|
bản in |
¿ trở ra mục lục
|
TỆ NẠN PHÂN HOÁ TRONG NỘI BỘ HỒI GIÁO
Trong quá trình phát triển
theo thời gian, hầu như không có
tôn giáo nào thoát khỏi tệ nạn
phân hóa. Tuy nhiên, có tôn giáo
phân hóa trong hòa bình, như đạo
Phật chẳng hạn (Đại Thừa, Tiểu
Thừa không bao giờ chém giết
nhau). Trái lại, hầu hết các đạo
độc thần đã đi đến sự phân hóa
sau các cuộc xung đột gay gắt và
luôn luôn kéo theo các cuộc
"thánh chiến" đẫm máu trong
nhiều thế kỷ. Điển hình là sự
phân hóa của Công Giáo La Mã:
Công Giáo Đông Âu tách rời năm
1052 để biến thành Chính Thống
Giáo, Công Giáo Anh ly khai
trong thế kỷ 16 biến thành Anh
Giáo và phong trào cải cách tôn
giáo do Luther khởi xướng vào
đầu thế kỷ 16 cũng đưa đến sự ly
khai khỏi Công Giáo La Mã để
hình thành các giáo phái Tin
Lành. Tất cả các tôn giáo và
giáo phái ly khai đều đã bị Công
Giáo dùng sức mạnh quân sự đàn
áp trong máu lửa.
Tình trạng phân
hóa của đạo Hồi đã xảy ra rất
sớm vì nó đã diễn ra chỉ vài
chục năm sau khi giáo chủ
Muhammad qua đời. Hậu quả của sự
phân hóa này đã làm thiệt mạng
nhiều chục triệu tín đồ Hồi Giáo
trong 14 thế kỷ qua và hiện nay
vẫn còn tiếp tục.
Sự phân hóa của
đạo Hồi là sự phân hóa đẫm máu
nhất và lâu dài nhất trong lịch
sử các tôn giáo trên thế giới.
Có 3 nguyên nhân
dẫn đến sự phân hóa thảm khốc:
1. Khi sắp qua
đời, Muhammad đã không tiên liệu
việc chỉ định người kế vị để cai
trị cộng đồng Hồi Giáo của ông.
2. Đối với các
tín đồ cuồng tín thì kinh Koran
là cuốn sách toàn hảo về mọi
phương diện. Trong thực tế,
Koran là cuốn sách rất mơ hồ về
giáo lý và rất nhiều thiếu sót
về luật pháp. Do đó người ta đã
phải bổ túc bằng những cuộc điều
tra để thu thập các bản báo cáo
về hành vi và lời nói của
Muhammad. Các báo cáo này được
đúc kết lại thành sách Hadiths
(Collections of Reports). Các
Hadiths được tập trung lại đúc
kết thành Sách Sunna để làm sách
gối đầu giường cho mọi hành động
của tín đồ Hồi Giáo (Ways of
Acting). Tất cả các sách nói
trên được các nhà làm luật Hồi
Giáo tham khảo để soạn ra luật
Hồi Giáo gọi là Sharia (Holy
Islamic Law). Kinh Koran mơ hồ
thiếu sót đã đưa đến những lý
luận giải thích khác nhau, từ đó
phát sinh những phe phái khác
nhau trong đạo Hồi. Các sách
Hadiths, Sunna và Sharia cũng
không được tất cả công nhận. Có
những sách được phe này công
nhận lại bị phe khác phủ nhận và
kết án là tà đạo...
Đạo Công Giáo
cũng bị phân hóa nghiêm trọng
trong thế kỷ 16 (sự tách rời của
Anh Giáo và Tin Lành) nhưng từ
đó đến nay Giáo Hội Công Giáo
vẫn đứng vững vì Giáo Hội Công
Giáo hoàn toàn tùy thuộc vào
quyền lãnh đạo duy nhất của giáo
hoàng ở Vatican. Không một người
nào có quyền giải thích Thánh
Kinh khác với giáo hoàng. Do đó,
Giáo Hội Công Giáo đã không bị
phân hóa từ thế kỷ 16 đến nay.
Trái lại, Tin Lành không có lãnh
đạo trung ương và mọi người đều
có quyền tự do giải thích Thánh
Kinh nên đến nay Tin Lành đã bị
phân hóa thành 300 giáo phái.
Hồi Giáo cũng tương tự như vậy
vì Hồi Giáo không có Tòa Thánh
tối cao có quyền cai trị toàn
thế giới Hồi Giáo. Sự tự do giải
thích kinh Koran và các sách
Hadiths, Sunna, Sharia... đã đưa
đến tình trạng phân hóa thành
rất nhiều giáo phái trong đạo
Hồi.
3. Nguyên nhân
tiếp theo là sự bành trướng quá
rộng của các đế quốc Hồi Giáo
khiến cho giáo lý của đạo Hồi bị
pha trộn với các nền văn hóa
khác. Điển hình là các giáo phái
Sufis và Bahai đã hình thành do
chịu ảnh hưởng của các dòng khổ
tu của Công Giáo La Mã, một phần
khác do ảnh hưởng văn hóa Hy Lạp
và giáo lý của nhiều tôn giáo
khác.
I. Sự phân hóa
nghiêm trọng nhất trong lịch sử
Hồi Giáo do vấn đề thừa kế
Muhammad.
Ba mươi năm sau
khi Muhammad qua đời, cộng đồng
Hồi Giáo non trẻ đã bị chia
thành hai phe thù nghịch nhau
chỉ vì bất đồng ý kiến trong vấn
đề kế thừa quyền lãnh đạo của
giáo chủ Muhammad về thế quyền
và về tinh thần:
Phe SUNNI,
tiếng Ả Rập có nghĩa là phe Đa
Số (Majority) chủ trương: những
người kế vị Muhammad (Caliphs)
không nhất thiết phải là người
thuộc dòng dõi của ngài vì
Muhammad không qui định điều
này, ngài không có con trai và
chỉ có một con gái duy nhất còn
sống sót là Fatima, vợ của Ali
mà thôi. Vào thời điểm đó, Hồi
Giáo đã trở thành một đế quốc
khá lớn nên không thể tìm người
lãnh đạo thuộc dòng dõi của
Muhammad để cai trị nhiều quốc
gia trong đế quốc được.
Phe SHI'A
(hoặc Shiites) có nghĩa là những
người theo Ali (con rễ của
Muhammad) chủ trương: Người thừa
kế Muhammad thẩm quyền cai trị
về thế quyền, tiếng Ả Rập gọi là
CALIPH (or Khaliph: a male
leader of Islamic government)
phải là con cháu của Ali và
Fatima. Người thừa kế Muhammad
thẩm quyền lãnh đạo cộng đồng
Hồi Giáo về mặt tinh thần, tiếng
Ả Rập gọi là IMAM (the religious
leader of the Muslim community)
phải là một vị thánh (a holy
man) thuộc dòng dõi Ali-Fatima
vì theo họ, Ali là vị Imam đầu
tiên của Hồi Giáo do Muhammad
chỉ định. Giáo phái Shiite tin
rằng: Ali và những người thừa kế
được Thiên Chúa ban ơn soi sáng
đặc biệt để cai trị cộng đồng
Hồi Giáo nên không thể sai lầm
(infallible). Imam không chỉ cai
trị thế giới Hồi Giáo mà sau này
toàn nhân loại sẽ phải tùng phục
ngài. Xin ghi thêm ở đây là
trong ngôn ngữ Việt Nam không có
danh từ tương đương với chữ
Imam. Tuy nhiên, theo cách hiểu
của giáo phái Shi'a về Imam thì
chức vị này tương tự như chức vị
"Giáo Hoàng" của Công Giáo La Mã
vậy. Người Công Giáo coi giáo
hoàng là một vị cha chung và
cũng là một vị Thánh (Saint
Pape) và về phương diện lãnh đạo
tinh thần của toàn giáo hội thì
giáo hoàng không thể sai lầm
(Doctrine of Infallibility).
Qua 14 thế kỷ
phát triển, ngày nay đạo Hồi
chiếm 1/5 tổng số nhân loại, tức
khoảng 1 tỷ 200 triệu tín đồ.
Phe Sunni chiếm 80%, tức 960
triệu tín đồ.
Phe Sunni
cũng không còn là một khối đa
số thuần nhất vì nó đã bị chia
thành 4 trường phái lớn
(Schools):
1.
Malikite:
Thành lập vào giữa thế kỷ 8 tại
Bắc Phi.
2.
Shafi
(Pháp ngữ gọi là Chafeite):
Thịnh hành tại Ai Cập, Syria, Ấn
Độ và Việt Nam (người Chàm).
3.
Hanbalite:
Đạo Hồi của đế quốc Ottoman,
thịnh hành tại Thổ Nhĩ Kỳ.
4.
Hanbali: Đạo Hồi
của xứ Saudi Arabia.
Phe thiểu số Shiah
chiếm 15%, tức khoảng 180 triệu
tín đồ, cũng bị chia thành 3
giáo phái hết sức bảo thủ, cực
đoan và thường tranh chấp lẫn
nhau:
1.
Giáo phái
Twelvers nắm ưu thế chính
trị tại Iran, chủ động trong
cuộc Cách Mạng Hồi Giáo 1979 lật
đổ hoàng đế Palavi. Giáo chủ của
Twelvers là Aytollah Khomenei
lên nắm chính quyền. Cuộc Cách
Mạng này bị toàn thế giới Hồi
Giáo tẩy chay vì nhóm lãnh đạo
Twelvers rất cuồng tín độc tài
và tàn bạo.
2.
Giáo phái
Druge xuất hiện và thịnh
hành tại Li Băng và Syria từ thế
kỷ 11 đến 19. Ngày nay giáo phái
này bị suy tàn chỉ còn trên 1
triệu tín đồ.
3.
Giáo phái
Assassin được thành lập năm
1090 tại Ba Tư gồm toàn những
người liều mạng để ám sát tiêu
diệt những kẻ thù của Hồi Giáo.
Giáo phái này chia thành hai
nhóm: Nhóm thám báo truy tầm,
điều tra, đánh dấu nhà của các
kẻ thù. Sau đó nhóm khủng bố sẽ
tìm đến để thanh toán. Giáo phái
Assassin gieo kinh hoàng khắp
nơi trong suốt hai thế kỷ 11 và
12, đến nỗi khắp Âu Châu, người
ta loan truyền rất nhiều chuyện
kinh dị về giáo phái này. Về
sau, danh từ "ASSASSIN"
trở thành một danh từ mới của Âu
Châu có nghĩa là "KẺ MƯU SÁT".
Năm 1256, quân Mông Cổ tàn phá
bình địa đại bản doanh của
Assassin tại Baghdad và sau đó
tận diệt giáo phái này.
Như trên đã trình
bày, sự phân hóa đầu tiên và
nghiêm trọng nhất là sự kiện đạo
Hồi bị chia ra hai phe Sunni và
Shiah do bất đồng ý kiến về
quyền thừa kế Muhammad. Lúc ban
đầu không ai có thể tiên đoán
được hậu quả tàn khốc của nó vì
không ai có thể ngờ cái nguyên
nhân nhỏ nhặt đó lại có thể gây
ra những vụ chém giết triền miên
trong suốt 14 thế kỷ làm thiệt
mạng nhiều chục triệu người!
Sau đây chỉ là
một số vụ tranh chấp điển hình
giữa phe Sunni và Shiah trong
bối cảnh các đế quốc Hồi Giáo mà
thôi. (Trong lịch sử 14 thế kỷ
của Hồi Giáo đã xảy ra rất nhiều
cuộc xung đột đẫm máu giữa hai
phe Sunni và Shiah khiến chúng
ta khó có thể kể ra hết được):
- Năm 1400, hoàng
đế Timur của đế quốc Hồi Giáo
Sunni đánh chiếm hai nước Iran
và Iraq đã ra lệnh giết hại trên
1 triệu tín đồ Shiites tại hai
nước này.
- Năm 1467, đế
quốc Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman theo
Sunni đánh chiếm Syria, Ai Cập,
Bắc Phi và Arabia. Đế quốc
Ottoman cai trị các nước này từ
đó đến 1520 (53 năm). Vì bị
những người Shiites thường nổi
lên chống phá nên đế quốc
Ottoman đã thẳng tay tiêu diệt
nhiều triệu tín đồ Shiites tại
các nước này.
- Đế quốc Hồi
Giáo Safavid theo phái Shiites
tồn tại 270 năm (1501-1771), mỗi
khi đế quốc Safavid đánh chiếm
và cai trị nước nào thì toàn bộ
các học sĩ Hồi Giáo Sunni
(clerics) đều bị chặt đầu và
hàng triệu tín đồ Sunni bị sát
hại.
Ngoài các vụ
tranh chấp lớn giữa các đế quốc
Hồi Giáo Sunni và đế quốc Hồi
Giáo Shiah, còn có rất nhiều các
vụ tranh chấp nhỏ giữa hai phe
trong phạm vi biên giới của mỗi
quốc gia Hồi Giáo. Các vụ tranh
chấp này cũng không kém phần
thảm khốc và làm tổn hại rất
nhiều sinh mạng. Điển hình là
trường hợp của Iraq.
Theo báo Houston
Chronicle ngày Chủ nhật 18-5-03
(trang 23 A) thì vào thế kỷ đầu
Công Nguyên, hai nước Syria và
Iraq sát nhập làm một dưới cái
tên là Assyria. Ngôn ngữ chung
là Aramaic tức tiếng mẹ đẻ của
Jesus và của dân Do Thái thời
đó. Từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 7,
Assyria là một nước Ki Tô Giáo
(A Christian Nation), nhưng từ
thế kỷ 7 trở đi, Assyria thành
hai nước Hồi Giáo. Iraq hiện nay
có 60% theo Shiites, 30% theo
Sunni. Phe cầm quyền Saddam
Hussein thuộc giáo phái Sunni
nắm quyền sinh sát của một quốc
gia có 25 triệu dân từ 1979 đến
2003. Ki Tô Giáo (gồm Công Giáo
La Mã và Chính Thống Giáo Hy Lạp
) gồm có 1 triệu tín đồ, chiếm
4% dân số cả nước.
Chế độ Saddam
Hussein rất khoan dung đối với
Ki Tô Giáo nhưng trong vòng 10
năm từ 1979-1989, chế độ Sunni
của Saddam đã sát hại nhiều trăm
ngàn tín đồ Shiites tại đất nước
này!
II . Sự phân hóa
về giáo lý.-
Do sự bành trướng
của các đế quốc Hồi Giáo tới các
vùng khác nhau đã tạo cơ hội cho
người Hồi Giáo tiếp xúc với các
nền văn hóa khác. Dần dần giáo
lý Hồi Giáo bị biến chất và một
số giáo phái mới của Hồi Giáo đã
xuất hiện. Đáng kể nhất là hai
giáo phái Sufism và Bahai.
1.
Giáo phái SUFISM.
Vào đầu thế kỷ 8, đạo Hồi đã
phát triển ra khắp Bắc Phi, Cận
Đông và Trung Á. Nền kinh tế
phát triển cho toàn vùng trở nên
giàu có. Các vua Hồi thu thuế
rất nhiều đã dồn tiền vào việc
xây cất các cung điện nguy nga
đồ sộ và các harems của họ đầy
ắp các cô gái đẹp. Đời sống của
các vua quan Hồi Giáo chìm ngập
trong các cuộc vui chơi xa hoa
trụy lạc. Nhiều tín đồ Hồi Giáo
chân chính tự hỏi: "Những lời
dạy trong kinh Koran có còn giá
trị gì không?". Dần dần họ tạo
thành một phong trào cổ võ đời
sống đơn giản, mặc quần áo thô
sơ, thái độ hòa nhã khiêm tốn và
ẩn dật. Họ kêu gọi mọi người
thực hiện lối sống khổ hạnh, đạo
đức và dành nhiều thì giờ cho sự
cầu nguyện. Người nổi tiếng nhất
trong cuộc vận động này là triết
gia Hồi Giáo Hasan. Ông đi
thuyết giảng khắp nơi trong
nhiều chục năm thuộc tiền bán
thế kỷ 8 và đã tạo nên những ảnh
hưởng lớn trong quần chúng.
Trong lúc đó, tại
khắp miền Trung Đông có nhiều tu
viện của các dòng khổ tu Công
Giáo. Người Hồi Giáo tiếp xúc
với các thầy tu khổ hạnh này
nhận thấy họ là những người có
lòng đạo đức thật sự và họ luôn
luôn mặc áo vải thô, tiếng Ả Rập
gọi là "Sufi". Đến đầu thế kỷ 9,
nhiều người Hồi Giáo Sunni và
Shiite thích lối sống khổ hạnh
đạo đức của các thầy dòng khổ tu
Công Giáo đã lập ra giáo phái
Sufism (do chữ sufi là chiếc áo
vải thô của tu sĩ khổ tu mà ra).
Giáo phái Sufism
có sức lôi cuốn mạnh mẽ trong
giới trí thức Hồi Giáo. Vào đầu
thế kỷ 10, khắp miền Trung Đông
có nhiều "Trung tâm Sufis" được
thành lập, mỗi trung tâm được tổ
chức như một nhà dòng của tu sĩ
khổ tu Công Giáo, đứng đầu là
một ông thầy (Master) thông thái
hướng dẫn về đời sống tinh thần
và đạo đức của mọi tín đồ.
Từ thế kỷ 12,
giáo phái Sufism mở rộng ra toàn
Bắc Phi và Tiểu Á. Bên cạnh mỗi
"Trung Tâm Sufis" còn có trường
học, đền thờ và khách sạn để
phục vụ khách thập phương đến
học đạo. Một trung tâm Sufis
tiêu biểu mang tên Abd-Al-Quadir
được xây cất năm 1166 tại
Baghdad đến nay vẫn còn tồn tại.
Từ thế kỷ 15 đến
thế kỷ 18, giáo phái Sufism lan
tràn khắp nơi trên thế giới.
Điều đáng chú ý là các giáo sĩ
Sufis đã đóng vai trò chính yếu
trong việc đem đạoHồi vào
Indonesia và Malaysia. Họ không
chinh phục tân tòng bằng bạo lực
mà " mở rộng nước Chúa" bằng
gương đạo đức thật sự với những
chiếc áo vải thô, với cuộc sống
đơn giản khổ hạnh và với tấm
lòng cởi mở khoan dung. Chính
nhờ đó mà các tín đồ Hồi Giáo
Nam Dương - Mã Lai thường có
thái độ sống khoan hòa chứ không
cuồng tín hiếu chiến hiếu sát
như những đồng đạo của họ ở
Trung Đông hay Afganistan...
2.
Giáo phái BAHAI (Bahaism,
Babism).- Giáo
phái Bahai đã tách ra từ Shiah,
được thành lập bởi giáo chủ
Balla Ullah sinh năm 1817 tại
Iran. Giáo phái này phủ nhận
Jesus là Chúa Cứu Thế (Christ)
và phủ nhận Muhammad là sứ giả
cuối cùng của Thiên Chúa. Chính
vì điều này mà giáo phái Bahai
đã bị cả hai đạo Ki Tô Giáo và
Hồi Giáo thù ghét. Tuy vậy, giáo
lý Bahai đã được truyền bá ra
khắp nơi trên thế giới. Trụ sở
chính yếu của giáo phái này đặt
tại Haifa (Do Thái).
Vào năm 1954, một
tín đồ Bahai gốc Ấn Độ đã sang
Việt Nam truyền đạo và thiết lập
trụ sở Bahai đầu tiên tại Saigon
vào năm 1955. Đến 1962, giáo
phái Bahai có tới 40 trụ sở trên
khắp miền Nam Việt Nam (theo
sách Nếp Cũ Tín Ngưỡng Việt Nam
của Toan Ánh, trang 109).
Giáo phái Bahai
có chủ trương tương tự như đạo
Cao Đài hoặc Thông Thiên Học, đó
là tham vọng hòa đồng các tôn
giáo. Họ cố gắng tổng hợp giáo
lý của các tôn giáo đã có từ
trước với hy vọng sẽ thống nhất
niềm tin của nhân loại trong hòa
bình. Tuy nhiên, điểm đặc biệt
của giáo phái Bahai là họ cổ
động mọi người chuẩn đón mừng
một Chúa Cứu Thế (đấng Ki Tô) sẽ
xuất hiện để thiết lập "Nước
Chúa Trên Trái Đất" (A Kingdom
of God on earth). BAHAI là chữ
tắt của chữ Ả Rập BAHA'U IL có
nghĩa là "Vinh Danh Chúa".
(Viết
theo Islam, by Ceasar Farah,
Sixth edition, Barrons Pub.,
page 252).
Charlie Nguyễn
Các chương khác trong sách:
Các Mô Hình Sinh Hoạt trong Thế Giới Hồi Giáo Cái Nôi của Đạo Hồi Hồi Giáo Tại Trung Đông Hồi Giáo Tại Á Châu Hồi Giáo Tại Âu Châu và Mỹ Châu Hồi Giáo và Chủ Nghĩa Khủng Bố Năm Nghĩa Vụ Tín Đồ Hồi Giáo Sáu Trụ Cột của Đức Tin Hồi Giáo Sự Bành Trướng của Đạo hồi Sự Bành Trướng của Đạo hồi Sự Nghiệp Muhammad tại Medina Thân Phận Phụ Nữ Hồi Giáo Thân Thế Muhammad tại Mecca Tìm Hiểu Kinh Koran Tệ Nạn Phân Hóa Trong Nội Bộ Hồi Giáo
|