diệm
làm tổng thống VNCH, Thiên thần
Micae (Micheal/ Saint Michel) được
Diệm chọn làm thánh tổ của binh
chủng nhảy dù. Con rắn ở dưới chân
của thiên thần Micae được giải thích
là biểu tượng của chủ nghĩa "Cộng
Sản vô thần" . Trong thực tế, binh
chủng nhảy dù đã là lực lượng chủ
yếu làm cuộc đảo chánh chống Diệm
năm 1960 và lật đổ chế độ Diệm năm
1963. Con rắn dưới chân Thiên thần
Micae trong thực tế là biểu tượng
của chính chế độ Công Giáo Ngô Đình
Diệm!
Ý niệm về các Thiên thần của Hỏa
giáo Ba Tư truyền qua đạo Do Thái và
đạo Ki Tô sang đạo Hồi. Trong đạo
Hồi, thiên thần Gabriel trở thành
một vị Thiên sứ đặc biệt của Thiên
Chúa Allah truyền mọi mệnh lệnh và
mọi điều mặc khải cho Muhammad ghi
chép. Vì vậy kinh Koran được gọi là
"Thiên Kinh" ghi chép lời Chúa
(Words of God). Nếu không tin có
Thiên thần thì kinh Koran sẽ bị mất
hết giá trị và không thể có đạo Hồi.
Tin tức đầu tiên mà Gabriel thông
báo cho Muhammad biết là việc Thiên
Chúa đã chọn ông làm Tông Đồ của
Ngài: "Này Muhammad! Con đã được
Thiên Chúa chọn làm tông đồ của
Ngài! và ta là Gabriel!" (Oh
Muhammad! Thou art the Apostle of
God and I am Gabriel! - Muhammad, a
biography of the Prophet, by Karen
Amstrong, Harper San Francisco 1992,
p.83)
Ngoài hai vị Thiên thần Gabriel và
Micae rất nổi danh trong các đạo độc
thần còn có một số Thiên thần khác
không được các đạo này đồng nhất tin
theo:
- Thiên thần Raphael được Công Giáo
La Mã tin là vị Thiên thần chuyên
cứu nguy (the helpful angel). Đạo Do
Thái, đạo Hồi và Tin Lành phủ nhận
sự hiện hữu của Thiên thần Raphael.
- Về Thiên thần của sự chết: Ki Tô
Giáo tin rằng tên của ngài là
Andrew. Ngài rất đẹp và nhân từ,
thường giúp người ta trút linh hồn
trong bình an êm ái. Đạo Hồi gọi tên
ngài là Arazel. Ngài đón linh hồn
các tín đồ ngoan đạo để rước về
thiên đàng. Ngài hành hạ những kẻ
không tin Chúa và vứt linh hồn của
chúng xuống hỏa ngục.
- Thiên thần Israfel: Cả hai đạo Ki
Tô và Hồi đều tin rằng đến ngày tận
thế, tức là Ngày Phán Xét Cuối Cùng,
Thiên thần Israfel sẽ thổi kèn
trumpet để đánh thức tất cả mọi
người chết sống dậy để tập trung tại
thung lũng Kindron ở ngoại ô
Jerusalem nghe Chúa phán xử lần chót
có tính chung quyết!...
Quan niệm về Quỉ: Cả ba đạo độc
thần đều đồng nhất trong quan niệm
cho rằng quỉ là những Thiên thần sa
ngã (fallen angels) nên bị Chúa phạt
đày xuống hỏa ngục. Ki Tô Giáo học
theo sách Enoch (Book of Enoch)
trong bộ Kinh Thánh của Do Thái, một
sản phẩm du nhập thần học của Hỏa
Giáo Ba Tư, cho rằng Thiên thần
Lucifer lãnh đạo một cuộc đảo chánh
trên Thiên Đàng để cướp ngôi của
Thiên Chúa. Lucifer trở thành hiện
thân của lòng kiêu ngạo bị Chúa phạt
thành quỉ có đuôi, có sừng và có tai
giống tai dơi. Từ đó Lucifer mang
tên là Satan. Người Hồi Giáo gọi
Satan là Shaitan hoặc Iblis (do
phiên âm từ tiếng Hy Lạp Diablos).
Hồi Giáo tin rằng Satan sẽ được
Thiên Chúa tha tội trong ngày Phán
Xét Cuối Cùng và được phục hồi tư
cách thiên thần như xưa. Satan không
phải là thủ lãnh của bầy quỉ cai
quản hỏa ngục mà chỉ là kẻ cai quản
các kẻ ác trên thế gian. Thiên Chúa
trao chức vụ thủ lãnh hỏa ngục cho
thiên thần Malik (Koran 43: 77).
Ngoài niềm tin về Thiên thần và quỉ,
đạo Hồi còn có thêm một loại thần
linh thứ ba là Jinn (số ít) hoặc
Jinni (số nhiều). Ki Tô Giáo không
tin có loại thần linh này. Theo đạo
Hồi thì Jinn là một loại thần linh
thường biến hình thành người hoặc
loài vật, được Thiên Chúa cấu tạo
nên từ lửa. Kinh Koran ghi rằng:
"Con người được tạo nên bằng đất
sét, Jinn được chế tạo từ ngọn lửa"
(Man is created from clay, jinn from
flames of fire - Koran 55: 14- 15).
Quan niệm về Jinn xuất phát từ
Babylon vào khoảng 3000 năm TCN.
Người Babylon gọi Jinn là
"Cherubims". Đạo Do Thái du nhập
"Cherubims" vào Sách Sáng Thế Ký
(Genesis) là sách đầu tiên trong bộ
thánh kinh của đạo Do Thái. Sách
Sáng Thế Ký kể rằng: Sau khi Adam và
Evà phạm tội ăn trái cấm liền bị
Chúa đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng.
Chúa sai các Cherubims trú đóng ở
phía đông vườn Địa Đàng để chặn lối
dẫn đến "Cây của Sự Sống". (God
drove out the man and He placed at
the east of the Garden of Eden
Cherubims to keep the way of the
Tree of Life - Genesis 4: 23-24).
Cũng cùng một nguồn gốc từ Kinh
Thánh Cựu Ước, Ki Tô Giáo bác bỏ
Cherubims nên không bao giờ nhắc tới
chúng. Trong khi đó, đạo Hồi chấp
nhận niềm tin vào Cherubims và gọi
chúng bằng tiếng Ả Rập là Jinn.
TÍN ĐIỀU 3: TIN CÁC SÁCH MẶC KHẢI
(KINH THÁNH)
Kinh Koran nói rất nhiều đến các
sách Mặc Khải (Books of Revelation).
Nhưng kinh Koran là sách mặc khải
cao quí nhất và quan trọng nhất đối
với đạo Hồi. Do vậy, Koran được gọi
là "Mẹ của tất cả các sách" (Mother
of Books).
Kinh Koran coi sách Cựu Ước của Do
Thái cũng là một phần của sách mặc
khải: "Các người không thấy những
người Do Thái đã được Chúa ban cho
một phần của sách mặc khải hay sao?
Họ đã được mời gọi đến với Sách mặc
khải của Chúa" (Have you not
considered Jews who are given a
portion of Book? They are invited to
the Book of Allah - Koran 3: 23)
Bộ Kinh Thánh của đạo Do Thái có
nhiều sách, nhưng chỉ có sách Torah
(sách Luật) của Maisen là được kinh
Koran nhắc đến nhiều nhất. Sách
Torah của đạo Do Thái, sách Phúc Âm
của đạo Ki Tô và kinh Koran đều được
coi là các sách do Thiên Chúa mặc
khải để dạy dỗ và hướng dẫn loài
người. Koran ghi lời của Thiên thần
Gabriel nói với Muhammad: "Thiên
Chúa đã mặc khải cho con Sách Thánh
Kinh của chân lý để xác nhận những
điều đã được mặc khải trước đó như
Ngài đã mặc khải trong Kinh Torah và
trong Phúc Âm để hướng dẫn loài
người và bây giờ Ngài gửi cho con
kinh Koran". (God hath revealed into
thee the Scripture of Truth
confirming that which was revealed
before it as He revealed the Torah
and the Gospel, a guidance for the
people and He sent you the Qur'an -
K3: 3).
Mặc dầu Muhammad ca ngợi các sách
mặc khải của đạo Do Thái và đạo Ki
Tô, nhưng Muhammad biết rõ thái độ
cố chấp hẹp hòi của các tín đồ Do
Thái và Ki Tô nên ông đã cảnh giác
các tín đồ Hồi Giáo như sau:
"Người Do Thái và Ki Tô không bao
giờ hài lòng với các tín đồ Hồi
Giáo, ngoại trừ trường hợp các người
theo đạo của họ". (The Jews will not
be pleased with you, nor the
Christians, until you follow their
religions - Koran 2: 120).
Các tín đồ Do Thái và Ki Tô đều độc
quyền chân lý. Đối với họ, chẳng ai
có thể được vào thiên đàng, ngoại
trừ phải là tín đồ đạo Do Thái hay
đạo Ki Tô. (None shall enter the
paradise, except he who is a Jew or
a Christian - Koran 2: 111).
Muhammad gọi chung những tín đồ Do
Thái và Ki Tô là "Những người của
các sách Thánh Kinh" (The people of
the Book). Ông cảnh cáo họ đừng quá
lộng hành trong tôn giáo của họ. (Oh
people of the Book, commit no
excesses in your religion - Koran:
4: 171)
Những người Do Thái và Ki Tô chửi
bới nhau và giết hại nhau trong thời
của Muhammad vào cuối thế kỷ 6, đầu
thế kỷ 7. Do đó, Muhammad viết trong
kinh Koran: "Người Do Thái chê người
Ki Tô không theo điều tốt, người Ki
Tô chê người Do Thái không theo điều
tốt, mặc dầu họ đều đọc cùng một
sách mặc khải. Cho nên Thiên Chúa
Allah sẽ xét xử những điều khác biệt
của họ trong Ngày Phán Xét Cuối
Cùng" (The Jews say: the Christians
do not follow anything good, the
Christians say the Jews do not
follow anything good while they
recited the same Book. So, Allah
judge between them on the Day of
Resurection in what they differ -
Koran 2: 113).
Muhammad thù ghét những người Ki Tô
Giáo vì họ là những kẻ thờ ảnh tượng
(idolers). Tại chương 9, câu 5 của
kinh Koran, Muhammad ra lệnh cho tín
đồ giết hoặc bắt bỏ tù những kẻ thờ
ảnh tượng: "Khi các tháng thiêng
liêng đã qua đi, các tín đồ hãy giết
những kẻ thờ ảnh tượng ở bất cứ nơi
nào gặp chúng hoặc bắt chúng làm tù
binh". (When the sacred months
passed away, then slay the idolers
wherever you find them or take them
captives - Koran 9: 5).
Về các sách mặc khải, kinh Koran nói
rất nhiều đến sách Torah của Maisen,
các Thánh Vịnh (Psalms) của David và
Sách Phúc Âm (Gospel) của đạo Ki Tô.
Vậy tôi xin trình bày sơ lược về
những sách này và tìm hiểu ảnh hưởng
của chúng trong đạo Hồi như thế nào:
1.
Torah (The Law).
Nhiều sách kinh của Hồi Giáo gọi
sách này là Tawrah theo phiên âm Ả
Rập. Đây là sách mặc khải quan trọng
nhất của đạo Do Thái về người Do
Thái đồng hóa Đạo Do Thái với Luật
Do Thái hoặc người ta gọi Đạo Do
Thái là Đạo của Luật. Bộ Luật này
được Thiên Chúa mặc khải trên núi
Sinai vào thế kỷ II TCN, tóm tắt lại
thành "Kinh Mười Điều Răn" (The Ten
Commandments). Đem phân tích luật
Torah, mười điều răn trở thành bộ
luật Pentateuch gồm có 613 điều
luật. Bộ luật này đã chi phối toàn
bộ đời sống tinh thần, đời sống kinh
tế xã hội của mọi người dân Do Thái
trong nhiều ngàn năm qua. Có nhiều
điều luật rất chi tiết, chẳng hạn
như những điều luật về nghi lễ thờ
kính Thiên Chúa: Khi đi lễ phải mang
theo súc vật, giết súc vật lấy máu
để rưới lên bàn thờ và phải đọc sách
mặc khải cho mọi người cùng nghe...
- Luật Torah của đạo Do
Thái đã đi vào đạo Ki Tô với bài
"Kinh Mười Điều Răn" trong các sách
Kinh Nguyện.
- Đạo Hồi không có Kinh
Mười Điều Răn như đạo Ki Tô nhưng
Kinh Koran cũng liệt kê mười điều
tương tự:
1. Chỉ tôn thờ một Thiên Chúa.
2. Vinh danh và kính trọng cha mẹ.
3. Tôn trọng quyền của người khác.
4. Hãy bố thí rộng rãi cho người
nghèo.
5. Tránh giết người, ngoại trừ
trường hợp cần thiết.
6. Cấm ngoại tình.
7. Hãy bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi.
8. Hãy cư xử công bằng với mọi
người.
9. Hãy trong sạch trong tình cảm và
tinh thần.
10. Hãy khiêm tốn
2. Thánh Vịnh David
(Psalms of David). Theo đạo Hồi thì các Thánh Vịnh của
David là do Thiên Chúa mặc khải.
(God revealed to Dawood/David Zabur/
Psalms -Sura 4: 163). Sở dĩ David
được đề cao trong đạo Do Thái vì
lịch sử của dân tộc Do Thái coi
David là một anh hùng và là một minh
quân hàng đầu. David trở thành biểu
tượng của một vị "Cứu Tinh Dân tộc".
(Savior of the people). Cứ mỗi lần
Do Thái gặp nguy khốn, dân Do Thái
lại cầu xin Chúa ban cho họ một đấng
Cứu Nguy (Savior) dần dần tạo nên
tâm lý của toàn dân Do Thái mong chờ
một Đấng Cứu Thế (Messiah) với ý
nghĩa là "một David mới" (The New
King David). Cũng do vậy nên đã nẩy
sinh truyền thuyết cho rằng Đấng Cứu
Thế phải là người thuôc dòng dõi vua
David.
- Đạo Ki Tô khai thác triệt để
truyền thuyết này nên đã tìm mọi
cách chứng minh Jesus thuộc dòng dõi
của vua David và là Chúa Cứu Thế mà
Do Thái mong đợi từ lâu.
- Đạo Hồi không quan tâm đến những
điều nói trên mà chỉ quan tâm đến
những lời ca ngợi Thiên Chúa đầy
nhiệt tình của David mà thôi.
(Trong bài viết "Chủ nghĩa khủng bố
là đặc tính chung của các đạo Chúa",
tôi đã trích dẫn nhiều câu trong
Thánh Vịnh David nên tôi xin miễn
nhắc lại ở đây)
3. Phúc Âm (Gospels)
.Sách
Phúc Âm là một bộ sách viết về cuộc
đời của Jesus sau khi Jesus đã chết
trên 40 năm. Jesus sinh trưởng tại
Do Thái nhưng lại nói tiếng Aramaic
là ngôn ngữ của xứ Syria. Các sách
Phúc Âm lại được viết bằng tiếng Hy
Lạp căn cứ trên những lời đồn đại về
Jesus ở Jerusalem trên 40 năm trước!
Chỉ bấy nhiêu sự kiện cũng đủ cho
thấy các sách Phúc Âm không có gì là
chính xác.
Đạo Do Thái hoàn toàn
phủ nhận các sách Phúc Âm của đạo Ki
Tô. Trái với đạo Do Thái, đạo Hồi
công nhận các sách Phúc Âm là các
sách Mặc Khải của Thiên Chúa và công
nhận Jesus là một sứ giả của Thiên
Chúa (messenger of God) đứng hàng
thứ hai sau Muhammad. Tuy vậy, quan
niệm của đạo Hồi về Phúc Âm và Jesus
rất khác biệt với quan niệm của Ki
Tô Giáo. Tôi đã trình bày vấn đề này
trong bài "Jesus dưới cái nhìn của
Do Thái và Hồi Giáo", vậy xin miễn
nhắc lại ở đây.
TÍN ĐIỀU 4: TIN CÁC VỊ
THIÊN SỨ
Theo giáo lý của đạo Hồi
thì từ tạo thiên lập địa đến nay,
Thiên Chúa đã gửi xuống thế gian 25
sứ giả của Ngài để dạy dỗ loài
người. Vị sứ giả đầu tiên chính là
Adam, tổ tiên của loài người và vị
sứ giả cuối cùng chính là Muhammad.
Sau Muhammad không còn bất cứ một sứ
giả nào khác. Tất cả các người kế vị
Muhammad được gọi là Caliph (khalif)
đều chỉ là kế vị với tư cách lãnh
đạo cộng đồng Hồi Giáo mà thôi
(leader of Islamic community) chứ
không ai có tư cách kế vị thiên sứ
cả (no successor to Messsenger of
God). Muhammad là thiên sứ bất khả
kế nhiệm và là thiên sứ lớn hơn tất
cả mọi thiên sứ khác. Đối với các
tín đồ Hồi Giáo, thiên sứ Muhammad
chỉ là một người thường như mọi
người nhưng không có ai vượt qua
Ngài về sự khôn ngoan và đạo đức.
Trong 25 vị thiên sứ thì
đạo Do Thái chiếm tới 18 vị, 3 vị
thuộc Ki Tô Giáo và 4 vị còn lại
thuộc về Ả Rập. Trong phạm vi bài
biết này, nếu kể hết tiểu sử của 25
vị Thiên sứ thì bài này sẽ thành một
quyển sách. Chúng tôi xin tóm lược
tiểu sử một số vị quan trọng trong
cả ba tôn giáo độc thần mà thôi.
Một số tiên tri của đạo
Do Thái cũng là Thiên sứ của đạo
Hồi:
Adam:
Đạo Hồi có một quan niệm về Adam
khác với đạo Do Thái và đạo Ki Tô.
Ngoài thiên chức là tổ tông của loài
người, Adam còn là vị Thiên sứ đầu
tiên của Chúa. Vì vậy, sau khi dựng
nên Adam, Thiên Chúa đã ra lệnh cho
các thiên thần phải cúi rạp xuống để
kính chào Adam và phải tuân lệnh của
Adam. Theo đạo Hồi, Adam cao quí hơn
các thiên thần - Thiên thần Iblis
(Lucifer) không chịu cúi chào Adam
nên bị Chúa phạt thành quỉ Satan.
Kinh Koran nói về Adam:
"Khi Thiên Chúa Allah tạo nên Adam
xong, Ngài thổi thần linh của ngài
vào Adam. Xong ngài ra lệnh cho các
thiên thần phải cúi rạp xuống để
chào Adam. Tất cả các thiên thần đều
vâng lời Chúa. Chỉ một mình Iblis
(Lucifer) không chịu vâng lời nên bị
Chúa phạt thành quỉ từ đó cho đến
ngày Phán Xét Cuối Cùng".
(When your Lord said to
the Angels: Surely I am going to
create a mortal from dust. So when I
have made him complete and I
breathed into him My Spirit, then
all angels fall down making
obeisance to him. And the angels did
obeisance, all of them. But not
Iblis because he was proud. Surely,
my curse is on Iblis/ Shaitan to the
Day of Last Judgement - Koran 38:
71-78).
Noah.
Người Công Giáo Việt Nam thường gọi
ông là NO-E. Noah là cháu đời thứ 10
của Adam-Evà. Noah là người công
chính trong thế hệ của ông nên Chúa
cho ông biết tin trước về trận đại
hồng thủy. Ông đóng một chiếc tàu
lớn để chứa gia đình ông và mỗi thứ
súc vật một cặp. Sau trận đại hồng
thủy thì cả loài người đều chết hết
chỉ còn lại những người và những vật
ở trên tàu mà thôi. Trận lụt kéo dài
7 ngày. Khi nước rút thì tàu của
Noah bị kẹt trên đỉnh núi Arafat
(cao 5168 m ở miền đông Thổ Nhĩ Kỳ).
Noah và mọi người giết súc vật làm
lễ hy sinh để thờ lạy Chúa. Chúa
ngửi thấy mùi thịt nướng sinh vật
nên Ngài từ trời nhìn xuống chúc
phúc lành cho Noah và các con của
ông sinh sản con cháu đầy mặt đất.
Noah sống đến 600 tuổi mới chết. Con
út của ông tên Shem là tổ phụ các
dân tộc Do Thái và Ả Rập. (Sau này
Do Thái Ả Rập được gọi chung là
giống người Semites, có nghĩa là con
cháu của tổ phụ Shem).
Maisen
(Moses) và Aaron.
Chuyện về hai nhân vật hàng đầu sáng
lập đạo Do Thái hiện hành là Maisen
và Aaron được kể trong 2 cuốn sách
thuộc Cựu Ước là Xuất Hành (Exodus)
và Dân Số Ký (Numbers).
Chương 34 sách Exodus kể
rằng: Chúa truyền cho Maisen mang
hai tảng đá lên núi Sinai (ở gần
Biển Chết). Tại đây, Chúa hiện ra và
dùng ngón tay của Ngài viết lên hai
phiến đá. Mỗi phiến đá Ngài viết 5
điều răn, tổng cộng là Mười Điều
Răn. Viết xong Ngài biến mất. Maisen
ở lại trên núi nhiều ngày để tạ ơn
Chúa.
Dân chúng Do Thái qui tụ
dưới chân núi Sinai nhiều ngày để
chờ đón Maisen mà không thấy Maisen
xuống, họ nghĩ rằng Maisen đã chết.
Do đó, dân chúng Do Thái đã tôn
người anh của Maisen là Aaron lên
ngôi vị lãnh đạo dân tộc Do Thái
thay thế Maisen.
Theo truyền thống lâu
đời của dân Do Thái kể từ thời
Abraham đến nay là 850 năm, dân
chúng vẫn quen thờ thần El dưới hình
tượng Con Bò Vàng (The Golden Carf).
Do vậy, Aaron ra lệnh thâu góp các
nữ trang của dân chúng để đúc thành
tượng một con bò to bằng thật để
thờ.
Sau khi đúc xong tượng
bò vàng, dân Do Thái đã lập bàn thờ
ở chân núi và đặt tượng bò lên bàn
thờ. Xong dân chúng làm lễ cúng tế
thần bò El và cùng nhau nhảy múa ca
hát tưng bừng. Vừa lúc đó thì Maisen
ở trên núi đi xuống thấy vậy bèn nổi
giận và ông dùng 2 phiến đá phá nát
tượng bò thần El. Ông ra lệnh cho
dân chúng không được tôn thờ ảnh
tượng từ đó và đổi tên Thiên Chúa từ
Elohim (số nhiều của El) thành
Jehovah.
Do chuyện trên trong Cựu
Ước Do Thái, Muhammad đã kết tội dân
Do Thái là những kẻ thờ bò thay vì
thờ Chúa. Ông tôn trọng Maisen trong
việc cấm thờ ảnh tượng và ông tin là
Chúa đã cho Maisen thẩm quyền cai
trị. Kinh Koran ghi như sau: "Những
tín đồ của Kinh Thánh đã thờ bò thay
vì thờ Thiên Chúa mặc dầu Chúa đã tỏ
cho họ thấy những dấu hiệu rõ ràng
về Ngài. Nhưng Chúa đã tha thứ cho
họ tội này và đã ban cho Maisen thẩm
quyền cai trị." (The followers of
the Book took the golden carlf for
God after clear signs had come to
them. But we pardoned this and gave
to Moses clear authority - Koran 4:
153).
o Elijah (Elisha). Chương 4 sách
Các Vua (Kings) kể chuyện Elijah làm
nhiều phép lạ như biến một cái bình
không thành một bình đầy dầu (oil)
hoặc biến mấy cái thúng trống rỗng
thành những cái thúng đầy những ổ
bánh mì khiến cho nhiều trăm người
ăn no. (Sau này các sách Phúc Âm
cũng kể chuyện Jesus làm phép lạ
tương tự như vậy). Kinh Koran ca
ngợi Elijah là một trong những người
tốt nhất thế gian và là tông đồ của
Chúa (Koran 6: 86, 38: 48)
Jonah
(Yunus) Thiên Chúa dự tính hủy diệt thành
phố Nineveh vì thành phố này có
nhiều kẻ không tin Chúa. Thiên Chúa
sai Jonah tới thành phố này để
khuyên họ trở lại với Chúa thì Chúa
sẽ tha tội và không hủy diệt nữa.
Chúa ra thời hạn 40 ngày để Jonah
thi hành.
Thay vì đi Nineveh, Jonah đã bất
tuân lệnh Thiên Chúa dùng thuyền
tới thành phố Tarshish. Để trừng
phạt Jonah Chúa đã tạo nên một cơn
bão lớn. Các thủy thủ trên thuyền
biết đây là một hình phạt Chúa dành
riêng cho Jonah nên họ đã ném Jonah
xuống biển. Một con cá lớn đớp Jonah
vào bụng. Jonah biết Chúa đã phạt
mình về tội không vâng lời nên ông
đã ăn năn hối cải và cầu nguyện Chúa
suốt 3 ngày ở trong bụng cá. Cuối
cùng, Chúa tha tội cho Jonah và hóa
phép cho con cá lớn nhả ông ra trên
bãi biển. Câu chuyện này được cả ba
đạo Do Thái, Ki Tô và Hồi Giáo công
nhận là chân lý. Kinh Koran ca ngợi
Jonah là tông đồ của Chúa (K.6: 86,
21: 87)
Solomon.
Solomon là con thứ của vua David. Y
giết anh là Adonaijah để đoạt ngôi
vua. Bản chất của Solomon còn dâm
dật hơn David nên khi lên làm vua y
đã xây cất cung viện rất lớn để chứa
trên 3000 cung nữ. Tuy vậy, lịch sử
và đạo Do Thái vẫn coi Solomon như
một minh quân. Solomon xây một ngôi
đền thờ Chúa được dân Do Thái gọi là
Đền Thánh (The Holy Temple) và được
truyền tụng là một kỳ công kiến
trúc. Thực sự ngôi đền rất nhỏ (rộng
12 mét x dài 37 mét). Nếu so sánh
với đền Ankor Watt của xứ Kampuchea,
được xây vào thế kỷ 8, thì đền Ankor
lớn hơn đền của Solomon rất nhiều
(75 mét x 176 mét). Solomon nổi
tiếng là người khôn ngoan và là tác
giả cuốn sách Châm Ngôn (Proverbs)
trong bộ Kinh Thánh Cựu Ước. Kinh
Koran ca ngợi Solomon "là tôi tớ
xuất sắc của Thiên Chúa và luôn luôn
quay về với Chúa" (Solomon was most
excellent the servant and he was
frequent in returning to Allah - K
28: 30)
o Isaiah. Isaiah xuất hiện trong thế
kỷ 8 TCN, ông được coi là người đầu
tiên trong đạo Do Thái đưa ra thuyết
Tận Thế và tiên đoán sẽ có một vị
Cứu Thế (Messiah) ra đời. Tuy nhiên,
ông đã định nghĩa "Chúa Cứu Thế là
người giải thoát tất cả mọi người bị
áp bức" (To let the oppressed go
free - Isaiah 6: 9 và 6: 1-2). Như
vậy, Chúa Cứu Thế nào không giải
thoát được những kẻ bị áp bức trên
thế gian thì đó chính là Chúa Cứu
Thế giả mạo. Đạo Hồi hoàn toàn phủ
nhận tư cách "Chúa Cứu Thế" của
Jesus, nhưng họ không qui trách
Jesus mà qui trách các tín đồ Ki Tô
là những kẻ lầm lạc đã tin những
điều bậy bạ như vậy.
Ba vị của Ki Tô Giáo được Hồi Giáo
coi là Thiên Sứ: Ba nhân vật trong
Phúc Âm Ki Tô Giáo được Muhammad đề
cao trong kinh Koran là: Jesus,
Gioan Baotixita và thân phụ Gioan là
Zakaria.
Jesus được Muhammad ca ngợi trong
114 câu thơ, rải rác trong 15 chương
sách của Kinh Koran. Điều đó chứng
tỏ Jesus có một chỗ đứng khá quan
trọng trong đạo Hồi. Người Hồi Giáo
tôn kính gọi Muhammad là Thiên Sứ
(Nabi) và họ cũng gọi Jesus là Thiên
sứ theo ngôn ngữ Ả Rập là Nabi Isa.
Mặc dầu tôn kính Jesus và coi trọng
sách Phúc Âm, đạo Hồi đã có những
quan niệm rất khác biệt về Jesus và
Phúc Âm so với quan niệm của các tín
đồ Ki Tô Giáo.
Kinh Koran rất tôn trọng Gioan
Baotixita và song thân là ông
Zakaria và bà Elizabeth (Công Giáo
Việt Nam gọi là bà thánh I-sa-ve).
Zakaria là cậu của bà Maria. Khi bà
Isave có mang Gioan được 6 tháng thì
bà Maria mới bắt đầu mang thai
Jesus. Khi bà Maria đến nhà thăm vợ
chồng Cậu Zakaria thì bà I-sa-ve đã
chúc tụng bà Maria như sau: "Hỡi bà
Maria, Chúa đã chọn bà và thanh tẩy
bà, Chúa đã chọn bà cao hơn hết thảy
các người nữ trên thế gian" (Oh
Mary! Allah has chosen you and
purified you and chosen you above
all the women of the world - Koran
3: 42). Lời chúc tụng của bà Isave
(mẹ của Gioan Baotixita) đối với bà
Maria (mẹ của Jesus) như nói trên là
ý chính của kinh Kính Mừng (Hail
Mary) trong đạo Công Giáo: "Bà có
phúc lạ hơn mọi người nữ". Đạo Hồi
cấm thờ ảnh tượng nhưng họ vẽ tranh
treo tường hoặc dệt thảm những bức
họa diễn cảnh Abraham hy sinh con
trai Ismael (chứ không phải là
Isaac) để tế lễ Thiên Chúa và họ
cũng thường vẽ tranh bà Maria bế hài
nhi Jesus. Trong đền thờ Kaaba ở
Mecca là thánh địa thiêng liêng nhất
của thế giới Hồi Giáo hiện vẫn còn
một bức tranh vẽ Bà Maria bế hài nhi
Jesus.
Bức tranh này đã được người Ki Tô
Giáo vẽ vào thế kỷ 6. Tháng giêng
năm 630, Muhammad mang 10.000 quân
đến chiếm Mecca, ông đã ra lệnh phá
hủy tất cả các tượng thần và các
tranh vẽ trên tường của đền thờ
Kaaba. Tuy nhiên, Muhammad đã tỏ
lòng tôn kính đặc biệt đối với bà
Maria và Thiên sứ Jesus nên ông đã
cổi áo choàng của mình phủ lên bức
tranh duy nhất của Ki Tô Giáo tại
đền Kaaba và ra lệnh không ai được
phá hủy bức tranh này. Nhờ đó, bức
tranh vẫn tồn tại đến ngày nay.
Các Tiên Tri Ả Rập.
Kinh Koran chỉ kể tên vài vị tiên
tri Ả Rập như Hud, Salid... nhưng
không kể tiểu sử của họ nên chúng ta
không có tài liệu để bàn tới. Như
vậy, chỉ còn một vị tiên tri duy
nhất là Muhammad mà thôi. Nhưng nói
về Muhammad thì có tới biết bao
nhiêu sách nói cho hết. Sau khi đọc
nhiều sách về tiểu sử của Muhammad,
tôi đã cố gắng tóm lược trong hai
bài:
1. "Muhammad tại Mecca
(570-622)
2. "Muhammad tại Medina
(622-632)".
*
* *
Trong số 25 vị thiên sứ (gồm có 18
vị thuộc đạo Do Thái, 3 vị thuộc đạo
Ki Tô và 4 vị Ả Rập) chỉ có 6 vị
được đạo Hồi coi là những vị Thiên
sứ quan trọng nhất. Đó là:
Tên
Anh Ngữ Tên phiên âm
theo tiếng Arabic
1. Thiên Sứ
Mohammed Nabi
Muhammad
2. Thiên sứ Jesus
Christ Nabi Isa
3. Thiên sứ Moses
(Maisen) Nabi Musa
4. Tổ phụ
Abraham
Nabi Ibrahim
5. Thiên sứ Noah (ông
No-e) Nabi Nuh
6. Thiên sứ Adam (ông
A-dong) Nabi Adam
Đối với đạo Hồi, chỉ có Moses và
Jesus là người Do Thái, còn các vị
khác như Adam, Noah và Abraham không
thuộc chủng tộc nào cả. Điều đặc
biệt cần nhấn mạnh: Đạo Hồi không
coi Moses là người lập đạo Do Thái
hay Jesus là người lập đạo Ki Tô.
Đạo Hồi coi tất cả các vị Thiên sứ
đều là những tín đồ đạo Hồi.
TÍN ĐIỀU 5: MỌI NGƯỜI CHẾT SẼ SỐNG
LẠI TRONG NGÀY TẬN THẾ - TẤT CẢ KẺ
SỐNG VÀ KẺ CHẾT ĐỀU ĐƯỢC CHÚA XÉT XỬ
TRONG NGÀY PHÁN XÉT CUỐI CÙNG.
Tín điều 5 là một tín
điều tổng hợp liên quan đến nhiều
vấn đề phức tạp nhưng lại là những
điều mà cả 3 đạo độc thần chấp nhận
hoàn toàn. Đó là:
1. Tin rằng con người có
hai phần, hồn và xác. Hồn là phần
linh thiêng vĩnh cửu. Xác sau khi
chết bị hủy hoại hoàn toàn, nhưng
đến ngày tận thế xác của mọi người
đều sống lại nhập với hồn và sẽ tồn
tại vĩnh cửu.
2 . Tin có ngày tận
thế.
3. Khi chết, mỗi người
đều đã được Chúa xét xử tạm thời.
Đến ngày tận thế, tất cả mọi người
sống và chết (sống lại) đều được xét
xử chung trong Ngày Phán Xét Cuối
Cùng.
4. Tin có Thiên Đàng và
Hỏa ngục. Riêng đạo Hồi tin Hỏa ngục
không có tính vĩnh cửu mà chỉ là
hình phạt tạm thời.
Chúa là đấng nhân lành
nên mọi tội đều được Chúa tha thứ.
Ki Tô Giáo trái lại tin rằng Hỏa
ngục là hình phạt đời đời. Đạo Do
Thái và đạo Ki Tô nói rất ít về
thiên đàng. Trái lại, Đạo Hồi mô tả
Thiên Đàng với nhiều chi tiết hấp
dẫn: Thiên đàng có những con sông
nước mát và trong vắt, có những con
sông đầy sữa hoặc đầy ruợu nho, có
những con sông đầy mật, những khu
vườn đầy trái cây và đặc biệt có
những cô trinh nữ đẹp tuyệt trần
chưa bao giờ có ai đụng tới (bashful
virgins whom neither man nor a
spirit have touched before - Koran
55: 41). Những trinh nữ mắt đen cư
ngụ trong những căn lều, dựa lên
những chiếc gối màu xanh và những
chiếc thảm đẹp (Dark-eyed Virgins
sheltered in their tents, they
recline on green cushions and fine
carpets. Which of your Lord's
blessing would you deny? - Koran 55:
68). Đó là những thứ Chúa ban cho
anh, há anh lại từ chối sao?
Ngày tận thế là ngày
trái đất này bị hủy diệt hoàn toàn.
Kinh Koran mô tả: Toàn mặt đất và
núi non đều bị nâng lên và đập xuống
vỡ vụn. Bầu trời nứt ra từng mảnh
(The heaven will split asunder).
Ngày tận thế cũng là ngày mọi kẻ
chết sống lại (Day of Resurrection,
K 50: 42) Ngày họp mặt của toàn thể
nhân loại (Day of Assembly K42: 7,
64: 9) ngày mở đầu cuộc sống vĩnh
cửu (Day of Eternal Life - Koran 50:
34) và cũng là ngày tính sổ của
Thiên Chúa (Day of Reckoning K37:
19-74). Kẻ lành được lên Thiên Đàng,
kẻ ác bị đầy xuống hỏa ngục. Đối với
niềm tin Hồi Giáo thì những kẻ không
tin vào tính duy nhất của Thiên Chúa
(như thờ Thiên Chúa Ba Ngôi) hoặc
thờ ảnh tượng đều phải sa hỏa ngục.
Cũng xin nói thêm ở đây
là Hồi Giáo và Do Thái Giáo chỉ tin
có hai nơi trong đời sau là Thiên
Đàng và Hỏa ngục. Riêng Công Giáo La
Mã tin có một nơi thứ ba là Luyện
Ngục (Purgatoroy). Đó là một thứ
ngục tối để giam giữ linh hồn có
tính cách tạm thời mà thôi.
TÍN ĐIỀU 6: MỌI SỰ DO THIÊN CHÚA
TIỀN ĐỊNH NHƯNG CON NGƯỜI CÓ Ý CHÍ
TỰ DO.
Cả 3 tôn giáo độc thần
(Do Thái, Ki Tô và Hồi Giáo) đều xác
nhận mọi sự trên đời đều do Thiên
Chúa tiền định, như người ta thường
nói: "Sợi tóc ở trên đầu rụng xuống
cũng do ý Chúa định từ trước vô
cùng". Nếu đã tin vào thuyết tiền
định (Predestination) thì người ta
có thể nói rằng: mọi hành vi tốt hay
xấu của mỗi người cũng do Chúa định,
vậy không một ai phải chịu trách
nhiệm về những hành vi của mình cả.
Nói cách khác, con người không có
quyền tự do chọn lựa vì số phận của
con nguời tốt hay xấu, sướng hay khổ
đều đã do Thiên Chúa ấn định từ
trước vô cùng.
Sự tiền định của Thiên
Chúa và Ý chí tự do của con người là
hai ý niệm tương phản nhau. Nếu đã
tin vào thuyết tiền định thì không
thể tin rằng con người có ý chí tự
do. Ngược lại, nếu đã tin con người
có quyền tự do chọn lựa thì không có
tiền định.
Tuy vậy, cả ba tôn giáo
độc thần đều chấp nhận cả hai. Hồi
Giáo lập luận: "Thiên Chúa dựng nên
ta là Ngài đã ấn định số phận của
ta" (Thy God hath created and hath
fixed thy destinies - Koran 87:
2-3). Nhưng mỗi người có quyền tự
do chọn lựa, hoặc tin hoặc không
tin: "Chân lý từ Thiên Chúa, ai muốn
thì hãy tin, ai không muốn thì đừng
tin" (Say the truth is from your
Lord, whoever wisheth he may
believe, whoever wisheth not he may
disbelieve - Koran 18: 30).
*
* *
Sau khi đã tìm hiểu sáu
tín điều trụ cột của đạo Hồi, chúng
ta nhận thấy chỉ có sự khác biệt về
chi tiết so với các tín điều của đạo
Do Thái và đạo Ki Tô. Xét theo đại
thể, các tín điều của ba đạo độc
thần đều thống nhất.
Muhammad đã xác nhận đạo
Hồi không mang lại một điều gì mới
mà chỉ xác nhận lại những điều Thiên
Chúa đã mặc khải trong Kinh Thánh
Cựu Ước của đạo Do Thái và trong
sách Phúc Âm của đạo Ki Tô. Kinh
Koran chỉ là một SỰ NHẮC LẠI (Nay,
It is an Reminder - Koran 80: 11).
Muhammad cũng tự coi mình là một kẻ
nhắc lại: "Kẻ nhắc lại đó đến với
anh từ Thiên Chúa để cảnh báo anh"
(A Reminder has come to you from the
Lord that he might warn you - Koran
7: 69).
Charlie Nguyễn
Các chương khác
trong sách:
Các Mô Hình Sinh Hoạt trong Thế Giới Hồi Giáo Cái Nôi của Đạo Hồi Hồi Giáo Tại Trung Đông Hồi Giáo Tại Á Châu Hồi Giáo Tại Âu Châu và Mỹ Châu Hồi Giáo và Chủ Nghĩa Khủng Bố Năm Nghĩa Vụ Tín Đồ Hồi Giáo Sáu Trụ Cột của Đức Tin Hồi Giáo Sự Bành Trướng của Đạo hồi Sự Bành Trướng của Đạo hồi Sự Nghiệp Muhammad tại Medina Thân Phận Phụ Nữ Hồi Giáo Thân Thế Muhammad tại Mecca Tìm Hiểu Kinh Koran Tệ Nạn Phân Hóa Trong Nội Bộ Hồi Giáo
|